CÙ LAO CHÀM
. MỘT THỜI VANG BÓNG.
NƠI CỬ HÀNH THÁNH LỄ ĐẦU TIÊN
TRÊN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM MÙA HÈ 1555.
Từ khi khám phá ra quy luật Châu Á gió mùa, sự
vận hành của các v́ sao, la bàn, kinh tuyến, vĩ tuyến,
và cách điều khiển các cánh buồm, ngành hàng hải đă
phát triển nhanh chóng. Các thuyền
buồm bắt đầu rời bến cảng để
đi xa hơn, lâu hơn. Các thủy
thủ khám phá những vùng đất mới; họ gặp
gở, trao đổi thông tin kinh nghiệm với những
người khác màu da, tập quán, ngôn ngữ và cứ thế,
một con đường hải hành xuyên suốt từ Vịnh
Péc Xích đến Nhật Bản đă được thành
h́nh. Ngày nay, lộ tŕnh nầy
được gọi là Con đường Tơ lụa trên
biển, song song với con đường tơ lụa trên
đất, nối liền Âu Châu với Á Châu. Qua chuyện Ngàn lẻ một đêm,
nàng Scheherazade kể lại những truyền thuyết nữa
hư nữa thật, có lẻ bắt nguồn từ chuyện
kể của những thủy thủ gan dạ phiêu lưu
trên các vùng biển Ấn Độ Dương, Thái B́nh Dương
ngày nay. Thuyền của họ
vượt qua eo biển Malacca, tiến vào vùng Á Đông xa xôi,
măi tận đến Đế quốc vĩ đại Trung
Quốc, hoặc Đất nước Thái Dương thần
nữ, hay phiêu bạt trên các ḥn đảo vùng Indonesia và Philipppin. Ngược lại các thủy thủ
Trung Hoa xuôi về miền Nam cũng mang lại những truyện
kể kỳ thú về những vùng đất lạ, những
đảo Bồng Lai, những con vật kỳ dị như
con vật có cặp ngà to lớn, con vật dữ tợn có
bờm nhe nanh…phải chăng là con LEO ( tiếng La Tinh) tức
lion, sư tử mà họ đă gặp thấy ở vùng đất
phía Nam. Trở về nhà họ
mô tả lại con vật đó để rồi các nghệ
sĩ tưởng tượng “thêm mắm giặm muối”
thành con LÂN huyền thoại. Qua
các chuyến đi, họ cũng mang về bao của ngon vật
lạ, nào là những viên ngọc to lớn nhiều màu sắc,
nào là hạt trai, san hô, vàng bạc; thêm vào đó trầm hương,
kỳ nam, gỗ quư; nào là hạt tiêu, quế, sừng tê giác,
yến sào, tơ lụa, sơn mài… Nơi nào kinh doanh hái ra tiền
là có chết người ta cũng chẳng ngại. Măi đến nay…tiền vẵn là
“ Tiên là Phật” mà!
Cứ thế dần dần, các thuyền trưởng
nắm vững các lộ tŕnh, hướng đi, bến cảng,
thời gian xuất hành, những vùng biển nguy hiểm…Họ
có những hoa tiêu ( pilote), hướng lộ chuyên môn, kinh nghiệm
giúp đở, kèm theo đó là những dụng cụ hiện
đại như la bàn, sau đó là các máy móc đo kinh tuyến,
vĩ tuyến, đồng hồ cát v.v. Suốt thời Trung Cổ, cuộc
giao thương từ Vùng Vịnh Á rập sang Trung Quốc
rất nhộn nhịp. Các vương
quốc nhỏ cũng tham gia tích cực vào công việc biển
khơi nầy. Thủy thủ
các tiểu vương quốc Ấn Độ, Mă Lai, Champa,
Xiam, Giao Chỉ … tỏ ra không kém bản lỉnh.
Cho đến khi “ hơi đồng…tiền” bay
sang tận Âu Châu, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, vào
thế kỷ 15 đă là những cường quốc hàng hải,
quyết tâm t́m đường giao thương sang Châu Á. Họ là những người mở
rộng “ tầm nh́n thế giới” từ lúc Christophe Colomb
( Kha Luân Bố) t́m ra Mỹ Châu mà cứ tưởng đến
Ấn Độ thuộc Á Châu.
