QUỐC
NGỮ. CHỮ NƯỚC TA.
D̉NG
TÊN VÀ CHỮ QUỐC NGỮ.
Theo một bản
tường tŕnh của UNESCO, Tổ chức giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc , về khả
năng biết đọc và viết của các nước
tính theo phần trăm. Trong số
175 quốc gia được thống kê, nước
Úc dẫn đầu với 99.9% dân số biết
đọc biết viết. Đội sổ là
nước Burkina Faso với 12.8%. Việt Nam chúng ta
đứng vào hàng thứ 82 với 90.3% biết đọc
và viết. Các nước tiên tiến, chúng ta không dám so
nhưng Trung Quốc đứng trên chúng ta, số 80
với 90.9% biết đọc biết th́ th́ tôi lấy làm
“hồ nghi” v́ dân tộc họ có trên 1 tỷ 200
người và chữ Tàu, đâu có dễ gặm.
Theo thống kê về
t́nh trạng giàu nghèo các quốc gia của Liên hiệp
quốc, đất nước chúng ta chắc cũng
nằm vào hàng 3 con số. Từ đó suy ra, về phương diện văn hóa,
giáo dục, dân tộc Việt Nam thuộc hạng “cao
cấp”!
Khi Internet bắt
đầu du nhập vào Việt Nam như món hàng khá xa
xỉ, chỉ trong thời gian 10 năm, người
Việt cũng đă chiếm lĩnh địa vị khá
cao trên các trang mạng. Ngày nay, riêng Giáo hội công giáo
tại Việt Nam cũng có không biết bao nhiêu là
địa chỉ website khiến “tiếng chúng đă vang cùng
thế giới” “lời chúng rao gỉang trên các mái nhà’ mà
Kinh thánh đă “tiên đoán”.
Với hàng tỷ
người dùng tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, Tiếng
Pháp, nói chung bằng mẫu tự La Tinh, việc trao
đổi thông tin với người Việt thật
thuận lợi.
Trong khí đó, hàng
tỷ người Trung Quốc, hàng tỷ người
Ấn Độ, họ chỉ liên lạc với nhau
bằng thứ chữ riêng của họ, nếu muốn
thông tin cho thế giới biết, phải chuyển
ngữ qua tiếng Anh, Pháp…Người Nhật,
người Hàn sáng tạo
những máy móc tuyệt hảo
nhưng văn hóa của họ chẳng mấy ai
biết v́ rào cản ngôn ngữ quá lớn.
Tôi muốn nói
đến quốc ngữ, chữ nước ta.
Viết theo hệ
thống mẫu tự La Tinh.
Từ một thế
kỷ nay, thứ chữ nầy đă được nói
nhiếu, viết nhiều, khen nhiều, chê nhiều.
Nhưng có khen, chê th́
cũng phải viết, phải in bằng thứ chữ
ấy.
Được anh em yêu
cầu tŕnh bày về chữ quốc ngữ, tôi rất
ngại bởi v́ khả năng hiểu biết của
ḿnh có hạn. Thông tin về chữ quốc ngữ qua sách
báo nhất là trên trang mạng Internet quá dồi dào, khó
tổng hợp hết được nhất là vừa mới
chạm cửa “tử
thần” với ung thư máu ác tính.
Điếc không sợ
súng, biết ǵ nói nấy. Anh em trong nhà “Inter nos”, thông
cảm.
I KINH NGHIỆM LA TINH HÓA DO CÁC TU SĨ D̉NG
TÊN TẠI CÁC QUỐC GIA.
Có tài liệu nói Yajiro,
người công giáo dầu tiên do thánh Phanxicô Xavi ê rửa
tội đă dịch sách giáo lư ra tiếng romaji nhưng
chưa có sử liệu. Nói
chung đă có nhiều bản chép tay latinh hóa chữ Nhật
nhưng phải đợi đến năm 1591 và các
năm sau đó những sách romaji mới được in
ở Amacusa.
Tại Trung Quốc các
linh mục Ricci, Ruggieri, Trigault cũng đă khởi
thảo việc phiên âm nầy.
Nói chung các linh mục chuẩn bị
cho cánh đồng truyền giáo Nhật Bản và Trung
Quốc đă nắm bắt kỹ thuật nầy.
