Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt
Trường Đại Học Triết Thần Học
Viện Đại Học Đàlạt
Quá tŕnh phát
triển
Phân Khoa Thần học,
do Ban Giảng Huấn Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X
phụ trách, sẽ bắt đầu thực sự từ
niên khóa 1975-76. Thực thế, theo kư ức của
người tham gia điều hành Trường Văn Khoa
VĐHĐL, đến năm
1974, khi có sắc chỉ của Ṭa Thánh, sát nhập
khoa Thần học của Giáo Hoàng Học viện vào
Viện Đại học Đà lạt, th́ những
người có trách nhiệm liên hệ bắt đầu
thực thi những dự phóng đă nung nấu, ḍ dẫm,
thử nghiệm, thảo luận, đúc kết các vấn
đề liên quan từ lâu, để thi hành qua thời
gian[50].
Vị Khoa
Trưởng Khoa Thần Học đầu tiên là LM San
Pedro, STD, Tiến Sĩ Thần Học, SJ. Sau khi rời
Việt Nam, ngài làm Phó GM giáo phận Houston-Gaveston, TX,
trước khi được bổ nhiệm làm GM giáo
phận Brownsville, TX.
Từ
năm 1957, các Giám Mục trong Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam muốn xây dựng một hàng giáo sĩ
bản quốc có giàu khả năng trí thức và
đạo đức đă thỉnh cầu Bộ
Truyền giáo thiết lập một Học Viện Giáo
Hoàng ở tŕnh độ đại học. Ṭa Thánh
chấp nhận và đă trao công việc cho các linh mục tu
sĩ Ḍng Tên. Ngày 13/9/1958, một số linh mục Ḍng Tên
đă xúc tiến công cuộc thành lập Học viện
trên cơ sở tạm thời ở ngon đồi B
của Viện Đại Học Đà Lạt, gần
trường Trung học Trần Hưng Đạo,
trước khi chuyển đến cơ sở chính
thức ở địa điểm hiện nay.
Công tŕnh được
khởi đầu xây dựng từ năm 1961, và từ
niên khóa 1963-64 đă bắt đầu sinh hoạt cho
đến năm 1978. Cơ sở được một
kiến trúc sư người Việt, Ông Tô Công Văn,
mặc dù có người đặt nghi vấn[51]
là phải chăng Kiến trúc sư Ngô viết Thụ
vẽ kiểu và đôn đốc xây dựng, thực
hiện đồ án kiến trúc này, phù hợp với môi
trường đào tạo, điều kiện chất
lượng và tiện nghi cấp trung ương của
Ṭa Thánh tại Việt Nam.
Cơ sở học viện
mới có một khuôn viên rộng gần 8 mẫu tây,
tọa lạc trên một sườn đồi nên thơ
trên đường Phù Đồng Thiên Vương, quay ra
đồi cù thơ mộng tiếp nối với
Trường Trung Học Bùi Thị Xuân và Viện Đại
Học Đà Lạt, được thường xuyên che
bóng dưới tán lá xanh mướt của rừng thông.
Ngày 24/4/1964,
Đức Ông Francesco de Nittis, thay mặt Khâm Sứ Toà Thánh
tại Việt Nam, cùng HĐGMVN, chính thức khánh thành
cơ sở mới với các tiện nghi thích hợp cho
việc đào tạo các chủng sinh.
Sau mấy
năm đào tạo về Triết học, ngày 31/7/1965,
chương tŕnh thần học mới bắt đầu
tại cở sở mang tên chính thức là Học Viện
Giáo Hoàng Thánh Piô X, Đà Lạt. Tiếp theo đó, Ṭa Thánh
qua Bộ Truyền giáo, cho phép khoa này liên kết với
VĐHĐL.
Mục
đích của việc đào tạo
Qua nhiều
phiên thảo luận giữa hai cơ quan, Viện
Đại Học và Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X đă
thảo luận về phương thức liên kết và
được các chức trách đôi bên phê chuẩn.
Thư của Đức Phaolô VI gửi HĐGMVN ngày
15/9/1966, có đoạn viết:
“Cuộc
thành lập Khoa Thần Học tại Học Viện Giáo
Hoàng Thánh Piô X Đà Lạt trong thời gian sau Công
Đồng sẽ khuyến khích tất cả mọi
người có thiện chí, dấn thân hoàn thành lời Thánh
Phaolô “Hăy thực thi chân lư trong đức ái” (Eph., 4, 5). Khoa
Thần Học sẽ là điểm gặp gỡ giữa
tinh thần Tin Mừng và di sản triết học và tôn
giáo phong phú của dân tộc Việt Nam.”
Học Viện có
mục đích đào tạo các linh mục với qui mô sâu
sắc hơn về trí thức và tu đức. Các
tuyển sinh theo học ở đây là các chủng sinh
được chọn từ khắp các giáo phận
miền Nam, và một vài chủng sinh từ Kampuchia và Lào.
Với
tư cách một phân khoa của VĐHĐL, khi ra
trường, sinh viên sẽ được cấp bằng
Cử Nhân Thần Học, nếu đạt các chỉ
tiêu học vấn và thi cử qui định. Những ai
muốn dọn Tiến Sĩ Thần Học th́ mới
tiếp tục theo học cao hơn. Chương tŕnh giáo
dục theo tiêu chuẩn của một Học Viện Giáo
Hoàng, v́ hầu hết nhân viên ban giảng huần là các giáo
sư danh tiếng có khả năng chuyên môn cao của
nhiều cơ sở đại học quốc tế trong
và ngoài Giáo hội.
Chương tŕnh huấn
luyện của Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt
Chương tŕnh dự
kiến gồm 8 năm chứ không phải 6 năm, như
nhiều chủng viện khác. Chưa kể đi thực
tập mục vụ dài hạn, (hay đi giúp xứ), có
giáo phận 1 năm, có giáo phận 2 năm chẳng
hạn như Long Xuyên.
Thời gian đầu
được chia ra như sau:
* 1 năm dự
bị.
* 3 năm
triết học.
* 4 năm
thần học.
Thời gian sau được
đổi thành:
* 3 năm
triết học và có thể là 4 năm.
* 5 năm thần
học.
Sở
dĩ như vậy, v́ muốn theo đúng qui chế phân
khoa thần học của Roma. Đồng thời về
triết học, th́ sẽ theo học ở bên Viện
Đại Học Đà Lạt. Cụ thể là
khoảng 1973-1975 các đại chủng sinh Ban Triết
Học đă sang học bên Viện Đại Học. Lúc
bấy giờ đă có được sự thỏa
thuận giữa Giáo Hoàng Học Viện và Viện
Đại Học Đà Lạt. Các đại chủng sinh
sẽ học triết học ở Viện Đại
Học, c̣n Phân Khoa Thần Học của Giáo Hoàng Học
Viện sẽ mở rộng và trở thành một Phân Khoa
chính thức của Viện Đại Học.