Khi Vasco de Gama vượt Mũi Bảo tố ( cap des Tempêtes)
mà ngày nay là Cape Hope ( Mũi Hảo Vọng) tiến về Ấn
Độ Dương năm 1498.
Lúc Magellan ṿng quanh địa cầu bằng thuyền
buồm đến Philippin vào năm 1519-21 th́ “ thương
trường là chiến trường” càng trở nên sôi động
với bao cuộc chiến tranh, dành đất, dành thị
trường, chế độ thực dân, chế độ
nô lệ, hủy diệt văn hóa bản địa…càng trở
nên khốc liệt.
Người Bồ Đào Nha tiếp thu kinh nghiệm
hải hành của người A rập, Ấn Độ và
Trung Hoa…tiến xa về phía Đông, vùng đất mà Đức
Giáo Hoàng Alexandre thứ 6. đă
chia phần cho họ và nước Tây Ban Nha qua Ḥa ước. Tordesillas 1493.
Đến năm 1513 , thuyền buồm của
họ đă đến Trung Quốc và sau đó tới Nhật
Bản.
MỘT VÀI BẢN ĐỒ
THẾ KỶ 16.
Hải tŕnh nầy buộc phải đi qua Cù lao
Chàm trước kia thuộc Vương quốc Champa, nhưng
từ thế kỷ 15 lại thuộc Đại Việt và
kể từ cuối thế kỷ 16, thuộc quyền cai
trị của các Chúa Nguyễn, xứ Đàng Trong. Họ dùng từ Cauchi Cina hay Cocin Cina
(Giao chỉ bên Trung Hoa ) để phân biệt với Cochin India
(Cochin bên Ấn Độ). Hai
từ nầy không có “ xơ múi” ǵ với từ “thuộc về
” để dân ta phải sợ mang ư nghĩa từ Bắc
thuộc. Cuba gần Hoa Kỳ
để phân biệt một Kuba gần một nước
Phi Châu nào đó là chuyện b́nh thường! “Văng cu vơ”
(Vancouver) của Mỹ phải phân biệt với Vancouver, Canada,
như tôi đă có lần lầm lẩn, sau đó tiếc nuối
v́ không thăm được một người anh lớp
trên khi ḿnh có mặt tại Seatlle, rất gần, mà tưởng
Vancouver thuộc Canada phải cần visa mới vào được
(1996). Từ nay chúng ta nên viết
rời hai từ nầy như thuở ban đầu cho khỏi
lộn : Cocin China ( hiểu ngầm Giao Chỉ gần Trung Quốc)
. Gần đâu có trùng nghĩa
với lệ thuộc!
CAUCHIM CHINA ! GIAO CHỈ
BÊN TRUNG QUỐC !
Trở lại Cù lao Chàm ( Poulo Champello).
Cù lao bắt nguồn từ Poulo , tiếng Mă Lai
là ḥn đảo. Cù lao Chàm cùng với
Cù lao Côn Đảo ( Poulo Condor) là những điểm dừng
quan trọng trên hải tŕnh Đông Tây.
Xem lại các chuyện kể cũng như các bản
đồ hàng hải các thế kỷ qua , hai ḥn đảo
nầy luôn được ghi chú cẩn thận. Giáo sư Pierre-Yves Manguin trong tác phẩm
quan trọng: Người Bồ Đào Nha tại duyên hải
Việt Nam và Champa ( Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Champa,
Paris 1972) ngoài các thông tin đặc biệt qua các trang viết,
ông c̣n cho in ấn rất nhiều bản đồ cổ hải
hành Đông Tây.
Từ xa xưa các thuyền trưởng và thủy
thủ đă lưu ư đến các vùng đá ngầm và san hô
của quần đảo Paracels ( Hoàng Sa) và Spartley (Trường
Sa). Đi vào vùng biển đó
mà gặp băo tố, tàu rất dễ tan vỡ và nếu sống
sót cũng chẳng có ai cứu và t́m thấy thực phẩm. Trái lại họ biết rất rơ
lộ tŕnh dọc duyên hải Champa và Đại Việt với
những lạch nước sâu, nhiều cảng sông biển
có thể trú ẩn khi gặp giông băo, nơi có nhiều dân cư
sinh sống, giúp đở khi cần thiết hoặc cung cấp
nước ngọt, thực phẩm và chất đốt như
củi, than.