Điều lạ lùng là hoàn cảnh dun dủi, công tŕnh trên
đă không thực hiện được tại hai
quốc gia trên mà lại thành công tại Việt Nam chúng ta.
Chúng ta phải đi ngược ḍng
thời gian để nh́n thấy sự phát triển
việc kư âm chữ Quốc ngữ qua các giai đoạn.
II CÁC
GIÁO SĨ D̉NG TÊN LA TINH HÓA HAY ĐÚNG HƠN BỒ ĐÀO NHA
HÓA CHỮ QUỐC NGỮ.
Nhưng kinh nghiệm quư báu tại hai
nước Nhật Bản và Trung Quốc đă
được các giáo sĩ Ḍng Tên áp dụng ở Việt
Nam.
Kể từ khi đến Đại
Việt, các ngai đă bắt đầu ghi âm quốc
ngữ qua các bản tường tŕnh.
Linh mục Đổ Quanh Chính nghiên
cứu các tài liệu viết tay của Joao Roiz 1621, có các từ : Annam, Sinoa,
Unsai, Cacham, Ungue, Ontrũ, Bafu, Sai Tubin, Banco, Oundelin.
Gaspar Luis 1621: Ungue, Bancô.
Linh mục
Cristoforo Borri trong sách Kư sự Đàng Trong viết
nhiều nhất như: Quamguya. Quignin, Dà dèn Lu2t ( Đă
đến lụt), Scin mocaij , Sayc Chiu
Muon bau dao christiam chiam? Tuijciam, Biet, Maqui.
Alexandre de Rhodes trong lá thư năm 1625
; Ainao(Hải Nam), Tumquim (Đông Kinh) .. nói được
nhưng chưa viết giỏi.
Gaspar Luis 1626 : Bendâ (Bến đá), Bodê
(Bồ đề), Omdelimbay, Ongedoc, unghe chieu, Nhit la Khuam,
Khaum là nhit ( Nhất là không, không là nhất).
Antonio Fontes 1526: Dĩgcham, Núocman, Si nuâ ,
Onde dóc, Nhít là Khấu, Khấu la Nhít ( Nhất là không, Không
là nhất).
Francesco Busomi 1626: xán tí (Thượng
đế), thien chu (Thiên
chủ), ngaoc huan (Ngọc hoàng).
Giai
đoạn nầy các chữ thường viết liền
nhau.
Giai đoạn 2: 1631 -1648.
Vẫn
liền nhau nhưng có khi cách nhau và có dấu.
Thư
Alaxandre de Rhodes từ 1631 – 1648 : Chúacanh (Chúa Canh) , Chúa bàng
(Chúa Bằng), Chúa oũ (Chúa ông), Chúa thanh do, cai xă, dau thic (
Đạo Thích), Ghe an ( Nghệ An).
Tài
liệu viết tay Alexandre de Rhodes khi tường tŕnh
về cái chết của thầy Anrê Ranran (Phú Yên): Oúngebo, Oũghebo ( Ông nghè bộ), giũ nghiă cũ đ Chúa Jesu cho
den het hoy, cho den blon doy.
Thời
gian nầy xuất hiện tại miền Bắc linh
mục Gaspar d’Amaral, trong các văn bản viết tay c̣n
lại cho thấy linh mục Amaral từ năm 1632
viết chữ quốc ngữ khá hơn Đắc Lộ.
Linh
mục Đỗ Quanh Chính phân tích 2 bản tường
tŕnh của Amaral gửi Bề trên ḍng Tên nhưng năm
1632, 1637 cho thấy chữ quốc ngữ các ngữ và có
nhiều dấu phân biệt âm sắc. Ngài c̣n soạn
thảo Từ điển Việt Bồ. Nếu “đem so sánh thời gian
th́ mới 28 tháng rưỡi
ở Đàng Ngoài” ( Đỗ Quang Chinh sđd trang 88). Thật ra Amaral
đă ở Đàng Trong lén lút học Tiếng Việt
để ra Đàng Ngoài làm việc. Để tránh rắc
rối chính trị về sau, việc nầy
được giữ kín.
Năm
1645, một văn bản
viết tay có ghi nhiều chữ quốc ngữ cuộc
tranh luận về mô thức Rửa tội, chép lại năm
1654 do Filippo de Marini, người Ư.
Qua
đó được biết, 36 giáo sĩ ḍng Tên họp nhau tại Macau để
thảo luận về mô thức Rửa tội bằng
tiếng Việt, đă để lại một biên
bản quan trọng nhờ đó có thể biết thêm
về t́nh trạng ghi âm tiếng Việt. Trong đó có
mấy câu : Tau rữa mầi nhân danh Cha, ùa con, ùa Spirito
Santo trong trang một. Sang trang hai : Taũ rữa
mầi- Tá lấy tên- Taũ lấỹ tên Chúa – Tốt
lên, tốt danh, tốt sáng – Danh cha cả sáng. Trang ba : Blai
có ba hồn bảy vía – Chúa Blờy ba ngôi. Trang bốn :
Nhẫn danh Cha ùa con.. Trang bảy : Sóư ( sống), Cha
ruột con ruột. Tài liệu đó cho thấy có
nhiều tiến bộ. Đă ghi âm đủ năm
dấu : Sắc, huyền, hỏi, ngă, nặng. Có dấu
hai chấm trên chữ u, i, y. Thêm các dấu : ă, â,
ơ, ô, ư, ê. Có các nguyên âm kép : au, ưa, âi, ua, ia,
ơỹ, oư, uô và các phụ âm kép : nh thay cho gn. ch thay
cho ci, ng thay cho mgn….
Có 31
vị đồng ư công thức “Tau rữa mầi, nhần
danh cha, ùa con, ùa spiritu santo”. Hai
vị trung lập. Linh mục Đắc Lộ và Metellus Saccano cực lực
phản đối.
Giai
đoạn 1651.
Đây là một năm ‘’ cực kỳ quan trọng đối với Văn
học Việt nam’’ ( Theo Thanh Lăng). Linh mục
Đắc Lộ cho xuất bản tại nhà in đa
ngữ Rôma hai tác phẩm chữ Quốc ngữ : Tự
điển Việt- Bồ-La, và Phép giảng tám ngày. Không
chỉ viết sách, linh mục Đắc Lộ c̣n
viết ngữ pháp tiếng Việt. Tuy cha Đắc
Lộ tiếp thu một phần những công tŕnh của
các vị tiền bối nhưng ngài đă có công lớn
trong việc tổng hợp, hoàn chỉnh lối kư âm
tiếng Việt. Thời kỳ tranh luận về mô
thức Rửa tội , có những cha thông thái tiếng
Việt hơn như Amaral, Barbosa , được gọi
là ‘’ thông hoặc rất thông ‘’ tiếng Việt, cha
Đắc Lộ có mặt nhưng không thấy ghi chú chút
nào.
So với chữ Việt
được kư âm trước đó, đây là giai
đoạn tiến bộ vượt bậc.
Các nguyên âm đơn : a, ă, â, e, ê, i,
o, ô, ơ, ư.
Các nguyên âm kép : ai, ay, ao, au, âu, eo, êu, ia,
iê, io,iô, iơ, iu, iư, oa, oe, oi, ôi, ơi, ua, uâ, uê, ui, uy,
uô, uơ, ưa, ưi, ươ, ưu.
Các nguyên âm ba trước đó
chưa thấy : iai, iay, iây, iao, iau, iâu, ieo, iêo, ioi, iôi,
iơi, ioũ, ( iua), iưa, iươ, iuô, oai, uay, uây,
uie,uôi, ươi,ươu. chỉ thiếu : uyê (
viết là uiê) , iua , dư nguyên âm ba ioũ.
Các phụ âm : B, C,D,Đ, G, H, K, L,
M, N, P, Q, R, S, T, X.
Các phụ âm kép : BL, CH, GH, KH, ML, NG, NGH,
NH, PH, TH, TL. Gần giống như ngày nay ngoại trừ
phụ âm V, BL, Tl…
Giai
đoạn hoàn thiện và phát triển các thế kỷ
sau.
Sau giai đoạn Đắc Lộ,
việc kư âm chữ Việt càng ngày càng hoàn thiện như
bức thư của Ignesco Văn Tín, và Bentô Thiện
viết vào những năm 1659, gửi cho giáo sĩ Philipe
Marini minh chứng.
Tài liệu viết tay của thầy
giảng Igesico Văn Tín viết ngày ‘’muờy hay tháng chinh D. C. J. ra dờy một ngh́n sáu
tram nam muơy chinh’’ ( 12-9- 1659 ) có lẽơû gần Kẻ
Vó. (Xem văn bản trong sách Lịch sử chữ quốc
ngữ của Đỗ quang Chính trang 93 tt.). Giáo sư Hoàng
Xuân Hăn cũng đă phát hiện và công bố thư Bentô
Văn Thiện và cho là ‘’là nét
bút xưa nhất c̣n lại của người Việt
viết bằng chữ la-tinh trên mặt giấy tây’’.
Thật ra chưa chính xác lắm v́ nhiều giáo dân Việt
Nam đă ghi tên trên biên bản năm 1654. ( Xem bức thư
trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ, sđd, tr.
100 tt). Ngoài ra Bentô Thiện c̣n viết một cuốn
lịch sử nước Annam gồm sáu tờ giấy,
trong đó phần một ,tóm tắt lịch sử
nước Việt, phần hai giải thích tỉ mỉ
về phong tục tập quán. ( Xem sđd, tr,108 tt)
Chữ quốc ngữ trong hai tập
tài liện nầy rất tiếân bộ, nhất là
của Bentô Thiện.
CÔNG
ĐẦU VÀ TẠI ĐÂU.
Xưa
nay công của linh mục Alexandre de Rhodes là quá rơ, lại
được nhiều vị nổi tiếng như
Leopold Cadiere xác nhận. Nước Đại Pháp cao rao v́
cho là thần dân của ḿnh nên ngài được nhắc
đến nhiều và đại đa số tin vào
điều đó.
Trong
số nhiều vị giáo sĩ Ḍng Tên thuộc nhiều
quốc tịch Ư, Bồ Đào Nha,
Thụy sĩ đă làm việc tại Đàng Trong và
Đàng Ngoài trong giai đoạn trên nên cần phải đặt
lại vấn đề: công
đầu tiên phong, khai sinh.
Ngày nay người ta chú ư đến linh mục
Francisco Pina đến Việt Nam năm 1617, đă sống
tại Hội An, Nước Mặn, Thuận Hóa, được coi là người
đầu tiên chuyên chú về việc khai sinh chữ
quốc ngữ.
Linh FRANCISCO DE PINA ( 1585 – 1525 )
Sinh năm 1585,
người Bồ, vào ḍng Tên , đến Macau học
tập một năm và được gửi đến
Đàng Trong năm 1617. Ngài là vị linh mục đầu
tiên nói thạo tiếng Việt. Cha Đắc Lộ cho
biết : ‘’ Ngay từ
đầu, tôi đă học với cha Francesco de Pina,
người Bồ, thuộc Ḍng Tên nhỏ bé chúng tôi. Là
thầy dạy tiếng , người thứ nhất trong
chúng tôi am tường tiếng Việt, và cũng là
người thứ nhất bắt đầu giảng
thuyết bằng ngôn ngữ đó mà không dùng thông ngôn’’
Linh mục Alexandre de
Rhodes ghi lại những kỷ niệm sau:
“Chúng tôi khởi hành từ Macao vào tháng
10 năm 1624 và sau 19 ngày th́ tới Đàng Trong, tất
cả đều hồ hởi bởi hoạt động
tốt. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông
tạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác
hẳn tiếng Tàu. Tiếng mới này c̣n thông dụng
ở Đàng Ngoài, ở Cao Bằng, ở Đàng Trong và
người ta c̣n nghe và hiểu ở ba xứ lân bang khác.
Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng
Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi
tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có
thể học được….V́ thế mà tôi thấy cha
Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng,
chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn v́ nói rất
thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích nhiều
hơn bài các vị khác. Điều này khiến tôi tận
tuỵ học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó
ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc.
Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi
xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma”
Lúc đầu cha Pina
cự ngụ tại Hội An , sang năm 1618, dời vào
Nước Mặn với hai giáo sĩ Buzomi và Borri. Năm
1620 cha Pina đă rửa tội cho 275 người, trong
số có nhiều nhà trí thức như cụ Nghè Giuse, Phêrô,
Phaolô và sư cụ Manuel. Năm 1625 đến Thuận Hoá
rửa tội cho bà Minh Đức Vương Thái Phi,
vợ Chúa Nguyễn Hoàng và là mẹ của ông hoàng Khê. Bà là
chỗ dựa nương của năm vạn tín hữu.
Trong thư bằng
Bồ ngữ viết tại tỉnh Chàm ( Quảng nam) ngày
5-7-1625 gửi cha Bề Trên cả Ḍng Tên Vitelleschi ở Rôma,
cha Gabriel de Mattos có viết ‘’Hiện
nay chúng tôi có ba cư sở mà hai trong số nầy( Hội
an và Nước mặn) đă được hoàn thành theo
Giáo luật; c̣n cư sở mà chúng tôi đang tạm trú lúc
nầy, có ba linh mục cư ngụ. Linh mục Francesco di
Pina biết tiếng Việt khá, làm Bề trên và giáo sư
dạy tiếng Việt, và các linh mục Đắc Lộ
cùng Antonio de Fontes là thuộc viên và học viên’’
Những khám phá
gần đây về linh mục Pina do linh mục Roland
Jacques Dương Hữu Nhân OMI giúp đi đến
việc tái xác định lại công lao của các người
đi tiên phong trong công tŕnh chữ quốc ngữ. Linh
mục Pina được xác nhận là người có công
đầu, nhưng rất
tiếc là ngài lại vắn số.
Ngày 15 tháng 12 năm
1625, nhân có tàu Bồ từ Cam Bốt về Macau bỏ neo
ở Cù lao Chàm. Cha Pina cùng một người địa
phương chèo thuyền ra chỗ tàu đậu ngoài
khơi để nhận các đồ phụng tự. Khi
thuyền vào bờ, th́nh ĺnh có gió lớn, ghe lật, cha Pina
bị chết đuối v́ vướng áo ḍng. Xác cha
được vớt lên đem về Hội An an táng
trọng thể. Cái chết thương tâm của ngài
cũng giúp các giáo sĩ nám thêm lại một thời
gian.
Hy vọng ngôi mộ
ngài là ngôi mộ kề sát cha Sanna tại nghĩa trang
Sơn Phô nay được cải táng tại nhà thờ
Hội An.
Thời gian qua có
nhiều bài viết tranh nhau địa điểm linh
mục Francisco Pina khai sinh chữ Quốc ngữ:
Nước Mặn, Qui Nhơn và Thanh Chiêm, Quảng Nam.
Thật ra có 3 nơi mới đúng. Năm 1617, Pina sống
tại Hội An, giúp đở cộng đồng giáo dân
Nhật Bản, Năm 1618, phải di chuyển vào
Nước Mặn v́ các giáo sĩ bị chống
đối. Sau đó lại chuyển về Hội An và vào
năm 1620 lên Dinh trấn Quảng Nam. Có lẽ sau những
kinh nghiệm trăi qua tại cộng đồng giáo dân
Nhật Bản tại Hội An với những giáo dân tân
ṭng người Việt, nhất là sau thời gian cư trú
tại Nước Mặn. Linh mục Francisco Pina thấy
rắng ḿnh cần phải chú trọng hơn đến
khối con Chúa gốc Việt. chính v́ thế khi trở
lại Hội An, ngài đă quyết định lên Thanh
Chiêm “Tràng An phường” (theo chứng cứ của Lư
y Đang (Đương)) tứ một loại kinh đô
hành chánh ở Quảng Nam vào thế kỷ 17.
Dù sao, Thanh Chiêm
vẫn có nhiều ưu thế hơn v́ tập trung
nhiều sử liệu như các Chúa tiền Nguyễn, các
đia danh nhật là bức thư rất đặc
biệt mà Roland Jacques t́m được tại thư
viện Adjuda và giải mă. Chủ nhân lá thư đó không ai
ngoài Pina.
V́ thế từ
năm 2008, các bô lăo làng Thanh Chiêm khi dựng bia làng và bia Dinh
trấn Quảng Nam đă ghi một câu quan trọng:
“Chữ quốc ngữ, thánh
địa Thanh Chiêm, công đầu giáo sĩ Pina”.
( Trích văn bia Dinh
trấn Thanh Chiêm).
CÔNG TR̀NH TẬP THỂ.
Nói chung, vào giai
đoạn đầu của chữ quốc ngữ các
linh mục Ḍng Tên thuộc nhiều quốc tịch đă
cùng nhau cọng tác h́nh thành chữ quốc ngữ trong
những bước đi chập chững. Chắc
chắn theo tinh thần đồng đội Inhaxio
của Ḍng rất cao, người nầy ngă xuống,
người sau tiếp tục. Pina chết sốm nhưng
Amaral, Fontes, Alexandre de Rhodes ….Dấu ấn Bồ Đào Nha
rất rơ với Pina, Gaspar d’Amaral, Barbosa, Gaspar Luis… Không
thể bỏ qua người Ư với Borri, Majorica, Marini.. Nhất
là người Avignon, lúc đó là lănh địa Giáo hoàng
với Alexandre de Rhodes mà người Pháp tự hào nhận
bừa sau đó. Người Thụy sĩ với Onofre
Borges.
Bên cạnh đó
sự đóng góp của người Việt cũng không
nhỏ. Đây là việc cần làm sáng tỏ thêm.
Kẻ có công lớn,
người công nhỏ, không nên quá chú trọng đề
cao một cá nhân mà quên lăng người khác.
Chữ quốc
ngữ là một công tŕnh
tập thể do các giáo sĩ Ḍng Tên và giáo dân Đàng Trong
chí Đàng Ngoài thực hiện trong giai đoạn 1615
đến 1659, giai đoạn thành lập hai giáo phận
Đàng Trong và Đàng Ngoài.
CÁC GIAI ĐOẠN KẾ TIẾP HOÀN CHỈNH CHỮ
QUỐC NGỮ.
Khi thành lấp hai
giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài năm 1659 với
việc bổ nhiệm hai Giám mục Pierre Lambert de la Motte
và Francois Pallu củng sự h́nh thành Hội Thừa sai Paris
, chữ quốc ngữ càng ngày càng hoàn thiện.
Các linh mục
Thừa sai và Ḍng ông thánh Inhaxu nhiều lúc bất
đồng với nhau v́ nhưng vấn đề mục
vụ nhưng vẫn xử dụng chử quốc
ngữ để tải đạo. Các lá thư vào
cuối thế kỷ 17 bằng chữ quốc ngữ c̣n
lưu giữ tại Archives MEP minh chứng.
Sang thế kỷ 18,
một hậu duệ của Ḍng Tên là Philipphê Bỉnh ( 1794- 1830) qua
các bản viết tay cho
thấy, chữ quốc ngữ hoàn chỉnh hơn.
Trong thời gian 30 năm ở Kẻ
Chợ nước Portugues (Lisbaơ) đă viết, dịch
trên 30 cuốn sách nhưng chưa có cuốn nào
được in ấn. Nói chung từ các tác phẩm
của cha Đắc Lộ đến thời cha Philipphê
Bỉnh, cách kư âm chữ quốc ngữ có nhiều thay
đỗi, nhưng theo Thanh Lăng ‘’chữ
quốc ngữ có tiến bộ nhưng cũng là rất
chậm’’.
Giai đoạn Đức cha Pigneau de
Béhaine ( Bỉ Nhu Bá Đa Lộc) 1772-1773 và Đức
cha Taberd 1838.
Năm 1838, Đức cha Taberd cho
xuất bản cuốn từ điển Annam- Latinh
tại Sérempore, cuốn Nam Việt Dương hiệp
Tự vị. Trong đó, Đức cha Taberd dựa vào
từ điển của Đức Cha Bá Đa Lộc mà
ngài cho là đă thất lạc. Trong thực tế, cuốn
từ điển nầy vẫn c̣n lưu trữ tại
nhà các cha thừa sai Paris. Từ điển Annam-Latinh
của Bỉ Nhu Bá đa Lộc bắt đầu
được soạn thảo năm 1772 và hoàn thành năm
1773. ‘’Với Bỉ Nhu, đă
hoàn chỉnh lối viết chữ quốc ngữ như
chúng ta có ngày nay , trừ một vài chi tiết không đáng
kể’’.Cuối năm 1999, cuốn từ điển
nầy được in sao chụp lại tại Paris và
Hồng Nhuệ đă chuyển ra chữ quốc ngữ và
được in tại Thành phố HCM do nhà Xuất
Bản Trẻ, nhân dịp kỷơ niệm hai trăm
năm. Sau Đức Cha Taberd là những cuốn Tự
vị La Việt của Ravier, xuất bản tại Ninh
Phú , 1880. Đại Nam Quấc am tự vị của Paulus
Huỳnh Tịnh Của, Tự vị Việt Pháp của
Génibrel, tại SàiG̣n năm 1898.
MỘT
NỀN VĂN CHƯƠNG CHỮ QUỐC NGỮ.
Kể từ khi người Pháp
đặt nền thống trị trên đất
nước Việt Nam, họ đă dần thấy vai tṛ
của chữ quốc ngữ và muốn dùng nó để
phục vụ cho công cuộc thống trị và loại trừ ảnh
hưởng Trung Quốc. Họ đă dùng thứ chữ
lưu hành trong nội bộ Giáo Hội qua nhiều thế
kỷ thành một thứ chữ phổ biến
khắp nơi.
Chữ quốc ngữ càng ngày càng có
vị trí vững chắc, từ những bản
điều trần của Nguyễn Trường Tộ,
đến tác phẩm của Trương Vĩnh Kư, Paulus
Của đến báo Nông cổ Mín đàm, Gia định
báo; từ Đông Dương và Nam Phong tạp chí
đến Hội Khai trí Tiến Đức, đến
Phan Khôi với phong trào thơ mới; từ nhóm Tự
Lực Văn Đoàn, Văn học hiện thực phê phán
đến nền văn học xă hội chủ nghĩa
hôm nay, chữ quốc ngữ đă tiến những
bước dài, đă xây dựng một nền văn
chương quốc ngữ đồ sộ hôm qua, hôm nay,
cũng như trong tương lai.
Chữ quốc ngữ, chắc
chắn không như một số người luận suy
hồ đồ là với chữ nầy, các giáo sĩ ḍng
Tên muốn h́nh thành một ’’ ghetto nhà đạo’’, một
ốc đảo văn hoá đối nghịch với
chữ Nôm, chữ Hán thịnh hành lúc đó, muốn cắt
ĺa người giáo hữu ra khỏi cội rễ dân
tộc và mở đường cho chế độ
thực dân.
Hăy trở lại thế kỷ 17, chúng
ta thấy, khi ghi kư âm chữ Việt bằng mẫu tự
La tinh, cacù nhà truyền giáo hoàn toàn không có ư định
đó. Tại Nhật Bản, trong cuốn từ
điển dùng mẫu tự La Tinh- Bồ- Nhật, họ
đă ghi rơ ‘’ Để xử dụng và thuận lợi
cho giới trẻ Nhật Bản đang học La Ngữ,
và cho người Âu Châu muốn học tiếng Nhật
Bản’’. Phải, chỉ v́ sự thuận tiện cho
việc học hành, nghiên cứu mà họ có sáng kiến
nầy để vừa giúp người Âu Châu, đặc
biệt các nhà truyền giáo và giúp cho người Việt
học chữ Âu Châu thuận lợi hơn. Hơn nữa
Ḍng Tên, tổ chức đă có sáng kiến trên đă rời
khỏi Việt Nam từ năm 1666 với Joăo de Loureiro và
như vậy làm sao quy trách cho họ những ư đồ
đen tối lịch sử sau nầy. Không nên gán cho cha
Pina, cha Amaral, cha Đắc Lộ hay bất cứ ai
cái âm mưu ấy. Bằng chứng là cái tủ sách 40
cuốn chữ nôm của Majorica vẫn c̣n đó,
người công giáo đương thời vẫn xử
dụng chữ Hán, chữ Nôm b́nh thường măi cho
đến khi người Pháp loại những ngôn ngữ
nầy ra khỏi cơ sở hành chánh của họ.
Cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20, các nhà trí thức, các sĩ phu yêu
nước đă sớm thấy sự tiện lợi
của thứ chữ nầy để phát triển
đất nước. Các vị như Trần Quư Cáp,
Nguyễn Văn Vĩnh và các thế hệ kế tiếp
đă nh́n thấy tương lai của chữ nầy’.’Nên sự nghiệp cũng
nhờ ba chữ đó… Chữ quốc ngữ là hồn
trong nước. Phải đem ra tỉnh thức dân ta….Có
ngày tiến hoá có ngày văn minh.’’ ( thơ Trần Quư cáp)
. Cách mạng tháng tám năm 1945 cũng đă thấy rơ
tầm mức của thứ chữ tiện lợi nầy
và đă dùng để đánh giặc dốt, và là
phương tiện phát huy học thuật, tư
tưỡng Việt nam. Kể từ ngày đó, chữ
quốc ngữ, nền văn chương quốc ngữ
tiếp tục khẳng định vị trí đặc
biệt của ḿnh giữa ḷng dân tộc.
KẾT.
Một ước mơ, các giáo phận nên hỗ trợ
Ḍng Tên h́nh thành Nhà truyền thống riêng về các tài
liệu chữ Quốc Ngữ thưở ban đầu
Các Giáo phận có nhà in chữ quốc
ngữ như Tân Định Sài G̣n, Làng Sông Qui Nhơn,
Huế, Hà Nội, Bùi Chu …sưu tập các sách báo đă
xuất bản cuối và đầu thế kỷ 20
để cháu con không chỉ nghe tên mà c̣n xem, đọc
được.
Cùng nhà nước h́nh thành Bảo tàng
chữ quốc ngữ , ảo cũng được,
để toàn dân có thể tham khảo tất cả các sách
báo qua 4 thế kỷ viết bằng chữ quốc
ngữ. Tuy chúng ta quư trọng tài liệu Hán Nôm, nhưng so
với tài liệu chữ quốc ngữ chẳng thấm
vào đâu.
Cần tổ chức một Hội Nghị về
chữ quốc ngữ trong Giáo hội công giáo Việt Nam
với sự tham gia của các chuyên viên.
Một hội nghị cấp quốc
gia do nhà nước tổ chức.
Một hội nghị quốc tế
do Unesco bảo trợ.
Cuối cùng : Chữ quốc ngữ, Di
sản văn hóa thế giới.
Mong vậy thay.
Tham
khảo:
1, ĐỖ QUANG CHÍNH : Lịch sử
chữ quốc ngữ,Tủ sách Ra Khơi, SàiG̣n 1972.
2.THANH LĂNG : Những chặng
đường của chữ viết quốc ngữ.
Tạp chí Đại Học Huế, số Một,
tháng hai năm 1961, tr.6- 36.
3.ROLAND JACQUES : L’oeuvre de quelques pionniers
portugais dans le domaine de la lingustique vietnamienne. Paris 1995.
4.ROLAND JACQUES :
Những người
Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt
ngữ học.Nhà xuất bản khoa học xă hội. Hà
Nội 2007.
5. BÁ ĐA LỘC BỈ NHU : Từ
vị Annam- LaTinh, do Hồng Nhuệ dịch và giới
thiệu, Nhà Xuất bản Trẻ, TP HCM 1999.
6.ALEXANDRE DE RHODES : Từ điển
Annam-Lusitan-Latinh, nhà xuất bản khoa học xă hội,
TPHCM 1991.
7. JOSEHP JENNES, CICM Lịch sử Giáo
Hội Công giáo nhật Bản ( bản dịch).Nhà xuất
bản Tôn giáo. Hà Nội 2008.
8. ĐINH TRỌNG TUYÊN, ĐINH BÁ
TRUYỀN. Dinh trấn Thanh Chiêm Quảng Nam. Điện Bàn,
Quảng Nam 2011.
Nhiều
tài liệu trên các websites, sách, báo.
Các tác giả VƠ LONG TÊ, ĐỖ QUANG
NGHIÊM v.v.
ANTÔN NGUYỄN TRƯỜNG THĂNG:
antontruongthang.wordpress.com Mục
T́m hiểu lịch sử Giáo hội công giáo tại
Việt Nam ; Anre Phú Yên v.v.
SÀI G̉N 17 THÁNG 01 NĂM 2015
HỌP MẶT GIA Đ̀NH ÁI
HỮU PIO X ĐA LAT.