Vài nét
về nội dung đào tạo của GHHV
Thực
tế chu kỳ tám năm đào tạo có thể diễn
ra như sau.
1. Giáo
tŕnh bốn năm triết học. Các chủng sinh
phải học sáu bộ môn chính của triết học
kinh viện theo truyền thống từ lâu ở các
đại chủng viện của Giáo Hội Côn giáo:
Luận Lư
Học; Hữu Thể Học; Đạo Đức
Học; Tâm Lư Học; Vũ Trụ Học; Thần Học
Tự Nhiên.
Ngoài ra
chủng sinh c̣n phải học một số bộ môn khác
về triết sử.
2. Khẩu
Vấn De Universa: Cửa ngơ vào thần học
Sau bốn
năm triết học, các chủng sinh phải qua một
cuộc sát hạch khẩu vấn Về Vũ Trụ,
gọi là De Universa. Các chủng sinh phải trải qua
một cuộc thi hỏi đáp bằng tiếng La Tinh hay
Tiếng Pháp.
a. Ban
thẩm vấn có năm giáo sư giám khảo và mỗi giám
khảo đặt một câu hỏi. Thí sinh phải
trả lời xuất sắc mỗi câu hỏi đó
mới đạt tiêu chuẩn, nghĩa là phải
được điểm trung b́nh là 6/10 và được
ít nhất là ba giám khảo cho điểm 6/10 trở lên.
Như thế một thí sinh có hai giám khảo cho
điểm 9/10, nhưng có ba vị chỉ cho điểm
5/10, th́ thí sinh vẫn không được chấm
đậu, dù [(2x 9)=18; (3x5)=15; (15+18): 5= 6,6] đă
được 6,6/10 trên trung b́nh cộng tổng điểm
của 5 môn vấn đáp.
b. Một
điều kiện nữa là khi đă thi vấn đáp
đạt kết quả tốt, th́ các điểm học
về mỗi môn của bản thân thí sinh trong bốn
năm học triết trước đó, phải
được điểm trung b́nh.
Nếu không
đủ điều kiện vượt qua cuộc
khẩu vấn De Universa, th́ chủng sinh vẫn
được theo học bốn năm thần học,
nhưng không đủ điều kiện để
được cấp văn bằng Cử Nhân Thần
Học khi tốt nghiệp.
3. Học
hỏi bằng thảo luận, đối thoại
Trong khi
học thần học, để củng cố
đức tin trong việc t́m hiểu các tôn giáo khác bằng
phương pháp đối thoại, các chủng sinh
cũng được tiếp xúc thẳng với các
vị chức sắc tôn giáo khác để thảo luận,
đối thoại.
Cụ
thể là trong một khóa học bốn năm thần
học, Thượng Tọa Phật Giáo Thích Minh Châu
của Viện Đại Học Vạn Hạnh
được mời lên tŕnh bày một số vấn
đề cơ bản nhất của Phật Giáo và
tiếp xúc đối thoại với sinh viên, nhưng hôm
đó, Thượng Tọa Thích Minh Châu bận Phật
sự, nên cử Thượng Tọa Thích Quảng
Độ lên Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt thay
thế. Hai câu hỏi được đặt ra cho
Thương Tọa là:
Thuyết cấm
sát sinh của nhà Phật không thể thi hành tuyệt
đối được. Người ta không thể không
uống nước. Thế mà ngay trong nước lă
thường, đă có không biết bao nhiêu vi sinh vật
trong nước. Uống vào là sát sinh rồi?
Câu hỏi
về thuyết luân hồi: Phật Giáo giải thích
thế nào về dân số học. Mỗi năm dân số
mới cao hơn, và v́ thế cơi nhân sinh mỗi năm
mỗi tăng thêm. Vậy có phải là nhiều thú vật
sống lanh hơn và thăng tiến chức năng?
Trong
buổi kết thúc khóa đối thoại liên tôn TT/
TQĐ đă phát biểu mấy ư.
Trước
khi tin rằng đó là phát biểu từ tâm thành của
Thượng Tọa Thích Quảng Độ, b́nh
thường các độc giả nghĩ rằng những
ư tưởng phát biểu dưới đây chỉ mang tính
xă giao.
1.“Chưa
bao giờ tôi gặp một nhóm sinh viên xuất sắc và
lịch lăm như thế trong đời”
2.“Những
câu hỏi đặt ra rất tốt cho cuộc
đối thoại liên tôn trong tương lai”
3.“Phải
rất lâu nữa Phật Giáo mới chuẩn bị
được một lớp người tương lai
như vậy”
4.“Nếu
ở thêm một tuần nữa nghe các chủng sinh
đặt thêm câu hỏi, th́ chắc tôi sẽ theo Công giáo
luôn”
Các phát
biểu trong bối cảnh kết thúc một cuộc
đối thoại của một vị Thượng
Tọa như Thích Quảng Độ không thể lột
tả sự chân thành qua lời phát biểu bên ngoài đúng
như tấm ḷng của chính người đối
thoại.
Câu 1 là
một cách tán tụng thuần túy thông thường
đối với rất nhiều đối tác xă giao.
Và câu 2
là một câu bông đùa cho vui hơn là thực chất,
nhưng cũng có thể có nhiều hàm ư khác.
Câu 3
dường như nói để có đối thoại,
nhưng kết quả của cuộc đối thoại
đó hầu như sẽ chẳng giải quyết ǵ
cả ngoài một thái độ ḥa hoăn khoan dung, v́ không ai
giải thích cặn kẽ được những vấn
đề đặt ra cho nièm tin của mỗi tôn giáo,
mỗi tín ngưỡng, mỗi con người. V́ thế
“đường anh đi anh cứ đi, và
đường tôi đi, tôi cứ đi”.
Trong câu 4,
chắc chắn về phương diện đào tạo,
phải rất lâu nữa Phật Giáo mới chuẩn
bị được một lớp người
tương lai như trong một chủng viện Công giáo.
Nhưng có thể không bao giờ có một lớp
người như thế trong Phật giáo, v́ mỗi tôn
giáo có những sắc thái môi trường riêng biệt mà
tôn giáo khác không có.
Các chủng
sinh cũng được ra ngoài tham gia những cuộc
tranh luận, như về vấn đề hạn
chế sinh sản ở KS Palace, Đà Lạt, do chính GS
Phó Bá Long tổ chức với tài trợ hoàn toàn của
Mỹ. Nhiều thuyết tŕnh viên khác như các học
giả, các Giám mục, Linh Mục chuyên môn cũng
được mời đến trao đổi với
chủng sinh. Nhà văn Duyên Anh nói về giáo dục tuổi
trẻ, nhà văn Hoàng Xuân Việt nói về thái độ
cởi mở biết lắng nghe những người nói
khác ư ḿnh.