HẢI TR̀NH MALACCA, MACAU
QUA CÙ LAO CHÀM
THEO GIAO SƯ PIERRE-YVES
MANGUIN.
Nếu đi từ phía Nam lên phía Bắc, tức
từ Malacca, các thuyền buồm hướng đến Côn
Đảo rồi tiếp tục hướng Tây Bắc áp
sát vùng biển từ Vũng Tàu đến Touron (Đà Nẵng). Núi Đá Bia ( Varella, Vũng Rô) là một
địa điểm mà ngoài khơi rất dễ thấy
. Họ tiếp tục qua các đảo
Cambir ( Cù lao Xanh), rồi Falso Campello ( Cù lao Chàm Giả, tức
Cù Lao Ré) ngày nay gọi là Lư Sơn thuộc tỉnh Quảng
Ngăi, để tiến về Cù lao Chàm thật. Tại đây họ lấy nước
ngọt, thực phẩm, mua hàng hóa rồi quay mũi thuyền
về hướng Đông Bắc đi Macau.
NÚI ĐÁ BIA ( VARELLA)
NH̀N TỪ PHÍA BIỂN.
NÚI ĐÁ BIA NH̀N TỪ
ĐÈO CẢ. KHỐI HOA CƯƠNG
TRÊN 70 MÉT.
NGUỒN INTERNET.
Con đường ngược lại tức đi
từ Macau về miền Nam, thuyền trực chỉ hướng
Tây Nam đến Cù lao Chàm rồi chuyển sang Đông Nam để
đi Malacca.
Củi, than tốt là nhiên liệu không thể thiếu
để đun nấu suốt cuộc hành tŕnh dài ngày nên tại
Hội An h́nh thành Sài Thị , Sài Giang, G̣ sài…có nghĩa b́nh dân
là Chợ Củi, sông Củi, g̣ chất củi…Danh xưng Hội
An xưa phải chăng do từ Tsaifoo ( Sài phố, phố
củi ???) mà người Bồ tiếp thu “ ba chớp ba nháng”
từ lối phát âm người Hoa để trở thành Faifoo;
cũng như từ Thủ Hàn ( pḥng thủ Cửa Hàn, Đà
Nẵng) biến thành tiếng Bồ Touron?? Một giả thuyết
xem ra hữu lư.
Trong tác phẩm quí giá trên, giáo sư Yves Manguin đă
sưu tập nhiều bản hướng dẫn hải hành
tại vùng đất nầy trong đó nổi bật vai tṛ
của Cù Lao Chàm: Pullo Champellor.
Trên các bản tường tŕnh, linh mục Critophoro Borri
ghi là Pullu Ciambello; Mendes Pinto ghi là Chapeloo hoặc Champalo; Linschoten
viết Pullo Campello. Trên các bản
đồ cổ Bồ Đào Nha các tác giả ghi chú về
Cù lao Chàm bằng nhiều tên khác.
Bản đồ do Diogo Ribeiro vẽ năm 1529 ghi Po Campelio
; bản đồ do A, Gaspar Viegas vào năm 1577 ghi Pulo Chapalo;
bản đồ tác giả vô danh năm 1540 ghi Săo Pedro (Thánh
Phêrô) có lẻ tác giả nghe âm Campello từa tựa San Pedro
(thánh Phêrô); một tác giả vô danh khác ghi Pullo Săo Pello; bản
đồ của B. Velho, 1560 lại
ghi Pulo Capele.
Người Trong Hoa gọi vùng đất nầy
Tchan-pu-lo ( Chiêm cù lao) Thời Minh gọi là Tchan-pi-lo ( Tiêm ( Chiêm)
bút lao) hay Tiêm Bích La theo kiểu nói của Ḥa thượng Thích
Đại Sán trong Hải ngoại kư sự, cuối thế
kỷ 17.
Một trong các sách hải hành ghi về Cù Lao Chàm
như sau:
“Khi hướng theo NW ( Tây Bắc ) ,
bạn ở cách bờ biển 4 đến 5 dặm. Gồm nhiều bải cát. Cù lao Champellor khá cao , và về phía có
đất liền, có 3 hay 4 ḥn đảo. Bạn hăy neo (thuyền) giữa các
ḥn đảo nầy và đảo có một vùng cát; đó là
nơi đậu thuyền của ḥn đảo mà bạn có
thể lấy nước ( ngọt); độ sâu giữa
ḥn đảo và đất liền khoảng từ 10 đến
12 sải tay.”
VỊNH TÂN HIỆP,
CÙ LAO CHÀM NGÀY NAY.
Các tác giả đồng thanh xác nhận đó là
vịnh Tân Hiệp ngày nay. Con suối
xưa và những khối đá vẫn c̣n đó.
Năm 1993, lần đầu tiên tôi có dịp thăm
Cù lao Chàm, tàu biên pḥng phát xuất từ Đà Nẵng. Trước đây, việc nầy
khó có thể thực hiện v́ c̣n rất nhiều người
vượt biên, nên một linh mục như tôi không dễ có
mặt nơi ḥn đảo đó.
Cù lao Chàm khi ấy không có nhiều dân và nhà cửa
thưa thớt. Các con đường
cát lún hoặc lởm chởm đá nối liền các khu xóm. Âu thuyền đang được
thi công. Chưa ai nghĩ ǵ đến
du lịch.
Lần nầy tôi rất ngạc nhiên khi đến
bến tàu du lịch Cửa Đại, Hội An, thấy có
nhiều loại ca nô hiện đại, sạch đẹp
xếp hàng ngay ngắn.
CA NÔ DU LỊCH VƯỢT
SÓNG.
Chúng tôi xuống một chiếc “ ho bo” và mang phao
cứu hộ. Máy Yamaha công xuất
mạnh mới tinh rồ lên và ca nô chồm lên rẻ sóng lướt
tới. Thật thú vị. Nhưng rồi sau đó chúng tôi bị
nhồi lên, rớt xuống khi ca nô vượt qua những
đợt sóng tràn vào Cửa Đại. Mát xa miễn phí. Tôi nghĩ như vậy. Thông thường tàu đ̣ phải
mất cả tiếng đồng hồ mới đến
Cù lao Chàm nhưng với loại ca nô nầy, chỉ trong ṿng
nữa tiếng đồng hồ , chúng tôi đă có mặt
tại cảng Tân Hiệp.
Khi ca nô áp sát kè cảng, tôi mường tượng
lại ngày xưa các thuyền Trung Quốc, Nhật Bản,
Bồ Đào Nha…cũng đă bỏ neo chốn nầy trong
niềm vui của thủy thủ và hành khách.
Người Bồ Đào Nha đầu tiên được
sử sách ghi chép đến Cù Lao Chàm là Fernăo Peres de Andrade vào
năm 1516. Sau đó là Duarte Coelho
năm 1523. Ông nầy có dựng
một Padrăo, bia h́nh Thánh giá tại đây. Vào năm 1540 Fernăo Mendes Pinto cũng
đă đến nơi nầy.
Ông là tác giả cuốn sách bán chạy nhất (bestseller)
xuất bản năm 1614, sau khi ông đă qua đời , cuốn
Peregrinaciao (Du hành) trong đó ghi lại những điều
tai nghe mắt thấy trên các vùng biển Á Đông. Trước đó ông có thời gian
ngắn vào nhà tập Ḍng Tên. Năm
1555, ông trở lại Cù lao Chàm và cho biết thấy tấm
bia của Duarte Coelho. Theo giáo sư
Yves Manguin, trong một bức thư viết ngày 29 tháng 11 năm
1555 từ Malacca gửi cho Linh mục Viện trưởng
Ḍng Tên tại Goa, Ấn Độ, ông đă viết:
“…ngày lễ
thánh Gioan ( Baotixita) là ngày 24 ( năm 1555), chúng con trẩy đi
Trung Quốc (…)chúng con đă đi đến một ḥn đảo
gọi là Pulo Champalo ( Cù lao Chàm) nơi mà
cha ( linh mục) đă dâng lễ gần những tảng đá
nơi thấy có khắc trong đá một cây thánh
giá và vài chữ xác định chúng đă được khắc
32 năm trước đó, và theo lời nói của vài người
là do ông Duarte Coelho nào đó đă viết”.
NHỮNG TẢNG ĐÁ,
SUỐI NƯỚC NGỌT, BẢI CÁT VẪN C̉N ĐÓ TẠI
TÂN HIỆP.