Có những
cuộc thăm viếng đặc biệt đến GHHV
của các nhân vật nổi tiếng như Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967), và Bề Trên Cả
Arrupe Ḍng Tên đến VN và đến GHHV (1968).
Ban Giảng
huấn
Trong Ban
giảng huấn, ngoài những vị giáo sư cơ
hữu, cũng có nhiều GS thỉnh giảng đền
tứ các các cơ sở quốc tế, như Sophia
University, ở Tokyo bên Nhật, Institut Catholique từ Paris,
Pháp ,Fujen Catholic University ở Đài Loan, Gregoriana ở Roma,
Ư Đại Lợi.
Hai GS Trung
Hoa thuộc Ḍng Tên là Linh Mục Joseph Chen Chung Ling và Matthias
Chen Van Dzu khi giảng bài, hay nhắc đến Kiến Trúc
Sư Tô Công Văn, có thể đề cao tinh thần dân
tộc của người Việt Nam.
Thực
tập mục vụ
Ngoài
chương tŕnh học tập chủng sinh cũng
được thực tập mục vụ ngoại khóa
bằng nhưng cuộc thăm viếng thực
địa, thăm bệnh viện, lao xá, hướng
dẫn giáo lư ở các trường trung tiểu học, hướng
dẫn JUC, Hùng Tâm Dũng Chí, Thiếu nhi Thánh Thể, giúp
các nhóm trẻ em bụi đời cao bồi vùng Đà
Lạt.
Nhưng
biến cố 30/4/1975 đă chặn đứng tất
cả mọi dự tính.
[1] Xem biểu đồ 4, ở trên
[2] Tham khảo Chi Nam Sinh Viên NK 1973-74
đd., t.31
[3] Xem số liệu chi tiết về
công tác xây dựng ban đầu của Linh Mục Viện
Trưởng Trần Văn Thiện (1957-1961) ở
Chương Năm về Quá Tŕnh thành Lập Viện
Đại Học Đà Lạt
[4] Trong quá tŕnh viết khảo luận
nghiên cứu này, người viết bất ngờ gặp
được một cựu sinh viên tốt nghiệp khóa
Sư Phạm Triết Đà Lạt năm 1964 (Ông
Nguyễn văn Chi, hiện ở tại Montréal Canada, cùng
học với ông Nguyễn Văn Lục, GS Triết
Học, cũng ở Montréal)
[5] Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm:
Souvenirs. Paris (?), 1999, Lưu hành nội bộ, in vi
tính, 117 trang, font, tt.54-55. Nhưng lá thư từ các cựu
sinh viên trường sư phạm Đà Lạt từ
khắp nơi gửi đến Sư Huynh Pierre, như lá
thư ngày 25/2/1993, 6/4/1993 từ Phú Nhuận của cựu
nữ sinh viên sư phạm Phước (1968-71), thư ngày
22/6/1992 15/12/1993, của Lê Thị Đào từ Nha Trang.
Trong lá thư ngày 15/3/1996, có
lẽ từ Canada, cô viết:
“Con sung sướng cho thầy biết là
con đi lại con đường nhà trường từ
cuối tháng 9 vừa qua. Mỗi tuần con có 36 tiết
học: ở bốn lớp hoa vải, ba lớp may vá, hai
lớp văn học. Và tuần tới một lớp khác
về nghệ thuật kết hoa. thưa Sư huynh,
tất cả v́ yêu nghề và học tṛ. Thầy có biết
ngoài văn chương học được thời
Cử Nhân văn khoa, con đều học hết những
thứ khác do chính con không? Và cái tốt nhất chính là con
đă đi đến chỗ thành công là giảng dậy
mọi chuyện. Một tin mừng chắc sẽ làm
Thầy vui: hội đồng thanh tra tỉnh đă
chỉ định con gái Thầy hiến những bài
học mẫu mực cho tất cả các giáo viên tỉnh!
Thầy xem một con mẹ đi bán hàng rong lại
hiến những bài mẫu cho các thầy cô giáo. Sư Huynh
ơi, thầy hăy hănh diện v́ các học tṛ của
thầy. Họ sẽ mang lạt vinh dự cho Thầy! Con
cầu nguyện Chúa chúc lành cho Thầy và Thầy ǵn
giữ chúng con. Lê Thị Đào.” (Souvenirs, t.86). Vói
lời lẽ như thế, sư huynh Pierre thấy ḿnh có
thể hát “Nunc dimittis” như tiên tri Simêon để
bước vào Cơi Ngh́n Thu ở tuổi 90, khi đă biết
Chúa!
[6] Cậu Kế sinh ra ngày 17/12/1912
tại Phú lương, rửa tội ngày 20/12/1912 tại
Họ Đạo Phú Lương (Lương tràng),
thuộc Xă Định Xá, Huyện B́nh Lục, tỉnh Hà
Nam, thuộc Địa Phận Hà Nội, Đồng Bắng
Bắc Việt, tuy có tài liệu đồng hóa với Phú
Lương ở tỉnh Thái Nguyên, miền Trung Du Đông
Bắc Bắc Việt. Nhưng các sự kiện ngay trong
tài liệu của SH Théophane không chứng minh điều
ấy.
Giai đoạn tu học
1927-1933. Từ 15 tuổi, cậu xin gia nhập ḍng sư
huynh La San, trở nên tu huynh ứng sinh Ḍng La San từ
ngày 3/8/1927. Chỉ năm năm sau, Thầy được
khấn trọn đời ngày 27/7/1937 và trở thành
một sư huynh trẻ tuổi của Ḍng La San. Sau đó
SH theo học Trường Đại Học Văn Khoa
Sàig̣n (1956-58) về văn chương và triết học. Đồng
thời SH tranh thủ học thần học ở
Đại Chủng Viện Xuân Bích (Saint Sulpice) Thị Nghè,
Gia Định
SH được nhà ḍng cho
du học (1958-61). Ở Rôma SH thụ huấn tại
Trường Laterano (58-61) về thần học, sư
phạm giáo lư, tính tỉnh học, linh đạo. Rồi
SH theo học tại Trường Angelicum về nghệ
thuật làm Master of the Novices (1959). Trong hành tŕnh đến
Rôma năm 1958, SH vừa có nhận thức vừa du hành
vừa học hỏi qua các trạm dừng chân Singapore,
Tích Lan, Colombo, Ấn Độ Dương, Djibouti,
Địa Trung Hải, Pháp, Ư. Rồi Anh (1959), Pacific Ocean, Philippin,
Guam, USA (1975) Pháp, Bồ, Tây Ban Nha, Monaco, Ư, Đức, Úc,
Thụy sĩ, Ḥa Lan, Bỉ và Anh (1985).
SH tham gia giảng dậy và
làm việc ở nhiều môi trường khác nhau, như:
Trung học Th. Thomas Nam Định (1933-34), Pellerin (34-38), Th.
Thomas Trung Linh (38-39), Puginier Hà Nội (1939-41), làm nhạc
trưởng, chơi orgue nhà thờ, Taberd Sàig̣n (41-49)
dậy Pháp, Ngôn ngữ, Latinh, Hy Lạp, chơi Orgue, Piano,
Violin), Adran (49-50) dậy Latinh, violin, piano, Lasan Taberd (50-58).
Viện Đại Học
Đà Lạt 62-75: Tập Viện La San Nha Trang (63-67), thông
tín viên Giáo Dục (1963-75), dậy thần học, lịch
sử giáo dục, nhiệm vụ học (62-75) Giám
Đốc Thư Viện VDHDL Phó GĐ Đại Học
Xá (1968),
Đến Hoa Kỳ
1975-2003: Dậy ở St Mary’s College of Northern California, curator
Thư Viện (75-76), Latinh, Ban Cổ điển (76-99),
tiếng Anh, Hy Lạp, Pháp, thông tín viên tập san Liên Lạc
ở San Jose (1976-1984). Dịch một số sách thần bí
về Anna Catharina (4 cuốn), Maria Valtorta (10 cuốn) sang
Tiếng Việt, nghiên cứu học hỏi văn hóa Pháp,
Anh, … cho đến lúc từ trần hồi 10.45am ngày
2/11/2003.X tại nhà ḍng Lasalle, San José, California, Hoa Kỳ,
thọ 91 tuổi. (Ban Điều Hành Hội Ái Hữu
Thụ Nhân Viện Đại Học ĐàLạt Nam
California: Đặc San Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn
Kế. “Frère Kế, Thụ Nhân và một đời
hiến dâng cho giáo dục.” Southern California, USA (12/2003),
183 t., pdf., in font 12. Ban Biên Tập Đặc San: Tiểu
sử Frère Théophane Kế. Đặc San Frère Kế,
Southern California 12/2003, t. 99-101; cũng xem BBT ĐSKD7: “Cố
Frère Théophane Nguyễn Văn Kế. ĐSKD7, tt. 43-49)
[7] Chánh Trị Kinh Doanh.
[8] Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74, đd.,
tt.29-34
[9] Tham Khảo Chỉ Nam Sinh Viên,
1973-74, đd., tt. 74-75
[10] Thế
Tâm: Sđd., t.150.
[11] Thế
Tâm, Sđd., t.149.
[12] Thế
Tâm, Sđd., t.153.
[13] Thế
Tâm, Sđd., t.155. Người
viết không h́nh dung được hết t́nh trạng
khách quan của Viện Đại Học Đà Lạt theo
ư tác giả nói là ǵ? Luộm thuộm, không được
tổ chức, không đoàn kết, không có tương lai v́
nhiều khó khăn, … ?
[14] Thực
tế, ở nhiệm vụ giảng dậy, người
viết đă áp dụng phương pháp hội học,
tham quan thực địa có nhiều kết quả
tốt cho các lớp lịch sử Việt Nam và thế
giới, cùng văn minh Việt Nam
[15] Thế Tâm, Sđd., tt.149, 150, 151.
[16] Thế Tâm, Sđd., t.159.
[17] Thế Tâm, Sđd., tt.157-158.
[18]Ông Phó Bá
Long xuất thân từ các trường: Trung học St.
Francis Xavier (Thượng Hải, Trung quốc);
Trường Bưởi (École de Protectorat), Albert Sarraut và
Đại Học Dược Khoa Hà Nội, Việt Nam.
Tháng 7, 1954, ông trúng tuyển
chương tŕnh học bổng Fulbright. Ông xin theo học
ngành Kinh Doanh tại trường Công Giáo Georgetown ở
Washington, D.C. Nhưng trường này không có ngành ông muốn
theo học và v́ thế được giới thiệu theo
học bậc Cao Học Kinh Doanh hai năm tại
Trường đại học Harvard (Harvard Business School,
Boston).
Năm 1956, ông về
nước làm Quản Trị Ngân Hàng Quốc Gia thời
Việt Nam Cộng Ḥa I ở Miền Nam. Ông đă làm Tổng
Giám Đốc Nhà Máy Gạch Bắc Kỳ và Công Ty Thủy
Tinh, và làm Giám Đốc bản xứ cho hăng dầu Esso
tại Sài G̣n. Năm 1970, ông làm Khoa Trưởng
Trường Chánh Trị Kinh Doanh, Viện Đại
Học Đà Lạt, và thỉnh giảng tại
Trường Đại Học Quốc Pḥng Việt Nam
Cộng Ḥa cho đến 1975
Sang Hoa Kỳ, Giáo Sư
dạy Anh văn tại trường trung học công
lập Montgomery Blair, MD, Marketing tại American University, và
thỉnh giảng môn Đông Nam Á Học trên du thuyền
Đại Học Pittsburg, PA. Ông đă làm Đồng Giám
Đốc Trung Tâm Hướng Dẫn định cư tại
Viện Ngữ Học Thực Hành và đă cộng tác
tại các trại tỵ nạn Pulau Bidong, Palawan, Bataan,
Galang, Sikew, Macao, Hong Kong, và Bắc Hải ở Trung
quốc.
Ông làm thông dịch viên công
chứng của Bộ Ngoại Giao Mỹ, nên đă công tác
tại các Hội nghị quốc tế về quân nhân
mất tích và định cư tỵ nạn tại Hawaii,
Geneva, và Paris.
Từ năm 1983-1989 Giáo
Sư làm Giám Đốc Chương Tŕnh Đào Tạo Kinh
Doanh cho người Việt Nam, dưới bảo trợ
của Georgetown University School for Summer and Continuing Education.
Chương tŕnh này được đem vào giảng
dạy tại các đại học Việt Nam, Lào và
Kampuchea.
Ông Bà sinh được
bốn trai, hai gái và đến nay đă có bốn cháu
nội ngoại. Hiện nay Ông Bà Phó Bá Long đang nghỉ
hưu tại Washington, D.C., Hoa Kỳ.
[19] Theo
Hồi Kư của GS Trần Long, ba nhân vật Long này
đều đến Hoa Kỳ du học vào đầu
thập niên 1950, có hỗn danh thời c̣n làm sinh viên ở
Hoa Kỳ là Mập (Phó Bá Long, 1922, Hà Nội, Quản
Trị Kinh doanh, University of Havard, vợ Đặng Trung
Nghĩa 1960 ở Sàig̣n), Lùn (Trần Long, 1928 Ninh B́nh,
kinh tế thương mại, University of Portland, và Syracuse,
vợ Ánh Nguyệt 1959 học ở Reed College), và Cao
(Ngô Đ́nh Long, 1931, Huế, điện học, University of
Wisconsin, vợ Trâm Anh 1954, học ở Mundelein College,
Chicago). Cả ba có lúc cùng dậy học ở Trường
CTKD Đà Lạt. Cuộc đời tương
đối xuông xẻ, thành công và bề thế trong xă
hội. (Trần Long, Sđd., t.7/7; “Giáo Sư Khoa
Trưởng Trần Long”. Đặc San Khóa 7 CTKD, t. 37-41)
[20] Trần
Long; Hồi Kư đă dẫn. Đặc San Khóa 7 CTKD, t. 9, chú
7: “It was also the first institution of higher learning in Vietnam that
applied the case study method and group research
system”. Thực ra khi người viết c̣n thụ huấn
ở Trường Văn Khoa Sài g̣n từ 1961-1968,
phương pháp điển cứu và nghiên cứu
tập thể đă được áp dụng từ
sớm trong môn Xă Hội Học do GS Phạm
Thị Tự phụ trách, và trong môn Địa Lư Nhân
Văn, do GS Nguyễn B́nh Minh hướng dẫn.
Thực sự lúc đó tất cả đă từ hai
nữ giáo sư này. Nhưng phương pháp mới mẻ
này chưa có ảnh hương rộng lớn.
[21] Trong
hồi kư ông Trần Long ghi thời điểm anh làm
Chủ tịch Hội Sinh viên Công giáo vào các năm 1962-64,
và Phó Bá Long kế tiếp từ 1964 là không chính xác. Đúng
là các thời điểm 1952-54, v́ Phó Bá Long đă tốt
nghiệp xong Cao Học QTKD Harvard từ 1956 và về làm
việc tại Sàig̣n, như GS PBL xác nhận với
người viết qua điện đàm, chứ không
phải năm 1964 như GS Trần Long ghi.
[22] Tài
liệu gia phả của họ Phó có một mức
độ khác biệt nà đó đối với con
đường đi tới của GS Trần Long: “…GS
Trần Long và tôi được biết là cột trụ
của SBG, làm việc với nhau và yểm trợ nhau và
khuyến khích nhau. Tôi có cái thú là đă giới thiệu ông
với vợ ông, Danielle và bà có với ông chín mặt con. Tôi
đă làm ông trở nên một thành phần chính sáng lập
và quản trị Học Viện Anh Ngữ Lam Sơn. Tôi
khuyến khích ông tham gia vào Esso. Ỏ đó ông giữ
chức giám đốc giao tế. Rồi khi ông bị
động viên vào trong quân đội, tôi giới thiệu
ông với cha Lập.” Phó Bá Long: On the Long Way Home, Part I:
Autobiography. Place unknown, July 2, 2000, 66th Commemorative of Phó Bá
Thuận, the author's father, 114 pages, in A2, font 9, p. 104.
[23] Trần
Long: Hồi Kư đă dẫn, t.1/7.
[24] GS Ngô
Đ́nh Long theo học Trường Quốc Học Khải
Định và đậu Tú Tài II năm 1952. Cũng trong
năm này, ông được học bổng của
Quốc Trưởng Bảo Đại, du học Kỹ
Sư Điện tại trường đại học Wisconsin
thuộc Madison, Wisconsin ở Hoa Kỳ. Nơi đây, ông
đă liên tục tốt nghiệp các văn bằng: Bachelor
of Science, Electrical Engineering (1956), Master of Science, Electrical
Engineering năm (1957) đồng thời làm Phụ Tá
Giảng Huấn cho nhiều lớp Kỹ Thuật điện
học (1957-1959). Năm 1959, đáp ứng lời mời
của Nguyên Tử Lực Cuộc Việt Nam, ông hồi
hương cộng tác xây dựng Trung Tâm Nguyên Tử Đà
Lạt.
Năm 1964, ông
được Giáo Sư Trần Long mời cộng tác và
giảng dạy môn "Toán Kinh Thương" cho sinh viên
Chánh Trị Kinh Doanh từ Khóa 1-8. Ngoài ra ông c̣n có dịp
dạy môn Vật Lư Hạch Tâm cho sinh viên Khoa Học và
lớp Nghệ Thuật Phiên Dịch Anh-Việt,
Việt-Anh cho sinh viên Văn Khoa cũng thuộc Viện
Đại Học Đà Lạt. Ông phụ trách liên tục
môn Toán Kinh Thương từ Khóa 1 đến Khóa cuối
cùng gồm các đề tài chi tiết như: tiền lăi,
lăi đơn, lăi kép, các niên khoản, xác suất và ứng
dụng trong các ngành bảo hiểm, v.v. Sau này ông Ngô Đ́nh
Long c̣n kiêm nhiệm một số công việc khác ở
Viện.
[25] Trần
Long sinh ngày 8/6/1928 tại Ninh B́nh Phát Diệm, Bắc
Việt. Từ 1935-46, thụ huấn với các Sư Huynh
và Linh mục trong chủng viện. Sau ba năm diến ra
cuộc chiến tranh Việt Pháp, anh được giáo
phận Phát Diệm cho đi du học Pháp. Sau đó, ở
Pháp được 8 tháng, anh ra đời và sang Mỹ du
học. Trong thời gian 1950-54, sinh viên Trần Long theo
học chương tŕnh Cử Nhân (B.S.) Quản Trị Công
Nghiệp tại University of Portland, Oregon. Tốt nghiệp
tháng 9/1954. Năm 1954-56, ông tiếp tục học lên Cao
Học (M.A.) Kinh tế và Tài Chánh, University of Syacuse, New York.
Sau khi tốt nghiệp
đầu năm 1956, ông về Sàig̣n và ở lại
Miền Nam Việt Nam trong 16 năm. Ông điều hành
tờ Tuần Báo The Times of Viet Nam (1956). Trong thời gian 1957-61,
làm quản đốc Công ty Standard Vacuum Oil, Phân Bộ
Việt Nam-Cambốt. Ông gia nhập quân đội VN
với tính cách sĩ quan trừ bị Ban Huấn luyện
(1961-63), biệt phái làm Khoa Trưởng Trường Chính
Trị Kinh Doanh thuộc Viện Đại Học Đà
Lạ t (1964-1970), Tống Quản Lư Hội Đại
Học Đà Lạt (1970-1975). Di tản ngày 29/4/1975 từ
Sàig̣n sang Hoa Kỳ, với vợ và tám con. Ông làm
giảng viên Kinh tế tại Đại Học Cộng đồng
Portland (1975-76), Kiểm toán viên trưởng tại Far West
Federal Savings and Loan Association (1976-93), Viên chức kiểm toán
Washington Mutual Savings Bank (1993-96). Hồi hưu ngày 8/6/1996.
Hiện cư ngụ tại Portland, Oregon
[26] Trần
Long, Hồi kư đă dẫn trên, t.2/7
[27] Phó Bá Long:
Autobiography “On The Long Way Home”, sđd., t.92
[28] Ban Biên
Tập ĐSKD7: “Tổng quát về Viện,
Trường và Khóa 7 CTKD”. ĐSKD7, t.10, trích từ
Phiếu Điểm Tổng Quát của K7 CTKD, Ban Quản
Trị Tài Chánh Kế Toán. Cũng xem Thái Văn Hùng: “Những
chặng đường gian nan”. ĐSKD7, tt. 76-80.
[29] PBL:
Autobiography, đd., t.104
[30] Con số
này do chính GS Trần Long ghi trong Hồi Kư, đd., t. 3/7 (xem
nguyên văn ở dưới) không phù hợp với
số liệu trong bảng thống kê của Ch́ Nam Sinh Viên
1973-74 đưa ra là 1964-65: 700 người (?!) [t.103],
trong khi ở Bảng Thống Kê tổng hợp toàn
viện ở t. 9 lại ghi là 1075. Cùng năm học
đó, ba trường Sư Phạm, Văn Khoa và Khoa
học theo bảng tổng kê có (51+295+94) = 440 người.
(nguyên văn đoạn hồi kư: “Cuối niên
khóa 67-68 gần 400 sinh viên nhận lănh văn bằng Cử
Nhân. Năm Nhập Môn có 1036 sinh viên”. Thục ra tống
kê chính thức của Trường CTKD theo CNSV 73-74 chỉ
là 295 sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân Kinh Doanh
thuộc năm 1967-68!
[31] Thái
Thị Như Hảo: “Viết về Thầy (GS
Đinh Xáng)”. ĐSKD7, tt. 98-103.
[32] Trần
Long, Hồi Kư đă dẫn trên, t.5-6/7
[33] PBL,
Autobiography, đd., t.105
[34] Tham
Khảo Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đd., t.
[35] Dĩ
nhiên chưa được ghi trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74.
[36] V́ có sai
số trong ba bản thống kê liên quan đến một
đề mục thống kê (các sai số toàn viện
với Trường Văn Khoa và Trường Chánh Trị
Kinh Doanh) mà tôi phát hiện trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, nên các
số liệu về số sinh viên Nhập Môn (450) và
tốt nghiệp (182) của K7 CTKD chính xác đến
mức nào? Thống Kê chính thức trong Chỉ Nam Sinh Viên
1973-74, ghi số sinh viên ghi danh năm Nhâp Môn (tức K7 /CTKD)
năm 1970-71 là 1157 sinh viên (!) chứ không phải là 450
như DSK7 ghi (!)
[37] Ban Biên
Tập ĐSKD7: “Tổng quát về Viện, Trường
và Khóa 7 CTKD”. Đặc San K7/CTKD, t.10.
[38]
Người viết được GS Phó Bá Long cho biết
LM Viện Trưởng Viện Đại Học Đà
Lạt có dự tính tổ chức thi cuối năm
1974-1975 cho toàn thể sinh viên của Viện có mặt
ở Sàig̣n, nếu t́nh h́nh đất nước không thay
đổi vào 30/4/1975.
[39] Thực
sự số liệu này không đúng với Thống Kê chính
thức do trường công bố trong CNSV 73-74 (295)
[40] Trần
Long: Sđd., t.2/7.
[41] Trần
Long, Sđd., t.3/7.
[42] Trần
Long: Sđd., t.3/7. Nếu các số liệu GS Trần Long
đưa ra theo hồi kư là chính xác, th́ đương nhiên
mới có thể phán đoán chính xác về trường
CTKD, dù tương đối. Nếu không những lập
luận dựa trên các số liệu sai lại đưa
người đọc đến nhiều suy nghĩ và
phân tích khác về thành quả của nhà trường
cũng như khả năng của chính Ban Điều Hành
nhà trrường.
[43] Thế
Tâm: Sđd., t.156.
[44] “Sau chính
biến 1963, Viện Đại Học Đà Lạt bị
chính phủ miền Nam cho là gắn liền với chế
độ Ngô Đ́nh Diệm, nên có cái nh́n không mấy quân
b́nh mà có phần ác cảm. Do đó vào những năm 1963,
64, 65, Viện đă gặp rất nhiều trở
ngại. Ví dụ về tài chánh, một số tài sản
làm cơ sở tài chánh của Viện bị phong tỏa,
thậm chí có lúc vấn đề tịch biên
được đặt ra, ban giáo sư bị hạn
chế, nơi ăn ở của sinh viên từ các nơi
khác đến cũng nan giải. Có lúc LM Viện
Trưởng phải chạy đi mượn tiền
để thanh toán tiền lương cho giáo sư và nhân
viên” (Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Sđd, t.156.)
[45] Phó Bá Long:
Trao đổi qua điện thoại với người
viết ngày 1-2/5/2006.2&3.
[46] Trần
Long, Hồi Kư, Tài liệu đă dẫn, t.2/7
[47] “Chúng tôi
phải chế ra những từ mới như “hành xử”
cho behavior có nghĩa đen là thái độ hành động.
Đă có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về
thuật ngữ marketing cho đến khi chúng tôi t́m
đển chữ “tiếp thị”, tức “cung ứng
thị trường”. Năm 1968, tôi hội với Oliver Giscard
d’Estaing (anh em của Tổng Thống Pháp) người cùng
học dưới tôi một hay hai năm ở Harvard. Lúc
đó, ông làm nhà sáng lập/giám đốc Institut Européen
d’Administration d’Entreprises tức là INSEAD. Tôi hỏi ông
đầu tiên là tiếng Pháp ông nói marketing là thế nào?”
Ông cười to tiếng và vỗ vào lưng tôi và nói
“Bồ ạ, chúng tôi cứ gọi là marketing.” PBL:
Autobiogra[hy, đd., t.105.
[48] PBL:
Autobiography, đd., t. 106. Đó là một cử chỉ
ứng xứ thích đáng.
Nhưng tôi tự hỏi là
có bao nhiêu trường hợp có thể đă xày ra, tinh vi
hay lộ liễu, ở trong Trường ông hay
trường khác trong Viện mà ông không ai biết? Dĩ
nhiên những chuyện ḿnh không biết th́ minh không chịu
trách nhiệm. Thực tế có thể đă có nhiều
việc xảy ra làm cho con người áy náy, mà không ai
biết ngoài lương tâm những người có liên quan,
và Trời?
[49] PBL,
Autobiography, đa d., t. 106
[50] Thế Tâm: Sđd.t.157-158. Xin xem thêm
tiết
[51]
Người viết có tham khảo Tiểu sử của
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ trên website do một con
trai ông xây dựng. Trong các công tŕnh đáng kể của ông
không có Đồ án kiến trục Giáo Hoàng Học Viện
Piô X Đà Lạt trong thời gian này. (SELECTED WORKS : 1955-1958
Planning Project: The Conurbation of Saigon and Cholon; 1961-1966 Presidential
Palace (or Independent Palace, now renamed Unification Palace), Saigon;
1961-1963 University of Education, Hue; 1962-1965 Atomic Institute, Dalat;
1962- National University Campus, Thu Duc; 1962 Huong Giang 1 Hotel, Hue; 1962
Central Market of Dalat). Website NGO VIET THU (1926-2000) Architect
D.P.L.G, Planner, 1er Grand Prix de Rome, Honorary Fellow of the American
Institute of Architects, by Dr. Ngo-Viet Nam-Son at vnsngo@u.washington.edu
or NamSonNgoViet@gmail.com
. Ngày 13/5/2006.7.
Trao đổi với
Tiến Sĩ Ngô Viết Nam Sơn trên email, thi ông trả
lời “The author of that project is architect To Cong Van. That's
all I know. He would have passed away already.”.
Nhưng v́ tài liệu chính
thức của Niên Giám Công Giáo Việt Nam 2004 có nói
đến kiến trúc do người Đức, nên có
thể có sự công tác với KTS Tô Công Văn đến một
mức nào đó đế tránh khó khăn về pháp lư
nếu người ngoại quốc đứng tên chính
thức. Trong các tu sĩ Ḍng Tên người nước
ngoài, th́ có nhiều tu sĩ Ḍng Tên Đức có thể
từng là Kiến Trúc Sư (?) và đủ khả năng
để thiết kế và thực hiện dự án
kiến trúc phúc tạp nhưng rất tiện nghi cho
một đại chúng viện!.
Chương
Tŕnh Thần Học
Theo
một tài liệu do Tạ Duy Phong xử dụng, th́ Phân
Khoa Thần Học được chính thức thành lập
năm 1965. Thực tế giáo tŕnh thần học đă
bắt đầu có từ niên khóa 1963-64, nhưng xử
dụng cho nội bộ của Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X, như một chủng viện giáo hoàng do các Linh
Mục Ḍng Tên quản nhiệm.
Cho
đến trước 30/4/1975 Trưởng đă thu
nhận hơn ba trăm (300) sinh viên chủng sinh thần
học theo những học chế khác nhau. Đă có 246
Chủng Tu Sinh thuộc nhiều giáo phận và ḍng tu
địa phương. Có 112 chủng sinh giáo phận và 63
tu sinh ḍng được thu phong Linh Mục. Một số
chủng sinh từ các giáo phận nước ngoài như
Lào và Kampuchia
Ban
Giảng Huấn gồm hơn ba mươi giáo sư
thuộc khoảng 10 quốc tịch khác nhau. Giáo tŕnh
thần học này nhằm mục đích chính yếu là
đào tạo các chủng tu sinh. Tuy theo nguyên tắc giáo dân
có thể tham gia, nhưng chưa có trong thực tế, v́
việc quan hệ giữa Học Viện Giáo Hoàng Piô X
Đà Lạt và Viện Đại Học Đà Lạt có
nhiều phức tạp chưa giải quyết xong v́ t́nh
h́nh xă hội. Hơn nữa điều kiện để
giáo dân tham gia có nhiều yếu tố cần cân nhắc,
kể cả chủ quan và khách quan.
I. Bậc Cao Đẳng: Hai Năm |
||||
Năm
Thứ Nhất: 510 giờ |
Những
Yếu Tố Siêu H́nh Học |
060g |
Nhân
Loại Học |
060g |
Vấn
Đề Thượng Đế |
120g |
Hành Vi
Nhân Cách |
075g |
|
|
Tư
Tưởng Hiện Đại |
090g |
Những
Tôn Giáo Việt Nam |
030g |
|
Sinh
Ngữ |
075g |
|
|
|
|
|||
Năm
Thứ Hai: 510
giờ |
Thần Học Căn Bản |
|||
Nhập Môn |
15g |
Mạc Khải Thần Khởi |
60g |
|
|
Đức Tin |
30g |
Lưu Truyền Mạc Khải |
30g |
|
Giáo
Hội |
60g |
|
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
Thánh Kinh
Nhập Môn |
70g |
Sử Tính
Phúc Âm |
20g |
|
Luân Lư |
|||
|
Nền
Luân Lư Siêu Nhiên |
45g |
Tội
Lỗi-Nhân Đức & Tôn Giáo
|
60g |
|
Môn Phụ |
|||
|
Giáo
Phụ Học |
30g |
Giá
Trị Tôn Giáo của Khổng Giáo |
15g |
|
Sinh
Ngữ |
75g |
|
II. Bậc Cử Nhân:
Bốn Năm |
||||
Năm
Thứ Ba: 480 giờ |
Thần Học Tín Lư |
|||
Mầu
Nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi
|
45g |
Thiên Chúa
Tạo Hóa |
30g |
|
|
Nhân
Đức Siêu Nhiên 1: Con Người Tội Lỗi |
30g |
N.Đ.S.N
2: Con Người Được Cứu Chuộc |
60g |
|
Các
Dấu Chỉ Ân Sủng (Bí Tích Đại Cương) |
30g |
|
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
Cựu
Ước Nhập Môn Chú Giải 1: Các Sử Kinh |
45g |
Tân
Ước N.M.C.G.1: Phúc Âm Nhất Lăm |
60g |
|
Thần Học Luân Lư |
|||
|
Kính
Trọng Chân Lư & Sự Sống |
20g |
Công B́nh |
45g |
|
Những
Vấn Đề Hôn Phối & Tính Dục |
40g |
|
|
|
Môn Phụ |
|||
|
Lịch
Sử Giáo Hội Sơ Khai & Trung Cổ |
45g |
Giáo
Luật Tổng Quát |
30g |
|
||||
Năm
Thứ Tư: 490 giờ |
Thần Học Tín Lư |
|||
KiTô
Học |
50g |
Thánh
Mẫu Học |
20g |
|
Các Bí Tích
|
115g |
Cánh Chung
Học |
25g |
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
(Sách Khôn
Ngoan & Thánh Kinh Cựu ước Chú Giải III & IV,
Tân Ước Chú Giải II & IV) |
45g |
(Thánh
Phaolô, Văn Kiện Khác) |
60g |
|
Thần Học Luân Lư |
|||
|
Các Bí Tích
|
80g |
Luân Lư
Nghề Nghiệp |
20g |
|
Môn Phụ |
|||
|
Lịch
Sử Giáo Hội: Từ Trung Cổ đến Hiện
Đại |
45g |
Thần
Học Phụng Vụ |
30g |
Bậc Cao Học: Sáu Năm |
||||
Năm
Thứ Năm: 300 giờ |
Thánh Kinh: Phần Bắt
Buộc |
|||
Cựu
Ước Chú Giải II: Các Sách Tiên Tri |
30g |
Những
Chủ Đề Đặc Biệt Trong Cựu
Ước |
30g |
|
Tân Ước Chú Giải III: Thánh Gioan |
30g |
Những Chủ Đề Đặc Biệt Trong
Tân Ước |
30g |
|
|
Đại Kết:
Nhiệm Ư. Chọn 1 trong 3 Tín Chỉ sau |
|||
|
Lịch
Sử Phong Trào Hiệp Nhất |
15g |
Các
Vấn Đề Thần Học Chính Yếu |
15g |
|
Những
Quan Niệm Khác Nhau Về Giáo Hội |
15g |
|
|
|
Thần Học Mục
Vụ: Chọn 4 trong những Tín Chỉ sau |
|||
|
Mục
Vụ Tổng Quát |
15g |
Giáo Lư
Sư Phạm |
15g |
|
Những
Phương Tiện Truyền Thông Xă Hội |
15g |
Vaticano
II: Giáo Hội & Các v/đ Giáo Dục |
15g |
|
Vaticano
II: Chân Dung Người Linh Mục |
15g |
Giáo Dân
Trong Việc Mục Vụ Của Giáo Hội |
15g |
|
Thần
Học Về Đời Sống Tu Hành |
15g |
Mục
Vụ Về Ơn Thiên Triệu |
15g |
|
Vaticano
II: Mục Vụ Truyền Giáo |
15g |
Tâm Lư
Trong Việc Linh Hướng
|
15g |
|
Các
Chủ Đề Thần Học Khác : Nhiệm Ư. Chọn 3 trong
những Tín Chỉ sau |
|||
|
GiáoLuật:
Các VấnĐề ĐặcBiệt |
30g |
Giáo
Sử Việt Nam |
15g |
|
GiáoPhụ
Học: ChủĐề DắcBiệt |
30g |
Lịch
Sử & Ư Nghĩa của Lễ Misa |
15g |
|
Lịch
Sử Các Nghi Thức Bí Tích |
15g |
Vaticano
II: Cải Cách Phụng Vụ
|
15g |
|
Những Tôn Giáo Ngoài Kitôgiáo : |
|||
|
Thần
Học Các Tôn Giáo Ngoài Kitôgiáo
|
15g |
Suy Tư
Thần Học Về Phật Giáo |
15g |
|
Lăo Giáo Và
Kitôgiáo |
15g |
Ấn
Độ Giáo (Suy Tư Thần Học) |
15g |
Chú Thích: Ban Cao
học gồm Ba Ngành Chuyên Biệt: Thần Học Có Hệ Thống; Thần Học
Luân Lư và Mục Vụ; Thần Học Kinh Thánh: Khi
chọn Ngành nào th́ Môn Học thuộc Ngành đó là Bắt
Buộc, các Ngành khác là Nhiệm Ư. Muốn tốt
nghiệp bậc Cao Học (6 năm), sinh viên phải
đậu ít nhất 16 Tín Chỉ. Trong đó, 12 Tín
Chỉ thuộc Ngành đă ghi tên và 4 Tín Chỉ khác
Nhiệm Ư. |
Năm
Thứ Sáu: 320 giờ |
A. Ngành
Thần Học Có Hệ Thống |
|||
Rửa
Tội Trẻ Em: Các v/đ Lịch sử, Mục
Vụ |
|
Lịch
Tŕnh Cấu Tạo Tín Điều Tam Vị |
|
|
|
Nguyên
Tội Trong Truyền Thống Của Giáo Hội |
|
Thần
Học Giải Phóng |
|
|
Thần
Học & Ngôn Ngữ: Ư Nghĩa Ngôn Ngữ và Tôn Giáo |
|
Thần
Học Sự Chết |
|
|
Lịch
Sử Cuộc Khủng Hoảng Duy Tân |
|
Vấn
Đề Mặc Khải Trong Thời Đại Hôm Nay |
|
|
Thần
Học Tin Lành Ở Thế Kỷ XX |
|
Các
Thần Học Gia Trong Phái “Thiên Chúa Đă Chết” |
|
|
Thần
Học Hy Vọng |
|
Giàm
Mục Đoàn; Lịch Sử & Thần Học |
|
|
B. Ngành Thần Học Luân Lư
& Mục Vụ |
|||
|
Trách
Nhiệm Làm Cha Mẹ |
|
Phá Thai |
|
|
Luân Lư
Theo Hoàn Cảnh |
|
Các
Mạng Tính Dục |
|
|
Chính
Trị & Đời Sống Kitôgiáo |
|
Đời
Sống Dân Sự & Luân Lư Kitôgiáo |
|
|
Giáo Hội & Thế Gian |
|
Những “Nhóm Nhỏ” Trong Giáo Hội |
|
|
Mục
Vụ Về Tĩnh Tâm |
|
Thần
Học Về Đời Sống Thiêng Liêng |
|
|
Biện
Biệt Các Tinh Thần |
|
Các
Tổ Chức Tông Đồ Trong Giáo Hội |
|
|
C. Ngành
Thần Học Kinh Thánh |
|||
|
Các
Vấn Đề Chú Giải Biến Cố Phục
Sinh |
|
Luật
Theo Thánh Phaolô |
|
|
Chủ
Đề “Ánh Sáng” Trong Thánh Gioan |
|
Các
Dụ Ngôn Về Nước Trời |
|
|
Diễn
Văn Về Tin Mừng |
|
Giao
Ước Ở Sinai |
|
|
Chá
Giải Về Một Thánh Vịnh Đặc Biệt |
|
Sáng
Thế Kư 1-3: Chú Giải Về Thần Học |
|
|
Giáo
Hội Theo Col – Eph – Phi |
|
Những
Vấn Đề và Các “Thư Mục Vụ |
|
|
Thư
Thứ Nhất Của Thánh Gioan: Chú Giải & Thần
Học |
|
|
|
Oakland, CA, Đỗ Hữu Nghiêm ghi lưu ngày
4/7/20074 trên www.dunglac.net
và www.erct.com
và http://ghhv.quetroi.net/GHHV.html