Ngoài ra
có thêm chi tiết “ một cây thánh giá khá đẹp, đưới
khắc trên một bia đá cao, với 4 chữ đầu,
và ở dưới chân, có ghi con số năm 1518 và sáu chữ
viết tắt Duarte Coelho”.
Năm 1949 G. Petri trong bài viết Thuyền buồm
Đông Dương (Voiliers d’Indocchine), ông đă đến đây
và t́m kiếm cây Thánh giá mà Pinto đă ghi chép nhưng không thấy
ǵ. Ông viết
“ Nơi
lấy nước ngọt (aiguade) vẫn c̣n đó không xa làng
nhỏ đánh cá Tân Hiệp, dưới cơn gió của đảo
Lớn Chàm ( culao- Cham). Đây là
điểm dừng quen thuộc của ghe bầu buông neo để
lấy nước, và có lẻ cũng giống như xưa,
người ta gặp tại đó hàng chục ghe nang đến
từ Đà Nẵng…..nhiều tảng đá “ hê ma tít” ( hematite)
nhô lên trên mặt biển, và chúng tôi đă luống công t́m kiếm
cây Thánh giá khắc chạm xưa …”.
Về điều nầy
thầy Jacinto de Deus trong tác phẩm Vergel de plantes viết năm
1690 cũng có ghi
“người
Bồ Đào Nha đầu tiên khám phá ra Vương quốc
Đàng Trong ( Cauci China) là ông Duarte de Coelho, 18 năm sau khi chúng
tôi đến Ấn Độ, ông có để lại một
padrăo với một thánh giá có ngày tháng và tên người phát
hiện để ghi nhớ sự khám phá nầy”.
Hai lần đến
Cù lao Chàm và lại nhớ đến cây Thánh giá tại nơi
nầy nhưng tôi ít c̣n hy vọng thấy . Có thể đó không phải là một
h́nh Thánh giá đục khắc trên đá mà chỉ là một
trụ đá h́nh Thánh giá mà người Bồ Đào Nha thường
dựng tại các ḥn đảo, các miền đất mà họ
cho là vô chủ để xác nhận chủ quyền của
người tới trước.
Nếu quả vậy th́ trong cuộc cạnh tranh khốc
liệt với các nước Hà Lan, Anh, Pháp, Trung Quốc…trên
các đại dương, các nước nầy không thể
để bia đá ở nguyên tại chỗ. Chắc nó c̣n nằm đâu đó dưới
làn cát mịn hoặc bị chôn chặt trong rạng san hô Cù
lào Chàm!
MỘT PADRĂO, BIA CHỦ
QUYỀN BỒ ĐÀO NHA.
Trước đây,
tại eo Tân Hiệp cũng có một nhà thờ Tin Lành, gọi
là nhà thờ ông Bảo, nay là một cái chợ. Số người công giáo rất
ít, thường họ về đất liền để
sinh sống , tiện việc giữ đạo.
Trời bắt đầu nổi gió, tôi rời
Cù lao Chàm trong những ư nghĩ miên man , xưa và nay lẫn lộn.
Tại sao các cha ḍng chiêm niệm không đến
địa điểm nầy cũng như Côn Đảo để
tu tŕ như các thầy khất sĩ Phật Giáo đang hiện
diện ở đây nhỉ? Mang tiếng là linh mục quản
xứ Hội An trong đó có Cù lao Chàm, nhưng chưa làm được
ǵ… tôi cảm thấy “chưa làm tṛn trách nhiệm “ với một
địa điểm nơi mà thánh lễ đầu
tiên tại đất Việt đă được cử hành,
mùa hè năm 1555.
Hiện nay Cù Lao Chàm đă được
UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Tại sao chỉ là sinh quyển thế giới
mà thôi?
Cù lao Chàm rất xứng đáng là Di sản
lịch sử và văn hóa thế giới nữa.
Tôi hy vọng với sự đổi mới của
đất nước, một ngày nào đó, giáo dân toàn cầu
cũng sẽ đến ḥn đảo xinh đẹp mang tên
Cù lao Chàm. Nơi đó ngoài các chùa
chiền, cũng sẽ có một nhà thờ, họ sẽ cầu
nguyện và dâng thánh lễ b́nh thường như bao nhiêu nơi
khác trên thế giới
Hội An ngày 10 tháng 4 năm 2011.
Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng.