GIẢI ĐÁP SỐNG ĐẠO

 

Linh Mục Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, Pastor
St. Gregory The Great Church (Houston, Texas, Mỹ)
Linh Hướng Phong trào Cursillo Việt Nam /GP Galveston-Houston

một chuyên viên giải đáp các thắc mắc về giáo lư

 

Trích trang Dân Chúa,  http://go2-uk2.appspot.com/_?L29hZC1nbm9zL2V2aWhjcmEvdGVuLmFzdWF1aGNuYWQvLzpwdHRo

 

  1. Cầu nguyện là ǵ và phải cầu nguyện thế nào cho đáng được Chúa nghe Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  2. Đức Mẹ Có Được Cứu Chuộc Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  3. Kinh Thánh Nói Ǵ Về Ư Muốn Tự Do Của Con Người Và Sự Thưởng Phạt Của Thiên Chúa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  4. Bí Tích Tháng Thể Là Ǵ Và Quan Trọng Ra Sao? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  5. Liên Hệ Mật Thiết Giữa Đức Tin Và Chu Toàn Mọi Giới Răn Của Chúa Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  6. Thiên Chúa Có Cần Con Người Làm Việc Lành Để Được Cứu Rỗi Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  7. Tân Phúc Âm Hóa nghĩa là ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  8. Nói Thêm Về Vấn Đề Rước Ḿnh Thánh Chúa Bằng Tay Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  9. Là Người Tín Hữu, Chúng Ta Có Trách Nhiệm Ǵ Về Phần Rỗi Của Người Khác? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  10. Kinh Thánh Nói Ǵ Về Sự Có Mặt Của Ma Quỉ Cám Dỗ Con Người? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  11. Có Được Phép Buôn Bán Thuốc Ngừa Thai, Và Trốn Thuế Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  12. Ai Được Mời Gọi Trở Nên Thánh Thiện? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  13. Tại Sao Có Sự Dữ, Sự Khốn Khó Trong Trần Gian Này? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  14. Người Công Giáo Có Được Phép Buôn Bán Súng Đạn Và Ma Túy Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  15. Làm Sao Để Được Cứu Rỗi? (2) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  16. Phải Chăng Giuđa Không Được Cứu Rỗi? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  17. Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật Phục Sinh 2013 Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  18. Chúng ta mong đợi những ǵ nơi Đức Thánh Cha Phanxicô? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  19. Thể Thức Mật Nghị (Conclave) Bắt Đầu Áp Dụng Từ Bao Giờ Trong Giáo Hội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  20. Truyền Thống Kế Vị Tông Đồ Là Ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  21. Hồng y là ai và có chức năng ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  22. Xin bỏ ngoài tai những tin đồn vô căn cứ của các Tiên Tri Giả Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  23. Đôi Ḍng Cảm Nghĩ Về Việc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Từ Chức Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  24. Thế Nào Là Phạm Tội Trong Tư Tưởng? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  25. Cầu Nguyện Là Gi Và Phải Cầu Nguyện Thế Nào Cho Đẹp Ḷng Chúa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  26. Năm Đức Tin: Ư Nghĩa Và Tầm Quan Trọng Của Bí Tích Thánh Thể Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  27. Giáo hội có sai lầm trong việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các vị lănh đạo trong giáo hội hay không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  28. Năm Đức Tin: Tầm Quan Trọng Của Bí Tích Ḥa Giải Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  29. Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  30. Năm Đức Tin: Học Hỏi Tài Liệu Của Công Đồng Vaticanô II (tiếp) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  31. Năm Đức Tin: Học Hỏi Tài Liệu Của Công Đồng Vaticanô II Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  32. Có phải hễ được lănh ơn toàn xá là được lên thiên đàng ngay? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  33. Sự Thưởng Phạt Đời Đời Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  34. Năm Đức Tin : Thế Nào Là Người Thực Sự Có Đức Tin? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  35. Năm Đức Tin : Ư Nghĩa và Giá Trị Của Sự Đau Khổ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  36. Năm Đức Tin: Thực Trạng Tội Lỗi Cần Lưu Ư Và Tránh Để Sống Đức Tin Vững Vàng Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  37. Năm Đức Tin: Trách Nhiệm Ngôn Sứ Của Người Tông Đồ Và Của Người Tín Hữu Giáo Dân Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  38. Năm Đức Tin: Cần Thiết Nghe Lời Chúa Và Lănh Các Bí Tích Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  39. Nhân Năm Đức Tin, Cần Nuôi Dưỡng Và Sống Đức Tin Thế Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  40. Điều Răn Thứ Hai: Kính Thánh Danh Chúa Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  41. Phụng Vụ Là Ǵ? Tại Sao Cần Phụng Vụ Trong Giáo Hội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  42. Đức Tin Là Ǵ và Phải Sống Đức Tin Thế Nào Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  43. Nguời Tín Hữu Chúa Kitô Phải Có Những Nhân Đức Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  44. Thánh Truyền Là Ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  45. Phải Hiểu Thế Nào Về Sự Thưởng Phạt Của Thiên Chúa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  46. Có Phải Không Có Tiền Nộp Cho Giáo Xứ Th́ Không Được Lănh Bí Tích? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  47. Linh Mục Cầu Nguyện Và Hát Tiếng Lạ Khi Dâng Lễ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  48. Có Thánh Lễ Nào Gọi Là “Lễ Đặc Biệt” Trong Phụng Vụ Của Giáo Hội Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  49. Vợ Chồng Có Được Phép Xưng Tội Chung Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  50. Mạc Khải Là Ǵ? Thiên Chúa Mạc Khải Ngài Cách Nào Cho Con Người? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  51. Chúa Kitô Hiện Diện Trong Trần Thế Dưới Những H́nh Thức Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  52. Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân khác và giống nhau thế nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  53. Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  54. Những Thách Đố Và Hiểm Nguy Cho Đức Tin Có Chúa Ngày Nay Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  55. Tội Phạm Đến Chúa Thánh Thần Là Tội Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  56. Một Vài Thắc Mắc Về Bí Tích Thánh Thể Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  57. Sự Khác Biệt Giữa Bí Tích, Á Bí Tích và Ân Xá Lm Phanxixô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  58. Sự Khác Biệt Giữa Những Người Cùng Mang Danh Kitô Hữu Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  59. Công Nghiệp Cứu Chuộc Của Chúa Kitô Đă Đủ Cho Ta Được Cứu Rỗi Chưa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  60. Phải Chăng Giuđa Không Được Cứu Rỗi? (1) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  61. Rước Lễ Bằng Tay Có Bất Kính Đối Với Chúa Kitô Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  62. Mừng Chúa Phục Sinh Cánh Nào Cho Xứng Hợp? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  63. Chúa Giêsu Có Thực Sự Chết Như Giáo Hội Dạy Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  64. Tại Sao Các Bí Tích Là Những Phương Tiện Hữu Hiệu Cần Thiết Để Lănh Ơn Cứu Chuộc Của Chúa Kitô? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  65. Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy Và Người Trộm Lành Dạy Cho Chúng Ta Những Bài Học Ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  66. Tại Sao Có Sự Dữ, Sự Đau Khổ Trong Trần Gian Này? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  67. Hồng Y Là Ai Và Có Chức Năng Ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  68. Đức Mẹ Và Các Thánh Ban Ơn Hay Cầu Bầu Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  69. Những Tội Phạm Điều Răn Thứ Nhất Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  70. Nói Thêm Về Tội Phạm Điều Răn Thứ Bảy Và Thứ Mười Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  71. Trách Nhiệm Của Người Ngôn Sứ Trong Hoàn Cảnh Thế Giới Ngày Nay Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  72. Hàng Giáo Phẩm là ai và có trách nhiệm ǵ trong Giáo Hội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  73. Nói Thêm Về Tội Phạm Điều Răn Thứ Sáu Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  74. Giáo Hội Nào Là Giáo Hội Thật Của Chúa Kitô? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  75. Người Công Giáo Phải Tôn Trọng Sự Thật Như Thế Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  76. Nói thêm về vấn đề Tội Tổ Tông Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  77. Nói Thêm Về Vấn Đề Linh Mục Đồng Tế và Bổng Lễ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  78. Nói Thêm Vấn Đề Cứu Rỗi Cho Những Ai Biết Và Không Biết Chúa Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  79. Tại Sao Phải Thực Hành Đức Bác Ái Kitô Giáo? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  80. Có Nơi Gọi Là Hỏa Ngục Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  81. Người Công Giáo Có Nên Hỏa Thiêu Xác Của Thân Nhân Đă Qua Đời Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  82. Có Được Cúng Vái, Dâng Đồ Ăn Đồ Uống Cho Người Chết Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  83. Nói thêm về vấn đề Canh Tân Đặc Sủng với “Ơn Té Ngă và Nói Tiếng Lạ” Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  84. Có Cần Thiết Phải Thực Hành Đức Tin Trong Giáo Hội Để Được Cứu Rỗi Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  85. Tại Sao Phải Tránh Gương Xấu, Dịp Tội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  86. Các Thánh, Các Thiên Thần và Loài Người Giống và Khác Khau Như Thế Nào Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  87. Ai Có Trách Nhiệm Lo Phần Rỗi Của Người Khác? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  88. Ai Được Mời Gọi Phải Sống Khó Nghèo? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  89. Các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương là Ai và Ở Đâu? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  90. Ai Được Mời Gọi Phải Nên Thánh? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  91. Những Khác Biệt Căn Bản Giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo Và Tin Lành Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  92. Các Giáo Phái Tin Lành Có Bí Tích Thánh Thể Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  93. Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô Trong Hoàn Cảnh Thế Giới Ngày Nay? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  94. Có Thai Trước Khi Làm Lễ Cưới Th́ Cha Mẹ Phải Xin Lỗi Cộng Đoàn Giáo Xứ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  95. Phải xưng tội cách nào cho được xứng đáng lănh nhận ơn tha thứ của Chúa qua Bí Tích Ḥa Giải? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  96. Tại Sao Cần Phải Xưng Tội Với Linh Mục? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  97. Linh Mục Cầu Nguyện Và Hát Tiếng Lạ Khi Dâng Lễ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  98. Tại Sao Không Được Phép Cử Hành Hôn Nhân Đồng Tính? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  99. Có được cử hành lễ nghi an táng cho người tân ṭng và trẻ em chết trước khi được rửa tội không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  100. Có được cầu nguyện và an táng trong nghĩa trang của xứ đạo những ai đă chết v́ tự tử không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  101. Các Giáo Phụ Và Tiến Sĩ Hội Thánh Là Những Ai? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  102. Phải hiểu thế nào về những tai họa như băo lụt, động đất sóng thần (tsunami) gây đau khổ cho con người? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  103. Phải hiểu thế nào cho đúng về vấn đề Tin và Ơn Cứu Độ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  104. Đấm Đá (Boxing) Có Tội Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  105. Tội: Thực Thể Và Hậu Quả Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  106. Phép Rửa và công nghiệp của Chúa Kitô đă đủ cho ta được cứu rỗi chưa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  107. Có được phép Xức Tro ngày Chúa Nhật và cử hành nghi thức Rửa Chân trước Tuân Thánh hay không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  108. Luân Lư Y Học: Vấn Đề Trợ Sinh Cho Bệnh Nhân Nguy Tử Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  109. Chúa có lên án người giầu không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  110. ''Người Trộm Lành, Giuđa Phản Bội và Phêrô Chối Thầy'' dạy cho con người những bài học ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  111. Kinh Thánh Nói Ǵ Về Tự Do Của Con Người? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  112. Được Phép Xưng Tội Qua Mọi Phương Tiện Internet Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  113. Thế Nào Là Lỗi Đức Bác Ái Kitô Giáo? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  114. Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  115. Giải Tội và Tha Tội Tập Thể Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  116. Quyền Giáo Huấn Của Giáo Hội Là Quyền Ǵ Và Xuát Phát Từ Đâu? Lm PhanxicôXaviê Ngô Tôn Huấn
  117. Giáo dân có thể giúp ích hay 'làm hư' các linh mục cách nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  118. Người Do Thái Tin và nh́n nhận Thiên Chúa nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  119. Làm Sao Để Được Lớn Lên Trong Đức Tin? Lm Phanxicô Xavie Ngô Tôn Huấn
  120. Linh Mục Có Được Phép Chứng Hôn Ở Tư Gia Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  121. Nguy Cơ Của Tiền Bạc Đối Với Nhiều Giáo Sĩ, Tu Sĩ Ngày Nay Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  122. Hồng Y là ai và có chức năng ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  123. Linh Mục, Đức Kitô Thứ Hai (Alter Christus), phải là người như thế nào? Lm Phanxiô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  124. Tái Sinh Qua Phép Rửa có nghĩa là ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  125. Tại sao có Sự Dữ, Sự Đau Khổ trong thế gian này? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  126. Giáo Hội, cụ thể là Giáo Sĩ, Tu Sĩ, có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  127. Có được phép trưng và tôn kính các ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  128. Phải tôn trọng giáo lư, giáo luật, phụng vụ và kỷ luật bí tích như thế nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  129. Giáo Hội Cần Thiết Ra Sao Cho Những Ai Muốn Được Cứu Độ? Lm Phaxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  130. Không cần xưng tội vi Chúa đă tha hết? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  131. Đức Chúa Cha là Thiên Tính của Người Kitô Hữu? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  132. Về Việc Đức Thánh Cha Sắp Cử Đại Diện Không Thường Trú Ở Việt Nam Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  133. Mọi Bổ Nhiệm Các Vị Lănh Đạo Trong Giáo Hội Đều Theo Ư Chúa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  134. Kinh thánh nói ǵ về ḷng nhân từ, tha thứ của Thiên Chúa cho con người? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  135. Làm Sao Để Được Cứu Rỗi? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  136. Trách Nhiệm Về Phần Rỗi Của Người Khác Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  137. Một thoáng suy tư về sự kiện Tổng Giáo Phận Hà Nội vừa có thêm Tổng Giám Mục Phó Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  138. Một thoáng suy tư về về vấn nạn ‘Xách Nhiễu T́nh Dục Trẻ Em' của một số linh mục ở Mỹ à một vài nơi trên thế giới Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  139. Điều Kiện Để Bí Tích Thành Sự (Canonical Validity) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  140. Ư nghĩa sự đau khổ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  141. Cứu Cánh Tốt Có Biện Minh Cho Phương Tiện Xấu Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  142. Phải Thực Hành Đức Tin Như Thế Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  143. Tại sao Giáo Hội của Chúa Kitô là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  144. Năm Thánh Với Ơn Toàn Xá Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  145. Tại sao giáo hội Công Giáo không cho nữ giới làm Linh Mục? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  146. Người Tân Ṭng (catechumen) có cần phải xưng tội trước khi được rửa tội hay không? Lm Phanxicô Xavie Ngô Tôn Huấn
  147. Tại Sao Không Thưa 'Amen' Khi Ban và Lănh Bí Tích Rửa Tội? Lm Phanxicô Xavie Ngô Tôn Huấn
  148. Tội Mại Thánh (Simonia, Simony) là Tội ǵ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  149. Việc xưng tội cần thiết ra sao trong đời sống Kitô hữu? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  150. Tại Sao Cần Phải Xưng Tội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  151. Tại Sao Cần Phải Xưng Tội Với Một Linh Mục? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  152. Cần Phân Biệt Khi Sử Dụng Một Số Danh Xưng Trong Các Cộng Đoàn, Giáo Xứ Việt Nam Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  153. Phải Cầu Nguyện Thế Nào Cho Đẹp Ḷng Chúa Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  154. Lănh Ơn Toàn Xá Là Được Lên Thiên Đàng Ngay? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  155. Tại Sao Chúa Giêsu Cấm Các Môn Đệ và Cả Ma Quỉ Không Được Tiết Lộ Ngài Là Đấng Kitô? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  156. Chúa Giêsu Có Thực Sự Chết Như Giáo Hội Dạy Hay Không ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  157. Tại Sao Phải Yêu Mến Chúa Và Tuân Giữ Luật Ngài? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  158. Có Nhiều Cha Dâng Lễ Th́ Linh Hồn Được Mau Cứu Rỗi? Lm Phanxicô Xavie Ngô Tôn Huấn
  159. Có Được Cúng Vái, Dâng Đồ Ăn Đồ Uống Cho Người Chết Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  160. Một vài suy tư nhân vụ “Mầu Cờ Sắc Áo” Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  161. Có linh hồn nào “mồ côi” và “khốn nạn” không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  162. Các Thánh, Các Thiên Thần và Loài Người giống và khác khau như thế nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  163. Một Việc Mê Tín Dị Đoan Phải Tránh Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  164. Thầy Cả hay Thầy Cúng, Thầy Pháp, Thầy Bùa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  165. Kiến thức Công Giáo: Ư Lễ và Bổng Lễ Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
  166. Nói thêm về Phong Trào Thánh Linh và hiện tượng chữa lành té ngă Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  167. Nói Thêm Về Vấn Đề Rước Lễ Bằng Tay Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  168. Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi (1) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  169. Rước Lễ Bằng Tay Hay Trên Lưỡi? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  170. Ngoài Giáo Hội, Có Ơn Cứu Độ Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  171. Giáo Sĩ, Tu Sĩ Và Giáo Dân Khác Và Giống Nhau Ra Sao? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  172. Một Việc Sùng Kính Đức Mẹ Guadalupe Cách Sai Trái Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  173. Linh Mục Cần Thiết Ra Sao Trong Giáo Hội? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  174. Làm sao để chắc chắn được Ơn Cứu Độ? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  175. Có Buộc Rước Lễ Khi Tham Dự Thánh Lễ Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  176. Một Thoáng Suy Tư về Thiên Chức và Sứ Vụ Linh Mục Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  177. Chúa Giêsu Dùng Bạo Lực Để Truyền Đạo? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  178. Người Do Thái tin và nh́n nhận Chúa nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  179. Nói thêm về vấn đề Linh Mục Đồng Tế và Bổng Lễ Lm Phanxicô xaviê Ngô Tôn Huấn
  180. Vấn đề Linh Mục Đồng Tế trong Lễ Tang và Lễ Cưới Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  181. Vấn đề Hiệp Thông giữa Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  182. Suy Niệm Mùa Chay Năm 2008 Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  183. Điều Răn Thứ Chín và Mười Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  184. Phải tôn trọng Sự Thật như thế nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  185. Tội Phạm Điều Răn Thứ Sáu Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  186. Một vài sai trái về Phép Công Bằng và Gương Xấu Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  187. Có Buộc Dự Lễ Ngày Chúa Nhật Và Kiêng Viêc Xác Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  188. Mừng Chúa Giáng Sinh Năm 2007 Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  189. Có Nghi Thức Nào Gọi Là `Trao “Tác Vụ Phó Tế Và Linh Mục” Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  190. Tại Sao Phải Sạch Tội Mới Được Rước Ḿnh Máu Chúa? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  191. Sự khác biệt giữa Bí Tích, Á Bí Tích và Ân Xá (1) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  192. Phép Lành Và Ân Xá Khác Nhau Thế Nào? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  193. Có Hoả Ngục Hay Không? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  194. Tại Sao Không Được Phép Cử Hành Hôn Nhân Đồng Tính? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  195. Một Vài Vấn Đề Liên Can Đến Hôn Nhân Theo Giáo Luật Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  196. Thế Nào Là Gương Xấu Phải Tránh? Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  197. Chúa Có Lên Án Người Giầu Không? (1) Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  198. Vấn Đề Trợ Sinh Cho Bệnh Nhân Nguy Tử Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  199. Tội Phạm Điều Răn Thứ Bẩy Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
  200. Giải Và Tha Tội Tập Thể Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

 

 

Là Người Có Niềm Tin Chúa, Chúng Ta Phải Nghĩ Thế Nào Về Những Kẻ Đang Làm Sự Dữ Và Về Những Thiên Tai

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Là người có niềm tin Chúa, chúng ta phải nghĩ thế nào về những kẻ đang làm sự dữ và về những thiên tai như băo lụt, động đất, khiến cho bao người phải chết, nhà cửa, tài sản tiêu tàn?

Hỏi: Nhân trận băo lụt khủng khiếp vừa xẩy ra ở Phi Luật Tân khiến cho hàng chục ngàn người bị giết, hàng triệu người mất nhà cửa, tài sản, xin cha giải thích v́ sao có sự khốn khó như vậy cho con người

Trả lời: Tôi đă có dịp giải thích sự dữ, sự ác, sự đau khổ, nói chung, là một bí nhiệm (mystery) mà không ai có thể giải thích thỏa đáng lư do được. Những sự dữ đó vẫn thường xảy ra cho con người ở khắp mọi nơi và mọi thời đại, và người ta không có cách nào để ngăn ngừa, và tránh thiệt hại về nhân mạng và tài sản mỗi khi có thiên tai như băo lụt, động đất... xảy ra.

Thánh Augustinô (454-430) cũng đă suy nghĩ nhiều về sự kiện này, nhưng cuối cùng ngài cũng phải thú nhân như sau: "Tôi cố t́m xem do đâu mà có sự ác. Và tôi đă không t́m được câu giải đáp." (Confessions 7: 7,11)

Thánh Phaolô cũng nh́n nhận như sau: "Thật vây, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành." (2 Tx 2: 7)

Đúng thế, sự dữ, sự ác, nghèo đói, bệnh tật và thiên tai như băo lụt, động đất, sóng thần (Tsunami) vẫn tiếp tục gây đau khổ cho con người ở khắp mọi nơi. Một thực tế trái ngược và khó hiểu nữa là những kẻ gian ác, giết người, cờ bạc, sống vô luân, vô đạo vẫn cứ nhởn nhơ sung túc, trong khi biết bao người lành, người lương thiện lại gặp những đau khổ, như nghèo đói, bệnh tật, tai nạn xe cộ, thiên tai v.v. Cụ thể tháng 8 năm 2008, một xe buưt chở mấy chục người Công giáo ở Houston, Texas đi dự Đại Hội Thánh Mẫu ở Ḍng Đồng Công (Carthage, Misouri) đă gặp tai nạn kinh hoàng khiến hàng chục người chết và bị thương nặng!

Tại sao họ đi làm việc đạo đức mà lại gặp tai nạn khủng khiếp như vậy, trong khi các xe buưt khác hàng ngày chở người đi đánh bạc ở Las Vegas, Lake Charles... hoặc phi cơ chở người di du hí ở Cancun (Mexico) và Jamaika... th́ lại chưa lần nào gặp tai nạn tương tự?

Lại nữa, phụ nữ sinh con th́ dễ mắc bệnh ung thư ngực hay tử cung, nhưng các nữ tu sống độc thân th́ có người cũng mắc chứng nan y này! Người uống rượu và hút thuốc nhiều th́ dễ bị ung thư phổi hay bệnh bao tử, nhưng nhiều linh mục, tu sĩ không hút thuốc, không nghiện rượu vậy mà có người cũng bị ung thư phổi, bệnh bao tử!

Thật là điều quá khó hiểu xét theo lư trí và khôn ngoan của con người.

Xưa kia, người Do Thái thường cho rằng những đau khổ như bệnh tật, nghèo đói, đui, mù, què v,v là hậu quả của tội con người đă phạm. Ví thế, khi thấy một anh mù từ khi mới sinh, các môn đệ Chúa Giêsu đă hỏi Chúa xem có phải v́ tội của anh này hay tội của cha mẹ anh, Chúa đă trả lời như sau : "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đă phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh." (Ga 9: 3)

Việc của Thiên Chúa được tỏ hiện là Chúa đă cho anh mù được trông thấy để anh vui sướng đi ca tụng Chúa đă chữa cho anh khỏi mù ḷa về thể lư, đồng thời cũng giúp mở mắt thiêng liêng cho anh được biết Chúa là Đấng Thiên Sai (Messiah) khi anh trả lời Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 9 :38).

Như thế, đủ cho ta thấy rằng không thể cắt nghĩa những tai họa xẩy ra ở khắp nơi như động đát, băo lụt, sóng thần v.v. theo nhăn quan con người được. Nói rơ hơn, không thể suy đoán là Thiên Chúa đă phạt dân này, nước kia v́ tội họ đă phạm mất ḷng Chúa nên phải chịu những tai họa đó.

Cụ thể, cách nay 8 năm một cơn sóng thần đột nhiên xẩy ra ở các bờ biển chạy dài từ Thái Lan đến Nam Dương quần đảo khiến cho hàng trăm ngàn người bị nước cuốn đi cùng với nhà cửa, tài sản vào ḷng biển cả. Lại nữa trong tháng 3 năm 2011, một trận động đất dữ dội cũng gây ra sống thần ở Nhật Bản khiến hàng chục ngàn người bị giết hay mất tích cùng với nhà cửa, tài sản của họ.

Mới đây nhất là trận “siêu băo Haiyan” đánh vào Phi Luật Tân tuần trước khiến hàng chục ngàn người phải thiệt mạng và hàng triệu người khác bị lâm vào cảnh màn trời chiếu đất v́ nhà cửa của họ đă bị bảo cuốn đị hay phá đổ.

Trước những thảm họa nói trên, có người đă vội kết luận là v́ Nhật Bản gây nhiều tội ác với dân Trung Hoa, Triều Tiên và cả Việt Nam trong thời kỳ đệ nhị thế chiến trước đây, nên bây giờ phải trả nợ máu! Cũng chung một lập luân như vây, nên Vương quốc Ả Rập Saudite cách nay 8 năm đă từ chối không trợ giúp nạn nhân các nước Thái Lan, Nam Dương, Ấn Độ bị sống thần gây nhiều thiệt hại về nhân mang và tài sản, chỉ v́ chọ cho rằng các vùng bải biển bị sóng thần cuốn đi là những nơi ăn chơi tội lỗi của dân địa phương và những du khách khắp nơi trên thế giới t́m đến để mua vui bất chính nên đáng bị phạt!

Chúng ta phải nghĩ thế nào về những lập luận đó ?

Để trả lời cho câu hỏi này, ta cần đọc lại một tŕnh thuật trong Tin Mừng Thánh Luca nói về mấy người Ga-li-lê-a bị Tổng trấn Phila-Tô giết chết rồi lấy mấu ḥa lẵn với máu tế vật, và mười tám người khác bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết. Trước những thảm họa này, có mấy người đă đến hỏi Chúa Giêsu xem có phải v́ tội của họ mà những nạn nhân trên phải đền phạt cách nhăn tiền hay không. Chúa đă trả lời như sau: “Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối th́ các ông cũng sẽ chết y như vậy." (Lc 13:5)

Câu trả lời trên của Chúa dạy chúng ta 2 điều quan trọng như sau:

1- Trước hết, không thể vội kết luận rằng những người gặp tai họa như động đật, băo lụt, sống thần v.v. đều là những người tội lỗi hơn người khác và đáng bị Thiên Chúa phạt cách nhăn tiền.

Cứ nh́n vào thực trạng thế giới ngày nay cũng đủ cho thấy là suy nghĩ như trên không đúng

Đây là thực tế: có biết bao nhà độc tài, chế độ cai trị hà khắc, làm khổ người dân chẳng may rơi vào ách thống trị độc ác của họ. Lại nữa, cũng đầy rẫy ở khắp nơi những kẻ đang làm những việc vô đạo như giết người, cướp của, cờ bạc, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho bọn vô lương tâm đang làm giầu với kỹ nghệ măi dâm vô cùng khốn nạn và tội lỗi. Dầu vậy, bọn người này và những nhà độc tài cùng với chế độ ác nghiệt của họ vẫn tồn tại đă bao nhiêu năm qua, và những kẻ làm điều gian ác, tội lỗi đó vẫn sống phây phây không biết đến bao giờ mới bị trừng phạt và lật đổ ???

Tại sao Chúa chưa phạt nhăn tiền những kẻ gian ác này để giải phóng cho bao triệu dân lành vô tội phải chịu ách thống khổ triền miên như vậy? Tại sao những kẻ làm những việc vô luân vô đạo vẫn sống phây phây và sung túc để thách đố những người lương thiện lại gặp gian nan, nghèo đói, đau khổ?

2- Dầu vậy, tội lỗi cũng có thể gây nên tai họa như lời Chúa nói trên đây: "nếu không sám hối th́ sẽ chết". Như thế có nghĩa là dù Chúa biết và chê ghét tội lỗi của con người, nhưng c̣n khoan dung chờ kể gian ác, kẻ có tội, sám hối, cải tà qui chánh để khỏi phải chết không nhữngvề thể xác mà c̣n cả về mặt thiêng liêng, tức là phải vĩnh viễn xa ĺa Thiên Chúa là Nguồn an vui, hạnh phúc bất diệt.

Tin Mừng Thánh Gioan cũng kể lại một bênh nhân kia đă được Chúa Giêsu chữa cho lành khỏi. Nhưng sau đó, khi Chúa gặp lại người này trong Đền Thờ, Chúa đă nói với anh ta như sau: "Này, anh đă được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa kẻo lại phải khốn khó hơn trước" (Ga 5: 14). Như thế có nghĩa là tội lỗi có thể tức khắc gây ra hậu quả tai hại cho con người căn cứ theo lời Chúa nói trên đây.

Kinh nghiệm thực tế cũng chứng minh điều này: kẻ lưu manh đôt nhập vào tư gia để ăn cắp có thể bị chủ nhà bắn chết tại chỗ (ở Mỹ, đa số người dân có súng đạn trong nhà để tự vệ). Gian dâm cũng có thể đưa đến án mạng cho dâm phu hay dâm phụ và tan vỡ hạnh phúc gia đ́nh v́ nghen. Say mê tốc độ để lái xe quá nhanh có thể gây tai nạn tử vong cho chính ḿnh và cho người khác. Đó là một vài thí dụ điển h́nh để minh chứng là tội lỗi có thể gây hậu quả tai hại tức khắc cho những ai liều ḿnh làm những việc sai trái, tội lỗi.

Tuy nhiên, thường t́nh chúng ta thấy những kẻ làm điều gian ác độc dữ vẫn sống nhởn nhơ ở khắp mọi nơi như thách đố những người lành, người lương thiện đang bị nghèo đói, bệnh tật, bất công xă hội, tai nạn xe cộ v.v.

Nhưng, có lẽ lư do vững chắc để giải thích v́ sao những kể gian ác chưa bị trừng phạt nhăn tiền là v́ Thiên Chúa c̣n khoan dung cho chúng cơ hội để ăn năn hối cải trước khi Người bất đắc dĩ phải đánh phạt họ như Chúa đă phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en như sau

"Ta chẳng vui ǵ khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi thấy nó thay đổi đường lối để được sống, Hăy trở lại, hăy từ bỏ đường lối xấu xa của các người mà trở lại.” (Ed 33: 11)

Như thế, cho thấy rơ Thiên Chúa quả thực là người Cha nhân lành, đẫy ḷng thương xót và mong muốn cho kẻ tội lỗi thống hối ăn năn để được tha thứ như Người đă nói thêm như sau:

"Hoặc giả Ta nói với kẻ gian ác "chắc chắn ngươi phải chết. Nhưng nếu nó từ bỏ tội lỗi mà trở lại, và thực hành điều công minh chính trực... th́ chắc chắn nó sẽ được sống và không phải chết." (Ed 33: 14)

Nói khác đi, Thiên Chúa muốn kẻ có tội nhận biết tội ḿnh đă phạm và c̣n tin tưởng nơi ḷng thương xót vô biên của Người để xin tha thứ th́ chắc chắn sẽ được thứ tha, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội chổi bỏ Thiên Chúa hoàn toàn, th́ sẽ không được tha thứ mà thôi (x. Mc 3: 28-29; Lc 12:10).

Tóm lại, không thể căn cứ vào tai họa của người khác mà kết luận họ là những kẻ tội lỗi đáng phải phạt. Cũng không thể nghĩ rằng những kẻ đang làm điều gian ác mà chưa bị phạt v́ tội của họ không đáng phải phạt. Họ chưa bị phạt v́ Thiên Chúa c̣n khoan dung chờ đợi họ sám hối để xin Người tha thứ và được sống.

Mặt khác, khi thấy những tai họa lớn lao như băo lụt, động đất, sóng thần, bất ngờ xảy ra ở đâu và cho ai, th́ đó cũng là dịp thức tỉnh mọi người chúng ta về sự cần thiết phải chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng v́ "chính giờ phút anh em không ngờ th́ Con Người sẽ đến." (Lc 12: 40)

Sau hết, khi thấy người khác bị tai họa, không may th́ đó cũng là dịp thích hợp cho ta thực hành đức bác ái Công giáo để tỏ t́nh thương, thông cảm và rộng tay cứu giúp những anh chị em chẳng may gặp hoạn nạn như chiến tranh, băo lụt, động đất và sóng thần ... không phân biệt mầu da, tiếng nói và tôn giáo. Chính Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những nạn nhân đau khổ đó và Người mong đợi chúng ta mở ḷng nhân ái cứu giúp họ để sau này xứng đáng được nghe lời Chúa phán: "Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hăy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thủa tạo thiên lập địa, v́ xưa Ta đói các ngươi đă cho ăn; Ta khát các ngươi đă cho uống. Ta đau yếu các ngươi đă thăm nom..." (Mt 25: 34-35)

Ước mong giải đáp trên đây phần nào thỏa măn câu hỏi được đặt ra.

Ơn Linh Ứng Là Ơn Ǵ?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải đáp giúp hai câu hỏi sau: 1- Ơn linh ứng là ơn ǵ? 2- Trong Kinh Thánh, tại sao có các bản LXX (70) và bản Vulgata ?

Trả lời:

1- Khi học, đọc và nghiên cứu Kinh Thánh th́ trước tiên phải nói đến Ơn linh ứng (Inspiration) tức là ơn đặc biệt Chúa Thánh Thần ban để thúc dục và soi sáng cho các tác giả con người để họ viết ra các Sách trong toàn bộ Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước) trước hết bằng ngôn ngữ Do Thái và Hy lạp. Và từ các ngôn ngữ nguyên thủy này Kinh Thánh được dich ra tiếng Latinh trước và sau này ra các ngôn ngữ khác cho mọi người trong Giáo Hội đọc ngày nay.

Toàn bộ Sách thánh được gom lại thành một bộ Thánh Kinh = Holy Bible bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Biblia có nghĩa nhiều Sách được gom lại thành một bộ sách có tên chung là Thánh Kinh.

Sở dí Sách được gọi là Sách Thánh v́ có ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần đă ban cho các tác giả loài người để hướng dẫn họ viết ra những ǵ Thiên Chúa muốn cho con người biết và thi hành để được chúc phúc, và nhất là được cứu độ nhờ c ông nghiệp cứu chuộc vô giá của của Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian làm Con Người và đă “hy sinh mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn dân.” (Mt 20 : 28)

Giáo Hội tin các Sách trong toàn bộ Kinh Thánh Cựu và Tân Ước phải có Ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần là tác giả chính của Kinh Thánh, đă soi sáng và hướng dẫn các tác giả con người viết ra Lời Chúa từ thời xa xưa trong Cựu Ước và cho đến ngày Sách cuối cùng của Tân Ước là Sách Khải Huyền (Revelation) của Thánh Gioan ra đời vào cuối thế kỷ thứ nhất sau khi Chúa Kitô hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại và về trời..

Về bằng chứng có lời Thiên Chúa nói cho các tác giả con người, ta có trước hết, lời Thiên Chúa đă phán với ông Mô-sê trong thời Cựu Ước như sau :

“ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “hăy ghi chép những lời này, v́ dựa trên chính những lời này mà Ta đă lập giao ước với ngươi và với Israel.” (Xh 34: 27)

Có thể nói ông Mô-sê là người được ơn linh ứng đầu tiên để viết ra 5 cuộn gọi là Ngũ Kinh hay Pentateucos tức Năm cuốn Sách đầu tiên trong Cựu Ước là :

- Sách Sáng Thế
- Sách Xuất Hành
- Sách Lêvi
- Sách Dân Số
- Sách Đệ Nhị Luật

Mặt khác, Sách ông Gióp, cũng cho ta biết về ơn linh ứng giúp cho con người hiểu biết lời Chúa như sau :

“Nhưng thực ra sinh khí trong con người
Tức hơi thở của Đấng toàn năng, mới làm cho hiểu biết.”
(Gb 32:8)

Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tin lư về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum) đă nói như sau về Ơn Linh Ứng :

“Những ǵ Thiên Chúa mạc khải và Thánh Kinh chứa đựng và bày tỏ, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Giáo Hội Mẹ Thánh, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ Sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần, đều là Sách Thánh và được ghi vào bản chính lục Kinh Thánh bởi lẽ được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nên tác giả của các sách ấy là chinh Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Giáo Hội với t́nh trạng như vậy.” (Dei Verbum, no. 11)

Trước Công Đồng Vaticanô II, các đức cố Giáo Hoàng Leô-XIII, trong Thông điệp Providentissimus, ban hành ngày 18-11-1893, Đức cố Giáo Hoàng Benedictô XV với Thông diệp Spiritus Paraclitus ngày 15-9-1921, và Đức cố Giáo Hoàng Piô XII với Thông Điệp Divino Afflante ngày 30-9-1943, đều quả quyết là toàn bộ Thánh Kinh có ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần nên được gọi và tôn kinh là Sách thánh v́ thực sự chứa đựng lời Thiên Chúa nói với con người suốt từ thời Cựu Ước cho đến thời Tân Ước.

Cụ thể, Ngôn sứ Ê-de-ki-en đă nói như sau về lời Chúa muốn nói với dân của Người:

Phần ngươi, hỡi con người, Ta đă đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết: Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng : “Hỡi tên gian ác, chắc chắn người phải chết” mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, th́ chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết v́ tội của nó, nhưng Ta sẽ đ̣i ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đă báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, th́ nó sẽ phải chết v́ tội của nó. C̣n ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống ḿnh.” (Ed 33: 7- 9)

Khi đến trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại, Chúa Giêsu cũng nói rơ là Người chỉ nói và dạy những ǵ đă nghe từ Chúa Cha, Đấng đă sai Người:

“Đạo lư Tôi dạy không phải là của Tôi
Nhưng là của Đấng đă sai Tôi.”
(Ga 7: 16)

Thánh sử Gioan chắc chắn đă được ơn linh ứng khi thuật lại lời Chúa Giêsu trên đây để cho chúng ta tin rằng những ǵ ngài viết trong Tin Mừng thứ 4 là lời Thiên Chúa đă được linh ứng cho ngài viết, chứ không phải tự ư ngài viết ra những điều đó.

Nói rơ hơn, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong suốt 3 năm Người đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, dạy dỗ và làm nhiều phép lạ, đă được ghi chép rất nhiều trong 4 Tin mừng của Matthêu. Maccô, Luca và Gioan. công thêm với các thư mục vụ của các Thánh Phaolô, Phêrô, Gioan, Gia-cô-bê, Guida, và Sách Khải Huyền của Gioan hợp lại thành trọn bộ Kinh Thánh Tân Ước. Tuy nhiên, theo Thánh Gioan th́ những ǵ ngài viết ra trong Tin Mừng thứ 4 không ghi chép lại hết mọi lời Chúa Giêsu đă nói và việc Chúa đă làm, bởi v́ :

“C̣n nhiều điều khác Đức Giêsu đă làm. Nếu viết lại từng điều một th́ tôi thiết nghĩ : cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21: 26)

Dầu vậy, những ǵ đă được viết ra trong 4 Phúc Âm và các Thư Mục Vụ hay Thánh Thư (Epistles) phải là những điều Chúa Thánh Thần linh ứng cho các tác giả trên viết ra bằng ngôn ngữ loài người, thông dụng thời đó là tiếng Hy Lạp và Do Thái cổ (Aramaic, Phúc Âm Thánh Matthêu) .

Các Sách thánh mà Giáo Hội nh́n nhận có Ơn linh ứng gồm có 46 Sách Cựu Ước và 27 Sách Tân Ước. Thư qui này đă được Công Đồng Trentô (1545-1564 ) đóng lại nghĩa là từ đó đến nay không có Sách nào được nhận thêm vào tổng số các Sách thánh trên đây.

Nói về ơn Linh ứng, Thánh Phaolô đă có lời chứng như sau:

Tất cả những ǵ viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh ứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.”(2 Tm 3: 16-17)

Thánh Phêrô cũng dạy như sau về Ơn Linh Ứng của Chúa Thánh Thần :

Nhất là anh em phải biết điều này : không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lai do ư muốn của người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đă nói theo lệnh của Thiên Chúa.” (2 Pr 1: 20-21)

Tóm lại, chính Chúa Thánh Thần là tác giả chính của toàn bộ Thánh Kinh, nhưng Ngài đă dùng các tác giả con người để viết ra lời Chúa bằng ngôn ngữ nhân loại

để loan truyền lời Chúa cho mọi dân mọi nước được biết thánh ư của Thiên Chúa, t́nh thương và kế hoạch của Người trong việc sáng tạo và cứu độ loài người nhờ Chúa Kitô.

2- Bản LXX và Vulgata là ǵ ?

Như đă nói trên, Kinh Thánh là toàn bộ lời Chúa nói với con người được Chúa Thánh Thần linh ứng cho các tác giả con người viết thánh sách cho chúng ta đọc ngày nay. Trong thời Cựu Ước, vào thế kỷ thứ 3 trước Chúa Giánh sinh, có 70 nhà thông thái đă dịch các Sách thánh Cựu Ước viết bằng tiếng Do Thái ra tiếng Hy lạp để giúp các tín hữu Do Thái không nói được tiếng Do Thái có thể đọc Kinh Thánh dich ra tiếng Hy Lạp. Công việc dịch thuật lần đầu tiên này đă diễn ra tại Alexandria (Ai Cập) dưới triều hoàng đế Ptolemy II Philadelphus (285-246 B.C) trước Chúa Giáng Sinh.

Bản dịch Kinh Thánh đầu tiên này có tên là Septuagint bắt nguồn từ ngữ căn Hy Lạp và có nghĩa là số 70, v́ thế được mang số La mă LXX để chỉ Bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp trong thời Cựu Ước.

Sau này, Thánh Jerome (340-420 A.D), một Kinh Thánh gia rất thông thái đă dịch tất cả các Sách Thánh Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp và Aramaic = Do Thái cổ (Tin Mừng Thánh Matthêu) sang tiếng La Tinh là tiếng thông dụng của giới b́nh dân thời đó. Bản dịch này có tên là Vulgata = Vulgate có nghĩa là bản dịch phổ thông Kinh Thánh Tân Ước của Thánh Jerôme. Bản dịch này được chính thức sử dụng trong Giáo Hội từ thời đó cho đến nay.

Tóm lại, là tín hữu trong Giáo Hội, chúng ta chỉ đọc những Sách được Giáo Quyền công nhận là có ơn linh ứng mà thôi.Thư qui Kinh Thánh chỉ gồm có 46 Sách Cựu Ước và 27 Sách Tân Ước như đang được đọc, học và nghiên cứu để biết lời Chúa

muốn nói với con người ở khắp mọi nơi, trong mọi nền văn hóa và ngôn ngữ nhân loại. Kinh Thánh và Thánh Truyền (Sacred Tradition) là các kho mạc khải Lời Chúa và giáo lư của Người cho ta biết và thi hành để được cứu độ, tức được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa là Cha trên Nước Trời mai sau.

Chúng ta cùng cảm tạ Chúa về hồng ân này và siêng năng đọc Thánh Kinh để nghe và sống lời Chúa hầu được cứu độ, như ḷng Người mong muốn.

Cầu nguyện là ǵ và phải cầu nguyện thế nào cho đáng được Chúa nghe

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật Thứ 30 Mùa Thường Niên

Cầu nguyện là nhu cầu thiêng liêng rất quan trọng và cần thiết cho Giáo Hội nói chung và cho mọi người tín hữu nói riêng.

Thật vậy, cầu nguyện gắn liền với đưc tin v́ có tin th́ mới cầu nguyện. Nghĩa là khi cầu nguyện, ta nói lên niềm tin có Chúa đang hiện diện thực sự trong cơi vô h́nh mà ta không xem thấy nhưng vững tin có Người là Cha rất nhân từ, đă tạo dựng mọi loài mọi vật - đặc biệt đă tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô. V́ thế nâng tâm hồn lên với Chúa trong niềm tin, yêu mến và ngượi khen là cầu nguyện hay nói chuyện với Chúa trong thân t́nh cha-con, khi vui, khi buồn, lúc gặp gian nan, khó khăn hay khi được điều ǵ vui thỏa trong tâm hồn.

Như thế, cầu nguyện là đem ta lại gần bên Chúa, là nguồn an vui và là sức mạnh giúp ta vượt qua những khó khăn, gian nan và thách đố trong đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, v́ ta cần ơn Chúa như vạn vật cần ánh sáng mặt trời và nước mưa để tăng trưởng và tồn tại.

Nhưng trong bất cứ t́nh huống nào, cầu nguyện trước hết phải là lơi ca tụng, ngượi khen Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, và cảm tạ Người về t́nh thương bao la dành cho mỗi người chúng ta, đặc biệt là "mong muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư." (1 Tm 2 : 4) nhờ Chúa Kitô, Đấng đă hạ ḿnh làm Con Người để hy sinh" hiến mang sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người." (Mt 20:28)

Phúc Âm Chúa nhật thứ 30 mùa thương nhiên hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm thêm về sự cần thiết phải cầu nguyện và cầu nguyện cách nào để xứng đáng được Chúa nhậm lời cầu nguyện và cầu xin của ta.

Trong cầu nguyện có phần cầu xin (petition) v́ là con người - và cách riêng là người tín hữu, chúng ta rất cần ơn Chúa nâng đỡ trong cuộc sống tự nhiên, tức là để thỏa măn những nhu cầu cần thiết như có công ăn việc làm để nuôi sống bản thân và gia đ́nh, có tiền mua thuốc hay đi bệnh viện khi đau yếu và được b́nh an trong cuộc sống.

Hón thế nữa, là người tín hữu, chùng ta rất cần ơn Chúa để lớn lên trong đức tin có Chúa giữa bao thách đố đến từ thế gian với những quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú vô luân vô đạo, và nhất là những cám dỗ của ma quỉ, v́ như "sư tử luôn rảo quanh t́m mồi cắn xé" Như Thánh Phêrô đă cảnh cáo (1 Pr 5 : 8). Thêm vào đó là bản chất yêu đuồi c̣n tồn tại nơi mỗi người chúng ta luôn cản trở chúng ta sống theo tiếng nói của lương tâm và bước đi theo Chúa Kitô là "con đường, là sự thật và là sự sống." (Ga 14 : 6 )

Trước những thực trạng nói trên, nếu muốn sống đức tin cách vững chắc, đức mến cách nồng nàn th́ nhất thiết đ̣i hỏi chúng ta phải chậy đến cùng Chúa để xin Người thương ban ơn giúp sức cho ta vượt qua những khó khăn trong đời sống tự nhiên và nhất là chiến thắng ma quỉ, thế gian và xác thịt để sống theo đường lối của Chúa hầu được cứu rỗi như ḷng Chúa mong muốn cho mọi người chúng ta.

Nhưng muốn được Chúa nghe lời cầu nguyện và cầu xin của chúng ta, bài Tin Mừng của Thánh Luca Chúa Nhật này (Lc 18: 9-14) chỉ cho ta cách cầu nguyện và cầu xin cách đẹp ḷng Chúa.

Đó là dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho các môn đệ về hai người vào Đền thờ cầu nguyện: một người biệt phái và một người thu thuế. Người biệt phái tự cho ḿnh là người công chính và khinh chê mọi người khác. V́ thế anh ta đă hiên ngang nói với Chúa thế này : "Lậy Chúa tôi cám ơn Chúa v́ tôi không giống các kẻ khác: tôi không trộm cướp, không gian ác, không dâm đăng như họ và tôi cũng không giống tên thu thuế kia"! Ngược lại, người thu thuế đứng ở xa, không dám ngửa mặt lên trời, tay đấm ngực và cầu nguyện rằng : "Lậy Chúa, xin thương tôi là kẻ tội lỗi"

Kết luận, Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ rằng : hai người trên, khi ra về, một người nên công chính c̣n người kia th́ không. Người nên công chính là người thu thuế đă cầu nguyện với ḷng khiêm tốn và sám hối nên đă được nhậm lời, trong khi người biệt phái th́ không v́ anh ta cầu nguyện với thái độ kiêu căng, tự đề cao ḿnh và khinh thường người khác.

Chúa là Cha rất nhân từ, gớm ghét mọi tội lỗi và mọi sự dữ, nhất là tội kiêu căng, nhưng lại yêu thương người có tội biết ăn năn sám hối. Bọn biệt phái (Pharisi) thời Chúa Giê-su là những người tự cho ḿnh là đạo đức hơn mọi người khác, nên thường phô trương cách sống đạo của họ như nhăn nhó khi ăn chay, giang tay cầu nguyện trước công chúng  và khinh chê những người họ cho là tội lỗi như làm nghề thu thuế. V́ thế, Chúa Giêsu đă nhiều lần lớn tiếng chỉ trích họ cùng với bọn luật sĩ là "quân giả h́nh", và ví họ như "những mồ mả quét vôi trắng, bề ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong là đầy xương người chết và mọi mùi ô uế." (Mt 23 : 27)

Đó là cung cách cầu nguyện của người biết phái trong dụ ngôn Chúa kể hôm nay. Chính v́ kiêu căng và tự đánh bóng ḿnh, khinh chê người khác nên lời cầu nguyện của y đă không làm cho y được nên công chính trước mặt Chúa, "v́ phàm ai tôn ḿnh lên sẽ bị hạ xuống, c̣n ai hạ ḿnh xuống sẽ được tôn lên" (Lc 18: 14)

Ngược lại, cung cách và lời cầu nguyện của người thu thuế làm cho ta nhớ đến người trộm lành cùng chịu đóng đanh với Chúa trên núi Sọ năm xưa . Anh ta đă nhận biết ḿnh là kẻ tội lỗi, đáng bị đóng đanh, nên đă nài xin Chúa tha thứ cho anh được cứu rỗi. Và Chúa Giêsu đă vui mừng trả lời anh : "Ta bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở cùng Ta trên Thiên Đàng." (Lc 23: 43)

Tất cả chúng ta đều ít nhiều là người tội lỗi và không hề có công trạng ǵ đáng Chúa phải thưởng công.Nhưng Chúa yêu thương ta không phải v́ ta có công trạng mà v́ Người là t́nh yêu nên vui thích được tha thứ và ban ơn. Tuy nhiên chúng ta phải tỏ ḷng sám hối và khiêm tốn nài xin Chúa như người trộm lành và người thu thuế trong dụ ngôn trên đây.Chắc chắn với tâm t́nh và cung cách cầu xin như vậy, Chúa sẽ rộng ḷng ban cho ta những ơn chúng ta đang cần đến để sống xứng hợp với địa vị con người trên trần thế và nhất là được đủ sức để sống đức tin vững chắc, đức mến nồng nàn để được cứu rỗi và hưởng vinh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Đức Mẹ Có Được Cứu Chuộc Hay Không?

§ Lm Trần Đức Anh, OP

Hỏi: xin cha cho biết Mẹ Maria có phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô hay không?

Trả lời:

Mọi người sinh ra trong trần gian này- từ khởi thủy đến nay và c̣n măi cho đến ngày măn thời gian- đều chịu chung hậu quả của Tội Nguyên Tổ (Origional Sin), nên cần phải được tái sinh qua Phép Rửa để trở thành các tạo vật mới, được gọi Chúa là Cha và có hy vọng sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Nhưng để bảo đảm hy vọng đó, mọi người đều phải được cứu chuộc nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa đă đến trần gian cách nay trên 2000 năm để hy sinh “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Thật vậy, chỉ v́ thương yêu và “mong muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư” (1 Tm 2: 4) mà Thiên Chúa Cha đă sai Con Một Người là Chúa Giêsu-Kitô xuống trần gian làm Con Người, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần để chuộc tội cho cả loài người đáng bị phạt và chết v́ tội lỗi. Khi đến trần gian làm Con Người, Chúa Giêsu đă quên ḿnh là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần để vui ḷng chịu khốn khó và luận phạt như một tội nhân, đồng số phận với hai tên trộm cướp cùng bị đóng đanh với Người trên Núi Sọ năm xưa.

Như thế, chính nhờ Chúa Kitô đă chịu chết thay cho mọi người mà chúng ta có hy vọng được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau. Công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô được áp dụng cho hết mọi người đă sinh ra trước hay sau khi Chúa hoàn tất công nghiệp cứu chuộc của Người và cho măi đến ngày hết thời gian.

Nói khác đi, nếu không có công nghiệp cực trọng của Chúa Giêsu-Kitô th́ tuyệt đối không ai có thể được cứu rỗi v́:

“Ngoài Người ra; không ai đem lại ơn cứu độ, v́ dưới gầm trời này, không có một danh nào được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ“ (Cv 4: 12).

Danh đó là Danh thánh Giêsu- Kitô, Đấng đă vui ḷng chịu chết để cho chúng ta hy vọng được sống đời đời với Chúa trên Nước Trời, sau khi chấm dứt hành trinh trên trần gian này .

Phải nói có hy vọng thôi, chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ giờ phút hiện tại, không phải v́ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô chưa đủ cho con người được cứu độ, mà v́ con người c̣n có ư muốn tự do (free will) để tự ư chọn sống theo Chúa là “Con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14: 6) hay khước từ Chúa để sống theo thế gian dẫn đưa đến hư mất đời đời v́ ảnh hưởng rất tai hại của các chủ nghĩa tục hóa (secularism), vô thần (atheism), chủ nghĩa tương đối (relativism) tôn thờ khoái lạc (hedonism) tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất (cult of money and materialism) và không chấp nhận một nguyên tác luân lư và đạo đức nào như bộ mặt của thế giới tục hóa vô luân vô đạo ở khắp nơi trong xă hội loài người ngày nay.

Nếu con người chọn sống theo thế gian với những thực trạng trên đây th́ đă hùng hồn chối bỏ Thiên Chúa là t́nh thương, là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối và trở nên thù nghịch với thập giá Chúa Kitô, khiến cho công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người trở nên vô ích cho những ai tự do chọn lựa cách sống đó.

Nghĩa là, dù tin Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người, nhưng nếu không quyết tâm đi theo Chúa để cộng tác với ơn cứu độ của Người bằng nỗ lực xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ bao lâu c̣n sống trên đời này, th́ chắc chắn Chúa không thể cứu ai được, đúng như lời Chúa đă nói với các môn đệ Người xưa kia :

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa! Lậy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ư muốn của Cha trên Trời có nghĩa là thực hành tốt những điều Chúa Giêsu đă dạy về mến Chúa, yêu tha nhân, sống công b́nh, bác ái, và trong sạch, nghĩa là xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ, th́ mới xứng đáng được ơn Chúa cứu chuộc để hưởng phúc Thiên Đàng như lời Người đă hứa:

Thật vậy, ư của Cha Ta là tất cả những ai thấy người Con
Và tin vào người Con th́ được sống muôn đời
Và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết
” (Ga 6: 40).

Đó là niềm tin và hy vọng cho mọi người đă sinh ra trước hay sau Chúa Kitô và cho đến ngày cánh chung tức ngày măn thời gian.

Riêng đối với Đức Trinh Nữ Maria, là “Người đầy ơn phúc” được tuyển chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Giêsu-Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đă ban riêng cho một ḿnh Mẹ các đặc ân lớn lao là được sinh ra mà không vướng mắc hậu quả của tội nguyên tổ (Vô nhiễm thai = Immaculate Conception) và mọi tội khác, được trọn đời đồng trinh và hồn xác về trời (Asumption). Như thế, Mẹ Maria đă trỗi vượt hơn mọi thần thánh trên trời và mọi người phàm trong nhân loại nhờ những đặc ơn trên.

Nhưng dù được diễm phúc độc nhất như vậy, Mẹ Maria cũng không cao trọng hơn Thiên Chúa và có chung một bản thể (substance) với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mẹ chỉ được tôn kính, tôn sùng (venerate) cách đặc biết ở mức độ Hyperdulia, trong khi các Thánh Nam nữ khác - kể cả Thánh Giuse- được tôn kính ở mức Dulia và chỉ một ḿnh Thiên Chúa được tôn thờ (adore) ở mức Latria trong phụng vu thánh của Giáo Hội.

Dầu vậy, dù là Mẹ thật của Chúa Giêsu, Đức Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô căn cứ vào chính lời Mẹ đă nói trong Bài ca Ngợi khen Thiên Chúa Magnificat của Mẹ như sau:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
V́ Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (my Savior)
(Lc 1 : 46-47)

. . .

Thánh Công Đồng Vaticanô II, mượn lời dạy của Thánh Phụ Irêneô, cũng dạy rằng:

“Chính Ngài (Mẹ Maria), nhờ vâng phục, đă trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho ḿnh và cho toàn thể nhân loại” (x Lumen Gentium số 56).

Như thế đủ cho thấy là Mẹ không được miễn trừ ơn cứu độ của Chúa Kitô và Thiên Chúa đă “ban trước”ơn này cho Mẹ cũng như cho các người lành thánh khác trong thời Cựu Ước, tức là thời gian Chúa Chúa Cứu Thế Giêsu chưa ra đời và chưa hoàn tất công tŕnh cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa.

Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn có ơn được gọi là “ơn dự pḥng” (prevenient grace)để ban trước cho Đức Mẹ và cho những người lành thánh khác như các ông Mô-sê, Elia (Mt 17: 3; Mc 9: 4; Lc 9: 30) đă hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu trên núi Ta-bo-rê khi Chúa biến đổi dung nhan trước mắt ba môn đê Phêrô, Gioan và Gia-cô-bê.

Thánh Phaolô đă giải thích về ơn dự pḥng nói trên như sau:

“Những ai Thiên Chúa đă tiền định, th́ Người cũng kêu gọi; những ai Người đă kêu gọi, th́ Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đă làm cho nên công chính th́ Người cũng cho hưởng phúc vinh quang. (Rm 8: 30)

Tóm lại, tất cả mọi tạo vật được sinh ra trước hay sau Chúa Kitô, đều phải nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, kể cả Mẹ Maria, Thánh Giuse, các ngôn sứ và các Tổ phụ dân Do Thái là Abraham, Isaac và Jacob (Israel) bởi v́ :

“Chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người, Đức Kitô-Giê su
Đấng đă tự hiến làm giá chuộc mọi người.”
(1 Tm 2 : 5)

Việc Mẹ Maria lănh nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa không làm suy giảm chút nào ơn phúc và tước hiệu của Mẹ là Mẹ thật của Chúa Giêsu, cũng là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) v́ Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, việc Mẹ nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô cũng không hề có nghĩa là Mẹ đồng h́nh đồng dạng với con người trong phạm trù tội lỗi, v́ Mẹ đă được diễm phúc không hề bị vết nhơ nào của mọi tội lỗi từ khi Mẹ được thụ thai trong ḷng mẫu thân cho đến ngày Mẹ được về trời cả hồn xác.

Nhưng Mẹ vẫn nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không phải v́ Mẹ có tội ǵ để cần được tha thứ mà v́ để ca ngợi và cảm tạ t́nh thương bao la của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độvà nhận biết chân lư” như Thánh Phaolô đă quả quyết (1 Tm 2 : 4).

Chính Mẹ cũng đă góp phần cộng tác quan trọng vào công nghiệp này cùng với Con của Mẹ là Chúa Giêsu-Kitô, trước hết khi Mẹ “xin vâng”với Thiên Chúa đă chọn Mẹ làm Mẹ Chúa Cứu Thế . Sự xin vâng của Mẹ thật vô cùng quan trọng và cần thiết v́ nếu không có, th́ Chúa Giêsu không thể giáng sinh làm Con Người để cứu chuộc cho tất cả loài người, theo chương tŕnh cứu độ của Chúa Cha. Nhưng v́ Mẹ “xin vâng”theo thánh ư Chúa cha, mà Chúa Giêsu đă giáng sinh trong cung ḷng vẹn sạch của Mẹ qua quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Không những Mẹ xin vâng mà c̣n cộng tác mật thiết với. Con của Mẹ trong hành tŕnh thương khó, khổ nạn khi đứng dưới chân thánh giá hiệp thông đau khổ với Chúa Kitô khi Người dâng hy tế đền tội lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.

Do đó, chúng ta phải muôn đời nhớ ơn Mẹ Maria về sự xin vâng và cộng tác này, v́ quả thực Mẹ đă góp phần không nhỏ vào công cuộc mưu t́m hạnh phúc vinh cửu cho tất cả chúng ta cùng với Con của Mẹ là Chúa Cứu Thế Giêsu.

Tóm lại, nếu “sự chết đến v́ Evà, th́ sự sống đến nhờ Đức Maria”, tân Eva đă vâng phục Thiên Chúa và cộng tác với Chúa Giêsu –Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người như Kinh Thánh và các Thánh Phụ đă dạy.(x. LG, số 56).

Kinh Thánh Nói Ǵ Về Ư Muốn Tự Do Của Con Người Và Sự Thưởng Phạt Của Thiên Chúa?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: Xin cha giải thích thắc mắc sau đây : Kinh Thánh có nói con người thực sự được tự do chọn lựa và Thiên Chúa có tôn trọng tự do đó hay không ? Nếu không th́ hậu quả ra sao?

Trả lời:

1- Con người là tạo vật duy nhất Thiên Chúa tạo dựng vơi hai đặc tính độc đáo là có lư trí (Intelligence) và ư muốn tự do. (free will). Nhờ lư trí, con người khám phá kho tàng thiên nhiên và mọi công tŕnh sáng tạo của Thiên Chúa để nhận biết Ngài quả thật là Đấng Tạo Hóa đă tạo dựng mọi loài mọi vật hữu h́nh và vô h́nh.Nhà bác học người Pháp Louis Pasteur (1822-1895) đă nói : “khoa học càng tiến bộ càng đưa con người đến gần Thiên Chúa là Đấng tạo hóa khôn lường.”

Nhờ lư trí con người tin có Đấng tạo Hóa mà chúng ta, những người có diễm phúc được quà tặng đức tin, tin rằng Đấng đó là Thiên Chúa, là Cha toàn năng, đầy ḷng yêu thương con cái loài người. Ngài đă tạo dựng con người chỉ v́ yêu thương vô vị lợi. Nghĩa là tuyệt đối Thiên Chúa không được hay muốn t́m lợi lộc ǵ mà phải tạo dựng con người và “muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4)

Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng cũng v́ yêu thương tất cả loài người mà đă “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Dầu vậy Thiên Chúa vẫn cần sự cộng tác của con người vào ơn cứu độ của Người . Cộng tác cụ thể qua sự vâng phục, tuân giữ mọi giới răn của Chúa để sống theo đường lối của Người hầu được vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, sau khi chấm dứt hành tŕnh trên dương thế này.

Sở dĩ Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người v́ con người thực sự có ư muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa đă ban và luôn tôn trọng cho con người sử dụng, để hoặc chấp nhận tôn thờ và yêu mến Ngài trên hết mọi sự, hay từ khước Ngài để sống theo những đ̣i hỏi bất chính của bản năng, những cám dỗ của ma quỷ và những quyến rũ của thế gian chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc của cải vật chất và mọi thú vui vô luân vô đạo như bộ mặt của thế giới tục hóa ngày nay.

Thật vậy, ngay từ đầu, sau khi tạo dựng Adam và Eva, Thiên Chúa đă cho họ được tự do ăn các loại trái cây có trong Vườn địa đàng, trừ “trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ không được ăn, v́ ngày nào ngươi ăn th́ chắc chắn ngươi sẽ chết.” (St 2 : 16-17)

Khi truyền lệnh trên, Thiên Chúa đă cho thấy là Adam và Eva thực sự có ư muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa đă ban và tôn trọng cho họ xử dụng. Và cũng chính v́ đă xử dụng ư muốn tự do này, nên Adam và Eva đă tự ư chọn ăn trái cấm và bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Hậu quả là “tội lỗi đă xâm nhập trần gian và gây nên sự chết cho mọi người v́ một người đă phạm tội.” như Thánh Phaolô đă quả quyết. (Rm 5 : 12)

Như thế sự sa ngă của Adam và Eva là hậu quả của ư muốn tự do mà hai người đă xử dụng để trái lệnh cấm của Thiên Chúa và mang “tội lỗi và sự chết vào trần gian”.

Lại nữa, cũng v́ được tự do chọn lựa mà Cain đă giết em là Aben v́ nghen tị nên đă gây ra án mạng đầu tiên trong lịch sử loài người. (St 4)

Theo ḍng thời gian, Thiên Chúa, dù yêu thương con người quá bội, nhưng cũng đă phải đánh phạt con người nhiều lần, tiêu biểu là h́nh phạt đại hồng thủy như ta đọc thấy trong Sách Sáng Thế (x St 6-7)

Thiên Chúa bất đắc dĩ phải đánh phạt, v́ con người đă dùng ư muốn tự do để làm những sự dữ mà không biết sám hối để được tha thứ. Đó là trường hợp con người sống trước Đại Hồng Thủy. Và sau này, là dân ở hai thành Xô-đom và Gô-mo-ra đă bị lửa từ trời xuống thiêu rụi, sau khi ông Ap-ra-ham đă không t́m được người lành, người công chính nào trong các thành ấy để xin Thiên Chúa tha chết cho dân ở cả vùng đó. (x St 18-19)

Như thế, nếu dân ở các thành phố trên biết dùng ư muốn tự do để sống theo đưởng lối của Chúa và xa tránh tội lỗi th́ đâu có bị đánh phạt cách nặng nề như vậy.!

Đây cũng chính là lư do mà ngôn sứ Giê-rê-mia đă cảnh cáo dân Do Thái xưa trước khi họ bị lưu đầy sang Ba-bi-lon :

Đừng chạy theo các thần khác mà thờ phượng và sụp lậy chúng, cũng đừng chọc giận Ta bằng những việc tay các ngươi làm, rồi Ta sẽ thôi không giáng phạt cho các ngươi nữa. Nhưng các ngươi đă chẳng chiu nghe Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA- cứ chọc giân Ta bằng những việc tay các ngươi làm mà chuốc lấy tai họa.” (Ger 25 : 6-7)

Lời Chúa trên đây, thêm một lần nữa, cho ta thấy rơ là con người có tự do nên đă chọn làm những việc sai trái khiến Thiên Chúa bất đắc dĩ phải đánh phạt, v́ con ngươi ngoan cố không chịu nghe những lời Người đă cảnh cáo họ qua miệng các ngôn sứ trong thời Cựu Ước.

Sau này, khi đến trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi bị luận phạt v́ tội lỗi, Chúa Giêsu cũng đă tôn trọng ư muốn tự do của con người nên đă nói như sau với dân Do Thái thời đó:

Ai không đi với Ta là chống lại Ta; và ai không cùng Ta thu góp, là phân tán.” (Mt 12 : 30; Lc 11 : 23)

Không đi với Chúa là “Con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14 : 6) để tự do sống theo ư riêng ḿnh, tự do làm những sự dữ khiến Chúa đă phải ngao ngán than trách và cảnh cáo như sau:

Ta biết việc các ngươi làm : ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh.Phải chi ngươi lạnh hẳn đi hay nóng hẳn đi. Nhưng v́ ngươi hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3 : 15-16)

Qua những lời phán bảo trên đây của Chúa Giêsu, chúng ta thêm biết rơ là con người có ư muốn tự do mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dụng. Và chính v́ có tự do, nên con người mới phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về những việc ḿnh làm, những lời ḿnh nói bao lâu c̣n sống thân phận con người trên trần thế này.

Nói khác đi, Thiên Chúa không bắt buộc ai phải yêu mến Người và làm những việc tốt lành như yêu mến tha nhân, thực thi bác ái, công bằng, khoan dung, nhẫn nại và tha thứ cho nhau, như Chúa Giêsu đă yêu thương và tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần trong cuộc sống. Do đó, nếu chúng ta dùng ư muốn tự do để thực tâm yêu mến Chúa và thực thi các thánh chỉ của Người th́ chắc chắn chúng ta sẽ làm vui ḷng Người và được chúc phúc như Thiên Chúa đă phán bảo con người qua các ngôn sứ xưa kia trong thời Cựu Ước, và cuối cùng, qua chính Con Một Người là Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đă đến để rao giảng Tin Mừng cứu độ và đă hy sinh “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 28)

V́ thế ai nghe Chúa Con là nghe Chúa Cha như Chúa Giê su đă nói với các môn đệ Người như sau:

Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đă sai Thầy.” (Lc 10: 16)

Lời Chúa trên đây cũng chỉ cho chúng ta thấy rơ là nếu ta muốn đi theo Chúa, muốn sống hạnh phúc với Người, th́ phải sẵn sàng gạt bỏ mọi ư riêng để sống theo đường lối của Chúa, thay v́ chọn khước từ Chúa để sống theo thế gian, và làm những sự xấu, sự gian ác như biết bao kẻ không có đức tin đă và đang làm ở khắp nơi trên thế giới hiện nay.

Ai muốn xử dụng tự do để sống theo người đời như vậy, th́ hăy nghe lời cảnh cáo của Chúa sau đây:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! nhưng chi ai thi hành ư muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7 : 21)

Làm theo ư Cha trên Trời có nghĩa là dùng ư muốn tự do của ḿnh để sống cho Chúa, cho mục đích t́m kiếm Nước Trời hơn là chạy theo những quyến rũ của thế gian để tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, hư danh trần thế, và mọi thú vui vô luân vô đạo như thực trạng của thế giới tục hóa ngày nay.

Tóm lại, Thiên Chúa ban ư muốn tự do cho con người xử dụng để con người tự nguyện yêu mến và sống theo đường lối của Chúa hầu được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, hay ngược lại, phải bị luận phạt v́ đă tự do đi con đường dẫn đến sự hư mất đời đời, một điều chắc chắn Thiên Chúa không muốn cho ai rơi vào, v́ Người yêu thương và “muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư.” như Thánh Phaolô đă quả quyết. (1 Tm 2 : 4)

Bí Tích Thánh Thể Là Ǵ Và Quan Trọng Ra Sao?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Trong năm Đức Tin đang diễn ra và sẽ kết thức ngày 24 tháng 11 năm nay, Giáo Hội mời gọi mọi tín hữu không những đào sâu kho tàng đức tin trong Kinh Thánh mà c̣n đặc biệt chú ư đên việc tham dự tích cực việc cử hành các Bí tích, đặc biệt là hai bí tích rất quan trọng là Thánh Thể và Ḥa giải cũng như thực hành các Điều Rân của Bản Thập Giới, (Decaloque) và siêng năng cầu nguyện, như Đức Thánh Cha Phanxicô đă nhấn mạnh trong Tông Thư Ánh Sáng Đức Tin (Lumen Fidei) của ngài.

Thật vậy, tôi cần nói lại một lần nữa về Bí Tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist), v́ đây là việc đạo đức và cũng là việc thờ phượng quan trọng nhất trong đời sống của Giáo Hội nói chung và của người tín hữu nói riêng.

Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium (SC) đă nói rơ như sau về Phụng Vu Thánh nói chung và Thánh lễ Tạ Ơn nói riêng :

Phụng Vụ là tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội qui hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội… V́ thế, Phụng Vụ, nhất là Thánh lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách vô cùng hứu hiệu; đồng thời Thiên Chúa được tôn vinh : đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội.” (x SC, số 10)

Nói rơ hơn, Phụng Vụ Thánh là toàn bộ việc thờ phương, tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa mà Giáo Hội cử hành nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi), Đấng đă tự hiến ḿnh làm của lễ hoàn hảo và đẹp long Chúa Cha nhất để xin ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, v́ “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư. (1 Tm 2 : 4)

Trong Bữa Ăn cuối cùng với Nhóm Mười Hai Tông Đồ, trước khi bị trao nộp, Chúa Giêsu đă thiết lập hai Bí tích rất quan trọng là Bí Tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh để “và đây Thầy ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28 : 20)

Trước hết, Người cầm bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các các Tông Đồ hiện diện và nói “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là ḿnh Thầy.” Sau đó, Chúa cũng trao chén rượu cho các ông và nói : “Đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra v́ muôn người.”

Sau khi trao Ḿnh và Máu Người cho các Tông Đồ, Chúa Giêsu nói tiếp : “Anh em hăy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”. Đây là là Bí Tích truyền Chức Thánh để Giáo Hội tiếp tục cử bành Bí tích Thánh Thể để diễn lại Bữa ăn cuối cùng của Chúa (Mt 26: 26-28; Mc 14: 22-24; Lc 22: 19-20; 1 Cor 11: 23- 25).

Thánh lễ Tạ Ơn không những diễn lại cách bí tích Bữa Ăn cuối cùng của Chúa Giêsu mà quan trọng hơn nữa, là diễn lại Hy Tế thập giá của Người một lần trên đồi Can-vê xưa kia, khi Người bị treo trên thập giá và đổ máu ḿnh ra. Và đây là “máu giao ước” đổ ra đê cứu chuộc cho muôn người được sống mỗi lần hy tế đền tội này được tái diễn cách bí tích trên bàn thờ ngày nay.

Bởi thế, khi tham dự Thánh lễ Tạ Ơn, chúng ta được tham dự Bữa Ăn của Chúa và nhất là được lănh ơn cứu chuộc của Người, v́ mỗi lần Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chiu hiến tê (1 Cor 5, 7) th́ công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” (x Lumen Gentium số 3)

Nghĩa là mỗi lần Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành trên Bàn thờ ở bất cứ nơi nào trong Giáo Hôi, th́ Chúa Kitô lại hiện diện cách bí tích (bí nhiệm) nơi các thừa tác viên con người là linh mục hay giám mục để diễn lại Bữa ăn và Hy tế thập giá của Chúa Kitô để cho chúng ta, những người sốt sắng tham dự Thánh lễ với tâm hồn trong sạch, được ăn và uống Ḿnh Máu Thánh Chúa như các Tông Đồ xưa trong Bữa tiệc ly cuối cùng. Hơn thế nữa là được lănh ơn cứu chuộc của Chúa, cùng một ơn mà Chúa đă ban cho những người đă sống ngay lành và chết đi trước khi Chúa xuống trần gian làm Con Người và hy sinh mang sống ḿnh “làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 28)

V́ “ngoài Người ra (Chúa Kitô) không ai đem lại ơn cứu độ, v́ dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4 :12)

Như vậy, không có việc đạo đức nào trong Giáo Hội lại có giá trị thiêng liêng lớn hơn Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist) v́ Thánh Lễ không phải là việc cử hành một biến cố đă qua, mà thực chất là diễn lại – hay làm sống lại (make present) cách bí tích Bữa ăn và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô trên bàn thờ ngày nay, đúng như khi xưa chính Chúa đă lập phép Thánh Thể trong bữa ăn sau cùng và dâng ḿnh tế lễ Đức Chúa Cha sau đó trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại.

Chỉ có sự khác biệt nhỏ là xưa kia khi dâng Hy Tế Thập giá trên đồi Can-ve, Chúa Kitô vừa là Linh Mục thượng phẩm, vừa là của lễ cử hành trên bàn thờ là cây thập giá, Ngày nay, Chúa mượn tay và miệng lưỡi của các thừa tác viên con người là linh mục hay giám mục đă được chiu chức thánh thành sự (validly) và hợp pháp (licitly) trong Giáo Hội để dâng lại Hy Tế thập giá trên bàn thờ cho đến ngày măn thời gian để tiếp tục ban phát ơn cứu độ của Chúa Kitô cho những ai tin và nhận biết Chúa là “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người… Đấng đă tự hiến làm giá chuộc mọi người.” (1 Tm 2 : 5-6)

Ơn cứu chuộc của Chúa được ban phát từ Hy Tế thập giá căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đă nói với các Tông Đồ khi Người trao chén máu Người cho các ông uống :

Anh em hăy nhận lấy mà uống, v́ này là chén máu Thầy
Máu giao ước mới và vĩnh cửu
Sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội
Anh em hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy
.” (Kinh Nguyện Thánh Thể I, II, III, IV)

Như thế mỗi lần Hy tế thập giá được tái diễn trên bàn thờ trong Thánh Lễ Tạ Ơn, th́ Chúa Kitô lại đổ máu cách bí nhiệm để ban ơn cứu chuộc của Người cho chúng ta ngày nay như xưa ơn này được ban cho những người đương thời với Chúa và cho cả những người đă chết trước khi Chúa chiu hiến tế cũng như c̣n cho những người sinh ra trong tương lai cho đến ngày măn thời gian.

Cũng cần phải nói thêm là chỉ có linh mục hay giám mục trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương (Easter Orthodox Churches) mới có thể dâng Thánh Lễ Tạ Ơn cách hữu hiệu mà thôi. Sở dĩ thế, v́ nơi các Giáo phái chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo như các nhánh Tin Lành và Anh Giáo (Anglican Communion) đều không có Bí Tích Truyền Chức thánh hữu hiệu, v́ họ không có truyền thống Tông Đồ (Apostolic succession) nên họ không có Chức Linh mục hữu hiệu để cử hành hữu hiệu bí tích Thánh Thể và Hy tế thập giá của Chúa Kitô, mặc dù họ có diễn lại bữa ăn của Chúa và cũng bẻ bánh và uống rượu.

Chính v́ lư do này mà sau khi các mục sư Tin Lành hay các cựu linh mục và giám mục Anh Giáo trở lại với Giáo Hội Công Giáo, phải được học thêm và chiu chức linh mục của Giáo Hội, nếu họ muốn tiếp tục làm linh mục..Chỉ có một đặc ân cho họ là họ được phép tiếp tục sống với vợ con sau khi chịu chức để làm mục vụ trong Giáo Hội Công Giáo.

Trở lại với Bí tích Thánh Thể cử hành trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn, cần nhấn mạnh thêm một lần nữa, là theo lời dạy của Thánh Công Đông Vaticanô II, Thánh Lễ là “nguồn mạch và là chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (LG, số 11)

Giáo lư của Giáo Hội cũng dạy rằng : “Thánh Thể là trung tâm điểm và là đỉnh cao của mọi sinh hoạt Giáo Hội, v́ trong Bí tích này Chúa Kitô liên kết Giáo Hội và các chi thể của Giáo Hội vào Hy tế ngợi khen và cảm tạ của Người, được hiến dâng một lần là đủ trên thập giá cho Chúa Cha. Nhờ Hy tế này, Chúa Kitô ban xuống tràn đầy các ân sủng của ơn cứu độ cho Thân thể Người là Giáo Hội.” (x. SGLGHCG số 1407)

Nói khác đi, tất cả đời sống và hoạt động của Giáo Hội đều phải được bổ dưỡng bởi ơn Chúa xuất phát từ Hy tế thập giá của Chúa Kitô để giúp Giáo Hội chu toàn sứ vụ được trao phó là tiếp tục rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho mọi dân trên khắp địa cầu để đạt mục đích mà chính Thiên Chúa mong muốn là “cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4)

Riêng về phần tín hữu giáo dân, ơn sủng của Thánh Lễ Tạ Ơn c̣n cần thiết hơn nữa v́ sống giữa thế gian, người tín hứu Chúa Kitô rất cần ơn thánh để sống đức tin giữa bao thách đố và làm chứng nhân cho Chúa Kitô trước mặt người đời “để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5 :16) như Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa.

Quả thật, Thánh lễ là nguồn ban phát mọi ơn lành của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời, nhất là ơn cứu rỗi của Chúa Kitô, Đấng đă đỏ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho toàn thể nhân loại khỏi phải chết đời đời v́ tôi. Nhưng cho được lănh ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, con người phải có thiện chí công tác với ơn Chúa để quyết tâm xa tránh tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa và qua “của hẹp” mà vào sự sống vĩnh cửu trên Nước trời mai sau.

V́ thế, mọi tín hữu trong Giáo Hội đều được mời gọi tích cực tham dự Thánh lễ Tạ Ơn cách sốt săng và với tâm hồn trong sạch để trước hết nghe lời Chúa trong phần Phung vụ lời Chúa (Liturgy of the word) và rước Chúa Kitô vào ḷng trong phần Phụng vụ Thánh Thể (Liturgy of Eucharist)

Phải nhấn mạnh điều kiện sách tội, nhất là tội trọng v́ nếu ai đang mắc tội này và chưa được tha qua bí tích ḥa giải th́ không được phép làm lễ (linh mục) và rước Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô (giáo dân) trong Thánh Lễ. (x.SGLGHCG số 1415 ; Giáo luật số 916)

Lời Chúa và Ḿnh Máu thánh Người là của ăn nuôi linh hồn chúng ta và cho ta hy vọng được sống muôn đời như Chúa Giêsu đă hứa:

Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta
Th́ được sống muôn đời
Và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết
.” (Ga 6 : 54)

Khi tham dự Thánh lễ, mọi tín hứu giáo dân được mong đợi dâng mọi vui buồn, sướng khổ của ḿnh kết hợp với sự đau khổ của Chúa Kitô xua trên thập giá để cùng dâng lên Thiên Chúa làm của Lễ xin ơn tha thứ và cứu chuộc cho chúng ta mỗi khi tham dự Thánh lễ.

Đây cũng là cách thức thi hành chức vụ Tư Tế chung hay thông thường của các tín hứu (ordinary or common priesthood of the laity) khác với chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của hàng giáo sĩ (ministerial or hỉerarchical priesthood of the clerics). Hàng giáo sĩ đây là các linh mục và giám mục họp thành hàng tư tế (Sacerdos) để dâng Hy tế Thập giá trên bàn thờ nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) là “Thượng Tế theo phẩm theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.” (Dt 5: 10).

Tóm lại, Thánh Lễ Tạ Ơn quả thực là suối nguồi tuôn chảy ơn Chúa cho mọi người tham dự với ḷng sốt sắng và ư thức đầy đủ về những lợi ích thiêng liêng to lớn của việc thờ phượng, ca ngợi, tạ ơn và xin ơn Chúa mỗi khi cử hành và tham dự Thánh Lễ này..

Chúng ta cùng cảm tạ Chúa Kitô đă biến ḿnh làm của ăn của uống nuội sống linh hồn chúng ta và nhất là đă hiến mang sống ḿnh, đă đỏ máu ra một lần xưa kia trên thập giá và tiếp tục dâng Hy tế đền tội này ngày nay trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội, là Hiền thê và là Thân thể nhiệm mầu của Chúa trên trần gian.

Liên Hệ Mật Thiết Giữa Đức Tin Và Chu Toàn Mọi Giới Răn Của Chúa

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha Phanxicô I vừa cho công bố Tông Thư đầu tiên của ngài nhan đề : Ánh Sáng Đức Tin (Lumen Fidei) để nhắc nhở mọi tín hữu trong Giáo Hội suy niệm thêm nữa về quà tặng đức tin mà Thiên Chúa đă ban cho chúng ta để giúp chúng ta vững tin có Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng mọi loài vô h́nh và hữu h́nh, tin Chúa Kitô đă xuống thế làm Con Người để - qua khổ h́nh thập giá - cứu chuộc cho nhân loại khỏi bị án phạt v́ tội.

Ánh sáng Đức Tin là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta vững chắc bước đi theo Chúa Kitô là “Con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” (Ga 14 : 6) Chúa Giêsu-Kitô chính là Ánh Sáng đă đến trong trần gian để soi sáng và giải phóng đúng nghĩa cho những ai đang ngồi trong bóng tối của tử thần, của tội lỗi và sự dữ, như Người đă nói với với các môn đệ và dân Do Thái xưa:

Tôi là ánh Sáng đến thế gian
Để bất cứ ai tin vào Tôi
Th́ không ở lại trong bóng tối.”
(Ga 12 : 46)

Tin vào Chúa để không ở lại trong bóng tối, có nghĩa là đoạn tuyệt với tội lỗi v́ “tội lỗi gây nên sự chết, như thế sự chết đă lan tràn tới mọi người v́ một người đă phạm tội” như Thánh Phaolô đă quả quyết. (Rm 5: 12). Bóng tối là nơi trú ẩn của mọi sự dữ, sự gian tà, dâm đăng ô uế, v́ ma quỷ, kẻ thù của chúng ta, đang ẩn ḿnh ở nơi đây để không ngừng lôi kéo con người ra khỏi t́nh thương của Chúa để làm nô lệ cho chúng khiến mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, “Đấng đă hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 28).

Ánh sáng đức tin không những soi đường cho người có niềm tin vững chắc bước đi trong chân lư, trong đường ngay lành, lương thiện mà c̣n chỉ cho ta biết những ǵ trái nghịch với đức tin vào một Thiên Chúa Ba Ngôi để từ đó thêm quyết tâm sống theo đường lối của Người, xa tránh mọi sự dữ, sự tội để sống xứng đáng là người có niềm tin và thể hiện niềm tin ấy từ trong tâm hồn ra ngoài hành động cụ thể trước mặt bao người không có hay chưa có đức tin để :

Họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5 : 16).

Thật vậy, cứ nh́n vào thực trạng con người đang sống ở khắp nơi trên thế giới ngày nay cũng đủ cho ta thấy lằn ranh của ánh sáng đức tin và bóng tối của sự dữ, sự chết đang bao phủ biết bao người sống trong đó.

Nếu ánh sáng đức tin đă soi dẫn cho những nhà truyền giáo quên thân ḿnh để hy sinh đi mở mang Nước Chúa ở các nơi xa xôi và nguy hiểm bên Phi Châu, Nam Mỹ và A Châu, th́ ngược lại bóng đen của sự dữ đang che mắt và lèo lái biết bao người khiến họ mù ḷa không c̣n nh́n rơ lan ranh giữa sự thiện và sự dữ.

Đó là những kẻ đang giết người v́ tiền, v́ tin tưởng cuồng tín, hay v́ muốn bám lấy địa vi cai trị độc ác của ḿnh nên đă ra tay sát hại bao trăm ngàn người đang đ̣i hỏi công lư, dân chủ và tự do.ở nhiều nơi trên thế giới.

Đó là những kẻ đang giết chết hàng triệu thai nhi mỗi ngày trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Trung Hoa lục địa, nơi trẻ nữ đă bị sát hại từ bao thế kỷ trước kia v́ quan niệm trọng nam khinh nữ và nay v́ chính sách “một con cho mỗi gia đ́nh” của nhà cầm quyền cộng sản.

Đó là những kẻ đang buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ măi dâm rất khốn nạn và tội lỗi ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay. Sau cùng, đó là những kẻ gian manh, trộm cướp, mở ṣng cờ bạc, nhà điếm, sản xuất phim ảnh khiêu dâm đồi trụy, trồng và bán các loại cần sa ma túy để làm giầu nhờ buôn bán các sản phẩm nguy hại cho thể xác và đồi trụy tinh thần con người, đặc biệt là giới trẻ ở khắp nơi.

Tất cả những loại người trên đây đă và đang sống trong bóng đêm của sự chết, sự hư mất đời đời nên cần được ánh sáng đức tin và Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô soi chiếu và giải thoát cho ra khỏi bóng đêm đáng ghê sợ đó.

Nhưng bằng cách nào ?

Đây là câu hỏi đặt ra cho mỗi người tín hữu chúng ta, những người có diễm phúc đă được biết Chúa Kitô là chính Tin Mừng và là Ánh Sáng chiếu soi, nên có bổn phận và trách nhiệm đem ánh sáng ấy chiếu vào những nơi tối tăm, x́nh lầy, nhơ uế của tục hóa, vô thần và vô luân đang bao phủ và mê hoặc biết bao triệu người ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

Đây chính là trách nhiệm “phúc âm hóa môi trường sống” của người tín hữu Chúa Kitô bằng đời sống chứng nhân của ḿnh ở giữa những người chưa biết Chúa và đang bị bóng đêm của sự chết bao phủ.

Thi hành vai tṛ chứng nhân nói trên đ̣i hỏi mọi tín hữu trong Giáo Hội- từ hàng Giáo Phẩm, giáo sí, tu sĩ và giáo dân- trước hết phải thực sự sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, để minh chứng đức tin thực sự của ḿnh. Ngược lại, nếu sống phản chứng hay mâu thuẫn với niềm tin, th́ sẽ không thuyết phục được ai tin những ǵ ḿnh muốn rao giảng cho họ, v́ không ai có thể cho người khác cái mà chính ḿnh không có.

Cụ thể, nếu ḿnh rao giảng tinh thần nghèo khó, và khinh chê hư danh trần thế của Phúc Âm, nhưng chính bản thân ḿnh lại chạy theo thế quyền, ham mê tiền của, hơn là hăng say rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng th́ làm sao có thể thuyết phục được ai tin và sống điều ḿnh giảng dạy nữa.?

Nếu lời nói không đi đôi với việc làm th́ không thể làm nhân chứng cho bất cứ điều ǵ được, v́

Ai tin vào Con Thiên Chúa, th́ có lời chứng ấy nơi ḿnh
Ai không tin Thiên Chúa, th́ coi Thiên Chúa là kẻ nói dối
V́ kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa
Để làm chứng về Con của Người.
” (1 Ga : 5: 10)

Như thế, thật vô cùng cần thiết phải sống đức tin cách cụ thể để mời gọi người chưa có đức tin được nhận biết có Chúa Kitô đang sống và hoạt động nơi ḿnh để từ đó đời sống và lời rao giảng của ḿnh sẽ có sức thuyết phục người khác.

Cụ thể, nếu người Công giáo, người Tin hữu Chúa Kitô mà cũng ăn gian nói dối, lường đảo, hận thù, thay chồng đổi vợ, bất công và thờ ơ với người nghèo khó, th́ làm sao có thể thuyết phục được ai tin có Chúa là Đấng nhân từ, công chính, yêu thương, nhịn nhục và tha thứ ? Đó là lư do tại sao Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đă khuyên dạy như sau:

Thưa anh em, ai bảo rằng ḿnh có đức tin mà không hành động th́ nào có ích ǵ ? ... Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2 : 14, 26)

Hành động mà thánh Gia-cô-bê nói trên đây là chính đời sống nhân chứng của người có niềm tin nơi Chúa trước mặt ngưởi khác để họ thấy chiếu sáng qua đời sống của ḿnh những giá trị của Tin Mừng về công bằng, nhân ái, lương thiện, nhịn nhục và tha thứ đối nghịch với bất công, gian ác, bất lương, dâm ô, thù hận, vô nhân đạo, vô luân vô đạo của thế gian tục hóa, trống vắng niềm tin.

Trong bối cảnh ấy, nếu người có niềm tin vững mạnh và sống niềm tin của ḿnh cách cụ thể trước mặt người đời, th́ “anh em sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời.” như Thánh Phaolô đă viết cho các tín hữu Phi-lip-Phê (Pl 2 : 15)

Mặt khác, sống trong ánh sáng đức tin, người tín hữu không thể coi nhẹ việc cầu nguyện, lănh nhận các bí tích tối cần như Thánh Thể và ḥa giải, và tuân giữ những giới răn của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Phanxicô đă viết trong Tông Thư “Ánh Sáng Đức Tin, số 40-46)

Cần cầu nguyện để nói lên niềm tin có Chúa và tin thác vào ơn Chúa để có đủ sức vươn lên trong mọi chiều kích của đức tin và ḷng mến yêu Chúa. Cầu nguyện cũng đem ta đến gần Chúa là nguồn ban phát mọi ơn cần thiết giúp ta luôn sống trong t́nh yêu của Chúa và có đủ sức để chông lại mọi cám dỗ của ma quỷ tinh quái, xác thịt yêu đuối và gương xấu, dịp tội đầy rẫy trong mọi môi trường sống ngày nay.

Mặt khác, tuân giữ các Giới Răn của Chúa trong Bản Thâp Điều (Decaloque) cũng mạnh mẽ nói lên niềm tin và mến yêu Chúa cách cụ thể, như lời Chúa Giêsu đă nói với các Tông Đồ xưa:

Ai yêu mến Thầy th́ sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy...
” (Ga 14: 23)

Mười điều Răn của Chúa không phải là những đ̣i hỏi có tích tiêu cực mà là những chỉ dẫn cụ thể để giúp ta đáp trả t́nh yêu vô biên của Thiên Chúa, thể hiện qua Chúa Kitô, Đấng cũng v́ yêu thương mà “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 8)…

Nói khác đi, thực thi Mười Điều Răn của Chúa, được đúc kết trong hai điều răn quan trọng nhất mà Chúa Kitô đă nói với với một kinh sư kia (Mc 12 : 29-31) là cách biểu lộ cụ thể niềm tin và biết ơn của chúng ta đối với Chúa, là Đấng đă tạo dựng và cứu độ chúng ta, chỉ v́ Người yêu thương chúng ta quá vô vị lợi, chứ tuyệt đối Người không được lợi lộc ǵ mà phải làm như vậy. Do, đó, yêu mến Chúa và tuân thủ các giới răn của Người chỉ có lợi cho chúng ta mà thôi, đúng như lời ông Mô-sê đă nói với dân Do Thái xưa:

Anh em hăy lo thực hành như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đă truyền cho anh em, không đi trệch bên phải, bên trái. Anh em hăy đi đúng con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đă truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.” (Đnl 5: 32-33)

Như thế rơ rệt cho thấy là đức tin phải được thể hiện cụ thể bằng việc làm mới có giá trị cứu độ để được hưởng hạnh phúc Nước Trời, hạnh phúc mà “mắt chưa hề thấy, tai chưa hề, ḷng người chưa chưa hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đă dọn sẵn cho những ai yêu mến Người.” (1 Cor 2 : 9) như Thánh Phaolô đă nhắc lại cho tín hữu Cô-rin-tô.

Tóm lại, nhờ ánh sáng đức tin chiếu soi, chúng ta được thấy Chúa và tin có Người, dù chưa từng trông thấy Người bằng con mắt xác thịt. Lai nữa, nhờ ánh sáng đức tin, ta được nh́n rơ lan ranh giữa sự thiện và sự dữ, sự gian tà và nhơ uế để từ đó quyết tâm chọn lựa con đường dẫn đến gặp Chúa, là nguồn ai vui, hạnh phúc bất diệt.

Tuy nhiên, chúng ta phải có thiện chí muốn cho ánh sáng đức tin soi dẫn và có can đảm để bước đi trong ánh sáng đó th́ mới mong tới được cùng đích hay chính đối tượng của đức tin là Thiên Chúa, Cha rất nhân từ đang ngự trên trời cao và muốn “đến cư ngụ trong những ai yêu mến Chúa Kitô và tuân giữ lời Chúa”, như Người đă nói với các môn đệ trong diễn từ cáo biệt trước khi thọ nạn thập giá. (x Ga 14 : 23)

Thiên Chúa Có Cần Con Người Làm Việc Lành Để Được Cứu Rỗi Hay Không?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi : Tại sao các anh em Tin Lành nói chỉ cần tin Chúa Kitô là được cứu rỗi trong khi Giáo Hội Công Giáo dạy phải làm thêm việc lành nữa ?

Trả lời : Liên quan đến vấn đề cứu rỗi (salvation) th́ giữa Giáo Hội Công Giáo và anh em Tin Lành nói chung (Protestants) đă có sự khác biệt lớn lao, hầu như không thể vượt qua được để có thể đi đến chỗ cùng chia sẻ một niềm tin về ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Trước hết, chúng ta cần biết qua về Nhóm Kitô giáo gọi chung là Tin Lành (Protestantism) do những người chủ xướng như Martin Luther ở Đức, năm 1517; John Calvin ở Pháp, Ulrich Zwingli ở Thụy sĩ, và King Henry VIII và Wolsey ở Anh năm 1527. Họ đă tự tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo để tiến hành cài gọi là “Cải cách tôn giáo “Protestant Reformation’ trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sau này lan tràn sang Mỹ và Á Châu. Riêng ở Mỹ, các nhóm Tin Lành chính gồm có Baptists, Methodists, Lutherans, Presbyterians, Protestant Episcopal, United Church of Christ, Episcopalians, Quakers, Disciples of Christ of the Later-day Saints, Jehovah’s Witnesses…

Quan điểm thần học của họ dựa trên 2 tiêu chuẩn hay nguyên tắc căn bản chính sau đây :

1- Vai tṛ tối cao của Thánh Kinh (Supremacy of the Scriptures) như là nguồn duy nhất (Sola Scriptura) cho Niềm tin và chân lư Kitô Giáo.

2- Sự công chính hóa (Justification) hay ơn cứu độ chỉ nhờ vào đức tin mà thôi.

Tất cả 2 nguyên tắc trên đều không hoàn toàn phù hợp với niềm tin và giáo lư của Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo (Orthodox Churches) v́ lư do như sau:

Thứ nhất, Giáo Hội Công Giáo tin Thánh Kinh, Mạc Khải (Revelation), và Thánh Truyền (Sacred Tradition) là 3 nguồn chân lư của đức tin trong khi anh em Tin Lành chỉ tin có Thánh Kinh, không công nhận Mạc Khải và Thánh Truyền, kể cả Quyền Giáo Huấn (Magisterium) của Giáo Hội và vai tṛ lănh đạo của Đức Thánh Cha. Họ tin Kinh Thánh nhưng lại hiểu theo cách cắt nghĩa riêng của họ, khác với cách hiểu và cắt nghĩa của Công Giáo.

Cụ thể, liên quan đến đoạn Thánh Kinh Tân Ước trong Tin Mừng Thánh Matthêu sau đây :

Người (Chúa Giêsu) c̣n đang nói với đám đông, th́ có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài t́m cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có Mẹ và anh em Thầy đứng ngoài kia, t́m cách nói chuyện với Thầy.” (Mt 12 : 46-4)

Anh em Tin Lành đă cắt nghĩa cụm từ “anh em “ở trên theo nghĩa anh em huyết tộc, để từ đó nói rằng Đức Mẹ, sau khi sinh Chúa Giêsu, c̣n sinh thêm một số con nữa,.và từ ngữ “anh em” trong câu trên được họ giải thích là con ruột của Đức Mẹ, em của Chúa Giêsu, cho nên Đức Mẹ không c̣n đồng trinh trọn đời như Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống tin.

Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo cắt nghĩa từ ngữ “anh em “nói trên theo nghĩa thiêng liêng, chứ không theo nghĩa đen (literal meaning) của từ ngữ, nên tin vững chắc rằng Đức Maria chỉ sinh có một Người Con duy nhất là Chúa Giêsu nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, v́ thế Mẹ vẫn trọn đời đồng trinh như Giáo Hội dạy không sai lầm cho đến nay.

2- Liên quan đến vấn đề công chính hóa và ơn cứu rỗi, anh em Tin Lành cho rằng con người đă mất hết khả năng hành thiện sau khi Adam sa ngă, nên không thể làm được ǵ có giá trị công chính nữa.Do đó, chỉ c̣n tin Chúa Kitô là được cứu rỗi mà thôi. Mọi có gắng của cá nhân không thể làm cho con người trở nên công chính (justified) mà phải nhờ vào ơn thánh và tin Chúa Kitô mới được cứu rỗi mà thôi.

Quan điểm trên của anh em Tin Lành chỉ đúng một phần . Đó là cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, là công nghiệp vô giá, v́ nếu không có công nhiệp Chúa đă chịu đau khổ, đă bị đóng đanh và chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại, th́ không ai có thể được cứu rỗi, v́ “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, v́ dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4 :12)

Nghĩa là nếu Chúa Kitô không xuống thế làm Con Người và “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người “ (Mt 20: 28) th́ không ai có thể làm ǵ để tự cứu ḿnh và cứu người khác được. Đây là điều chúng ta phải tin chắc chắn như vậy.

Tuy nhiên, dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa cứu thế Giêsu và ơn của Thiên Chúa là đủ cho ta được cứu rỗi. Nhưng Thiên Chúa vẫn đ̣i con người phải cộng tác vào ơn cứu độ đó bằng nỗi lực tin yêu Chúa và xa tránh mọi tội lỗi, v́ nếu không th́ ơn cứu chuộc vô giá kia của Chúa Kitô vẫn sẽ trở nên vô ích như thường..

Thật vậy, bản chất con người, tuy bị băng hoại v́ tội Nguyên Tổ (Origional Sin), và trở nên rất yếu đuối trước mọi cám dỗ của ma quỷ và dịp tội của thế gian. Nhưng con người vẫn c̣n ư muốn tự do (Free will) mà Thiên Chúa tôn trọng cho con người sử dụng để hoặc tự do chọn sống theo đường lối của Chúa hay theo thế gian tội lỗi để quay lưng lại với Thiên Chúa là Cha nhân từ, “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4)

Kinh nghiệm bản thân của mỗi người chúng ta đủ chứng minh điều này : đó là chúng ta không bị bó buộc phải yêu mến Chúa và làm việc lành phúc đức. Chúng ta vẫn cảm thấy ḿnh được tự do sống cho Chúa hay theo thế gian vô thần, vô luân, vô đạo.

Cụ thể, ngày Chúa Nhật, có biết bao người Công Giáo đă tự ư không đi tham dự Thánh Lễ, để ở nhà coi football, hay đi đánh bạc và du hí ở những nơi tội lỗi. Lại nữa, có biết bao người tự do bỏ vợ, bỏ chồng dù đă có con cái và sống chung với nhau nhiều năm. Có vợ chồng c̣n thuê người khác giết vợ hay chồng của ḿnh để đi xây tổ ấm mới ! Và c̣n biết bao người khác đă và đang làm những sự dữ như giết người, gian manh, lường đảo, dâm ô, bài bạc, trộm cướp, bóc lột …

Nếu sống như vậy, th́ họ nghe theo tiếng gọi của Chúa, tiếng lương tâm của họ hay theo thói đời hư đốn đồi trụy ?

Chính v́ con người c̣n có tự do để làm sự lành sự thiên hay sự gian ác, tội lỗi, nên đức tin phải được chứng minh cụ thể bằng hành động như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đă dạy như sau:

“Thưa anh em, ai bảo ḿnh có đức tin mà không hành động theo đức tin th́ nào có ích lợi ǵ? Đức tin có thể cứu người đó được chăng?” (Gc 2 : 14)

Cụ thể, nếu tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà lại không thi hành những lời Người dạy bảo về mến Chúa, yêu tha nhân, yêu mến sự thiện hảo, công b́nh và bác ái, th́ đức tin đó là “đức tin chết” theo lời dạy của Thánh Gia-cô-bê (Gc`: 12: 17).

Kinh Thánh cho biết ông Abraham đă thể hiện đức tin và ḷng mến yêu Thiên Chúa của ông bằng hành động dám hy sinh con ḿnh là Isaac, như Thiên Chúa đ̣i hỏi để thử thách ông. Và ông đă chứng minh đức tin và đức mến phi thường của ḿnh khi đang định sát tế con một của ông, nên “Thiên Chúa kể ông là người công chính và ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.” (Gc 2 : 23)

Như thế đủ cho thấy là đức tin cần được thể hiện cụ thể bằng hành động theo gương ông Abraham và các Thánh Tử Đạo là những người đă dám đỏ máu ḿnh ra để tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô.Nhưng không phải chỉ đổ máu ra mới minh chứng được đức tin. Ngược lại, bằng đời sống b́nh thường trong gia đ́nh và ngoài xă hội, người có đức tin vẫn có thể biểu lộ đức bằng hành động cụ thể, như làm việc bác ái, nhẫn nhục, chiu đưng và tha thứ cho người khác để minh chứng niềm tin sống động của ḿnh vào Thiên Chúa, là Cha nhân từ, đầy yêu thương và tha thứ. Trái lại, nếu miệng tuyên xưng đức tin có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, nhưng chân lại bước vào những con đường tội lỗi như cờ bạc, gian manh, lừa đảo, dâm ô,trộm cắp, giết người …th́ dẫu có tuyên xưng đức tin hàng trăm ngàn lần ngoài môi miệng cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy.

Đó là lư do tại sao Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa những lời sau đây :

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào nước trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7 : 21)

Làm theo ư muốn của Cha trên Trời có nghĩa là thực thi những Điều Răn của Chúa về yêu thương, công b́nh, bác ái và thánh thiện.Nghĩa là thể hiện đức tin bằng hành động cụ thể sao cho phù hợp với niềm tin có Chúa là Cha ngự trên trời, là Đấng công minh thưởng phạt con người về những việc ḿnh làm trên trần thế này.

Mặt khác, nếu chỉ cần có đức tin là đủ cho được cứu rỗi như anh em Tin Lành rao giảng, th́ tại sao Chúa Giêsu, qua dụ ngôn về Ngày Phán Xét chung, lại nói với những người đứng bên phải Người như sau :

Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc :hăy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi …V́ xưa Ta đói, các ngươi đă cho ăn, Ta khát các người đă cho uống…” (Mt 25 34-35).

C̣n những kẻ đứng bên trái Người, Chúa cũng phán bảo họ rằng : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó, v́ xưa Ta đói, các ngươi đă không cho ta ăn; Ta khát các người đă không chouống,.. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đă chẳng thăm nom…” (cc. 41-42)

Khi phán những lời trên với hai loại người đứng bên phải và bên trái, Chúa Giêsu đă tự đồng hóa ḿnh với những người nghèo đói, bệnh tật và tù đày đang có mặt ở khắp nơi trên trần gian này. Nếu chúng ta thực thi đức tin bằng đức ái nồng nàn để ra tay cứu giúp những anh chị em kém may mắn đó, th́ chúng ta đă thi hành bác ái với chính Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những người xấu số đó. Ngược lại, nếu chúng ta làm ngơ, hay dửng dưng trước những đau khổ và nghèo đói của anh chị em đồng loại, th́ chúng ta đă nhắm mặt bịt tai để không nh́n, không nghe tiếng Chúa đang kêu xin chúng ta nơi những người đau khổ, thiếu thốn tù đầy, và bệnh tật ở quanh ḿnh.

Tóm lại, dụ ngôn Ngày Phán Xét chung đă hùng hồn nói lên sự cần thiết phải thể hiện đức tin bằng hành động bác ái tương xứng để đáng được lănh nhận ợn cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng cũng v́ yêu thương con người cách cụ thể mà đă “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 28)

Như vậy, chỉ tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô như anh em Tin Lành chủ trương là chưa đủ, mặc dù là cần thiết. Cần thiết v́ nếu không có công nghiệp cực trọng của Chúa Kitô, th́ không ai có thể tự sức ḿnh làm được ǵ để đáng được cứu rỗi.

Tuy nhiên, như đă nói ở trên, nếu chỉ tin Chúa Kitô và nhờ ơn cứu chuộc của Người mà không làm ǵ hết về phần ḿnh; hay tệ hại hơn nữa, là cứ sống thù nghịch với thập giá của Chúa Kitô bằng đời sống phản chứng, phạm những tội khiến Chúa đă bị đóng đanh để đền thay cho, th́ chắc chắn công cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giêsu sẽ trở nên vô ích cho những ai cứ sống đức tin cách mâu thuẫn như vậy.

Tóm lại, ta không thể lợi dụng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và không làm ǵ về phần ḿnh để cộng tác với ơn cứu độ của Chúa. Đó là lư do tại sao Giáo Hôi Công Giáo dạy con cái ḿnh phải tin Chúa Kitô và minh chứng niềm tin ấy bằng quyết tâm cải thiện đời sống dựa trên Tin Mừng Cứu Độ và cụ thể hóa niềm tin bằng hành động bác ái theo tinh thần dụ ngôn Ngày Phán Xét chung nói trên.

người được cứu rỗi và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4).

Mục đích canh tân này thực cần thiết trong bối cảnh thế giới tục hóa ngày nay, khi con người ở khắp nơi chỉ hăng say đi t́m tiền của, hư danh trần thế, tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) coi nhẹ hay xem thường những đ̣i hỏi của lương tâm về luân lư, đạo đức, công bằng và bác ái, là những nguyên tắc căn bản và là bộ mặt của một đời sống hướng thượng, trái nghịch với bộ mặt và thực chất của “văn hóa sự chết” đội lốt chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, và mọi `vui thú vô luân vô đạo đang lộng hành ở khắp nơi, cách riêng ở các quốc gia Âu Mỹ.

Thực trạng trên đang xô đẩy biết bao người vào con đường hư mất đời đời trong đó có những người đă được đức tin qua Phép Rửa, nhưng nay đă rời xa Giáo Hội và chối bỏ đức tin bằng chính đời sống của họ.

Để đối phó với nguy cơ nói trên, và cũng để bảo vệ và củng cố đức tin, Giáo Hội hô hào phải “ tái phúc âm hóa” để canh tân và đào sâu thêm đức tin Kitô-Giáo dựa trên chính Chúa Kitô là Tin Mừng đă đến trong trần gian cách nay trên 2000 năm để loan báo “cho mọi loài thụ tạo, và ai tin và chịu phép rửa th́ được cứu rỗi, c̣n ai không tin sẽ bị kết án.” (Mk 16 : 16).

Thật vậy, Tin Mừng –hay Phúc Âm- là tất cả những ǵ đă được viết về Chúa Giêsu-Kitô, từ ngày Người sinh ra cách khó nghèo trong hang ḅ lừa cho đến ngày Người chết tủi nhục trên thập giá, sau khi phải chịu biết bao đau khổ, nhục nhă, để hiến mạng sống ḿnh “làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).

Không những Phúc Âm ghi lại cuộc đời của Chúa mà đặc biệt là truyền lại những lời Người giảng dạy trong suốt ba năm cùng các Môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho dân Do Thái, nhưng đă bị các giai cấp Trưởng lăo, Tư Tế và luật sĩ Do Thái loai bỏ, không đón nhận mà c̣n lên án tử h́nh cho Chúa qua khổ nạn vác thập giá như ta đọc thấy trong 4 Tin Mừng.

Phúc Âm của bốn Thánh Sử Matthêu, Mac-cô, Luca và Gioan chỉ ghi chép phần nào những lời Chúa nói và việc Người làm, nhưng không phải tất cả những lời giảng dạy của Chúa, v́ theo Thánh Gioan th́ “ Nếu viết lại từng điều một th́ tôi thiết nghĩ, cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21: 25).

Tuy nhiên, những ǵ các Thánh Sử đă ghi chép, kế cả các Thư Mục vụ của các Thánh Phaolô, Phê rô, Gia-Cô-Bê, Gioan, và Giuđa bổ túc thêm giáo lư vững chắc cho chân lư của các Tin Mừng của bốn Thánh Sử, đă trở thành toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước, được thẩm quyền Giáo Hội coi là Sách Thánh, v́ có ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần cùng với 46 Sách Cựu Ưỡc hợp thành trọn bộ Thánh Kinh mà Công Đồng đại kết thứ 19 họp tai Trent (1545-1563) đă đóng thư qui.

Thật vậy, các Sách Thánh gồm chung các sách Cựu và Tân Ước viết bằng tiếng Do Thái và Hy lạp đă được Thánh Giê –rô- ni mô (St Jerome, died 420 A.D) dịch ra tiếng Latinh chung trong một Bản gọi là Vulgate tức bản Thánh Kinh Phổ thông được Công Đồng Trentô đóng thư qui là những Sách Thánh có ơn linh hứng đă được công nhận từ Công Đồng Phi Châu (1501-04) cho đến Công Đồng Trento, rồi Công Đồng Vaticanô I (1870) và Vaticanô II (1962-65) cho đến nay.

Nghĩa là từ khi bản Phổ thông Vulgate được chính thức đóng thư qui cho đến nay, th́ không hề có thêm sách hay điều ǵ mới được thêm bớt vào nội dung các Sách đă được công nhận là Sách Thánh v́ có ơn linh ứng (inspired) của Chúa Thánh Thần.

Do đó, khi kêu gọi “Tân phúc âm hóa” (New Evangelization), một sáng kiến khởi đầu của Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (nay là Chân phước = Blessed), Giáo Hội không công bố một Tin Mừng mới nào khác với nội dung Tin Mừng đă được công nhân từ Công Đồng Trentô cho đến nay.

Nghĩa là tất cả nội dung Thánh Kinh và Tin Mừng đă được thẩm quyền Giáo Hội công nhận và công bố qua các Công Đồng nói trên vẫn nguyên vẹn là một Tin Mừng cần được canh tân trong chiều kích đào sâu thêm ư nghĩa để giúp sống đức tin Kitô Giáo cách phong phú hơn, và có giá trị thuyết phục hơn trong đời sống cúa mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội.

Đó là tất cả ư nghĩa và mục đích “Tân Phúc Âm hóa = New Evangelization” đang được khuyến khích đẩy mạnh trong toàn Giáo Hội trong Năm Đức Tin này.

Tại sao cần phải đọc lại Lời Chúa trong Thánh Kinh nói chung và trong các Tin Mừng nói riêng?

Để trả lời câu hỏi này, ta cần đọc lại chính lời Chúa Giêsu đă nói với tên quỷ đến cám dỗ Chúa trong rừng vắng, nơi Chúa ăn chay cầu nguyện trước khi ra rao giảng Tin Mừng Cứu Độ:

Khi tên quỷ thách đố Chúa biến đá ra bánh để ăn, Chúa đă trả lời nó như sau: “Đă có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.” (Lc 4 : 8)

Lời Chúa trên đây được ghi đầy đủ hơn trong Sách Đệ Nhị Luật: “Anh em nhận biết rằng: người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng c̣n sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra.” (Đnl 8: 3)

Thánh Phêrô cũng đặc biết nói đến tầm quan trọng phải sống bằng lời Chúa, khi Chúa Giêsu hỏi các Tông Đồ xem họ c̣n muốn theo Chúa hay muốn bỏ Người ra đi như những người khác. Phêrô đă trả lời Chúa như sau:

Thưa Thầy, bỏ Thầy th́ chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 68)

Những lời mang lại sư sống đời đời mà Chúa Giêsu đă dạy bảo các Tông Đồ và dân chúng xưa kia là:

1- “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết ḷng, hết linh hồn, hết trí không và hết sức lực ngươi… Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính ḿnh ngươi.” (Mc 12 : 30-31)

2- “Thời kỳ đă măn, và triều đại Thiên Chúa đă đên gần. Anh em hăy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1:15)

3- “Ta là Ánh Sáng đến thế gian để bất cứ ai tin vào Ta, th́ không ở lại trong bóng tối.” (Ga 12 : 46)

Hoặc :

-4- “Hăy qua cửa hẹp mà vào, v́ cửa rộng và thênh thang th́ đưa đến diệt vong… c̣n cửa hẹp và đường chật th́ đưa đến sự sống, nhưng ít người t́m được lối ấy. (Mt 7 : 13-14)

Chúa Giêsu chính là Con Đường và là Cửa hẹp mà chúng ta phải đi qua, nếu muốn được vào nơi vĩnh phúc là Nước Trời, sau khi chấm dứt hành tŕnh đức tin trong trần gian này.

Nơi khác, Chúa cũng nói rơ thêm như sau về sự cần thiết phải thực hành lời Chúa cho được vào Nước Trời:

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7 : 21)

Như thế, thật vô cùng cần thiết cho mọi tín hữu chúng ta phải đọc lại Lời Chúa trong Thánh Kinh nói chung và nhất là những lời của Chúa Giêsu được ghi lại phần nào trong bốn Tin Mừng (Gospels) mà chúng ta vẫn quen nghe đọc, nhưng chưa gẫm suy cho đủ để lời Chúa thực sự in sâu và biến đổi tâm hồn chúng ta.

Nếu lời Chúa đă đổi mới mọi người chúng ta, th́ chắc chắn đă có t́nh thương trong gia đ́nh giữa cha mẹ, con cái và vợ chồng, khiến cho những thảm kịch vợ chồng bỏ nhau, giết nhau, con cái giết cha mẹ, anh chị em thù nghịch và làm hại nhau đă không sảy ra ở khắp nơi trong thế giới tục hóa ngày nay.

Nếu lời Chúa đă in sâu và biến đổi ḷng người th́ đă không có biết bao người, kể cả một số không nhỏ các môn đệ Chúa trong Giáo Hội ngày nay đă và đang chạy theo tiền bạc, ham mê của cải và hư danh trần thế đến mức coi nhẹ hay dửng dưng tinh thần khó nghèo của Phúc Âm mà Chúa Giêsu đă nêu gương sáng khi Người chọn sinh ra trong hang ḅ lừa, và lớn lên, đă sống lang thang như người vô gia cư, đến nỗi “không có chỗ tựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ” (Mt 8 : 20)

Lại nữa, nếu lời Chúa đă thực sự đi sâu và tâm trí người tín hữu khắp nơi, th́ người có niềm tin nơi Chúa không thể buông thả sống theo những trào lưu của “văn hóa sự chết”, để lơ là việc sống Đạo, coi thường việc lănh nhận các bí tích Thánh Thể và Ḥa Giải và nhất là làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước bao người chưa biết Chúa và Phúc Âm sự Sống của Người.

Sau hết, riêng đối với các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa trong Giáo Hội, nếu Tin Mừng đă in sâu và đổi mới mọi người, th́ không ai có thể coi nhẹ sứ vụ rao giảng, phục vụ và sống nhân chứng cho Chúa là “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20: 28)

Tóm lại, thật vô cùng cần thiết phải được “tân phúc âm hóa” để Tin Mừng của Chúa đổi mới mỗi người chúng ta thêm hơn nữa hầu biến chúng ta thành những “Kitô thứ hai” (Alter Christus) sống giữa bao người không có đức tin và đang làm những sự gian ác, độc dữ trong thế giới tục hóa ngày nay.

Xin Chúa Thánh Linh giúp đổi mới chúng ta trong cố gắng phúc âm hóa chính ḿnh và phúc âm hóa người khác để chiếu rọi ánh sáng Chúa Kitô vào thế giới quá u tối v́ vô thần, vô nhân đạo và vô luân hiện nay.

Nói Thêm Về Vấn Đề Rước Ḿnh Thánh Chúa Bằng Tay

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha cho biết rước lễ bằng tay có bất kính đối với Chúa Kitô hay không?

Trả lời: Thật ra tất cả chỉ v́ thói quen mà sinh ra những khó khăn và bất đồng mà thôi.

Thật vậy, trước hết là vấn đề thay thế tiếng La-tinh bằng mọi ngôn ngữ thế giới trong phụng vụ. V́ tiếng La-tinh đă được dùng quá lâu, nên khi thánh lễ được làm bằng các ngôn ngữ khác sau Công Đồng Vaticanô II (1962-65) th́ nhiều người đă không bằng ḷng.

Mặt khác, những cải cách của Công Đồng này cũng không được đồng tâm đón nhận trong toàn Giáo Hội. Cụ thể, một Tổng Giám Mục Pháp (Lefevre) đă bất tuân để tiếp tục làm lễ bằng tiếng La-tinh và tự tách ḿnh ra khỏi Giáo Hội cho đến ngày ngài mất năm 1991. Nhóm linh mục đi theo ngài vẫn tiếp tục theo Nghi Thức Tridentine cũ và bác bỏ mọi cải cách của Công Đồng Vaticanô II.

Nhưng cần phải nói rơ là từ đầu Giáo Hội La Mă dùng tiếng La-tinh trong phụng vụ và mọi sinh hoạt khác là v́ lư do muốn bảo đảm sự hiệp nhất (unity) trong Giáo Hội chứ không v́ lư do tín lư, thần học nào khác. Cũng không phải v́ tiếng La-tinh là tiếng Chúa Giê su đă nói xưa kia, nên phải duy tŕ. Chúa là người Do Thái, nên Ngài đă dùng ngôn ngữ này để giảng dạy các môn đệ và dân chúng thời đó. Cho nên không phải v́ tôn trọng Chúa mà phải dùng tiếng La-tinh. Nhưng, v́ ngôn ngữ này đă được dùng quá lâu trong Giáo Hội nên người ta trở nên quen đến nỗi khó bỏ được mà thôi.

Chính v́ c̣n có những người thích tiếng La-tinh và Nghi Thức cũ, nên trong năm qua (ngày 7-7-2007) Đức Thánh Cha Bênêđíchtô XVI (nay đă về hưu) đă ra Tông Thư Summorum Pontificum cho phép sử dụng rộng răi hơn Nghi Thức bất thường Lễ Tridentine bằng tiếng Latinh, song song với Nghi Thức mới thông thường ban hành năm 1970 cho phép cử hành thánh lễ và các bí tích bằng ngôn ngữ địa phương như hiên nay. Đây chính là một cố gắng ḥa giải những bất đồng c̣n âm ỷ trong Giáo Hội từ sau Công Đồng Vatican II của Đức cựu Giáo Hoàng. Tóm lại cũng v́ tiếng La-tinh và những cải cách của Công Đồng Vaticanô II mà nhóm theo Tổng Giám Mục Lefevre đă ly khai khỏi Giáo Hội La-mă cho đến nay.

Về phần giáo dân ở khắp nơi th́ cũng c̣n nhiều người không hài ḷng với những thay đồi về phụng vụ. Cụ thể là vấn đề rước lễ bằng tay.

VIỆC NÀY CÓ PHƯƠNG HẠI ĐẾN ĐỨC TIN CÔNG GIÁO HAY KHÔNG?

Trong bài trước, tôi đă nói rơ là Ṭa Thánh đă cho phép rước lễ bằng tay kể từ sau Công Đồng Vaticanô II. Nhưng cũng v́ có dư luận không tán thành, nhất là v́ có nguy cơ lạm dụng nên để tránh nguy cơ tục hóa (profanation) và phạm thánh (sacrilege) mà Đức Hồng Y Francis Arinze, khi đó đương là Tổng Trưởng Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí Tích, đă ra Huấn Thị Redemptoris Sacramentum để giải thích thêm về Tông Thư Ecclesia de Eucharistia của Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, với nhũng chỉ thi cụ thể như sau:

1- Tín hữu được phép lựa chọn rước lễ bằng tay hay trên lưỡi, qú xuống hay đứng lên khi rước Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô trong Thánh lễ. (no. 91-92)

2- Thánh Bộ cũng khuyến khích việc cho tín hữu rước cả Ḿnh và Máu Thánh Chúa, mặc dù Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn trong cả hai h́nh thức trên. Nghĩa là dù chỉ rước Ḿnh Thánh thôi th́ cũng rước trọn vẹn Chúa Kitô rồi (x. SGLGHCG. số 1377). Tuy nhiên, Hội Đồng Giám Mục các quốc gia được dành quyền tùy nghi áp dụng việc này ở địa phương. (no. 100-101)

3- Cũng liên quan đến việc rước Máu Thánh, Thánh Bộ cũng cho phép h́nh thức chấm Ḿnh Thánh vào chén Máu Thánh (Intinction) nhưng người rước lễ không được phép tự tay chấm mà phải nhận lănh trên lưỡi từ tay thừa tác viên.

Nghĩa là không được phép lănh nhận trên tay, mà phải trên lưỡi nếu rước lễ với h́nh thức chấm này. (no. 104)

Sở dĩ có sự cho phép h́nh thức chấm (intinction) Ḿnh vào Máu Thánh nói trên, là v́ có mối quan ngại về nguy cơ lây bệnh truyền nhiểm khi nhiều người cùng uống chung một chén. Ngoài ra, c̣n bất tiện nữa là thừa tác viên phải uống hết Máu Thánh c̣n dư sau Lễ. Cũng nên biết rằng trong bí tích Thánh Thể, th́ chỉ có bản thể (substance) của bánh và rượu trở thành Bản Thể của Chúa Kitô mà thôi, c̣n chất thể (material, matter) của bánh và rượu không thay đổi, cho nên uống nhiều rượu nho vẫn có thể say như thường!

Trên đây là tóm lược những ǵ Ṭa Thánh – qua Thánh Bộ Phụng Tự – đă cho phép. Nghĩa là chính Đức Thánh Cha đă đồng ư cho thi hành trong toàn Giáo Hội, v́ mọi quyết định của các Cơ quan đầu năo trong Giáo triều Roma, nhất là của hai Thánh Bộ quan trọng là Phụng Tự (Divine Worship) và Giáo lư đức tin (Doctrine of Faith) th́ bắt buộc phải có sự chấp thận (approve) của Đức Thánh Cha trước khi đem thi hành. Như thế, nếu muốn vâng phục Ṭa Thánh, th́ không ai được phép chống đối những ǵ đang được cho phép thi hành. Chúng ta có thể góp ư xây dựng và đề nghị những sửa đổi. Nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về Đức Thánh Cha, vị Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian.

Rước lể trên lưỡi hay trên tay tự nó không có ǵ là phạm thánh hay bất kính đối với Chúa Kitô. Căn bản thần học ở đây là Chúa Kitô tự hiến ḿnh làm của ăn của uống để nuôi linh hồn người ta cũng như Ngài đă tự hiến chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại.

Vậy nhận lănh Chúa trên tay hay trên lưỡi không có ǵ khác biệt về bản chất. Giáo lư của Giáo Hội chỉ đ̣i hỏi phải sạch tội trọng, có ư ngay lành (good intention) và giữ chay (fasting) một giờ trước khi rước lễ mà thôi. Chỉ có tội lỗi mới làm cho con người bất xứng chứ không phải h́nh thức bề ngoài. Đó là điều Chúa Giêsu đă khiển trách nhóm biệt phái xưa kia khi họ bắt lỗi các môn đệ của Chúa không rửa tay trước khi ăn. “… Anh em không biết rằng bất cứ cái ǵ vào miệng th́ xuống bụng rồi bị thải ra ngoài sao? C̣n những cái ǵ từ miệng xuất ra là phát xuất từ ḷng; chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uếc̣n ăn mà không rửa tay th́ không làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15: 17-20). Nói khác đi, nếu rước lễ mà thiếu ḷng tin, ḷng mến Chúa và nhất là đang có tội trọng th́ đó mới là bất xứng, bất kính đối với Chúa Kitô, chứ nhận lănh Ḿnh Máu Chúa trên tay hay trên lưỡi không có ǵ khác biệt phải quan tâm.

Thực ra, không có giáo lư, tín lư nào đ̣i hỏi phải rước Chúa trên lưỡi th́ mới tỏ ra kính trọng Chúa cách đúng mức, và rước trên tay là bất kính. Chỉ có điều đáng quan ngại là sợ nguy cơ phạm thánh khi cho rước lễ trên tay mà thôi.

Nghĩa là, lo sợ có kẻ cầm Ḿnh Thánh Chúa đem về nhà để làm việc phạm thánh nào đó (profanation, sacrilege).

Chính v́ thế mà Thánh Bộ Phụng Tự đă đặc biệt lưu ư việc này, để nếu cần, th́ phải ngưng cho rước lễ trên tay (no. 92). Và để tránh nguy cơ này, mọi người muốn rước lễ trên tay, th́ buộc phải bỏ ngay Ḿnh Thánh Chúa vào miệng trước mặt thừa tác viên cho rước lễ.

Ngoài ra, để tỏ ḷng cung kính bề ngoài trước khi rước Chúa, th́ nếu đứng khi lên rước lễ th́ trước khi tiến lên lănh nhận Ḿnh Thánh, người rước lễ được khuyên nên cúi đầu bái lậy trước khi lănh nhận Ḿnh Máu Chúa trên lưỡi hay trên tay, (không nên bái qú v́ sẽ đụng chân vào người đứng phía sau).

Nói chung, từ xưa đến nay, đă có biết bao ư kiến chống đối Giáo Hội về luật độc thân của hàng giáo sĩ, đ̣i cho phụ nữ làm linh mục, không đồng ư về những cải cách của Công Đồng Vaticanô II trong đó có việc cho rước lễ trên tay. Trong số những người không đồng ư này, có cả Giám mục, linh mục và giáo dân. Cụ thể, Tổng Giám mục Malingo bên Phi Châu đă lấy vợ và c̣n truyền chức giám mục bất hợp pháp cho 3 linh mục Mỹ đă hồi tục và đă bị vạ tuyệt thông tiền kết sau vụ này.

Nhưng việc chống đối và những gương xấu này không thể làm mất niềm tin và sự tuân phục của tín hữu đối với sứ mạng, chức năng và uy quyền của Giáo Hội trong việc giảng dạy, thánh hóa và cai trị.

Tóm lại, bao lâu Toà Thánh chưa thay đổi ǵ về bất cứ luật lệ nào đang được áp dụng thi hành trong các lănh vực luân lư, tín lư, phụng vụ, bí tích, giáo luật... th́ mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội – giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân – đều có bổn phận phải vâng phục và thi hành nghiêm chỉnh những luật lệ đó. Những người bất đồng (dù là Giám mục hay linh mục) và những ai chống đối ở trong và ngoài Giáo Hội không phải là lư do cho tín hữu phải giao động về tinh thần vâng phục Giáo Hội là Mẹ đang thay mặt Chúa là CHA để dạy dỗ, dẫn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trên trần thế.

Là Người Tín Hữu, Chúng Ta Có Trách Nhiệm Ǵ Về Phần Rỗi Của Người Khác?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: là tín hữu Chúa Kitô, chúng ta có trách nhiệm về phần rỗi của người khác hay không?

Trả lời: Chúa dựng lên con người để sống chung với người khác, trước hết là ở trong một gia đ́nh và sau đó trong một xă hội lớn hay nhỏ. Nghĩa là không ai sống lẻ loi một ḿnh trong một ốc đảo (oasis) không có ai ở chung quanh ḿnh. V́ thế người ta đă định nghĩa con người là một sinh vật có xă hội tính.(man is a sociable being )

Là người Việt Nam, trước kia từng chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo với tam cương ngũ thường, là những nguyên tắc đạo đức căn bản để xây dựng con người từ trong gia đ́nh ra ngoài xă hội; với những bổn phận và trách nhiệm đ̣i buộc mọi người phải sống và thi hành để xứng đáng là tín đồ của Nho Đạo. Liên quan đến sự liên đới giữa người với người, không ai được khuyến khich “sống chết mặc bay” để chỉ biết ích kỷ nghĩ đến ḿnh, lo cho ḿnh và dửng dưng đối với người khác. .

Ngược lại ngày nay, với văn hóa và văn minh Âu Mỹ, cá nhân chủ nghĩa (individualism) lại được đặc biết đề cao và thực hành ở khắp nơi.Người Việt chúng ta đang sống ở các nước Âu Mỹ cũng không khỏi chiu ảnh hưởng của các trào lưu tục hóa (vulgarism) cá nhân chủ nghĩa, tôn thờ vật chất, tiên bạc và hư danh trần thế. Do đó, những giá trị tinh thần như nhẫn nhục, chịu đựng, tha thứ, hy sinh, chung thủy, nhân nghĩa, vị tha, danh thơm tiếng tốt của văn hóa Khổng Mạnh đă bị coi nhẹ, hay xem thường khiến cho rất nhiều người không c̣n e sợ tai tiếng để dễ chấp nhận những việc mà xưa kia không ai, hay rất ít người dám làm, như ly dị, ngoại t́nh, con cái không vâng phục cha mẹ, người lớn dửng dưng trước sự đau khổ hay tha hóa ((moral deviation) của người khác.

Người Mỹ thường hay nói : “Let me alone. None of your business = Để mặc tôi. Không phải là việc của anh (chi, ông, bà..). Đây là tiêu biểu cho chủ nghĩa cá nhân, không muốn ai chỉ huy, hay can thiệp vào đời tư của ḿnh và ḿnh cũng không muốn bận tâm ǵ đến người khác.

Trước thực trạng trên đây, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta không thể sống như những người vô tín ngưỡng hay theo cá nhân chủ nghĩa và tục hóa để chỉ biết sống cho ḿnh và không muốn để ư đến người khác. Ngược lại, đức bác ái Công Giáo dạy ta không những phải biết thông cảm, quan tâm đến và nhât là yêu thương tha nhân như chính ḿnh, dựa trên lời Chúa Giêsu đă dạy các Tông Đồ trước khi Người bị trao nộp và thọ nạn thập giá :

Thầy ban cho anh em một điều răn mới
Là anh em hăy thương yêu nhau
Như Thầy đă thương yêu anh em…
” (Ga 13 : 34)

Yêu thương anh chị em như Chúa yêu thương chúng ta có nghĩa là ḿnh muốn điều ǵ tốt và hữu ích cho ḿnh th́ ḿnh cũng phải mong muốn và làm điều ấy cho người khác, không phân biệt giầu nghèo, địa vị xă hội, mầu da tiếng nói, v́ tất cả đều là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau và đều được Chúa Kitô hiến mạng sống ḿnh để cứu chuộc cho.

Cụ thể, trong phạm vi gia đ́nh, cha mẹ có trách nhiệm nuôi nấng và dạy dỗ con cái không những về thể lư, về học vấn, và đặc biệt về mặt thiêng liêng. Trong lănh vực này cha mẹ có trách nhiệm rất lớn v́ phần rỗi của con cái tùy thuộc rất nhiều vào tinh thần trách nhiệm của Cha mẹ.

Thật vậy, sau khi sinh con ra, cha mẹ phải sớm lo liệu cho con ḿnh được lănh nhận bí tích rửa tội để cho con được tái sinh sớm trong sự sống mới hầu có hy vọng được vào Nước Trời, như Chúa Giêsu đă nói với ông già NI-Cô-Đê-MÔ xưa:

Thật tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3 :5).

Sinh ra bởi nước và Thần Khí có nghĩa là được tái sinh qua Phép Rửa để trở nên tạo vật mới, được gọi Chúa là CHA và có hy vọng được vào Nước Trời mai sau. Có hy vọng thôi chứ chưa hẳn là chắc chắn 100% v́ c̣n tùy thuộc vào thiện chí cúa trẻ em khi lớn lên thành người có đủ lư trí vá ư chí tự do (Free will) để quyết định hướng đi cho đời ḿnh về mọi phương diện, nhất là về mặt thiêng liêng.

Ngày nay, do ảnh hưởng của các chủ thuyết vô thần, duy vật chất vô luân, và cá nhân chủ nghĩa đang lan tràn mạnh mẽ ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, trong nhiều gia đ́nh Công giáo đă xảy ra những bất đồng giữa con cái và cha mẹ về niềm tin có Thiên Chúa. Có nhiều con cái không muốn nghe cha mẹ dạy bảo phải siêng năng tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật và học hỏi lời Chúa để biết sống Đạo cho có chiều sâu. Có gia đ́nh con cái c̣n chất vấn cha mẹ tại sao lại đem chúng đi rửa tội khi c̣n bé mà không để chờ cho chúng lớn khôn để tự quyết định việc này. Tệ hại hơn nữa là có những con cái tự ư gia nhập các giáo phái không hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, hoặc sống như kẻ vô thần, mặc dù đă được rửa tội khi c̣n bé. Lại nữa, nhiều con cái tự ư kết hôn với người không Công giáo hoặc cứ sống chung vói bạn trai hoặc gái mà không kết hôn ǵ cả.

Trước những thực trạng đáng buồn này, dĩ nhiên không cha mẹ nào đồng ư, nhưng cũng không thể ngăn cấm được tự do của con cái. Dầu vậy cha mẹ vẫn có trách nhiệm phải nói cho con cái biết sự sai trái của chúng. Nếu chúng không nghe th́ ḿnh hết trách nhiệm trước mặt Chúa. Ngược lại, nếu không nói hay khuyên bảo con cái điều hay lẽ phải để chúng khỏi lún sâu vào hố sai lầm, tội lỗi th́ cha mẹ sẽ có lỗi về sự hư mất của con cái ḿnh, căn cứ vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên sau đây:

Phần ngươi, hỡi con người, Ta đă đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: Hỡi tên gian ác, chắc chắn người phải chết, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, th́ chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết v́ tội của nó, nhưng Ta sẽ đ̣i ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đă cảnh báo kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, th́ nó sẽ phải chết v́ tội của nó; c̣n ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống ḿnh.” (Ê-dê-kien 33: 7-9)

Lời Chúa trên đây không những áp dụng cho cha mẹ, con cái và vợ chồng trong gia đ́nh mà c̣n áp dụng cho mọi tín hữu sống chung trong một Cộng Đoàn, một giáo xứ hay một đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, hay nơi làm việc chung với người khác. Nghĩa là nếu biết ai làm điều sai trái về luân lư, đạo đức và kỷ luật (Giáo Luật) của Giáo Hội, như khai gian để lấy vợ hay chồng khác (nói dối chưa hề kết hôn) mà ḿnh biết rơ th́ phải khuyên bảo hay tố cáo cho giáo quyền nơi đương sự đang muốn kết hôn sai trái với người khác. Hoặc có người đă ly dị nhưng chưa được tháo gỡ hôn phôi cũ theo giáo luật mà lại sống chung với người khác như vợ chồng, rồi vẫn đi lễ và rước Minh Thánh Chúa, th́ người biết việc này phải tŕnh cho Cha Xứ hay Quản nhiệm Cộng Đoàn biết để ngăn cản và giúp họ hợp thức hóa hôn phối trước khi tiếp tục xưng tội và rước Ḿnh Thánh Chúa.

Lại nữa, nếu giáo dân biết có linh mục nào giảng dạy sai, như một linh mục kia, (theo lời kể của hai nhân chứng ) đến dâng lễ ở tư gia và đă mời mọi người hiện diện lên rước Ḿnh Thánh Chúa, không phân biệt họ có là người Công Giáo và đang sống trong ơn phúc hay không ! v́ linh mục này nói : Chúa đă chết để tha thứ hết rồi, khỏi cần phải xưng tội nữa dù có tội trọng.! Chưa hết, linh mục này c̣n chứng hôn cho một cặp vợ chồng kía ngay trong nhà thương theo lời yêu cầu của người mẹ đang đau nặng và muốn cho con gái được kết hôn trước khi nhắm mắt.Linh mục này đă chứng hôn mà không cần biết t́nh trạng hôn phối của đôi vợ chồng kia cũng như không cần biết đôi hôn phối đó có thuộc thẩm quyền mục vụ của ḿnh hay không.Sau nữa, linh mục này cũng không biết rằng mọi bí tích, - trừ bí tích sức dầu bênh nhân và ḥa giải-, đều không được phép cử hành ở tư gia hay trong nhà thương.Do đó, việc sai trái này phải được tŕnh cho Bề Trên Địa Phận- cụ thể là Giám mục địa phương biết để ngăn cản và sửa sai linh mục đó.

Ngoài ra, nếu biết người Công giáo nào làm nghề hay những dịch vụ sai trái về đức công bằng như khai gian để giúp người khác lấy tiền của bảo hiểm (tai nạn xe cộ) . Làm hôn thú giả để lấy tiền của người muốn sang Mỹ theo diện vợ chồng, nhất là tham gia vào việc buôn bán phụ nữ cho các tổ chức măi dâm trá h́nh dưới chiêu bài môi giới “hôn nhân nước ngoài”. Hoặc tệ hại hơn nữa là mở ṣng bài bạc, cá độ, măi dâm, buôn bán cần sa, ma túy… th́ v́ lương tâm và phần rỗi của họ, đ̣i buộc những ai biết rơ những việc làm trên đây của những người đó, th́ phải nói cho họ biết những sai trái về luân lư để mong họ từ bỏ những con đường dẫn đưa đến hư mất đời đời. Nếu họ không nghe lời ḿnh khuyên bảo, th́ ḿnh hết trách nhiệm căn cứ theo lời Chúa dạy trên đây.

Thiên Chúa cực tốt cực lành đầy yêu thương và tha thứ nhưng lại chê ghét mọi tội lỗi và mong muốn cho con người xa lánh tội lỗi để được ơn cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Do đó, muốn sống đẹp ḷng Chúa th́ phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi và nguy cơ đưa đến phạm tội cho chính ḿnh và cho người khác. Và để tránh nguy cơ tội lỗi cho người khác, chúng ta có trách nhiệm “sửa lỗi anh em” v́ lợi ích thiêng liêng của họ như Chúa Giêsu đă dạy các môn đệ xưa :

Nếu người anh em của anh trót phạm lỗi, th́ anh hăy đi sửa lỗi nó, một ḿnh anh với nó mà thôi.

Nếu nó chịu nghe th́ anh đă được món lợi là người anh em ḿnh. C̣n nếu nó không chịu nghe, th́ hăy đemtheo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.

Nếu nó không nghe họ, th́ hăy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe th́ hăy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt 18: 15-17)

Tóm lại, Chúa đ̣i buộc chúng ta không những phải yêu thương người khác mà c̣n phải quan tâm đến phần rỗi của anh chị em cùng chia sẻ niềm tin với ḿnh – kể cả những người không có niềm tin mà chúng ta phải cầu xin cho họ được có đức tin như chúng ta để cùng có hy vọng được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc đời sau.

Câu Chúa hỏi Cain “Aben, em ngươi đâu rồi?” (St 4:9) cũng sẽ là câu hỏi Chúa đăt ra cho mỗi người chúng ta trong ngày Phán Xét.Cụ thể, Chúa sẽ hỏi cha mẹ : “con cái của ngươi đâu? Hoặc hỏi vợ chồng: “Người phối ngẫu của ngươi đâu? “ Tại sao lai di dị, bỏnhau để đi lấy người khác, dù đă có con cái và sống chung với nhau nhiều năm?”

Tóm lại, chúng ta- v́ đức bác ái- có trách nhiệm liên đới với người khác đặc biệt về mặt thiêng liêng.Trách nhiệm tinh thần này phải được thể hiện trước hết trong gia đ́nh giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng với nhau và giữa anh chị em trong gia tộc. Thứ đến là những người thân quen trong cộng đoàn, giáo xứ hay nơi làm việc.

Sau hết, chúng ta c̣n có bổn phận phải cầu xin cách riêng cho những người chưa nhận biết Chúa được mau biết và yêu mến Người như chúng ta, v́ Thiên Chúa “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư” (1 Tm 2: 4)

Ước nong những điều giải thích trên đây thỏa măn câu hỏi đặt ra và giúp ích ít nhiều cho quư độc giả khắp nơi.

Kinh Thánh Nói Ǵ Về Sự Có Mặt Của Ma Quỉ Cám Dỗ Con Người?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hôi : xin cha giải thích có ma quỉ hay không ?

Trả lời: Nói về ma quỉ (devils, ghosts) chúng ta có thể phân biệt hai loại sau đây:

1- Trước hết là có những hiện tượng kinh dị mà nhiều người đă gặp thấy và tin đó là có hồn ma hiện ra để nhát đảm người c̣n sống. Cụ thể ở Saigon trước năm 1975, người ta đồn rằng có một căn nhà ở đường Trương minh Giảng, thường có ma hiện về phá phách ban đêm. Nhà này là của một cặp vợ chồng kia bất ḥa sao đó, khiến người chồng bắn vợ chết, sau đó cũng tự sát. Từ đó, ai dọn đến ở đều gặp hồn ma hiện về phá phách khiến không ai dám ở trong căn nhà đó nữa. Đây là điển h́nh cho những chuyện người ta đồn nhau ở khắp nơi về điều được gọi là có ma quỉ hiện ra quấy phá người sống.

Ở Mỹ cũng có hiện tượng tương tự. V́ có những nhà được gọi là “Haunted houses” (có ma ám ảnh) không ai dám ở v́ tin là có ma Bản thân tôi, khi c̣n làm phó xứ ở một giáo xứ kia, có một giáo dân người Mễ-Tây Cơ một hôm đă đến xin tôi làm phép nhà cho bà ta v́ bà nói đêm đêm có tiếng la hét trong pḥng tắm kế bên pḥng ngủ, mặc dù trong nhà chỉ có hai vợ chồng già và không ai xử dụng pḥng tắm về đêm ! Tôi đă đến làm phép nhà cho bà và sau đó không thấy bà nói ǵ về việc sợ hăi kia nữa.

Như vậy, chắc chắn có những “hiện tượng bất thường” xảy ra mà người ta gán cho là có ma quỷ xuất hiện dưới nhiều h́nh thức để nhát đảm hay quấy phá người sống. Giáo Hội không đưa ra một giải thích rơ nào về những hiện tượng này, mặc dù tin có chuyện ma quỷ ám hại con người nên cho đến nay, Giáo Hội vẫn xử dụng phép “trừ quỷ, trừ tà” (Exorcism) được Giáo Quyền địa phương trao cho một linh mục nào thi hành khi cần đến.

Xưa kia, khi c̣n đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đă nhiều làm “trừ quỉ” nhập vào làm khổ nhiều người. Điển h́nh là trường hợp có người kia đă bị một lũ quỷ nhập và hành hạ rất khốn đốn. Chúa đă trừ chúng ra khỏi nạn nhân và cho chúng nhập vào đàn heo và lao xuống vực thẳm chết (Lc 8: 26-31). Lại nữa, “Các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu th́ sấp ḿnh dưới chân Người và kêu lên : Ông là Con Thiên Chúa. Nhưng Người đă cấm ngặt chúng không được không được tiết lộ Người là ai.” (Mc 3 : 11-12).

Quỷ la lên khi bị Chúa trừ ra khỏi các nạn nhân của chúng và không cho phép chúng nói Người là ai. (Lc 4: 40-41).Tin Mừng Thánh Matthêu cũng thuật lại trường hợp một người bị quỷ ám khiến cho mù ḷa và câm. Chúa đă trừ quỷ ra khỏi anh ta khiến anh lại được trông thấy và nói được (Mt 12: 22-23). Đặc biệt, Chúa đă trừ 7 quỷ ám hại một phụ nữ tên là Maria Ma-đa-la. (Lc 8 : 2). Bà náy sau đó đă đi theo Chúa cho đến khi Người chết trên thánh giá. Bà cũng là phụ nữ đầu tiên đă đến viếng Mộ Chúa sáng ngày thứ nhất trong tuần và đă được gặp Chúa hiên ra và bảo đi loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh cho các môn đệ Người. (Mt 28: 1-10; Ga 20 : 11-18).

Thánh Phaolô cũng nhân danh Chúa Kitô để trừ quỷ nhập vào một phụ nữ chuyên nghề bói toán, đồng bóng:

“Nhân danh Đức Giêsu-Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này. Ngay lúc ấy quỷ thần liền xuất.” (Cv 16: 18)

Nhưng phải nói ngay là, những trường hợp quỷ nhập và ám hại người sống nói trên, kể cả những chuyện ma quỷ hiện h́nh để quấy phá người sống, tất cả chỉ có tác dụng làm cho người ta sợ hăi, khốn khổ về thể xác mà thôi, chứ không có ǵ phải lo sợ về phần hồn. Điều đáng lo sợ về phần hồn, hay phần rỗi của mọi người chúng ta là có loại ma quỷ không hiện h́nh để phá phách, hay ám hại ai về thể xác, nhưng vô h́nh cám dỗ con người với nhiều chiến lược tinh xảo khiến cho rất nhiều người đă và đang ngă theo chúng để làm những sự dữ, sự tội như chúng ta thấy rơ bộ mặt của chúng trong cách sống của biết bao người ở khắp nơi xưa và nay. .

2- Đó là Quỷ Xatan và bè lũ:

Loại “ma quỷ” này không hiện ra để làm cho ai phải khiếp sợ, nhưng lai vô h́nh ám hại con người với những mưu chước cám dỗ rất tinh vi và thâm độc để mong lôi kéo con người ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa, làm nô lệ cho chúng để mất hy vọng được cứu rỗi.

Đây là thứ quỷ mà Kinh Thánh và Giáo lư của Giáo Hội nói vể “một Thiên Thần đă sa ngă để trở thành quỷ Xatan” và kéo theo các Thiên Thần khác nổi lên chống lại Thiên Chúa và không hề ăn năn xin tha thứ để vĩnh viễn là những kẻ phản loạn, muốn lôi kéo con người đi theo chúng để chống lại Thiên Chúa là t́nh yêu, công minh và thánh thiện (x. SGLGHCG số 391-394).

Thánh Gioan, trong Sách Khải Huyền, đă gọi loại ma quỷ hay Xa-tan này là Con Măng xà, tức Con Rắn xưa:

“Bấy giờ tôi thấy một Thiên Thần từ trời xuống, tay cầm ch́a khoá vực thẳm và một dây xích lớn. Người bắt lấy Con Mảng Xà, tức là Con Rấn xưa, cũng là ma quỷ hay Xa-tan, và xích nó lại một ngàn năm.” (Kh 20: 1-20

Nói rơ hơn, loại ma quỷ này được xem như “những Thiên Thần đă sa ngă” v́ đă kiêu căng chống lại Thiên Chúa và đang bị đạo quân thiên quốc của Tổng lănh Thiên thần Mi-ca-e đánh bại.

Đây mới là loại “ma quỉ” mà chúng ta phải khiếp sợ và đề pḥng để không sa vào cạm bẫy của chúng như Thánh Phêrô đă ân cần nhắc nhở sau đây:

“Anh em hăy sống tiết độ và tỉnh thức, v́ ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh t́m mồi cắn xé.” (1 Pr 5: 8)

Như sư tử đói rảo quanh t́m mồi ăn sống nuốt tươi thế nào, th́ ma quỷ cũng ngày đêm ŕnh rập để cướp lấy linh hồn chúng ta bằng mọi mưu chước cảm dỗ như vậy.

Như thế, loại ma quỷ này mới chính là kẻ thù nguy hiểm nhất mà chúng ta phải tỉnh thức đề pḥng, và nương nhờ ơn Chúa để chống lại hầu được sống trong t́nh thương của Chúa và có hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Quỷ Xatan và bè lũ “rảo quanh cơi đất và lang thang khắp đó đây” như chính Xatan đă trả lời Thiên Chúa khi nó muốn thách đố Thiên Chúa về ḷng tin và yêu mến của ông Gióp trong cơn thử thách nặng nề. Chúa cho phép nó được đụng chạm đến của cải, tài sản của ông Gióp nhưng không được đụng đến mạng sống của ông. (Gióp 1 : 9: 12).

Chính v́ mục đích của chúng là lôi kéo con người ra khỏi t́nh thân với Chúa, nên Quỷ Xatan và bè lũ đă và đang xô đẩy rất nhiều người xuống vực thẳm hư mất đời đời, v́ đă dại dột nghe theo chúng để phạm những tội ghê gớm như giết người hàng loạt, phá thai không gớm tay, trộm cướp, ham mê khoái lạc (Hedonism) và dâm ô thác loạn, chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao người không may mắn ở khắp nơi trên thế giới. Đặc biết ở các quốc gia độc đảng, độc tài, tham quyền cố vị để vơ vết của cải, làm giầu cho bản thân và phe nhóm, trong khi nhắm mắt bịt tai trước những bất công xă hội và suy thoái nặng nề về luân thường đạo lư... Tắt một lời : thế giới đang sống với văn hóa của sự chết v́ Xatan đang thống trị quá nhiều người ở khắp nơi trên thế gian tục hóa ngày nay.

Từ thuở đầu tiên, chính quỷ Xatan, trong h́nh thù con Rắn, đă cám dỗ bà Eva ăn trái cấm trong Vườn Địa Đàng, khiến con người đă mất t́nh thân với Thiên Chúa, và mang sự chết vào trần gian như ta đọc thấy trong Sách Sáng Thế (x. St 3: 1-6; Rm 5: 12)

Sau này, cũng chinh quỷ Xatan đă dám đến cám dỗ Chúa Giêsu ba lần trong rừng vắng, nơi Chúa ăn chay cầu nguyện. Chúa đă đánh bại và quát mắng nó : “Xatan kia xéo đi.” (Mt 4 : 10)

Chúa đă đánh bại Xatan với Thần khí của Thiên Chúa như lời Người đă nói với dân chúng chứng kiến việc Người trừ quỷ ra khỏi một nạn nhân bị nó làm cho câm và mù mắt:

“... c̣n nếu Tôi dựa vào Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ th́ quả là triều đại Thiên Chúa đă đến giữa các ông” (Mt 13: 28)

Sau này, cũng Xatan đă “nhập vào Giuđa” sau khi môn đện này ăn miếng bánh Chúa trao cho trong đêm Tiệc Ly cuối cùng. Và y đă ra đi trong đêm tối để thi hành việc trao nộp Chúa cho người Do Thái.(Ga 13 : 27)

Trước đó, Chúa cũng đă nói với Phêrô về hiểm họa cám dỗ của Xatan như sau:

“Si-mon, Si-mon ơi, ḱa Xatan đă xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.” (Lc 22: 31)

Sàng như sàng gạo, nghĩa là cám dỗ mănh liệt cho ta sa ngă. V́ thế, Chúa đă nhắc thêm cho Phêrô và các môn đệ Người phải luôn tỉnh thức mà cầu nguyện:

“Anh em hăy canh thức mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. V́ tinh thần th́ hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” (Lc 14 : 38)

Chúa phải nhắc các môn đệ Người và tất vả chúng ta như vậy v́ Người biết rằng Xatan và bè lũ luôn ŕnh rập từng giây từng phút để cám dỗ con người phạm tội nghịch cùng Thiên Chúa như chúng luôn thù nghich Thiên Chúa và không muốn cho ai thuộc về Thiên Chúa nữa.

Tóm lại, ma quỷ là một thực thể không thể chối căi được. Chúng có mặt cách vô h́nh trên trần gian, sau khi đă phản nghịch cùng Thiên Chúa và bị trục xuất ra khỏi Thiên Đàng như Kinh Thánh và giáo lư của Giáo Hội dạy. Chúng quả thực là kẻ thù đáng sợ cho mọi người tín hữu chúng ta, v́ âm mưu thâm độc của chúng muốn lôi kéo chúng ta ra khỏi t́nh thương và t́nh thân với Chúa, khiến ta mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Do đó, muốn được cứu rỗi, muốn thuộc vể Chúa để hưởng Thánh Nhan Người trên cơi vĩnh hằng, chúng ta không thể coi thường sự có mặt của ma quỉ hằng tỉnh thức và ŕnh rập bên ta ngày đêm để cám dỗ ta làm những ǵ trái nghích với t́nh thường, công b́nh và thánh thiện của Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành; Đấng giầu yêu thương nhưng gớm ghét mọi tội lỗi, v́ tội lỗi là do ma quỷ gây ra như Thánh Gioan Tông Đồ đă dạy dưới đây :

“Ai phạm tội th́ là người của ma quỷ
V́ ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu
Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện
Là để phá hủy công việc của ma quỷ.” (1 Ga 3: 8)

Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức, luôn cầu nguyện và đề pḥng để không sa chước cám dỗ của ma quỷ, là kẻ triệt để khai thác sự yếu đuối của bản tính con người và gương xấu của thế gian, của môi trường xă hội để mong xô chúng ta xuống vực thẳm hư mất đời đời cùng với chúng.

Có Được Phép Buôn Bán Thuốc Ngừa Thai, Và Trốn Thuế Hay Không?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi : xin cha giải thích những thắc mắc mắc sau đây :

1- Người Công Giáo có được phép tham gia vào việc phá thai như bán thuốc ngừa thừa thai, phụ giúp bác sĩ phá thai v́ nghề nghiệp phải làm như y tá, chuyên viên y tế...?

2- Người Công giáo có được phép trốn nộp thuế và khai gian để lănh tiền bảo biểm, trợ cắp thất nghiệp, tai nạn xe cộ hay không?

3- Có được phép chứng hôn cho những cặp hôn nhân đồng tính (same sex marriage) không?

Trả lời:

1- Phá thai (abortion) là một trọng tội mà Giáo Hội không bao giờ cho phép v́ bất cứ lư do nào. Đây là tội giết người mà Thiên Chúa đă nghiêm cấm trong giới Răn thứ Năm như sau:

Ngươi không được phạm tội sát nhân.” (Xh 20:13)

Khi đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đă nhắc lại giới răn trên cho các môn đệ Người :

“Anh em đă nghe Luật dạy người xưa rằng : chớ giết người. Ai giết người th́ đáng bị đưa ra ṭa. C̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai giận anh em ḿnh, phải bị đưa ra ṭa. Ai mắng anh em ḿnh là ngu ngốc th́ phải bị đưa Ra trước Thượng Hội Đồng…” (Mt 5: 21-22).

Như thế đủ cho thấy tội sát nhân, dù chỉ là giết một thai nhi, là một trọng tội mà ai có niềm tin và kính sợ Thiên Chúa đều phải tránh xa cho được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Không được giết người v́ sự sống của con người là quà tặng vô giá (priceless gift) mà chỉ một ḿnh Thiên Chúa ban và lấy đi mà thôi.

Giáo Hội dạy không sai lầm là sự sống của con người bắt đầu từ lúc được thụ thai (conception) cho đến cái chết tự nhiên (natural death) trên giường bệnh. V́ thế, ai phá thai hay giúp người khác phá thai có kết quả đều tức khắc mắc vạ tuyệt thông tiền kết (đương nhiên mắc vạ = auto-excommunication) (x. SGLGHCG số 2272, giáo luật số 1398).

Áp dụng luật cấm trên đây không những đ̣i các bác sĩ, y sĩ Công Giáo không được hành nghề phá thai, mà kể cả các y tá phụ giúp vào việc làm tội lỗi này nữa. Nghĩa là các y sĩ và y tá Công giáo đều được mong đợi phải từ chối đ̣i hỏi của nhà thương, bệnh viện nào muốn giúp các phụ nữ đến xin phá thai, dù cho việc từ chối này có đưa đến hậu quả bị mất việc làm.

Cũng được kể như tiếp tay trong việc phá thai là buôn bán thuốc hay dụng cụ ngừa thai trái thự nhiên theo giáo lư của Giáo Hội. Nói rơ hơn, việc ngừa thai chỉ có thể được chấp nhận nếu vợ chồng dùng phương pháp tự nhiên, như kiêng cữ gần nhau trong thời kỳ người vợ dễ thụ thai.

Ngoài phương pháp tự nhiên nói trên, mọi phương pháp trái tự nhiên như dùng thuốc ngừa thai, bao cao su … đều không được phép v́ trái với luân lư truyền sinh (bioethics).

2- Có được phép trốn thuế và khai gian để lănh tiền bảo hiểm không ?

Sống trong một quốc gia, th́ đóng thuế là một trong những bổn phận bắt buộc đối với mọi công dân hay thường trú nhân đang sống và làm việc trong quốc gia đó.

Đây là luật công b́nh mà mọi công dân phải tuân giữ và thi hành v́ phức lợi chung của xă hội mà ḿnh đang sống và hưởng những phúc lợi đó, như đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện, an ninh công cộng (thuê mướn cảnh sát và nhân viên cứu hỏa…).

Nhờ tiền đóng thuế của người dân mà quốc gia –hay nhà nước- mới có tiền để chi tiêu cho những dịch vụ cung cấp phúc lợi chung cho mọi người dân. Nghĩa là, nếu không có tiền thuế, th́ nhà nước sẽ không có tiền để làm được việc ǵ có lợi ích chung cả.

Chính v́ tôn trọng luật phải đóng thuế này mà xưa kia khi c̣n đang đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho dân Do Thái, và nhân có mấy người giả bộ là người công chính đến hỏi Chúa xem họ có phải nộp thuế cho Hoàng Đế Xê-da, tức nhà cầm quyền La Mă đang cai trị Do Thái thời đó, Chúa Giêsu đă bảo họ như sau:

Của Xê-da trả về cho Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22: 21; Lc 20: 25)

Lại nữa, khi được hỏi về bổn phận đóng thuế cho đền thờ, Chúa Giê-su cũng đă bảo Phêrô ra biển thả câu để bắt con cá đầu tiên câu được, mang về mở miệng nó ra để lấy một đồng tiền bốn quan, đủ để nộp thuế cho Chúa và cho Phêrô. (Mt 17: 24-27)

Như thế, đủ cho ta thấy rơ là Chúa đă tôn trọng luật pháp của xă hội loài người khi dạy cho các môn đệ phải tuân giữ luật đóng thuế cho nhà cầm quyền La Mă, hay cho đền thờ. như bằng chứng Kinh Thánh nêu trên.

Do đó, trốn thuế hay khai gian để khỏi phải đóng thuế đúng mức phải đóng đều có tội lỗi luật công bằng xă hội mà mọi người dân phải tôn trọng..Người Công giáo cũng là công dân của một quốc gia nên có bổn phận chu toàn mọi luật pháp của quốc gia đó.

Cũng trong mục đích tôn trọng công b́nh, người Công Giáo không được làm các nghề khai báo hoặc chứng gian cho ai để lấy tiền của các bảo hiểm. Ở Mỹ, xe cộ, nhà của và sinh mang đều phải mua bảo hiểm để pḥng khi tai nạn xảy ra th́ đă có bảo hiểm đền bù. Nhưng nếu khai đúng sự thiệt hại để lấy tiền của bảo hiểm th́ đó là điều hợp t́nh, hợp lư, không có ǵ phải thắc mắc.

Tuy nhiện, rất nhiều người đă khai báo hoặc giúp người khác khai gian không đúng sự thật để lấy nhiều tiền bồi thường của bảo hiểm. Thí dụ không bị thương nặng trong tai nạn xe cộ, nhưng vẫn nghe lời chỉ dẫn của những người làm nghề khai bảo hiểm để kư giấy của bác sĩ thuộc nhóm khai gian này để đ̣i bồi thường tối đa theo cách làm ăn của họ là điều trái với luật công bằng của Chúa và lương tâm ngay thẳng của con người. Do đó, ai làm như vậy chắc chắn mắc tội lỗi phép công bằng v́ gian dối để trục lợi.

Cũng trong mục đích tôn trọng sự thật và công bằng, người khai gian để lănh welfare, foodstamps, ly dị giả để lănh trợ cấp single parent, làm hôn thú giả để đưa người vào Mỹ (làm hôn thú giả để lấy tiền của người xin định cư theo diện vợ / chồng) đều có lỗi năng về mặt luân lư v́ thiếu thành thật và làm thiệt hại cho công quỹ của quốc gia. Không thể lư luận cách sai trái là “ăn cắp của Mỹ, của… th́ không có tội” ! Không có luật nào của Chúa và của Giáo Hội cho phép làm việc này. Xin nhớ kỹ như vậy.

3- Có được phép chứng hôn cho các cặp hôn nhân đồng t́nh (same sex marriage) không?

Hiện nay, một số tiểu bang Mỹ và vài quốc gia (Pháp, Anh, Canada...) đă cho phép hôn nhân đồng tính. Nghĩa là các cặp đồng tính nam (gay men) hoặc đồng tính nữ (lesbian women) được phép kết hôn hợp pháp trong xă hội như các cặp trai gái b́nh thường khác.

Nhưng nếu các cặp hôn nhân đồng t́nh này muốn xin chứng hôn trong Giáo Hội th́ chắc chắn không cha sở hay linh mục nào được phép chứng hôn cho họ trong nhà thờ v́ việc này hoàn toàn trái với giáo lư và giáo luật của Giáo Hội chỉ công nhận sự thành hôn giữa hai người nam và nữ mà thôi. (x. giáo luật số 1055, triệt 1; SGLGHCG số: 1601- 1604).

Sự cho phép hôn nhân đồng tính là một suy thoái nghiêm trọng về mục đích của hôn nhân, v́ Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ và trao cho họ sứ mệnh “sinh sôi nảy nở cho nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.” (St 1: 28). Như vậy, cho hai người nam hay hai người nữ kết hôn với nhau là vi phạm bí tích hôn phối Thiên Chúa đă thiết lập để thánh hiến những người được Ngài kêu gọi để sống đời sống vợ chồng, để công tác với Chúa trong chương tŕnh sáng tạo của Người trên mặt đất cho đến ngày măn gian.

Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng bẩm sinh với phái tính bất thường (sexual abnormality). Giáo Hội thông cảm và cầu nguyện cho họ, nhưng không thể chấp nhận cho họ được kết hôn với nhau như những người khác b́nh thường về phái tính (sexual normality), v́ mục đích chính của hôn nhân là sinh sản “cho nhiều, cho đầy mặt đất” như Thiên Chúa đă truyền cho ông Adam và bà Eva trên đây.

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải tôn trọng sự thật, tôn trọng luật công b́nh trong mọi giao dịch xă hội để làm chứng tá cho Chúa là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14: 6), giữa một thế giới gian tà, trộm cướp, giết người, lừa đảo, vô nhân đạo, đầy bất công và tục hóa ngày nay.

Ước mong những lời giải đáp trên thỏa măn những câu hỏi được đặt ra.

Ai Được Mời Gọi Trở Nên Thánh Thiện?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Lời mời gọi nên thánh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như ta đọc thấy trong Kinh Thánh Tân và Cựu Ước. Thật vậy, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đă nói với dân Do Thái như sau:

Với danh nghĩa là Đấng Thánh
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đă thề rằng
… (A-môt 4: 2)

Ở nơi khác, Thiên Chúa cũng phán bảo con người như sau : “… v́ Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàmở giữa người, Ta là Đấng Thánh...” (Hôsê 11:9)

Hay để nhắc cho dân Do Thái ơn Người đă giải phóng cho họ khỏi ách nô lệ, thống khổ bên Ai Cập qua tay ông Mô-sê:

Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng đă đưa các ngươi từ đất Ai Cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện v́ Ta là Đấng Thánh.” (Levi11: 45)

Thánh vịnh 29 (28) cũng ca ngợi Thiên Chúa như sau:

Hăy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người
Và thờ lậy Chúa uy nghiêm thánh thiện
” (TV 29: 2)

Hoặc đặc biệt lời Thiên Chúa nói với ông Abraham, Tổ phụ Dân Do Thái sau đây:

“… Ta là Thiên Chúa toàn năng, người hăy bước đi trước mặt Ta và hăy sống hoàn hảo (thánh thiện)” (Stk:17: 1)

Ngôn sứ I-Sai-a cũng được chiêm ngưỡng “Chúa Thượng” ngự trên Ṭa cao và nghe tiếng các Thiên Sứ ca tụng danh thánh Ngài như sau:

Thánh, Thánh, chí Thánh
ĐỨC CHÚA các đạo binh là Đấng Thánh
… (Is 6: 3)

Sau này, khi đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đă kêu gọi các môn đệ của Người phải sống thánh thiện, phải trở nên hoàn hảo như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48)

Tất cả những lời Chúa trên đây không chỉ nhằm nói riêng với Dân Do Thái xưa kia, hoặc cho riêng các Tông Đồ của Chúa Giêsu mà cũng muốn nói với hết mọi người chúng ta ngày nay, những kẻ có diễm phúc được biết và tin có Chúa là Cha cực tốt cực lành, “Nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giầu nhân nghĩa và thành tín, giữ ḷng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ.” (Xh 34: 6)

Thiên Chúa là Đấng Thánh, trước tiên, có nghĩa là Ngài siêu vượt ra khỏi mọi phạm trù của bất toàn, bất hảo, bất lương, khuyết điểm và lầm lỗi. Nơi Ngài chỉ có sự hoàn hảo hay thánh thiện, khôn ngoan và nhân từ tuyệt đối mà thôi.

Cho nên, Thiên Chúa cũng mong muốn tất cả con cái loài người trở nên hoàn thiện để “nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đă thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” Như Thánh Phêrô đă dạy. (2 Pr 1: 4)

Những điều hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này là : hận thù, nghen nghét, bất công, nhẫn tâm làm điều độc ác như giết người, bán con cái cho bọn buôn người, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho bọn măi dâm, phá thai, trộm cướp, lường đảo, gian dâm, chuộng khoái lạc chủ nghĩa (hedonism) thay chồng đổi vợ, ô uế, bóc lột, tham nhũng, cờ bạc, tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất và mọi vui thú vô luân, vô đạo…vô cùng bất xứng với phẩm giá con người là h́nh ảnh của Thiên Chúa, Đấng toàn năng, toàn thiện, và toàn mỹ.

Trên đây là thực trạng “hư đốn” của biết bao triệu triệu con người ở khắp nơi và ở mọi thời đại, đặc biệt là trong thế giới tục hóa ngày nay đang sống với “văn hóa sự chết” chối bỏ Thiên Chúa và chà đạp lên, hay không nh́n nhận một giá trí tinh thần, luân lư và đạo đức nào..

Trước thực trạng này, người tín hữu Chúa Kitô đang sống niềm tin trong Giáo Hội Công Giáo, -hơn bao giờ hết- được mời gọi sống thánh thiện để làm chứng cho Chúa là Đấng Thánh, là Chân Thiên Mỹ tuyệt đối, hoàn toàn tách biệt khỏi mọi bất toàn, bất lương, gian ác và nhơ uế. của thế gian và ma quỉ.

Thật vậy, làm nhân chứng cho Chúa bằng đời sống thánh thiện là cách tốt nhất, cụ thể nhất để thuyết phục người chưa biết Chúa tin có Chúa là Đấng Thánh.

Điều kiên trước tiên để nên thánh đ̣i hỏi mọi người tín hữu chúng ta phải xa tránh mọi tội lỗi v́ chỉ có tội mới làm cho chúng ta ra ô uế và không thể giống Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Lại nữa, cũng chỉ có tội mới đẩy xa chúng ta ra khỏi t́nh thương của Chúa và làm cho công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô trở nên vô ích cho những ai cứ chọn con đường gian tà, độc ác, nhơ uế để sống và không có thiện chí muốn hoán cải để được tha thứ và cứu rỗi. Xin nhắc lại một lần nữa, là nếu con người cứ buông ḿnh sống theo những đ̣i hỏi tội lỗi của bản năng và gương xấu của xă hội, th́ Thiên Chúa không thể cứu ai được v́ con người c̣n có tự do để lựa chọn giữa sự dữ và sự lành, giữa trong sạch và nhơ uế.

Nói khác đi, sự thánh thiện đ̣i hỏi phải khử trừ mọi nhơ nhuốc và gian ác như Thiên Chúa đă đ̣i hỏi dân Do Thái xưa phải thực hành để xứng đáng là dân tộc thánh :

“… Anh em phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong Israel.” (Đnl 17: 12)

Phải khử trừ sự gian ác v́ nó xúc phạm nặng nề bản chất thánh thiện và nhân lành của Thiên Chúa, Đấng muốn cho mọi người được “cứu độ và nhận biết chân lư” (1 Tm 2:4) hầu được tham dự vào sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu của Người trên Nước Trời mai sau.

Nhưng tiếc thay, sự gian ác, độc dữ (evils) ngày một gia tăng ở khắp nơi trên thế giới ngày nay. Độc ác v́ giết người, giết thai nhi, và đặc biệt, giết trẻ nữ (infanticide), một thực trạng rất đau ḷng và ghê sợ ở Trung Hoa cộng sản với chính sách “một con cho mỗi gia đ́nh”. Nạn giết trẻ nữ đă tồn tại từ nhiều thế kỷ trong xă hội Trung Hoa v́ quan niệm trọng nam khinh nữ, một tội ác chống lại Thiên Chúa là Đấng dựng nên con người có nam có nữ. Đặc biệt nữa, gian ác v́ các sách lược của các chế độ độc tài, độc đảng muốn bảo vệ sự cai trị hà khắc của họ, nên đă giết hại, thủ tiêu hay bỏ tù không thương tiếc những ai dám chống lại chúng để đ̣i hỏi một đời sống tự do, ấm no, công b́nh và dân chủ.. Nhưng bọn độc tài, gian ác này không bao giờ biết thương và lo cho hạnh phúc của ai, nhất là không quan tâm ǵ đến việc tối hệ trọng là bảo vệ nền luân lư, phong hóa và đạo đức của xă hội, mà chỉ t́m mọi cách để duy tŕ ách cai trị độc ác của chúng để làm giầu cho phe đảng, cho cá nhân cầm quyền, trước sự nghèo đói khốn cùng của người dân và tụt hậu thê thảm về luân lư, đạo đức của xă hội..

Do đó, những ai muốn sống thánh thiện để nên giống Chúa th́ cần thiết phải khử trừ mọi gian ác như lời Chúa đă truyền cho dân Do Thái trên đậy.

Sống thánh thiện không phải là đ̣i hỏi riêng cho một số người nào trong Giáo Hội mà là nhu cầu cần thiết phải thỏa măn của mọi người có niềm tin Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Nghĩa là, mọi thành phần trong Giáo Hội, gồm Hàng Giáo phẩm- Giáo sĩ, Tu sĩ và giáo dân- đều được mong đợi sống thánh thiện để nên giống Chúa mà ḿnh tôn thờ và muốn giới thiệu cho những người chưa biết và tin có Chúa, là Đấng Thánh đă tạo dựng muôn loài muôn vật

Mặt khác, sống thánh thiện cũng đ̣i hỏi đức khiêm nhường và tính thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa Giêsu đă nêu gương sáng, khi Người chọn sinh ra, lớn lên đi rao giảng Tin Mừng và cuối cùng chết trong sự khó nghèo tột độ để cho nhân loại được sống và hưởng giầu sang phú quí của Nước Trời. Đó là lư do v́ sao Chúa đă nói với một thanh niên giầu có một ngày kia như sau:

Nếu anh muốn nên hoàn thiện, th́ hăy đi bán tài sản của anh và cho người nghèo. Rồi hăy đến theo tôi.” (Mt 19: 21)

Như thế, nếu khinh miệt người nghèo, người hèn kém, để chỉ làm thân, làm bạn với người giầu sang và danh vọng chóng qua ở đời này th́ không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng “vốn giầu sang phú quí, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8: 9)

Tinh thần khó nghèo và khiêm hạ nói trên của Chúa Kitô phải là gương mẫu trước tiên cho các Tông Đồ xưa kia và ngày nay trong Giáo Hội, như đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô đă chứng tỏ qua cung cách và đời sống, khiến mọi người trong và ngoài Giáo Hội đang rất ngưỡng mộ và khâm phục hiện nay.

Có thánh thiện thực sự trong chiều kích này th́ mới có sức thu hút và thuyết phục người khác tin và sống điều ḿnh giảng dạy cho họ. Ngược lại, nếu cũng chậy theo tiền của, ham danh hám lợi và làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cho cá nhân ḿnh, phương hại cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, th́ sẽ trở thành phản chứng và không thuyết phuc được ai tin lời ḿnh rao giảng nữa.

Chúa nói: “Ai có tai nghe th́ nghe” (Mt 13:43; Lc 8:8; Mc 4:23)

Mặt khác, sống thánh thiện cũng đ̣i hỏi phải thực thi bác ái và công bằng với người khác v́ Thiên Chúa là t́nh thương và công bằng tuyệt đối. Do đó, bóc lột và dửng dưng trước sự đau khổ, bệnh tật và nghèo đói của người khác là ngoảnh mặt làm ngơ với chính Chúa Kitô đạng thực sự hiện diện nơi những người anh chị em xấu số đó (x. Mt 25 : dụ ngôn ngay phán xét chung)

Trên đây là những khía cạnh cụ thể hay bề nổi của đời sống thánh thiện. Ở chiều xâu hay mặt ch́m của đời sống này là ḷng khát khao muốn nên giống Chúa Kitô về mọi phương diện để có thể nói được như Thánh Phaolô là “Tôi sống nhưng không c̣n phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi..” (Gl 2:20)

Thật vậy, Chúa Kitô không những là hiện thân t́nh thương mà c̣n phản ánh trung thực sự thánh thiện của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, như Phêrô đă tuyên xưng một ngày kia :

“Phần chúng con, chúng đă con tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 69)

V́ thế, mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy sự thánh thiện. sự vẹn toàn, v́ Chúa chính là hiện thân của tất cả chiều kích hoàn hảo đó, và cũng là “con chiên không t́ vết” (1 Pr 1 : 19) đă dâng Hy Tế đền tội cho nhân loại đẹp ḷng Chúa Cha là Đấng Thánh. Chính nhờ hy tế Chúa Kitô đă dâng một lần trên thập giá năm xưa, “mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đă thánh hóa được nên hoàn hảo.” (Dt 10: 14)

Nhưng muốn giữ vững sự hoàn hảo nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô như lời Kinh thánh trên đây, thi nhất thiết đ̣i hỏi chúng ta phải có thiện chí muốn sống hoàn hảo, nghĩa là có thiện chí muốn thánh hóa ḿnh để trở nên hoàn hảo hơn.

Sống giữa những người đang làm những sự gian ác, bất lương, vô nhân đạo, ô uế với đam mê dâm loạn và mọi vui thú vô luân vô đạo, người sống thánh thiện sẽ là nhân chứng sống động cho Chúa, ví như những v́ sao chiếu sáng trên bầu trời tối đen về đêm.

Dĩ nhiên, cho được sống khác biệt với loại người gian tà nói trên, chúng ta phải cậy nhờ ơn thánh Chúa nâng đỡ, v́ “không có Thầy anh em không làm ǵ được.” (Ga 15 : 5)

Thiện chí về phía chúng ta là cần như chưa đủ. Muốn đủ phải cậy nhờ ơn thánh Chúa là động lực chính nâng đỡ th́ chắc chắn chúng ta sẽ đạt được sự hoàn hảo để bước đi theo Chúa mỗi giây phút trong cuộc lữ hành tiến về quê Trời, mặc dù bản chất yếu đuối con người, mưu chước của ma quỉ và gương xấu của thế gian luôn ra sức để cản trở chúng ta trên đường hoàn thiện, để nên giống Chúa là Đấng Thánh.

Tóm lại, chỉ có đời sống thánh thiện mới cho ta hy vọng được cứu độ để được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa là nguồn duy nhất của mọi hoan lạc, và vinh phúc vĩnh cửu. Đó là lời mời gọi khẩn thiết cho hết mọi người chúng ta chứ không riêng cho một thành phần nào trong Giáo Hội.Nghĩa là tất cả những ai đă lănh Phép Rửa và đang sống đức tin trong Giáo Hội đều được mời gọi và có bổn phận phải nên thánh, nên hoàn hảo như “Cha chúng ta ở trên Trời là Đấng hoàn thiện”, là Chân, Thiên, Mỹ tuyệt đối.

Nhưng muốn thăng tiến trong đời sống thiêng liêng để ngày một thêm hoàn hảo th́ cần thiết phải sử dụng những phương tiện hữu hiệu là cầu nguyện và năng lănh nhận hai bí tích rất quan trọng là Ḥa giải và Thánh Thể, sau khi đă lănh nhận các bí tích rửa tội và Thêm sức. Qua cầu nguyện chúng ta được liên kết mất thiết với Chúa, được tiếp cận với chính sự lành và sự thánh thiện để được lôi cuốn tháp nhập dần dần vào sự thánh thiện đó.

Nhờ bí tích ḥa giải, chúng ta không những được tha thứ những lỗi phạm v́ yếu đuối con người mà c̣n được tiếp sức để vươn lên trên đường hoàn hảo. Sau hết và quan trọng hơn cả là được kết hiệp với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, một suối nguồn của sự thánh thiện và b́nh an, một đảm bảo của ơn cứu độ, căn cứ vào lời Chúa đă hứa cho: “ai ăn thịt Ta và uống máu Ta th́ được sống muôn đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết.” (Ga 6 :54).

Tóm lại, nên thánh là nhu cầu tối quan trọng và cần thiết cho mọi người có niềm tin Thiên Chúa là Đấng Thánh. Để đạt mục đích này, chúng ta phải tích cực sông với mọi chiều kích ch́m và nổi của đời sống thánh thiện như đă nói ở trên để nói lên ḷng khao khát muốn thuộc về Chúa, muốn trở nên giống Chúa. Nghĩa là muốn chê ghét và xa tránh mọi sự dữ, sự tội và nhơ uế đầy rẫy trong xă hội tục hóa hiện nay...

Tại Sao Có Sự Dữ, Sự Khốn Khó Trong Trần Gian Này?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi:Trước những thực tế như thiên tai, băo lụt, động đất, bệnh tật nan y, chiến tranh khủng bố… Xin Cha giải thích lại tại sao Chúa lại để sự dữ, sự đau khổ hoành hành trong trần gian này, và ư nghĩa của những đau khổ và sự dữ đó?

Trả lời: Sự dữ (evil) và đau khổ là những thực thể và thực tế (entities and realities) hiển nhiên trong cuộc sống con người trên trần gian này. Ở khắp mọi nơi và mọi thời đại, con người luôn gặp phải những tai ương như bệnh tật, nghèo đói, bất công, bóc lột, oán thù, ghen ghét, đau khổ tinh thần và thể xác, chiến tranh, thiên taibăo lụt, động đất, sóng thần (Tsunami) và nhất là chết chóc, đau thương…

Có điều nghich lư và khó hiểu là tại sao những kẻ bất lương gian ác, làm những việc vô luân, vô đạo như bóc lột, lường đảo, giết người, thủ tiêu hàng trăm ngàn đối thủ chính trị để đọc quyền cai trị, mở ṣng bạc, nhà điếm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho các dịch vụ măi dâm vô cùng khốn nạn, tội lỗi, sản xuất phim ảnh dâm ô, bạo động… lại phát đạt, giầu có, khoẻ mạnh, sống nhởn nhơ, phè phỡn, trong khi quá nhiều người lương thiện, đạo đức, bác ái lại nghèo khó, bệnh hoạn, và nhiều khi c̣n gặp những tai hoạ bất ngờnữa ?

Cụ thể, những ai ở Houston, Texas, chắc chưa quên đại nạn của chuyến xe buưt chở giáo dân Houston đi dự Đại Hội Thánh Mẫu ở Carthage, Missouri tháng 8 năm 2008 đă bị lật khiến hàng chục người chết và bị thương nặng, gây đau khổ lớn lao cho các gia đ́nh nạn nhân; trong khi các xe bus hoặc phi cơ chở người đi đánh bạc hàng ngày ở Lousiana, Baloxi, Las Vagas và du hí tội lỗi bên Cancun (Mexico) và Jamaika… chưa hề gặp tai nạn tương tự !

Đứng trước thực tế này, nhiều người đă tự hỏi: có Thiên Chúa cực tốt cực lành hay không, và nếu có, th́ tại sao Người lại để cho những sự dữ đó xẩy ra và làm khổ cho những người ngay lành như vậy?

Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải tin chắc chắn có Thiên Chúa là t́nh thương, công bằng và vô cùng nhân ái.

Tuy nhiên, tại sao có sự dữ, đau khổ trong trần gian này, th́ không ai có thể hiểu thấu được lư do và có thể giải đáp thỏa đáng cho vấn đề quá nan giải này.

Thánh Augustinô (354-430) đă cố t́m hiểu lư do tại sao có những sự dữ nói trên, nhưng ngài cũng không t́m được và đành thú nhận như sau:

Tôi cố t́m xem do đâu mà có sự ác và tôi đă không thấy được câu giải đáp.” (x. Confessions 7:7,11).

Thánh Phaolô cũng phải nh́n nhận sự dữ là một bí nhiệm không ai hiểu được: “Thật vậy mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2,7)

Dầu vậy, dù sự dữ là một bí nhiệm (mystery), nhưng qua đức tin và nhờ giáo lư và Kinh Thánh chỉ dẫn, chúng ta có thể tạm hiểu lư do v́ sao có sự dữ, sự đau khổ trên trần thế này như sau:

Trước tiên, sự dữ là hậu qủa của tội lỗi, của việc con người tự do chọn lựa đi đường sai trái như Thánh Phaolô đă viết: “Chẳng có ai có lương tri, chẳng có ai kiếm t́m Thiên Chúa. Người người đă lià xa chính lộ chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi; chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người cũng không.”(Rm 3:11-12).

Giáo lư của Giáo Hội cũng dạy rằng: “Sự thật th́ họ (các thiên thần và loài người ) đă phạm tội, do đó mà sự dữ về luân lư đă đi vào thế gian, tai hại không thể lường được so với sự ác thể lư. Thiên Chúa không hề là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp của sự dữ này. Tuy nhiên Ngài cho phép xảy ra v́ tôn trọng tự do của các tạo vật Ngài đă dựng nên, và một cách bí nhiệm, Ngài biết lấy điều thiện ra từ sự ác.” (x. SGLGHCG, số 311)

Nói rơ hơn, v́ con người đă sử dụng lư trí và ư chí tự do (intelligence and free will) của ḿnh để làm điều sai trái nên sự dữ, sự đau khổ phải là hậu quả tất nhiên của ư muốn tự do mà con người đă và đang sử dụng để làm những điều gian ác, nghịch với Chương tŕnh và Ư muốn của Thiên Chúa, Đấng luôn mong muốn cho con người được hạnh phúc. Thiên Chúa biết sự dữ làm khổ mọi người trên trần gian này, nhưng Ngài đă không can thiệp để ngăn cản v́ trước hết, Ngài phải tôn trọng ư muốn tự do mà Ngài đă ban cho khi tạo dựng con người khác biệt với mọi tạo vật khác.

Chính v́ con người có lư trí để hiểu biết và có tự do để lựa chọn, nên quá nhiều người đă chọn lựa những cách sống đưa lại những hậu quả khốc hại cho ḿnh và cho người khác. Cụ thể, có những người muốn tự do lái xe theo ư riêng của ḿnh, bất chấp luật lệ lưu thông, nên đă gây ra biết bao tai họa thảm khốc cho chính họ và cho bao nhiêu người vô tội khác hàng ngày trên các đường phố, xa lộ ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi được coi là có tai nạn lưu thông nhiều nhất thế giới !

Tự do ly dị và phá thai đă đưa đến hậu quả phá vỡ hạnh phúc gia đ́nh, chấn thương tâm lư cho người mẹ và gây đau khổ cho vợ chồng và con cái. Tự do hút thuốc, sử dụng ma tuư và rượu mạnh đưa đến ung thư và bao bệnh tật liên hệ khác. Tự do cờ bạc đỏ đen đưa đến phá sản, tan vỡ gia đ́nh và đau khổ cho biết bao cá nhân và gia đ́nh. Phản bội cam kết hôn nhân để lén lút ngoại t́nh có thể đưa đến án mạng cho dâm phu và dâm phụ như thực tế đă chứng minh.

Đặc biệt, v́ tham vọng chính trị, ham mê quyền lực và tiền bạc, nên những kẻ cầm quyền ở nhiều nơi trên thế giới đă dùng mọi thủ đoạn gian manh và độc ác để thủ tiêu hay bỏ tù những ai dám chống đối, muốn lật đổ họ. Cứ xem cuộc nội chiến đă kéo dài gần hai năm qua ở Syria đủ cho thấy là v́ tham quyền cố vi, nên nhà độc tài Hassad đă giết hại hàng chục ngàn người dân đang nổi dạy chông lại ông ta để đ̣i thay đổi thể chế.Nhưng đáng buồn thay, v́ các đại cường (Anh Pháp Mỹ Nga và Trung cộng) không thể thỏa hiệp được với nhau về một giải pháp chính trị cho Syria, nên người dân nước này c̣n phải chiu đau khổ triền miên không biết đến ngày nào mới khỏi ách thống trị của kẻ độc tài, tham quyền cố vị.. Nhưng cuối cùng th́ chắc chắn kẻ gian ác sẽ bị trừng phạt như số phận của Sadam Hussein, Bin Ladin, Mubarak, Khadafi và các lănh tụ công sản ở Nga và Đông Âu trước đây.

Như thế, đủ cho thấy là đau khổ và mọi sự dữ là hậu qủa của những chọn lựa sai lầm, mù quáng của con người, nhất là của kẻ cầm quyền cai trị, muốn duy tŕ ách thống trị của họ để vơ vết của cải, bắt chấp nỗi thống khổ của người dân chẳng may rơi vào ách cai trị độc ác của họ.

Dầu vậy, đau khổ và sự khốn khó cũng được xem như những phương thế hữu hiệu mà Thiên Chúa đă dùng để thử thách và tôi luyện những tôi tớ trung tín được Người ưu tuyển như Abraham, Tobia và nhất là Giop, người hiền đức mà phải chịu biết bao đau khổ khi Thiên Chúa tha phép cho Satan hành hạ ông, để mong lôi kéo ông ra khỏi t́nh yêu của Chúa. Những đau khổ lớn lao mà ông Gióp đă phải chiu là : con cái bỗng chốc bị thiên tai lăn ra chết hết, tài sản kếch xù phút chốc cũng tiêu tan và cuối cùng bản thân ông c̣n bị chứng ung nhọt đau đớn từ bàn chân lên đến đỉnh đầu. Nhưng ông không một lời than trách Chúa. Ngược lại ông c̣n ca ngợi Chúa như sau:

Thân trần truồng sinh ra từ ḷng mẹ
Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng
ĐỨC CHÚA đă ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi
Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA
” (G 1:21)

Chính v́ ḷng kiên trung yêu mến Thiên Chúa hết ḷng trước moi khốn khó, thử thách lớn lao nên ông Giop đă được Thiên Chúa khen ngợi, đền bù lại gấp đôi tài sản ông đă mất, lại cho ông sinh được bảy con trai và ba gái xinh đẹp và sống thọ thêm 145 năm nữa. (G 42: 10-16)

Thánh Phêrô cũng dạy rằng những đau khổ mà chúng ta phải chịu trong cuộc sống trên trần thế này là những thử thách nhằm tinh luyện đức tin và ḷng mến Chúa của mỗi người tín hữu chúng ta:

Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là những thứ quư hơn vàng gấp bội. Vàng là của phù vân mà c̣n phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Kitô tỏ hiện, đức tin đă được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà ḷng vẫn kính tin…” (1Pr 1: 6-8)

Mặt khác, một điều khó hiểu nữa là tại sao những kẻ gian ác, vô nhân, vô học, vô đạo ở khắp nơi trên thế giới lại có thể chiếm được địa vị cầm quyền để bách hại người dân chẳng may rơi vào lưới cai trị khắc nghiệt của họ, trong khi những người tài đức th́ không được trọng dụng, không có cơ may để cai trị và phục vụ cho công b́nh, bác ái tự do và dân chủ thực sự như ḷng người mong muốn ?

Tại sao Thiên Chúa không tiêu diệt ngay những kẻ gian ác đó cho vơi đi nỗi thống khổ của biết bao triệu người đă và đang là nạn nhân của chúng?

Để trả lời cho câu hỏi này, dụ ngôn Cỏ lùng trong Tin Mừng Thánh Matthêu phần nào cho ta biết lư do v́ sao Chúa vẫn để cho kẻ dữ, kẻ gian ác sống chung hay cai trị người lành. Những kẻ dữ đó được ví như đám cỏ lùng mọc chen lẫn với những cây lúa tốt tượng trưng cho những người ngay lành, lương thiện ở khắp nơi trên thế giới.

Nhưng đến mùa gặt, tức ngày sau hết, chủ ruộng -tức Thiên Chúa- sẽ sai các Thiên Thần tức thợ gặt: “hăy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, c̣n lúa, th́ hăy thu vào kho lẫm cho Ta.” (Mt 13 :30). Nghĩa là quăng những kẻ gian ác vào hỏa ngục và đưa vào Thiên Đàng những người lành thánh đă chọn lựa sống theo đường lối của Chúa, chê ghét tội lỗi và mọi sự dữ trong cuộc sống trên trần gian này. Đây là điều chắc chắn phải xảy ra v́ Thiên Chúa là Đấng giầu t́nh thương nhưng cũng rất công thẳng khi phán xét kẻ lành, người dữ trong ngày cánh chung.

Sau hết, Kinh Thánh cũng soi sáng thêm cho ta hiểu lư do v́ sao có sự dữ, kẻ ác sống lẫn với người lành để từ thực tế này Thiên Chúa có thể biến sự dữ thành sự lành lớn lao hơn. Đó là trường hợp ông Giuse, con Ông Giacóp, bị các anh toan giết bỏ xuống giếng sâu, nhưng lại được lái buôn cứu đem sang Ai Cập (x St 37). Thiên Chúa đă biến sự dữ này thành sự thiện to lớn hơn sau này khi Giuse cứu cả gia đ́nh ḍng họ sang Ai Cập thoát nạn đói đang hoành hành bên quê hương. Như thế, chính Thiên Chúa đă cứu gia đ́nh ông Giacóp qua tay Giuse nhân sự độc ác của các anh ông như Giuse đă nói với họ: “Không phải các anh đă gửi em đến đây nhưng là Thiên Chúa. Người đă đặt em làm cha của Pharaô, làm chúa tất cả triều đ́nh và làm tể tướng trên khắp cơi Ai Cập.” (St 45:8).

Trong tinh thần đó và và quan trọng hơn hết, là chính Chúa Giêsu đă biến sự dữ, những đau khổ mà Người đăvô cớ phải chịu v́ âm mưu độc ác của bọn biệt phái, luật sĩ, kỳ mục và trưởng tế Do Thái thành sự lành lớn lao nhất là cứu cho cả nhân loại khỏi chết v́tội và được hy vọng sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trong Nước Trời mai sau.

Đây chính là điều mà Giuse đă nói với các anh của ông khi các người này đến xin lỗi ông về tội định ám hại ông trước kia: “Các anh định làm điều ác cho em nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xẩy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo.” (xSt 50:20)

Bọn luật sĩ và trưởng tế Do Thái đánh đập và đóng đanh Chúa Giêsu, Người lành vô tội, nhưng Thiên Chúa đă biến sự dữ, sự bất công này thành “suối ơn cứu chuộc” cho muôn dân, v́ “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đă đem lại b́nh an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Col, 1:20)

Như thế, t́nh thương yêu tha thứ và bản chất thiện hảo của Thiên Chúa vẫn lớn hơn mọi sự dữ, độc ác nhất của con người trên trần thế này

Tóm lại, sự dữ, sự đau khổ là điều không ai mong muốn, không ai hiểu thấu lư do, nhưng không ai tránh được trong cuộc sống này. Nó quả là một bí nhiệm.

Tuy nhiên sự kiện Chúa Giêsu không tránh âm mưu độc ác của con người và vui ḷng chịu đau khổ thập giá để cứu chuộc nhân loại, đă cho ta thấy giá trị cứu độ của sự đau khổ và khôn ngoan của Thiên Chúa khác với khôn ngoan của loài người.

Chúa Giêsu đă không tự ư đi t́m thập giá để vác, và đau khổ để chịu. Trong đêm bị nộp v́ Giuđa phản bội, Người đă xin với Chúa Cha “cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng làm theo ư con, mà xin theo ư Cha” (Lc 22:42).

Như thế, chúng ta cũng không được kiêu căng muốn lập công với Chúa bằng cách đi t́m đau khổ để chịu, như đau ốm không cần thuốc men, lười biếng không muốn đi làm để được nghèo khó, hay không thận trọng khi lái xe để gây ra tai nạn cho ḿnh và cho người khác v.v. Nếu cố ư làm những việc này th́ không những là phạm tội trông cậy Chúa cách mù quáng mà c̣n không được công phúc ǵ nữa.

Nói khác đi, chúng ta phải hết sức xa tránh mọi nguy cơ gây đau khổ cho ḿnh và cho người khác, nhất là phải xa tránh tội lỗi v́ đây chính là nguyên nhân của mọi sự dữ và đau khổ cho con người.

Nhưng khi những đau khổ, sự dữ, sự khó xẩy ra ngoài ư muốn và đề pḥng của ta, th́phải chăng đó là những “thập giá” mà Chúa Giêsu muốn chúng ta vác chung với Chúa như Người đănói với các môn đệ xưa kia: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo.” (Mt 16:24)

Thập giá là tượng trưng cho những đau khổ, gian nan, khốn khó trong trần gian này. Nhưng lại là phương tiện cứu chuộc hữu hiệu cho loài người khỏi chết v́ tội mà Thiên Chúa đă muốn Chúa Kitô vác lấy để đền tội thay cho tất cả chúng ta cách nay trên 2000 năm. Do đó, ai muốn được cứu rỗi th́ phải vác thập giá ḿnh theo Chúa Kitô như Người đă đ̣i hỏi các môn đệ xưa.

Ước mong những lời giải đáp trên đây thoả măn phần nào thắc mắc về lư do tồn tại của sự dữ, sự đau khổ và ư nghĩa của những sự dữ này trong đời sống con người, bao lâu c̣n có mặt trên trần thế .này.

Người Công Giáo Có Được Phép Buôn Bán Súng Đạn Và Ma Túy Không?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang tranh căi về việc cấm bán các lọai vơ khí tấn công (assault weapons) cho công chúng xử dụng khiến nhiều tai nạn đáng tiếc đă xảy ra cho người dân vô tội. Xin cha giải thích 2 câu hỏi sau đây:

1- Người Công Giáo có được phép cờ bạc, buôn bán súng đạn, cần sa, ma túy không?

2- Có được phép tham dự các nghi lễ của các giáo phái ngoài Công Giáo không ?

Trả lời :

I- Về việc buôn bán súng đạn, ma túy, cờ bạc

Điều răn Thứ Năm của Chúa cấm giết người, tức là phải tôn trọng sự sống của ḿnh và của người khác, v́ sự sống là quà tặng quí giá nhất của Thiên Chúa ban cho con người, được tạo dựng “giống h́nh ảnh của Thiên Chúa.” (St 1: 27) Thiên Chúa ban sự sống cho con người và chỉ một ḿnh Ngài có quyền trên sự sống của loài người mà thôi. V́ thế Ngài đă truyền cho con người giới răn rất quan trọng là “Ngươi không được giết các kẻ vô tội và người công chính, v́ Ta không cho kẻ có tội được trắng án” (Xh 23: 7).

Giết người có nhiều h́nh thức : giết về thể xác như đánh đập, đâm chém, bắn chết ai v́ thù hằn cá nhân hay v́ mục đích chính trị thâm độc muốn triệt hạ đối phương, v́ tranh dành quyền lợi, tài sản, hay muốn độc quyền kinh doanh, buôn bán v.v

Mặt khác, làm hại người như đặt điều nói xấu, vu cáo, chứng gian để hạ nhục ai trước công luận cũng là h́nh thức giết người về mặt tinh thần mà con người ở khắp nơi thường mắc phạm.

Giáo lư của Giáo Hội đă liệt kê những tội nghích điều răn Thứ Năm như sau:

1- Về mặt thể lư: cấm cố sát hay giết người khác (murder) tự sát (suicide) phá thai (abortion) Làm cho chết êm dịu (Euthanasia).Đây là những h́nh thức giết người về mặt thể lư.

2- Vể mặt tinh thần: phải tôn trọng danh dự và linh hồn của người khác, bằng cách không nêu gướng xấu khiến người người khác có thể sa ngă v́ ḿnh. Chúa Giêsu đă lên án kẻ gây ra gương xấu như sau:

Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngă. Nhưng khốn cho kẻ làm cho người ta vấp ngă. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, c̣n lợị cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngă.” (Lc 17: 1-2)

Những cớ làm cho người ta vấp ngă là buôn bán hay giúp phổ biến các phim ảnh, sách bào dâm ô, mở nhà điếm, ṣng bạc, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ măi dâm vô cùng khốn nạn, sản xuất phim ảnh bạo động, trồng và bán các loại cần sa, ma túy… Riêng ở Mỹ, buôn bán súng đạn cũng được coi là tiếp tay với những kẻ khủng bố, lưu manh nguy hại cho sinh mang của người dân vô tội, như đă từng xảy ra ở khắp Nước Mỹ. Đặc biệt trong tháng 11 năm 2012 vừa qua ở Newtown, Connecticut, một kẻ đă mang súng vào trường bắn chết 20 học sinh tiểu học và 4 người lớn trong đó có mẹ của hung thủ và chính hung thủ cũng tự sát, sau khi giết hàng chục nạn nhân mà đa số là trẻ em từ 6 đến 10 tuổi. Tại nạn khủng khiếp v́ súng đạn này vẫn c̣n làm kinh hoàng cho người dân Mỹ và khiến các nhà lập pháp Mỹ đang bàn cải về việc có nên cấm –hay hạn chế việc buôn bán súng đạn hay không.Bọn tư bản mại bản vô lương tâm th́ cố bảo vệ quyền lợi buôn bán súng đạn để làm giầu, bất chấp hậu quả tai hại cho người dân vô tội, nạn nhân của các vụ bắn nhau bừa băi v́ quá nhiều người có súng hay có thể mua súng đạn dễ dàng ở khắp nước Mỹ.

V́ mối nguy hại của việc súng đạn có thể rơi vào tay những kẻ bệnh boạn tâm thần, hay lưu manh khủng bố, nên chắc chắn đây là gương xấu mà người tín hữu Chúa Kitô phải tránh xa, để không v́ tiền mà buôn bán súng đạn, là mối hiểm nguy to lớn có thể gây ra cho người khác chỉ v́ người ta được tư do mua bán sáng đạn như mua đồ chơi ở các cửa tiệm ! Đây là mối nguy hiểm rất to lớn cho sự an toàn sinh mạng của người dân sống trên đất nước tự do quá trớn này !

2- Có được phép cờ bạc không ? chắc chắn là không, v́ cờ bạc, dưới bất cứ h́nh thức nào, cũng là điều phi luân v́ nghich điều răn thứ bảy cấm lấy của người khác. Không phải cứ vào nhà người ta ăn trộm tiền hay đồ vật mới là phạm tội nghịch điều răn thứ bảy. Ngược lại, ước muốn lấy vật ǵ thuộc sở hữu của người khác, hay đi đến nơi cờ bạc để mong kiếm tiền mà không phải lao động cân xứng th́ cũng là tội nghịch điều răn thứ bảy cách chắc chắn. Lại nữa, không thể lấy lư do muốn giúp xây nhà thờ, tu viện, nhả nuôi trẻ mồi côi, xây trường học,…để biện minh cho việc cờ bạc v́ mục đích tốt không thể biện minh cho phương tiện xấu được. Tóm lại, cờ bạc là một điều lỗi phạm đức công bằng mà người tín hữu phải tránh v́ cờ bạc sẽ dẫn đến gian manh, trộm cắp, măi dâm, phản bội, và phá vỡ hạnh phúc gia đ́nh…

II- Về việc tham dự các nghi lễ của các giáo phái ngoài Công giáo:

Xin được nói lại một lần nữa là chỉ có Giáo Hội Công Giáo và các Giáo hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) là có các bí tích hữu hiệu như Phép rửa, Thêm Sức, Ḥa Giải, Sức dầu bệnh nhân, Truyền Chức thánh và Hôn phối, v́ chỉ các Giáo Hội này mới có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) mà thôi.

Ngoài ra, tất cả các Giáo Phái khác như các nhánh Tin lành, Baptist, Episcopal, Evangelical, Methodist, Presbyterian, Lutheran, Memonite, Anh giáo (Anglican Communion)…đều không có nguồn gốc Tông Đồ nên không có các bí tích hữu hiệu nói trên trừ Phép Rửa (Baptism) mà đa số họ có và được Giáo hội Công Giáo nh́n nhận, v́ họ cũng làm phép rửa với nước và Công thức Chúa Ba Ngôi. Nhóm nào không làm với Công thức này – như nhóm Bahai Hullah- th́ nếu tín đồ của họ muốn gia nhập Công Giáo, họ phải được rửa tội lại.

Trong mục đích đại kết (Ecumenism) mà Giáo Hội Công Giáo đă theo đuổi từ nhiều thập niên qua, nhằm tiến đến hiệp nhất giữa các Giáo hội và tín hữu c̣n ly khai, các tín hữu Công Giáo, cũng được khuyến khích giao thiệp trong t́nh huynh đệ với các anh chị em cùng tin Chúa Kitô nhưng đang ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, v́ chưa thể hiệp nhất được trong cùng một giáo lư, tín lư, bí tích, phụng vụ, và tôn trọng vị Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian là Đức Thánh Cha, tức Giám Mục Rôma và cũng là Thủ lănh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Đa số các giáo phái trên chỉ có giảng thuyết Kinh Thánh (hiểu theo cách cắt nghĩa riêng của họ) và làm Phép rửa mà thôi. Một số như nhóm Episcopalian, Lutheran. First United Church… cũng có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho trong lúc hội họp và nghe giảng thuyết. Tuy nhiên v́ họ không có chức Linh mục hữu hiệu nên dù các mục sư của họ có đọc lời Chúa nói trong Bữa tiệc ly th́ cũng không thể biến bản thể (substance) của bánh và rượu trở nên bản thể Chúa Kitô được v́ họ không có chức Linh mục hữu hiệu như đă nói trên.

V́ thế, nếu có v́ xă giao mà phải tham dự nghi lễ nào của anh em Tin Lành nói chung, th́ người Công Giáo không được tham gia vào việc bẻ bánh và uống rượu với họ, v́ làm như vậy có nghĩa là hiệp thông với họ trong niềm tin không có Chúa Kitô hiện diện thực sự trong Phép Thánh Thể như Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Đông Phương tin.Nghĩa là họ bẻ bánh và uống rượu là để nhắc lại bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu như được ghi lại trong ba Phúc Âm của Matthêu, Mac-cô và Luca, chứ không phải là thánh Lễ Misa cử hành trong Giáo Hội Công Giáo.

để dâng lại Hy Tế thập giá và diễn lại bữa ăn sau cùng của Chúa Kitô với Nhóm mười Hai trong đó Chúa Kitô đă lập Phép Thánh Thể và Chức Linh mục để “anh em làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” như Chúa đă truyền cho các Tông Đồ hiện diện (Lc 22 : 19; 1 Cor 11: 25).

Nói rơ hơn, chỉ có Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương là có bí tích truyền chức thánh hữu hiệu, nên các giám mục và linh mục mới được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô, là “Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 6: 20). Chính nhờ có chức linh mục hữu hiệu nên các tư tế Công Giáo và Chính thống (giám mục, linh mục) mới có thể đọc lời truyền phép hữu hiệu (valid consecration) để biến bản thể của bánh và rượu trở thành bản thể của Chúa Kitô khi cử hành Thánh lễ Tạ Ơn (Eucharist) trên bàn thờ ngày nay.

Tuy nhiên, v́ các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cũng có các bí tích hữu hiệu, nên người Công Giáo- trong trường hợp không t́m được nhà thờ và linh mục Công Giáo- th́ được phép tham dự nghi lễ phụng vụ ở một nhà thờ Chính Thống trong nơi ḿnh cư ngụ và lănh các bí tích Thánh Thể, ḥa giải và sức dầu nơi các linh mục Chính thống.

Thêm một điều nữa là, các tín hữu Công Giáo, nếu v́ xă giao hay liên hệ gia đ́nh mà phải đến tham dự lễ tang của anh em Phật Giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo, Hồi giáo… (Islam) th́ có thể đốt hương cho người quá cố, nhưng không được bái lậy các thần tượng của các tôn giáo bạn v́ chúng ta không cùng chia sẻ niềm tin với họ về Đấng mà họ tôn thờ.

Tóm lại, phải loại trừ các nguy cơ đưa đến phạm tội cho ḿnh và cho người khác như cờ bạc, buôn bán, sản xuất sách báo, phim ảnh vô luân, đồi trụy, buôn bán súng đạn v́ bất cứ lư do nào.

Cũng như chỉ được phép giao thiệp thân hữu với các anh chi em ngoài Công Giáo trong mục đích t́m sự hiệp nhất giữa các anh chị em đó với Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đă thiết lập trên nền tảng Tông Đồ để tiếp tục Sứ vụ rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa cho muôn dân cho đến thời sau hết.

Tuy nhiên, chúng ta phải giữ vững đức tin, vâng phục và thi hành những ǵ Giáo Hội là Mẹ dạy dỗ chúng ta trong các lănh vực giáo lư, tín lư, luân lư, phụng vụ và bí tích.

Chúng ta cũng cầu xin cho sự mau hiệp nhất của tất cả các giáo hội hay công đoàn đức tin đang c̣n ở bên ngoài Giáo hội Công Giáo để “họ được nên một như chúng ta là một” (Ga 17: 22) như Chúa Giêsu đă tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha trước giờ Người thọ nạn thập giá để cứu chuộc cho muôn dân.

Làm Sao Để Được Cứu Rỗi? (2)

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: nhân mùa Phục Sinh tưởng niệm Chúa Kitô chết và sống lại, xin cha giải thích: nếu phép rửa đă tha hết mọi tội rồi và nhất là Chúa đă chết để cứu chuộc cho loài người, như vậy đă đủ để mọi người được cứu rỗi chưa, hay c̣n phải làm ǵ nữa?

Trả lời:

Thiên Chúa là t́nh thường, là Cha rất nhân lành, là “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư." (1 Tm 2 :4). V́ thế, Thiên Chúa đă sai Con Một ḿnh là Chúa Giêsu xuống trần gian làm Con Người để "hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người" (Mt 20:28).

Như thể đủ cho chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa không muốn cho một ai phải bị lên án và hư mất đời đời v́ tội lỗi.

Giáo Hội cũng dạy rằng: "Chúa Kitô đă chết cho tất cả mọi người, không trừ một ai. Công Đồng Quiercy (năm 833, DS 624) đă dạy rằng: không có, đă không có và sẽ không có người nào mà không được Chúa Kitô chịu đau khổ v́ ḿnh." (x. SGLGHCG, số 605)

Nghĩa là sự cứu rỗi cho con người là ước muốn của chính Thiên Chúa, một điều chắc chắn mà mọi tín hữu chúng ta phải tin và hy vọng, căn cứ vào lời Chúa và lời dạy trên đây của Giáo Hội .

Tuy nhiên, cho được hưởng công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa, người ta cần phải có những điều kiện sau đây:

I- Trước hết, phải được tái sinh qua Phép rửa, v́ "ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. C̣n ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16:16) . Lại nữa: "không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí" (Ga 3:5).

Trên đây là chính những lời Chúa Giêsu đă nới với các Tông Đồ và với ông già Ni-cô-đê-mô xưa về tầm quan trọng và sự cần thiết phải lănh nhận Phép rửa để được tái sinh trong sự sống mới sau khi con người cũ đă chết v́ hậu quả của tội Nguyên Tổ (original sin).

Tuy nhiên, cần nói thêm một lần nữa ở đây là mặc dù Chúa nói như trên, nhưng Ngài vẫn dành cho những người không biết Chúa và không được rửa tội một lối thoát, nếu họ chẳng may rơi vào hoàn cảnh không được ai nói cho biết về Chúa và được chịu phép rửa để vào Nước Trời. Nói rơ hơn, những người đă sinh ra và chết trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời, hoặc ngay cả sau khi Chúa sinh ra nhưng không được ai dạy bảo cho họ biết về Chúa, về Tin Mừng cứu độ và về Phép rửa khiến họ không được rửa tội th́ đó không phải là lỗi của họ, bởi v́ "Làm sao họ tin Đấng họ không nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? như Thánh Phaolô đă quả quyế t(Rm 10: 14). Nói cách khác, không ai có thể tự ḿnh nhận biết có Thiên Chúa mà không cần người khác giúp lúc khởi đầu. Đó là lư do tại sao Chúa Kitô đă chọn và sai các Tông Đồ đi

“… khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loại thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu rỗi. C̣n ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16: 15-16)

Như thế, phải cần phải có người rao giảng Tin Mừng của Chúa cho người khác từ ban đầu cho đến ngày nay. Đó là sứ mệnh Phúc Âm hóa thế giới mà Giáo Hội đă lănh nhận từ Chúa Kitô qua các Thánh Tông Đồ và những người kế vị để mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ và mầu da ở khắp nơi trên trái đất này.

Nhưng như đă nói ở trên, nếu có những người không biết Chúa Kitô và Phúc Âm sự sống của Người v́ không ai rao giảng cho họ, th́ đó không phải là lỗi của họ. Dầu vậy, nếu họ đă sống ngay lành theo tiếng nói của lương tâm hướng dẫn, th́ họ vẫn có thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, v́ "Ngoài Người (Chúa Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; v́ dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." (Cv 4: 12; 1Tm 2: 5; SGLGHCG số 1281, Lumen Gentium, số 16)

Ngược lại, những người đă nghe Phúc Âm của Chúa, đă được tái sinh qua Phép Rửa mà không sống những cam kết khi được rửa tội là thực tâm yêu mến Chúa, yêu tha nhân và xa lánh mọi tội lỗi, th́ Phép rửa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cũng không mang lại lợi ích thiêng liêng nào cho họ.

Nói khác đi, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng không những cho những người đă nhận biết Chúa,đă được rửa tội – và đang sống những cam kết của Phép rửa (Baptismal promises) mà c̣n áp dụng cho cả những người không được biết Chúa và không được rửa tội v́ không ai dạy cho họ biết. Đó là trường hợp của tổ tiên Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới đă sinh ra và chết đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Những người này không biết Chúa và không được lănh phép Rửa th́ đó hoàn toàn không v́ lỗi của họ, nên Chúa không thể lên án họ v́ lỗi này được. Ngược lại, họ vẫn có thể được cứu rỗi nếu họ đă sống ngay lành theo sự hướng dẫn của lương tâm và có ư đi t́m Đấng Tối cao là Thiên Chúa để thi hành thánh ư Ngài như đă nói ở trên.

Đang khi c̣n bị treo trên Thập giá, Chúa Giêsu đă bị “một tên linh lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người : tức th́ máu cùng nước chảy ra.” (Ga 19 : 34)

Nước đó chính là nước rửa cho con người sạch mọi tội một lần nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của tội và trả lại cho con người t́nh trạng "ngây thơ, công chính ban đầu" (original innocence and justice), một t́nh trạng ơn phúc đặc biệt mà Adam và Eva đă được hưởng trước ngày hai người phạm tội v́ ăn trái cấm, đem lại hậu quả to lớn là "v́ một người duy nhất mà tội lỗi xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đă lan tràn tới mọi người bởi v́ mọi người đă phạm tội." (Rm 5: 12)

Nói khác đi, sự bất tuân của Adam và Eva đă đem tội và sự chết vào trần gian. Nhưng nhờ một người duy nhất vâng phục Thiên Chúa là Chúa Kitô mà "muôn người cũng sẽ thành người công chính" v́ "nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đă chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được ḥa giải với Người để anh em trở nên thánh thiện, tinh tuyển không có ǵ đáng trách trước mặt Người." (Cl 1: 22) theo lời dạy của Thánh Phaolô.

Nhưng đó chỉ là viễn ảnh của niềm tin và hy vọng chứ chưa tức khắc thành sự thật ngay bây giờ cho ai, trử khi có ai chết ngay sau khi được rửa tội th́ chắc có cơ may được hưởng ngay ơn cứu độ để vào Nước trời như Người trộm lành trước kia. Chúa Giêsu đă tha thứ mọi tội cho anh ta v́ anh đă sám hối và xin thương xót trước khi chết. (Lc 23:42-43)

Nhưng nếu vẫn tiếp tục sống trên trần thế này, th́ mọi người chúng ta lại có nhiều cơ hội để phạm tội thêm nhiều lần nữa v́ bản chất yếu đuối của con người, v́ gương xấu của thế gian và nhất là v́ ma quỷ cám dỗ bao lâu ta c̣n sống trong thân xác có ngày phải chết này.

Mặt khác, Phép Rửa, tuy xóa một lần mọi tội lỗi, nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của tội, mà vẫn c̣n để lại trong con người "một số những hậu quả của tội như những đau khổ, bệnh tật, sự chết hoặc những yếu đuối gắn liền với sự sống như những yếu đuối về tính t́nh…và nhất là sự hướng chiều về tội lỗi mà truyền thống gọi là t́nh dục, hay c̣n được gọi là "ḷ sinh ra tội lỗi (formes percati) được để lại đó cho con người phải chiến đấu chống lại nó"cho đến hơi thở cuối cùng của đời người trên trần thế này. (x. SGLGHCG số 1264)

Ngoài ra, như đă nói ở trên, c̣n phải kể đến những gương xấu, những dịp tội đầy rẫy ở khắp trên trần gian này nhất là nhữngcám dỗ mănh liệt của ma quỉ là "thù địch của anh em như sư tử gầm thết rảo quanh t́m mồi cắn xé" (1 Pr 5: 8),nhằm lôi kéo con người ra khỏi t́nh thương của Chúa và ơn cứu độ của Người.

Đó là tất cả những thách đó, những nguy cơ mà con người phải đối phó sau khi được rửa tội để sống một đời sống mới theo Thần Khí hướng dẫn để được ơn cứu độ. V́ nếu "hướng đi của xác thịt là sự chết" th́ "hướng đi của Thần Khí là sự sống và b́nh an."(Rm 8 :6)

II- Phải làm ǵ nữa để xứng đáng được ơn cứu rỗi?

Chúa là t́nh thương và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá và đủ cho con người được cứu độ. Nhưng v́ con người c̣n có ư muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dụng để hoặc sống theo Chúa “là Đường, là Sự Thật và là sự Sống" (Ga (14: 6) hay khước từ Chúa để sống theo "văn hóa của sự chết" chối bỏ Thiên Chúa, tôn thờ vật chất, tiền bạc và mọi thú vui vô luân, vô đạo, gian ác, độc dữ, bất công, bóc lột, độc tài, hà khắc ... như thực trạng của thế giới tục hóa ngày nay. Đặc biết là ở các nước Âu Mỹ, và các quốc gia chậm tiến và độc đảng cai trị, nơi không c̣n ǵ là luân lư phổ quát (universal moral) khiến người ta coi việc giết thai nhi là hợp pháp, bán con cái cho bọn măi dâm buôn người là việc buôn bán tự nhiên của các cặp vợ chồng đă mất hết bản chất làm cha mẹ trong một xă hội quá suy đồi về luân lư, đạo đức. như xă hội Viêt Nam hiện nay.

Lại nữa, một tệ trạng đang được phổ biến ở các quốc gia Âu Mỹ là việc cho hợp thức hóa hôn nhân đồng tính (same sex mariage), một suy thoái đạo đức nghiêm trọng về mục đích của hôn nhân và nền tảng gia đ́nh mà Thiên Chúa đă thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người và trao cho sứ mệnh "Hăy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất." (St 1: 28)

Như thế, để hưởng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, người tín hữu phải thực tâm tỏ thiện chí sống đức tin từ trong nội tâm ra đến hành động cụ thể bên ngoài để cộng tác với ơn thánh trong nỗ lực thánh hóa bản thân và giúp thánh hóa người khác qua gương sống chứng nhân của ḿnh.

Sự cộng tác với ơn thánh thật vô cùng cần thiết, v́ nếu không th́, từ ban đầu Thiên Chúa đă không truyền cho dân Do Thái nói riêng và con người ngày nay nói chung Mười Điều Răn của Chúa mà ông Mô-Sê đă long trọng nói với dân Do Thái xưa như sau :

Hăy xem: hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn : hoặc được chúc phúc, hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA…” (Đnl 11: 26-28)

Vâng nghe những mệnh lệnh của Thiên Chúa có nghĩa là thi hành những Điều Răn Người đă truyền cho ta phải tuân giữ để được chúc phúc và được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Thiên Chúa ban những lề luật đó không v́ lợi ích nào của riêng của Ngài, mà v́ lợi ích của con người mà thôi. V́ nếu không có lề luật nào ràng buộc, để con người tự do chém giết, trộm cắp, lấy của người khác làm của riêng tư, cướp vợ,giật chồng của nhau… th́ thế giới này sẽ đi về đâu ? Có giới răn của Chúa mà người ta c̣n vi phạm, c̣n làm những sự dữ ở khắp nơi từ xưa đến nay, huống chi là nếu không có lề luật nào chi phối, th́ xă hội loài người đă bị tiêu diệt từ lâu rồi. Do đó, chúng ta phải cám ơn Chúa về những lề luật mà Người đă truyền cho con người phải thi hành để được chúc phúc ngay trong cuộc sống trên trần gian này, trước khi được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Thật vậy, những ai đă được rửa tội rồi cũng ví như dân Do Thái xưa đă vượt qua Biển Đỏ dưới sự lănh đạo của ông Mô-sê để trở về quê hương và tiến vào Đất Hứa. Nhưng họ đă không được vào đất này ngay mà c̣n phải sống trong sa mạc mấy chục năm để được thử thách về ḷng tin yêu Thiên Chúa của họ. Khi sống trong hoang địa, họ đă chịu thiếu thốn mọi sự, từ thức ăn đến nước uống. V́ thế họ đă kêu trách Chúa và ông Mai-sen về những gian khổ mà họ phải chịu đựng . Và tệ hại hơn nữa họ đă đúc Con Bê bằng vàng và sụp lậy nó như vị thần đă đưa họ ra khỏi ách nô lệ bên Ai Cập! (Xh 32: 1-6)

Thiên Chúa đă nổi giận và muốn tiêu diệt đám dân vô ân này, nhưng nhờ ông Mô Sê khẩn cầu thay cho họ mà Thiên Chúa "đă thương không giáng phạt dân Người như Người đă đe." (Xh 32: 14)

Ngày nay, là dân Tân Ước, chúng ta là dân mới của Thiên Chúa đă được tái sinh qua Phép rửa, tức là cũng đi qua nước như dân Do Thái xưa vượt qua Biển đỏ để vào đất tự do, thoát ách nô lệ bên Ai Cập. Phép rửa cũng giải phóng cho con người khỏi ách nô lệ tội lỗi để sống đời mới theo Thần Khí hướng dẫn để được cứu độ. Nhưng cũng như Dân Do Thái xưa phải sống trong hoang địa 40 năm trước khi được vào Đất Hứa là đất Ca-na-an "tràn trề sữa và mật" (Ds 13:27), dân Tân Ước ngày nay cũng phải sống trong trần thế này một thời gian dài ngắn tùy số phận của mỗi người . Nghĩa là sau khi được tái sinh qua Phép Rửa, chúng ta chưa vào ngay Đất Hứa là Thiên Đàng mà c̣n phải "lưu vong" trong sa mạc trần thế này để được thử thách về đức tin, đức cậy và đức mến.

Nếu đức tin đă được chứng minh cụ thể bằng đức mến nồng nàn, nghĩa là thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sựvà tuân giữ các Giới Răn của Người, yêu mến tha nhân như Chúa Kitô đă dạy cộng thêm quyết tâm xa lánh mọi tội lỗi tức là thi hành những cam kết khi được rửa tội th́ "anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều ǵ và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời..." như Thánh Phaolô đă dạy. (Pl 2:15)

Nói khác đi, những ai đă và đang cố gắng sống theo đường lối của Chúa, chống lại những đ̣i hỏi bất chính của bản năng, gương xấu của trần gian và mưu chước cám dỗ của ma quỉ, th́ đang cộng tác hữu hiệu với ơn thánh để được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Khi sạch tội, con người sống trong ơn phúc của Thiên Chúa, nghĩa là sống ơn cứu độ ngay ở trần thế này. Ngược lại, nếu không có thiện chí cộng tác của cá nhân với ơn Chúa mà buông ḿnh sống theo "văn hóa của sự chết" th́ ơn tái sinh của Phép Rửa sẽ trở nên vô ích và Chúa cũng không thể cứu ai thiếu thiện chí đó.

Đó là lư do tại sao Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên cao mới được vào mà thôi." (Mt 7 :21)

Thi hành ư Cha trên trời có nghĩa là yêu mến Người trên hết mọi sự thể hiện cụ thể qua việc tuân thủ những Điều Răn của Chúa, v́ "ai yêu mến Thầy th́ sẽ giữ lời Thầy … Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,anh em sẽ ở lại trong t́nh thương của Thầy như Thầy đă giữ các điều răn của Cha Thầyvà ở lại trong t́nh thương của Người." (Ga 14: 23; 15: 10)

Như thế, thi hành các luật điều về yêu thuơng, công b́nh, bác ái, xa lánh tội lỗi và sống thánh thiện là thi hành ư muốn của Cha trên trời, Đấng yêu thương con người đến nỗi đă "sai chính Con ḿnh đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội cho chúng ta" (Rm 8 :3). Và chính nhờ "máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc". (Ep 1 :7)

Tóm lại, Phép rửa và công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô có giá trị cứu rỗi tuyệt đối, nhưng chỉ hữu ích cho những ai có thiện chí cộng tác với ơn Chúa sau khi được rửa tội bằng quyết tâm sống ơn tái sinh của Phép Rửa là "phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người hư nát v́ bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới là con người đă được sáng tạo theo h́nh ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện" như Thánh Phaolô đă dạy. (Ep 4: 22-24)

Nói khác đi, nếu con người không có quyết tâm chừa bỏ mọi tội lỗi và thực thi đức ái nồng nàn th́ không những Phép rửa mà cả công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích, v́ Thiên Chúa phải tôn trọng tự do của con người chứ không bắt buộc ai phải yêu mến và nhận ơn cứu rỗi của Người. Người chỉ mời gọi và con người có tự do để đáp trả hoặc ưng thuận hay khước từ lời mời gọi đó.

Sau hết, không thể viện cớ Chúa nhân từ và hay tha thứ để cứ tự do sống theo thế gian và xác thịt.

Chúa đầy ḷng xót thương: đúng. Nhưng nếu con người lợi dụng t́nh thương của Chúa để đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh th́ "Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" như lời Người đă cảnh cáo trong sách Khải Huyền. (Kh 3:16)

Đó là tất cả những ǵ chúng ta cần suy niệm về t́nh thương tha thứ của Thiên Chúa, về công nghiệp cứu chuộc vô giá (invaluable) của Chúa Kitô và những ǵ ta phải làm để cộng tác với ơn Chúa hầu được hưởng ơn cứu độ của Người.

Phải Chăng Giuđa Không Được Cứu Rỗi?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân mùa Phuc Sinh, xin cha giải đáp hai câu hỏi sau đây:
1- Có phải Giuđa chắc chắn đă không được cứu rỗi?
2- Phải chăng Đức Mẹ đă được Thiên Chúa cứu độ trước khi làm Mẹ Chúa Giêsu?

Trả lời :

1- Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau :

Nói đến Giuđa th́ trước hết, đây là điển h́nh cho loại người quá đam mê tiền của đến quên tinh quên ân nghĩa và phản bội. Đây cũng là gương xấu to lớn phải tránh cho mọi người có niềm tin nơi Chúa là Đấng đầy ḷng thương xót, công b́nh và hay tha thứ. Người thương xót và hay tha thứ, nhưng chúng ta phải tin tưởng và chậy đến xin Người thứ tha cho dù tội lỗi đến đâu. Chí có một tội không thể tha thứ được : đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và không c̣n tin tưởng ǵ nơi ḷng thương xót của Người nữa. Đó là điều Chúa Giêsu đă nói rơ trong Tin Mừng như sau:

Tôi bảo thật cho anh em : mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa th́ cũng c̣n được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần th́ chẳng đời nào được tha, mà c̣n mắc tội muôn đời.” (Mc 3: 28-29)

Như thế, nếu Giuđa quả thực hết tin tưởng nơi ḷng thương xót của Chúa đến nỗi đi thắt cổ tự tử th́ có thể Giuđa đă phạm tội mà Chúa Giêsu nói trên đây. Nhưng điều này chỉ có một ḿnh Thiên Chúa biết và phán đoán Giuđa chiếu theo ḷng khoan dung vô lượng và công minh tuyệt đối của Người. Nghĩa là chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện bề ngoài để đưa ra một phán đoán nào, v́ chúng ta hoàn toàn không biết được Giuđa có thực sự mất hết tin tưởng nơi ḷng thương xót tha thứ của Chúa, hay trong một phút trước khi chết, anh ta đă kịp ăn năn hối lỗi và được tha thứ như người trộm lành ?

Điều này chỉ một ḿnh Chúa biết mà thôi.Do đó, Giáo Hội cũng không dám đưa ra một phán đoán chắc chắn nào về số phận đời đời của Giuđa.Nếu Giáo Hội mà không dám kết luận chắc chắn về phần rỗi của Giuđa th́ chúng ta dựa vào đâu mà dám nghĩ rằng Giuđa đă sa hỏa ngục hay được cứu rỗi ?

Cũng vậy, đối với những người tự tử chết ngày nay, Giáo Hội vẫn cho phép cử hành lễ an táng cũng như cho chôn xác trong nghĩa trang công giáo, một điều không được phép làm trước Công Đồng Vaticanô II . Sở dĩ trước đây Giáo Hội cấm cử hành tang lễ cho người tự tử chết v́ Giáo Hội lên án gương xấu này chứ không v́ phán đoán rằng người tự tử đă sa hỏa ngục rồi nên không c̣n ích ǵ để cầu nguyện cho ai đă tự hủy hoại đời ḿnh v́ bất cứ lư do nào.

Như vậy, ta không nên phán đoán ǵ về trường hợp của Giuđa cũng như về những người đă tự tử chết, mặc dù đó là gương xấu và cũng là tội trọng phải tránh. Giuđa có tội rất lớn là đă tham tiền và cam tâm phản bội Chúa khi bán Người lấy 30 đồng bạc của bọn Thượng Tế Do Thái. Không ai có thể biện minh cho việc phản bội, tham tiền và thất vọng đi tự tử của Giuđa.

Chính Chúa Giêsu cũng lên án việc phản bội của Giuđa như sau :

Đă hẳn, Con Người ra đi theo như lời đă chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người : thà kẻ đó đừng sinh ra th́ hơn !” (Mc 14: 21)

Lại nữa trong lời cầu cùng Chúa Cha trước đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu cũng than trách về Giuđa như sau :

Khi c̣n ở với họ, con đă giữ ǵn họ
Trong danh Cha mà Cha đă ban cho con
Con đă canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất
Trừ đứa con hư hỏng
để ứng nghiệm lời kinh Thánh
.” (Ga 17: 12)

Đứa con “hư hỏng” v́ đă phản bội chứ không có nghĩa là đă sa hỏa ngục. Nhưng việc Chúa phải chịu khổ h́nh và chết trên thập giá lại khác : không phải v́ Giuđa phản bội, mà v́ Chúa Giêsu muốn thi hành thánh ư Chúa Cha muốn Người hy sinh để đền tội cho cả loài người như Thánh Phaolô đă dạy:

“Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đă trao nộp v́ hết thẩy chúng ta.” (Rm 8:32)

Thánh Phêrô cũng quả quyết thêm như sau:

Chính Đức Kitô đă chịu chết một lần v́ tội lỗi. Đấng Công Chính đă chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” (1 Pr 3 :18)

Cũng chính v́ vâng ư Chúa Cha để chiu khổ h́nh thập giá và chết thay cho kẻ có tội là mọi người chúng ta, nên trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đă phó linh hồn cho Chúa Cha với những lời thống thiết như sau :

“Lậy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong Người tắt thở.” (Lc 23:46)

Lời cầu xin phó linh hồn trên đây của Chúa Giêsu đă được tiên báo trước trong Thánh Vinh 131:

Trước khi Chúa đến trần gian để thi hành thánh ư Chúa Cha:

“Trong tay Ngài con xin phó linh hồn con.” (Tv 131: 6)

Như thế, chứng tỏ Chúa Giêsu đă biết trước việc Người sẽ chết để đền tội cho nhân loại, đúng như Người đă nói với các môn đệ trong khi c̣n đi rao giảng Tin Mừng với họ:

“Này chúng ta lên Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người. Họ sẽ đánh đ̣n và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.”(Mc 10:33-34),

Do đó, không thể nói rằng nếu Giuđa không phản bội th́ Chúa đă không chết.

Sự thật phải tin là Chúa Giêsu đến trần gian làm Con Người để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người, trong Chương Tŕnh Cứu Độ nhân loại của Chúa Cha, như ngôn sứ Isaia đă loan báo từ 8 thế kỷ trước khi Chúa Giêsu sinh xuống trần gian :

“Tôi đă đưa lưng cho người ta đánh đ̣n
Giơ má cho người ta giật râu
Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.”
(Is 50: 6)

Hoặc :

Chính Người đă bị đâm v́ chúng ta phạm tội
Bị nghiền nát v́ chúng ta lỗi lầm
Người đă chịu sửa trị để cho chúng ta được b́nh an
Đă mang lấy thương tích cho chúng ta được chữa lành
.”(Is 53 :5)

Như vậy, đủ cho thấy rơ là Chúa Cha đă dự liệu những khổ h́nh mà Chúa Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc cho nhân loại khỏi bị án phạt v́ tội. Người chính là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” như Gioan Tiền Hô đă tuyên xưng một ngày kia. Chúa Giêsu cũng đă xác nhận những điều đă được tiên báo về Người trong đêm bị nộp khi Chúa quở mắng Phêrô v́ đă chém. đứt tai một đầy tớ của Thượng tế Do Thái:

Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơnmười hai đạo binh thiên thần. Nhưng như thế th́ lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (Mt 26: 53-54)

Hay rơ hơn nữa, khi Chúa bảo Phêrô “Hăy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đă trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18: 11)

Chén đắng đây chính là việc Người bị trao nộp, bị đánh đập, nhạo báng, phỉ nhổ và cuối cùng bị đóng đanh và chết trên thập giá. Như vậy, tuyệt đối không có vấn đề giả sử Giuđa đừng phản bội th́ Chúa đă không phải chết. Đây là chén đắng Chúa Cha đă định liệu cho Người uống để chuộc tội cho nhân loại trong chương tŕnh cứu độ của Chúa Cha

Và Chúa Kitô đă vui ḷng uống “chén đắng” đó khi Người không kêu cứu Chúa Cha sai đạo binh thiên thần đến giải thoát cho Người khỏi bị bắt và điệu đi hành h́nh.

Dầu vậy, Giuđa vẫn có lỗi lớn là đă bán Chúa lấy 30 đồng bạc của các thượng tế và kỳ mục Do Thái. Và v́ không ngờ việc bán Thầy lại trùng hợp với việc Chúa Giêsu vâng ư Chúa Cha để vui ḷng chiu tử nạn, nên y đă quá thất vọng đi tự tử, tức là phạm thêm một tội trọng nữa là tự hủy hoại mang sống ḿnh. Nhưng như đă nói ở trên, ta không biết được Giuđa có c̣n kịp sám hối trước khi chết hay không, nên không thể kết luận được ǵ về phần rỗi của y. Việc này Chỉ có Chúa biết mà thôi.

2- Đức Mẹ được cứu chuộc trước khi Chúa Kitô ra đời ?

Có thể nói vắn gọn là điều này không đúng, v́ bằng chứng Kinh Thánh sau đây :

a- “Chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người : Đức Kitô- Giêsu
Đấng đă tự hiến làm giá chuộc cho mọi người.” (1 Tm 2 : 5-6)

b- “Ngoài Người (Đức Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ v́ dưới gầm trời này
Không có một danh nào khác đă ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào
Danh đó mà được cứu độ.” (Cvtđ 4: 12)

Đức Trinh Nữ Maria được diễm phúc không mắc tội tổ tông và mọi tội khác, được trọn đời đồng trinh dù đă sinh Chúa Giêsu với quyền năng của Chúa Thánh Thần, cũng như được về trời cả hồn xác.Nghĩa là Mẹ không phải trải qua cái chết trong thân xác như mọi con người sinh ra trong trần thế này. Hơn thế nữa, Mẹ c̣n được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) v́ là Mẹ thật của Chúa Giêsu, cũng là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa (The Holy Trinity).

Nhưng dù với địa vị cao trọng làm vậy, Mẹ cũng không cùng bản thể với Thiên Chúa hay cao hơn Chúa, là Đấng được tôn thờ ở mức Latria trong khi Mẹ được tôn kính đặc biệt ở mức Hyperdulia, các Thánh Nam Nữ khác ở mức Dulia trong phụng vụ thánh của Giáo Hội. Đó là những điều chúng ta cần biết, tin và thực hành như Giáo Hội dạy.

Nhưng Giáo Hội chưa hề dạy rằng Mẹ Maria được lănh nhận ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trước khi làm Mẹ Ngôi Hai. Thiên Chúa có Chương Tŕnh cứu chuộc loài ngoài, và đă nhờ Chúa Kitô thi hành Chương Tŕnh này và Chúa đă hoàn tất Công Tŕnh đó qua khổ nạn thập giá, chết, sống lại và lên trời . Đó là nội dung Mầu Nhiệm Vượt qua (Paschal Mystery) của Chúa Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi năm trong Tuần Thánh với cao điểm là Lễ Phục Sinh, tuyên xưng Chúa Kitô đă sống lại sau khi phải chiu khổ nạn và thực sự chết trên thập giá và được mai táng 3 ngày trong Mồ đá.

Như thế, trước khi Chúa Kitô hoàn tất Chương Tŕnh cứu độ của Chúa Cha qua Mầu Nhiệm Vượt qua th́ công nghiệp cứu chuộc đó chưa có để ban phát cho ai, -dù là riêng cho Mẹ Maria- v́ Chúa Giêsu chưa “uống chén đắng” mà Chúa Cha muốn trao cho Người.

Chính v́ ơn cứu độ chưa sẵn có, nên những người lành thánh chết từ bao đời trước khi Chúa Giêsu hoàn tất công nghiệp cứu chuộc của Người, th́ đều phải ở nơi gọi là “Ngục tổ tông=Abode of the Dead” đợi chờ Chúa “đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” ở đây. V́ thế, sau khi Chúa chết trên thập giá, Người đă xuống nơi này với tư cách là Đấng Cứu Thế để loan báo Tin mừng cứu độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Đàng (x.1 Pr 3: 19; SGLGHCG số 632)

Do đó, không thể nói rằng Chúa Cha đă ban ơn cứu độ riêng cho Mẹ Maria, Người đầy ơn phúc., v́ đă sinh Con Chúa Trời và cộng tác tích cực vào việc thi hành Chương Tŕnh cứu chuộc nhân loại của Chúa Giêsu-Kitô.Nghĩa là mọi người - kể cả Đức trinh Nữ Maria- dù vẹn toàn v́ không mắc tội tổ tông và mọi tội cá nhân- đều phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là hạnh phúc của các Thánh và các Thiên Thần. Lư do là chỉ có một ḿnh Chúa Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người trong việc cứu độ nhân loại như lời Kinh Thánh trích trên đây.Cho nên, khi Người chưa hoàn tất công cuộc cứu chuộc loài người qua Hy Tế Thập giá, th́ ơn cứu độ đó chưa sẵn có để ban cho ai.Vả lại, nếu ơn đó đă sẵn có, th́ Chúa Kitô đă không cần phải đến trần gian để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người và trở thành Đấng Cứu Chuộc duy nhất cho nhân loại (Human Savior).

Đó là tất cả những điều người tín hữu Chúa Kitô phải tin và thực hành để hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo là Mẹ, thay mặt Chúa là Cha để dạy dỗ con cái ḿnh không sai lầm những ǵ thuộc phạm vị đức tin và luân lư.

Ước mong những lời giải thích trên thỏa măn câu hỏi được đặt ra.

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật Phục Sinh 2013

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Một lần nữa, Giáo Hội lại long trọng mừng kỷ niệm Chúa Kitô sống lại từ cỗi chết, một biến cố vô cùng quan trọng cho đời sống Kitô Giáo.

Thật vậy, cách nay trên 2000 năm Chúa Giêsu-Kitô đă sống lại sau ba ngày nằm trong Mồ Đá đúng như lời Người đă nói trước với các môn đệ khi c̣n đi rao giảng Tin Mừng cứu Độ :

Người bảo họ rằng: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.” (Mt 19 : 18-19; Mc`9 : 31; Lc 9: 22)

Mặc dù cho đến nay, vẫn có kẻ không tin việc Chúa sống lại, nhưng chúng ta, những người có diễm phúc được đức tin, chúng ta không một chút nghi ngờ về điều Kinh Thánh đă mặc khải và giáo lư vững chắc của Giáo Hội dạy về sự Phục Sinh của Chúa Kitô, sau khi Người bị đóng đanh và chết trên thập giá ngày thứ sáu trong tuần.Niềm tin này thật vô cùng quan trọng và cần thiết v́ như Thánh Phaolô đă nói :

“Nếu Đức Kitô đă không chỗi dậy, th́ lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng,và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1 Cor 15: 14).

Nghĩa là nếu không tin Chúa Kitô đă sống lại, th́ hy vọng sống đời đời của chúng ta cũng sẽ tiêu tan, v́ không có cơ sở nào để tin “xác loài người ngày sau sống lại” như Giáo hội dạy trong Kinh Tin Kính.Nhưng chính v́ Chúa Kitô đă thực sự chết và sống lại, “bởi thế, cũng như Người đă sống lại từ cơi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, th́ chúng ta cũng được sống một đời sống mới.” như Thánh Phaolô đă dạy. (Rm 6: 4)

Đây là niềm tin và hy vọng chắc chắn của mỗi người tín hữu chúng ta mỗi khi cùng với Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Kitô Phục Sinh là một trong hai cao điểm của chu kỳ Phụng Vụ Thánh

Đối với chúng ta, vấn đề không phải là đi t́m bằng cớ về sự kiện Chúa đă sống lại mà quan trọng là sống tin mừng Chúa đă phục sinh để từ đó thêm quyết tâm “sống không c̣n cho chính ḿnh nữa mà sống cho Đấng đă chết và sống lại v́ ḿnh” theo lời dạy của Thánh Phaolô (2 Cr 5: 15).

Thật vậy, sự phục sinh của Chúa không những củng cố đức tin của chúng ta mà c̣n cho chúng ta hy vọng chắc chắn vào sự sống lại của mỗi người chúng ta sau khi mọi người đều phải chết trong thân xác do hậu quả của tội, như Thánh Phaolô đă quả quyết : “V́ một người duy nhất (Adam), mà tội lỗi đă xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đă lan tràn tới mọi người, bởi v́ mọi người đă phạm tội.” (Rm 5: 12)

Nhưng cái chết về thể xác không quan trọng bằng cái chết trong linh hồn v́ phải vĩnh viễn xa cách Thiên Chúa là nguồn mọi an vui, và hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời .Chính v́ muốn cho con người được sự sống vĩnh cửu đó – nghĩa là được cứu rỗi- mà Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, đă xuống thế làm Con Người để “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20: 28).

Như thế, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu-Kitô thực vô giá và đủ cho con người được cứu độ v́ Thiên Chúa “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4).

Tuy nhiên, dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá (invaluable) và đủ cho con người được cứu độ, Thiên Chúa vẫn cần sự cộng tác của mỗi người chúng ta vào ơn cứu chuộc đó. Lư do là con người c̣n có ư muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dụng; để hoặc yêu mến Chúa và muốn được cứu rỗi hay khước từ Chúa để sống theo ư riêng ḿnh. Nói rơ hơn, Thiên Chúa không ép buộc ai phải yêu mến và sống theo đường lối của Ngài để được hạnh phúc Nước Trời. Nếu con người quay lưng lại với Thiên Chúa và chọn cách sống đi ngược lại với t́nh yêu, sự công chính và thánh thiên của Chúa, th́ con người phải lănh nhận hậu quả của sự chọn lựa đó. Và đây là lư do tại sao Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa như sau:

“Không phải bất cứ ai thưa với Lậy Chúa! Lậy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7: 21)

Thi hành ư muốn của Cha trên Trời có nghĩa là sống và thực thi Sứ Điệp Cứu Độ của Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Đấng đă đến trong trần gian làm Con Người để thi hành Chương Tŕnh Cứu Độ nhân loại của Chúa Cha qua khổ h́nh thập giá, sống lại từ cơi chết và lên Trời vinh hiển như Giáo Hội long trọng mừng kính năm nay là năm thứ 2013.

Trong suốt ba năm đi rao giảng, Chúa Giêsu đă mặc khải Chúa Cha cho các môn đệ và nói rơ Người được Chúa Cha sai xuống trần gian để “cứu cái ǵ đă hư mất.” (Mt 18: 11). Cho nên:

Ai không yêu mến Thầy th́ không giữ lời Thầy
Và lời anh em nghe đây, không phải là của Thầy
Nhưng là của Chúa Cha, Đấng đă sai Thầy
.” (Ga 14: 24)

Lời Chúa Cha mà Chúa Giêsu công bố được tóm tắt trong hai Điều Răn quan trọng nhất, đó là phải “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, hết ḷng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi,..và yêu mến người thân cận như chính ḿnh.” (Mt 22: 37-39) như Chúa đă trả lời cho một người trong nhóm luật sĩ Do Thái xưa.

Như vậy, thực hành tốt hai Điều Răn nói trên là thi hành ư muốn của Chúa Cha, và nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giê-su-Kitô, chúng ta được cứu rỗi để sống hạnh phúc vĩnh cửu với Cha chúng ta ở trên trời, sau khi kết thúc hành tŕnh đức tin, đức cậy và đức mến trên trần thế này. Nhưng như đă nói ở trên, Thiên Chúa đ̣i hỏi sự cộng tác của con người vào ơn cứu độ v́ con người c̣n có tự do để hoặc chọn Chúa và sống theo đường lối của Người, hay từ khước Chúa để sống theo thế gian với “văn hóa của sự chết” thể hiện rơ nét qua sự tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, danh vọng phù phiếm, vui chơi sa đọa, dâm ô, gian manh, lừa đảo, trộm cắp, giết người, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ măi dâm rất khốn nạn, như thực trạng ở khắp nơi trên thế giới duy vật, vô thần và tục hóa ngày nay.

Nếu con người dùng tự do để chọn nếp sống vô luân vô đạo nói trên, th́ Thiên Chúa không ngăn cấm, nhưng con người phải chịu mọi hậu quả của sự chọn lựa này.

Nói khác đi, nếu con người không cộng tác với ơn Cứu Độ của Chúa Kitô để tự do sống theo ư muốn của riêng ḿnh và làm những sự dữ sự tội, th́ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa sẽ trở nên vô ích và Chúa sẽ không thể cứu ai chọn cách sống đó, mặc dù Chúa là t́nh thương và hay tha thứ.Thương và tha thứ cho những ai c̣n tin tưởng nơi ḷng nhân hậu của Chúa và muốn sống theo đường lối của Người, là đường đưa đến sự sống vĩnh cửu trên Nước trời mai sau.

T́nh thương vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô có thể được tạm ví như ḍng sông nước chảy cuồn cuộn liên lỉ đêm ngày. Nhưng người đứng bên ḍng sông đó sẽ vẫn chết khát, nếu không tự cúi ḿnh xuống, múc nước lên mà uống. V́ nước không có chức năng phải nhảy lên từ ḍng sông để chảy vào miệng ai đang khát ngồi trên bờ sông.Như vậy, cúi xuống mà múc nước lên là cố gắng của con người cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi và sống hạnh phúc đời đời với Chúa trong nơi Vĩnh Hằng mai sau.

Tóm lại, mừng Chúa Kitô phục sinh cũng là dịp thuận lợi để mỗi người tín hữu chúng ta trước hết cảm tạ Chúa một lần nữa về ơn cứu độ và hy vọng được hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn mọi vui sướng hoan lạc. Nhưng đồng thời cũng nhắc chúng ta về sự cần thiết phải cộng tác với ơn cứu chuộc vô giá đó bằng quyết tâm cải thiện đời sống, từ bỏ ma quỉ và thế gian là những kẻ luôn muốn đẩy chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa, với những cảm dỗ về mọi giống tội lỗi và sự dữ, là nguyên nhân khiến Chúa Kitô đă phải chịu khổ h́nh thập giá để cứu chuộc cho chúng ta được hy vọng sống và thông phẩn bản tính Thiên Chúa sau khi đă thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” này như Thánh Phêrô đă dạy (2 Pr 1: 4).

Xin kinh chúc quí tín hữu và độc giả một Mùa Phục Sinh b́nh an, vui mừng, và hy vọng Alleluia ! Alleluia !

Chúng ta mong đợi những ǵ nơi Đức Thánh Cha Phanxicô?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Toàn thể Giáo Hội nói riêng và toàn Thế giới nói chung đều hân hoan về tin Đức Tân Giáo Hoàng Phan-xi-cô được mật nghị Hồng Y chọn lên kế vị Thánh Phêrô ngày thứ tư 13-3 vừa qua. Có thể nói : trên toàn thế giới từ xưa đến nay, không có biến cố nào lại được mọi người – đặc biết là giới truyền thông- chú ư theo dơi cách đặc biệt như vậy. Con số 5600 nhà báo và hàng mấy chục cơ quan truyền thanh, truyên h́nh đến từ nhiều quốc gia trên thế giới để săn tin đă nói lên tầm quan trọng có chiều kích toàn cầu của việc tuyển chọn vị Lănh đạo tối cao của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Riêng người tín hữu Công Giáo ở khắp nơi trong Giáo Hội, th́ niềm hân hoan vui mừng v́ có Chủ Chăn mới vẫn đang c̣n nóng hổi trong tâm hồn mỗi người. Tin vui mừng lớn lao (gaudium magnum) này cũng xoa dịu nỗi buồn luyến tiếc về việc Đức Bê-nê đich tô 16 đột nhiên từ chức ngày 11 tháng 2 vừa qua v́ lư do sức khỏe.

Trước hết, qua việc bầu Đức Tân Giáo Hoàng Phan-xi-cô, mọi người tín hữu chúng ta thêm xác tín có Chúa Thánh Thần hiện diện và hướng dẫn Giáo Hội của Chúa Kitô trong mọi phạm vi của đời sống Giáo Hội, nhất là việc chọn Giám mục Rôma tức Đức Thánh Cha, khiến cho mọi toan tính của con người, mọi áp lực thầm kín của những ai muốn áp đặt ảnh hưởng, kể cả mọi tin đồn vu vơ, đều đă thất bại thê thảm trước uy quyền và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh, khiến chúng ta thêm tin rằng Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội thật của Chúa Kitô..

Nói rơ hơn, chúng ta tin tưởng vững chắc là chính Chúa Thánh Thần đă chọn Đức Phan-xi-cô qua các Hồng Y cho Giáo Hội, để tiếp tục những công tŕnh tốt đẹp của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II và Đức Biển Đức 16. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa về hồng ân này .

Với Đức Tân Giáo Hoàng, sự kiện ngài chọn Thánh hiệu Phan-xi-cô cho Triều đại Giáo Hoàng (Pontificate) của ngài đă nói lên cách rơ nét linh đạo (spirituality) và chiều kích Xứ Vụ mà ngài sẽ theo đuổi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ hay Phúc Âm sự Sống (Gospel of Life) của Chúa Kitô cách xác tín hơn nữa hầu củng cố thêm đức tin cho mọi tín hữu trong Giáo Hội và mời gọi thêm nhiều người nữa đón nhận Tin Mừng, và nhiên hậu, đẩy lui nhanh bóng đen của “văn hóa sự chết” đang bao phủ thế giới hiện nay.

Thật vậy, khi chọn tên Thánh Phan-xi-cô thành Assisi làm tước hiệu, Đức tân Giáo Hoàng đă cho thấy ngài muốn chính ḿnh và toàn thể Giáo Hội sống tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quư nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em, để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trởnên giầu có.” (2 Cr 8: 9).

Đây chính là linh đạo của Thánh Phan-xi-cô khó khăn và Năm Dấu (1181- 12126), người đă khép ḿnh trong nếp sống tu tŕ nhiệm ngặt với quyết tâm thực hành tinh thần khó nghèo, từ khước mọi lợị danh, ưu quyền, ưu đăi của thế gian, v́ ngài muốn cùng nói với Thánh Phaolô là “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt tḥi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Kitô-Giêsu, Chúa của tôi. V́ Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác để được Đức Kitô, và được kết hợp với Người.” (Pl 3: 8).

Để nên giống Chúa Kitô, Thánh Phan-xi-cô không những sống khó nghèo như Chúa mà c̣n học và thực hành gương khiêm nhu của Chúa như lời Người đă nói với các môn đệ xưa:

Anh em hăy mang lấy ách của tôi, và học với tôi, v́ tôi có ḷng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, v́ ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11: 29-30)

Như vậy, Tước hiệu Phan-xi-cô mà Đức Tân Giáo Hoàng chọn đă nói lên tất cả chiều kích khiêm nhường, khó nghèo, đơn sơ và thánh thiện mà thánh nhân đă sống, đă để lại gương mẫu cho Giáo Hội mà Đức Thánh Cha Phanxi-cô vừa lănh sứ mệnh chăn dắt và đang được mọi tín hữu chúng ta mộ mến ngay từ buổi đầu.

Đức Tân Giáo Hoàng đă biểu lộ cụ thể tinh thần của Thánh Phan-xi-cô khi ngài ra mắt lần đầu tiên trước hàng trăm ngàn người đang bất chấp trời mưa giá lạnh tại công trường Thánh Phêrô tối thứ tư 13- tháng 3 vừa qua. Khác với mọi vị tiền nhiệm, Đức Phan-xi-cô đă cúi đầu xin công chúng cầu nguyện và chúc lành cho ngài trước khi ngài ban phép lành đầu tay cho mọi người có mặt và đang theo dơi ở khắp nơi trên thế giới.Cử chỉ này không những làm ngạc nhiên mà c̣n gây cảm kích xâu xa cho mọi người v́ ai cũng cảm nghiệm ngay được nét đơn sơ, thánh thiện và đầy khiêm nhu của đức Tân Giáo Chủ, h́nh ảnh rơ nét của Thánh Phan-xi-cô khó nghèo, khiêm nhu và thánh thiện, đă giang tay ôm lấy Thập giá Chúa Kitô như báu vật cao quư nhất của đời ḿnh trong suốt hành tŕnh đức tin trên trần thế.

Đối với dư luận trong và ngoài Giáo Hội hiện nay, th́ những đặc tính nói trên của Thánh Phan-xi-cô mà Đức Tân Giáo Hoàng đă chọn làm danh hiệu, quả là những khí giới sắc bén để chống lại ḷng ham mê tiền bạc, của cải vật chất và hư danh trần thế, nhất là chống lại những độc hại của trào lưu tục hóa (vulgarization) vật chất hóa (materialization) vô thần (atheism) và vô luân (immorality) đang ngày một bành trướng ở khắp nơi trên thế giới hiện nay để mong xóa đi mọi niềm tin có Thiên Chúa, có sự thiện hảo và công chính tuyệt đối.

Từ những cảm nghiệm ban đầu này, mọi tín hữu chúng ta hy vọng Đức Tân Giáo Hoàng Phan-xi-cô sẽ dẫn dắt Giáo Hội đi xa hơn nữa trên đường phúc âm hóa thế giới (evangelization of the world) để Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô được .đi sâu thêm vào ḷng người của thời đại tục hóa hôm nay.Đồng thời, cũng lôi kéo những anh chị em đă xa ĺa được quay trở về với Giáo Hội là Mẹ đang thay mặt Chúa là Cha trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để cứu rỗi cho mọi người như ḷng Chúa mong muốn. (1 Tm 2: 4). Giáo Hội không những rao giảng mà cần thiết hơn nữa là phải sống những ǵ ḿnh giảng dạy cho người khác để cho Chúa Kitô được nhận diện rơ nét hơn nữa trong đời sống của mỗi người mang danh Kitô của Chúa trước mặt bao người c̣n chưa biết Chúa và Tin Mừng Sự Sống của Chúa.

Chúng ta có lư do vững chắc để tin rằng Đức Tân Giáo Hoàng Phan-xi-cô, với ḷng khiêm cung, đơn sơ, thánh thiện và khó nghèo, sẽ hướng dẫn Giáo Hội bước theo Chúa Kitô, là “Con đường, là sự Thật và là sự Sống” (Ga 14: 6) cách hiện thực và sống động hơn nữa để đánh tan những mê hoặc, sai lầm và tội lỗi của thế giới tục hóa, đầy bất công, thiếu t́nh người, và vô luân vô đạo hiện nay.

Giáo Hội đang bị thách đố bởi những kẻ không có niềm tin hay chỉ muốn sống niềm tin theo ư muốn của họ, thể hiện qua những đ̣i hỏi không có căn bản Phúc Âm như đ̣i cho phụ nữ làm linh mục, cho linh mục được kết hôn, hợp thức hóa hôn nhân đồng tính (same sex marriage) tự do phá thai và ly dị …là những đ̣i hỏi mà Giáo Hội không thể nhượng bộ được ở bất cứ mức độ nào. Chắc chắn Đức Tân Giáo Hoàng cũng sẽ không nhượng bộ v́ ngài hiểu rơ hơn ai hết giáo lư của Chúa Kitô, là nền tảng của đời sống đức tin và luân lư cho mọi người sống và thực hành để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa.

Giáo Hội của Chúa Kitô có mặt và hoạt động trong trần gian, không phải là một tổ chức chính trị, một guồng máy cai trị, mà là một phương tiện cứu độ hữu hiệu mà Chúa Kitô đă thiết lập trên nền tảng Tông Đồ mà Thánh Phêrô là Đá Tảng..Sứ vụ này (Petrine Ministry) đă được nối tiếp trao cho người kế vị Thánh Phêrô là Đức Thánh Cha, tức Giám Mục Rôma, cũng là Thủ lănh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Thi hành sư vụ Phêrô, Đức Thánh Cha, với sự hiệp thông, vâng phục và cộng tác trọn vẹn của hàng Giám mục, những người kế vị các Thánh Tông Đồ, có sứ mệnh “chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy” như Chúa đă truyền cho Phêrô trước khi Người về Trời. (Ga 20: 15-17)

Với Đức Tân Giáo Hoàng Phan-xi-cô, chúng ta càng hy vọng ngài sẽ được chăn dắt chúng ta, những chiên lớn nhỏ của Chúa, khỏi bị sói rừng là ma quỷ và thế giới tục hóa này sát hại.

Trong niềm hy vọng và vui mừng đó, chúng ta một lần nữa cảm tạ Chúa đă cho chúng ta một Mục Tử tốt lành, một gương mẫu khiêm cung, thánh thiện và khó nghèo, một Thầy dạy đức tin vũng chắc và can đảm trước những thách đố của thế giới tục hóa, vô luân vô đạo hiện nay.

Chúng ta cùng tha thiết cầu xin cho Đức Tân Giáo Hoàng được tràn đày ơn Thánh Linh để dẫn dắt Giáo Hội của Chúa qua mọi sóng gió, hiểm nguy đang chờ sẵn để uy hiếp Con Thuyền Phêrô chở Giáo Hội của Chúa.

Thể Thức Mật Nghị (Conclave) Bắt Đầu Áp Dụng Từ Bao Giờ Trong Giáo Hội?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân các Hồng Y sẽ họp Mật nghị (Conclave) ngày mai thứ Ba 12 tháng 3/2013 để bầu Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội, xin được giải thắc mắc của nhiều đọc giả về nguồn gốc truyền thống này như sau:

Trước hết về từ ngữ, "Conclave" bắt nguồn từ tiếp ngữ Latin "Con" có nghĩa là "với (with)" và Clave xuất phát từ La ngữ "Clavis" có nghĩa là "ch́a khóa (key)". Từ nguyên ngữ Latinh này, Conclave được dùng để chỉ việc các Hồng Y họp mật để chọn Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội (đóng cửa khóa các ngài lại trong pḥng kín cho đến khi bầu xong), Đó là tất cả ư nghĩa của từ Mật Nghị (Conclave) đă được áp dụng từ năm 1274 dưới triều Đức Giáo Hoàng Gregory X (1272-1276) cho đến nay, nhằm để ngăn chặn những can thiệp, hay áp lực từ bên ngoài muốn khuynh đảo việc chọn Giáo Hoàng trong những thập niên trước năm 1274.

Ngoài ra, Biện pháp "khóa cửa để bầu" cũng nhằm tiến hành mau chóng việc bầu tân Giáo Hoàng v́ có thời ngôi Giáo Hoàng (papacy) đă phải bỏ trống đến gần 3 năm v́ chưa có thể bầu xong ai lên ngôi kế vị Thánh Phêrô.

Đó là trường hợp đă xảy ra khi Đức Giáo Hoàng Clement IV mất năm 1268, nhưng măi ba năm sau, 18 Hồng Y họp tại Viterbo mới bầu được Đức Gregory X lên kế vị (1271--1276).

Được biết, trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, khi chưa có các Hồng Y, th́ việc chọn Giáo Hoàng được thực hiện qua việc bầu Giám Mục Rôma của các giáo sĩ và giáo dân Rôma dưới sự chứng kiến của các Giám mục khác trong Giáo Tỉnh (Province). Nhưng theo thời gian, giáo hữu và giáo sĩ gia tăng th́ lại xảy ra những tranh chấp giữa các ứng viên thuộc gia cấp cao (patricians) và giai cấp thấp (plebeians), phe nào cũng muốn tiến cử người ra tranh ngôi Giáo Hoàng. Cụ thể là đă có lúc một Giáo Hoàng được bầu lên (Thánh Giáo Hoàng Damasus I (366-384. AD) và một nguy Giáo Hoàng (antipope) Ursinus cũng được bầu lên năm 366 để tranh ngôi với Giáo Hoàng Damasus. Cuộc tranh dành này đă đi đến bạo động khiến Toàn Quyền (Prefect) Rôma phải can thiệp để giúp ổn định.

Mặt khác, lại có thời các Hoàng Đế Rôma muốn can thiệp vào nội bộ của Giáo Hội, đưa đến sự tranh giành giữa các thế lực trần thế dưới nhiều h́nh thức và mức độ khác nhau, mà trong giới hạn của một bài viết, không thể nói hết chi tiết được. Tuy nhiên, phải nói một chi tiết quan trọng là Ngôi vị Giáo Hoàng, -từ đầu cho đến nay- không những là địa vị tối cao của người kế vị Thánh Phê rô trong chức năng và sứ mệnh cai trị Giáo Hội thay mặt cho Chúa Kitô trên trần gian, mà c̣n là tước vị được các thế lực thế quyền (secular powers) ḍm ngó và muốn không chế. Đó là thời kỳ đen tối của Giáo Hội khi thế quyên (secular power) muốn chi phối thần quyên (divine power) và ngược lại.

Nhưng với ơn soi sáng, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đă thoát ra khỏi thời kỳ đen tối đó để càng ngày càng trở nên xứng đáng là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa Kitô trên trần gian với sứ mệnh được trao phó là tiếp tục Sứ Vụ rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ của Chúa Cứu Thế Giêsu trên khắp trần gian cho đến ngày cánh chung tức tận cùng của thời gian.

Liên quan đến việc bầu Giáo Hoàng, cũng cần nói thêm là trước năm 1917, thường dân (lay people) cũng có thể được chọn làm Hồng Y để có thể được bầu làm Giáo Hoàng. Nhưng Giáo luật năm 1917 đă ngăn cấm việc này và từ đó đến nay tước Hông Y chỉ được chọn trong hàng ngũ Giám mục và linh mục xuất sắc mà thôi.V́ linh mục có thể được chọn làm Hông Y, nên Giáo Luật mới ban hành năm 1983 qui định là "nếu Tân Giáo Hoàng chưa có chức Giám mục th́ phải được truyền chức Giám mục trước khi nhậm chức Giáo Hoàng. (x Giáo luật số 351& 1, 355 & 1)

Như đă nói ở trên, năm 1272 Đức Thánh Cha Gregory X đă đê tŕnh Công Đồng Lyons thứ hai những thay đổi trong luật bầu cử nhằm tiến hành nhanh chóng việc bầu cử với phương thức Mật Nghị (Conclave) để đảm bảo sự vô tư và bí mật của việc chọn lựa Tân Giáo Hoàng. Những thay đổi này được áp dụng cho đến ngày 1 tháng 10 năm 1975 khi Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành Hiến Chế Romano Pontifici Eligendo với một số thay đổi về luật bầu cử Giáo Hoàng, theo đó chỉ có các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được quyền bỏ phiếu bầu (elector) mà thôi, và giới hạn số Hồng Y được bầu là 120 vị.

Nhưng Luật bầu cử trước sau đều đ̣i buộc các Hồng Y tham dự Mật Nghị phải tuyệt đối giữ bí mật và không được chịu bất cứ ảnh hưởng nào từ bên ngoài trong khi thi hành nhiệm vụ chọn Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội. Theo truyền thống đă có từ lâu, th́ Nhà Nguyện Sistine được dành làm nơi diễn ra những cuộc bỏ phiếu kín của các Hồng Y. Hiện nay, ngoài khu vực Nhà Nguyện Sistine, toàn thể khu vực nơi các Hông Y ăn nghỉ trong thời gian có Mật Nghị cũng đều được ngăn cách hoàn toàn với bên ngoài, kể cả việc cắt đứt mọi phương tiện liên lạc như điện thoại và internet.

Tóm lại, truyền thống họp mật nghị (Conclave) mới có từ thời Đức Giáo Hoàng Gegory X áp dụng từ năm 1274 cho đến nay nhằm bảo đảm sự tuyệt đối giữ kín tiến tŕnh bầu cử khi các Hồng Y cử tri (electors) và cũng là các ứng viên có thể được bầu (potential candidates) nhưng không ra tranh cử khi vào Mật Nghị. Nghĩa là bất cứ Hồng Y đủ điều kiện nào khi vào Mật Nghị, cũng có thể được bầu lên ngôi Giáo Hoàng, nhưng không ai ra tranh cử và được bỏ phiếu cho chính ḿnh.

Chúng ta sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần để các Hồng Y bắt đầu Mật Nghi ngày thứ ba 12-3 sớm chọn được Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội đúng với ư muốn và chương tŕnh của Thiên Chúa, chứ không phải là mong ước của bất cứ ai bên ngoài Giáo Hội.

Truyền Thống Kế Vị Tông Đồ Là Ǵ?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ nhiệm và các Hồng Y dưới 80 tuổi sắp họp Mật Nghi (Conclave) để bầu Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội, xin được nói qua về Truyền Thống Kế Vị Tông Đồ (Apostolic Succession), một Truyền Thống mà chỉ có Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) thừa hưởng để tuyển chọn các giám mục, đặc biệt là chọn Giám Mục Rôma cho Giáo Hội Công Giáo, tức Người kế vị Thánh Phêrô trong chức năng và vai tṛ Giáo Hoàng là Thủ lănh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Các anh em Chính Thống Đông Phương vẫn c̣n bất đồng với Giáo Hội Công Giáo về vai tṛ Đại Diện (Vicar) Chúa Kitô của Đức Thánh Cha, nên vẫn chưa thể hiệp nhất được với Giáo Hội Công Giáo mặc dù họ có chung Truyền thống Tông Đồ và có các bí tích hữu hiệu như Công Giáo.

Sách Giáo lư của Giáo Hội Công Giáo nói như sau về Truyền thống kế vị Tông Đồ :

“Cũng như Chúa Kitô đă được Chúa Cha sai đi, th́ Ngài cũng sai các Tông Đồ của ḿnh, đầy ơn Chúa Thánh Thần, để các ông giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật, Như vậy. Chúa Kitô phục sinh đă ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ và trao cho các ông quyền năng thánh hóa của Ngài. Các ông đă trở thành những dấu hiệu bí tích của Chúa Kitô.

Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ông trao uy quyền này lại cho những người kế vị các ông. Sự kế vị Tông Đồ này là cơ cấu của toàn bộ sinh hoạt Phụng vụ của Giáo Hội. Nó có tính bí tích và được truyền lại qua Bí tích Truyền chức thánh.” (x. SGLGHCG số 1086-87)

Lời dạy trên đây của Giáo Hội bắt nguyền từ chính lời Chúa Giêsu đă nói với các Tông Đồ xưa, khi Người hiện ra với các ông sau khi từ cơi chết sống lại:

Như Chúa Cha đă sai Thầy, th́ Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20: 22)

Chúa đă chọn và sai các Tông Đồ tiên khởi đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và làm phép rửa cho muôn dân cho đến tận cùng trái đất và cho đến ngày hết thời gian.Dĩ nhiên các Tông Đồ tiên khởi đó không thể sống măi để thi hành Sự vụ được nhận lănh, nên chắc chắn các ngài đă phải chọn người kế vị để tiếp tục sứ vụ mà Chúa Kitô đă trao phó cho các ngài, như Thánh PhaoLô đă nói rơ như sau:

Vậy hỡi anh (Timôthê) người con của tôi, anh hăy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Kitô Giêsu. Những ǵ anh đă nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, th́ anh hăy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác.” (2 Tm 2: 1-2)

Các Tông Đồ đă truyền chức cho những người kế vị được chọn qua việc đặt tay :

“V́ lư do đó, tôi nhắc anh (Timôthê) phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng mà anh đă nhận được khi tôi đặt tay trên anh.” (2Tm 1: 6)

Nơi khác, Thánh Phaolô cũng ân cần nhắc thêm cho Ti-mô-thê về ơn được chọn làm Tông Đồ :

Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đă ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh.” (1 Tm 4: 14)

Hàng “Kỳ mục” (Overseers) mà Thánh Phaolô nói trên đây chính là các Giám mục đă được chọn và các ngài đă truyền chức lại cho những người kế vị để tiếp tục Sứ Vụ của Chúa Kitô trong Giáo Hội sơ khai thời đó.

Sách Công Vụ Tông Đồ của Thánh Luca cũng thuật rơ việc các Tông Đồ, sau khi Chúa Kitô về trời, đă hội họp, cầu nguyện và rút thăm để chọn người thay thế cho Giuđa phản bội đă treo cổ chết, và “ông Matthia trúng thăm. Ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.” (Cv 1: 23-26).

Như thế đủ cho thấy là ngay từ đầu, các Tông Đồ, trước hết, đă chọn người thay thế cho đủ con số 12 Tông Đồ tiên khởi mà Chúa Giêsu đă tuyển chọn để tham gia vào Sứ Vụ rao giảng Tin mừng Cứu độ của Chúa.

Từ đó đến nay, trải dài trên 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn theo truyền thống trên để truyền các chức thánh Phó Tế, Linh mục và Giáo mục qua việc cầu xin ơn Chúa Thánh Thần và đặt tay trên các ứng viên được tuyển chọn, đặc biệt nhất là tuyển chọn Giám Mục Rôma, tức Đức Thánh Cha mà các Hồng Y dưới 80 tuổi sắp họp Mật Nghị để bầu Tân Giáo Hoàng, kế vị Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă nghỉ hưu từ ngày 28 tháng 2 vừa qua v́ lư do sức khỏe.

Chúng ta tin chắc Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn Giáo Hội để việc chọn lựa này được diễn ra đúng theo Kế hoăch của Thiên Chúa, chứ không do thế lực trần gian nào muốn áp đặt hay ảnh hưởng đến.

Có như vậy th́ Hội Thánh của Chúa Kitô mới thực là Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.

Liên quan đến việc chọn người kế vị, Thánh Phaolô cũng cẩn thận nhắc cho môn đệ thân tín của ngài phải hết sức thận trọng trong việc rất can hệ này để người được chọn phải là người Chúa muốn đặt lên để coi sóc và dạy dỗ dân của Người:

Anh đừng vội đặt tay trên ai, đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác. Hăy giữ ḿnh trong sạch.” (1Tm 5: 22)

Đừng vội đặt tay trên ai có nghĩa là đừng chọn và truyền chức cho ai v́ thân quen, gửi gấm, mua chuộc hay v́ áp lực nào của các phe nhóm bên ngoài Giáo Hội, như đă từng xẩy ra trong quá khứ xa xưa, là thời kỳ đen tối khi thần quyền (divine power) c̣n dính bén đến thế quyền (secular or worldly power)

Mặt khác, trong thư gửi cho Ti Tô, một môn đệ khác của ngài, Thánh Phaolô cũng trao cho môn đệ này trách nhiệm chọn lựa các giám mục như sau :

Tôi để anh ở lại đảo Kê-ta chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt các kỳ mục trong mỗi thành như tôi đă truyền cho anh….Giám quản (tức giám mục) phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, …không t́m kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mục, công chính, thánh thiện, biết tự chủ. Người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lư, để vừa có khả năng dùng giáo lư lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.” (Tt 1: 5-9)

Ngoài ra, để nhận mạnh thêm về bản chất chức năng và tư cách của người được tuyển chọn để thi hành sứ vụ rao giảng và coi sóc dân Chúa, Thánh Phaolô cũng nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca như sau:

Không bao giờ chúng tôi t́m cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác, trong khi chúng tôi có thể đ̣i anh em phải trọng đăi, với tư cách là Tông Đồ của Đức Kitô.” (1 Tx 2 : 6-7)

Nghĩa là các Tông Đồ xưa và nay- khi thi hành Sứ Vụ- phải noi gương Chúa Kitô, “Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).

Đây là sứ mệnh thiêng liêng cao cả mà Chúa Cứu Thế Giêsu đă trao cho các Tông Đồ tiên khởi thuộc Nhóm Mười Hai để tiếp tục Sứ Vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa cho đến thời viên măn. Như thế, tất cả những ai được ơn gọi làm Tông Đồ cho Chúa Kitô, phải hết sức theo gương sống và phục vụ của Chúa để không dính bén vào mọi h́nh thức làm tay sai cho thế quyền nào để trục lợi cá nhân, phương hại đến Sứ vụ và uy tín của Giáo Hội, là Cơ Chế có mặt và hoạt động trong trần gian hoàn toàn v́ mục đích siêu nhiên cứu độ mà thôi.

Lại nữa, nếu người Tông Đồ mà không có tinh thần nghèo khó để chạy theo tiền bạc và danh lợi phù phiếm, th́ không thể giảng Phúc Âm hữu hiệu cho ai và làm nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quư, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em để lấy cài nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cr 8: 9).

Tóm lại, qua Truyền Thống Kế Vị Tông Đồ, và nhất là nhờ ơn soi sáng chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục tuyển chọn các tông đồ đảm trách các chức năng Phó, tế, Linh mục, Giám mục và Hồng Y, đặc biệt nhất là chức Giám Mục Rôma, tức Đức Thánh Cha là vị Đại diện (Vicar) duy nhất của Chúa Giêsu trong vai tṛ và chức năng lănh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ với sự hiệp thông, cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám mục Đoàn,(College of Bishops) là những người kế vị các Thánh Tông Đồ xưa.

Chúng ta cùng tha thiết cầu nguyện cho Giáo Hội sớm có Tân Giáo Hoàng để tiếp tục công việc tốt đẹp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong hoàn cảnh khó khăn của thế giới hiện nay.

Hồng Y là ai và có chức năng ǵ?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân việc Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16, ngày 20 tháng 10.2010 vừa qua, đă chọn thêm 24 tân Hồng Y cho Giáo Hội, xin được trả lời chung những câu hỏi của nhiều đôc giả về vai tṛ và trách nhiệm của tước vị Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo La Mă như sau:

Trước hết, về ngữ căn (etymology), từ Hồng Y (Cardinal) xuất phát từ nguyên ngữ Latin CARDO có nghĩa là “cái bản lề” (hinge) tức bộ phân then chốt để giừ cho cánh cửa được đứng vững trong khung cửa. Từ ư nghĩa tượng trưng này, các Hồng Y được mệnh danh là “những vị Hoàng tử” (princes) của Giáo Hội với 2 chức năng rất quan trọng sau đây:

1- Là Cố vấn để đóng góp ư kiến (kiến thức và khôn ngoan) cho Đức Thánh Cha trong việc điều hành và cai tri Giáo Hội

2- Khi vào Mật nghị (Conclave) để bầu Giáo Hoàng mới, tất cả các Hồng Y đủ điều kiện theo luật bầu cử đều đương nhiên là các ứng viên (potential candidates, có thể được bầu chứ không ra ứng cử) và cũng là những người được quyền bỏ phiếu chọn (elector) Giáo Hoàng mới khi đương kim Giáo Hoàng qua đời (x. Giáo luật (1983), số 349)

Theo Luật bầu Giáo Hoàng hiện hành, áp dụng từ nhiều năm qua, th́ khi tṛn 80 tuổi, các Hồng Y không c̣n được tham dự Mật nghị để bầu Giáo Hoàng mới, hay tham dự bất cứ mật hội nào do Đức Thánh Cha triệu tập và chủ tọa để bàn thảo về một vấn đề quan trọng nào của Giáo Hội. Thêm nữa, khi các Hồng Y đến tuổi 75, và hiện đang coi sóc các Tổng Giáo Phận, hay các Bộ, hoặc Cơ quan trọng yếu trong Giáo Triều Roma th́ cũng phải xin từ chức, để tùy Đức Thánh Cha quyết định chấp nhận hay cho lưu nhiệm thêm. Thí dụ trường hợp Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, khi đang c̣n làm Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin, đă xin nghỉ hưu năm ngài 75 tuổi nhưng đă được Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II yêu cầu tiếp tục nhiệm vụ thêm thời gian nữa, nên ngài vẫn đảm trách chức vụ Tổng Trưởng trên cho đến ngày ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng năm 2005 (x. giáo luật 354)

Trước năm 1917 tức là năm ban hành bộ Giáo luật cũ, (giáo luật mới 1983 thay giáo luật cũ 1917) các Hồng Y có thể là những giáo dân không có chức linh mục hay giám mục, được Giáo Hoàng ban cho tước vị này v́ những lư do riêng tư. Nhưng với Giáo luật năm 1917, th́ người thường dân không c̣n được chọn nữa, mà chỉ dành cho các linh mục hay giám mục xuất sắc mà thôi. Đến thời Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, th́ ai được phong tước Hông Y cũng phải được thụ phong Giám mục nếu vị đó chưa là giám mục. Tuy nhiên cho đến nay th́ tước Hồng Y vẫn c̣n được trao cho một số linh mục xuất sắc, từng giữ các chức vụ quan trọng trong Ṭa Thánh hoặc là những thần học gia nổi tiếng như các linh mục Yves M.J Congar (O.P), Henri de LuBac và Allen Dulles (SJ) (đều đă qua đời) ... Trong đợt Hồng Y mới được công bố ngày 20-10 vừa qua, cũng có 2 linh mục (tước Đức ông) người Ư và Đức đă ngoài 80 tuổi trong số 24 tân Hồng Y sẽ được trao mũ đỏ ngày 20 tháng 11 sắp tới.

Cũng cần nói thêm là khác với thông lệ trong quá khứ khi Hồng Y được chọn từ những gia đ́nh quí tộc ỏ Âu Châu hoặc những người được Giáo hoàng ưu đăi, thưởng công riêng, các Hồng Y ngày nay phần lớn xuất thân từ những gia đ́nh đạo đức, b́nh dân, phải là nam giới và ít nhất là người có chức linh mục và “trỗi vượt về đạo lư, tác phong, đạo đức và khôn ngoan” (x. giáo luật số 351 & 1). Nhưng thường là các giám mục xuất sắc về đức độ và khả năng để có thể trở thành Giáo Hoàng cai quản Giáo Hội trong tương lai. Lại nữa, v́ Hồng Y có thể là linh mục, nên nếu vị này được đắc cử Giáo Hoàng th́ phải được Hồng Y niên trưởng tấn phong chức Giám Mục trước khi đăng quang (nhậm chức Giáo Hoàng) (x. giáo luật số 355, &1) .

Tuy nhiên việc này chưa từng xẩy ra v́ các Hồng Y từ nhiều thập niên qua đều là những vị có chức Giám mục hay đă được tấn phong giám mục sau khi được phong tước Hồng Y.

Như thế cho thấy chức Giám mục là chức thánh quan trọng nhất của Giáo Hội, v́ Giám mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ trong chức năng và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ, dạy dỗ chân lư và cai trị Giáo Hội. Chúa Giêsu xưa chỉ chọn các Tông Đồ, tức các giám mục kế vị các ngài mà thôi. Hồng Y không phải là một chức thánh mà chỉ là tước vị (Title) do Giáo Hội đặt ra v́ nhu cầu chọn người kế vị Thánh Phêrô, tức Đức Thánh Cha cũng là Giám mục Rôma và là Thủ lănh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Các Hồng Y họp lại thành Hồng Y Đoàn riêng biệt (College of Cardinals) do một vị làm niên trưởng (Dean)

Có 3 đẳng cấp Hồng Y sau đây.

1- Hồng Y Giám mục (Cardinal bishops) là những giám mục từng coi sóc những giáo phận chung quanh Rôma, nhưng nay là những Hồng Y thâm niên làm việc trọn thời gian (full-time) trong Giáo Triều Roma. (Roman Curia)

2- Hồng Y Linh mục (Cardinal Priests) là những Hồng Y hoăc làm việc trong Giáo Triều hoặc đang coi sóc các Tổng Giáo Phận ngoài Roma tức là các Tổng Giáo phận ở Ư hay ở các quốc gia trên thế giới như Paris, New York, Sydney, Houston, Saigon, Manilla v.v

3- Hồng Y Phó Tế (Cardinal Deacons) từng là những Giám mục hiệu ṭa (Titular Bishops) tức là không coi sóc Giáo phận nào, và đang làm việc trọn thời gian trong Giáo Triều.

Khi các Hồng Y họp kín để bầu Giáo Hoàng mới, Hồng Y Trưởng đẳng Phó tế sẽ công bố danh tánh vị được đắc cử và có thể thay thế Đức Thánh Cha để trao dây Pallium cho các tân Tổng Giám mục hoặc cho người đại diện các vị vắng mặt. (x. giáo luật số 355, & 2)

Thêm nữa, tất cả các Hồng Y, khi được Đức Thánh Cha chọn và trao tước vị này, đều được chỉ đinh tước hiệu (Title) của một thánh đường trong hoặc ngoài Rôma. Với tước hiệu đó, tân Hồng Y đến thánh đường được chỉ định để nhận ṭa nhưng không có quyền quản trị nào về hành chánh, nhân sự cũng như tài sản của thánh đường đó, mà chỉ hiệp thông để hỗ trợ về mặt tinh thần mà thôi (giáo luật số 357 &1)

Sau hết, tất cả các Hồng Y, nếu không đảm nhận chức vụ Tổng Giám Mục để coi sóc các Tổng giáo phận ở đâu trên thế giới, th́ đều phải cư trú ở Rôma hoặc phải trở về Giáo đô khi Đức Thánh Cha triệu tập để họp bàn việc ǵ quan trọng của Giáo Hội (giáo luật số 356).

Xin bỏ ngoài tai những tin đồn vô căn cứ của các Tiên Tri Giả

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Nhân biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ chức, trong mấy ngày qua, nhiều tin đồn đă được đưa ra trên Internet về việc chọn Đức Giáo Hoàng mới, gây hoang mang cho nhiều tín hữu khi vô t́nh đọc được những tin này qua emails

Cụ thể, các “tiên tri” giả này đă phóng đại tưởng tượng của họ về Tân Giáo Hoàng sẽ là người thế này thế nọ và c̣n “tiên tri” rằng ngày tận thế đă gần kề và quỉ vương sẽ ra đời !

Liên quan cụ thể đến điều họ gán cho ngôn sứ Malachi đă “tiên tri” về tân Giáo hoàng, xin được minh xác như sau:

1- Tiên tri hay Ngôn sứ Malachi (hay Malakia = Sứ thần của Ta) là ngôn sứ cuối cùng trong thời Cựu Ước, sống vào khoảng thế kỷ thứ V trước Chúa Giáng Sinh. Sách của ngài chỉ có 3 chương được chia làm hai phần nói về t́nh thương của Chúa đối với dân Israel và phê phán giới tư tế đă không chu toàn trách nhiệm tế lễ của họ.

Cụ thể, qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa nhắc lại t́nh thương của Người cho Israel mặc dù dân này luôn phản bội, hoài nghi t́nh thương của Chúa:

Ta đă yêu thương các ngươi, Đức Chúa phán, thế mà các ngươi nói:
Ngài yêu thương chúng con ở chỗ nào
?” (Ml 1:2)

2- Không những dân Israel bội bạc với Chúa, sống xa đường lối của Người, mà hàng tư tế Israel cũng không chu toàn nhiệm vụ tế lễ của họ cách xứng hợp khiến Chúa đă phải quở trách họ như sau:

“Ta chẳng hài ḷng chút nào về các ngươi, ĐỨC CHÚA các đạo binh phán, và Ta chẳng ưng thuận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng.” (Ml 1 :10)

Như thế cho thấy là ngôn sứ Malachi chỉ nói về dân Do Thái phản bội t́nh thương bao la của Thiên Chúa dành cho họ, cũng như nói về hàng tư tế Do Thái đă không chủ trọng thi hành nhiệm vụ tế lễ của họ mà thôi. Tuyệt nhiên, ngôn sứ Malachi không tiên tri điều ǵ về các thế hệ tương lai khiến người ta có thể dựa vào để tiên đoán về những việc sẽ xảy ra trong Giáo Hội sau này.

Có chăng là những lời “tiên tri” mà người ta gán cho Thánh Malachy (1094-1148), Tổng giám mục Armagh, người đă có công canh tân phụng vụ Ái Nhĩ Lan dựa theo Phụng Vụ Rôma.cũng như đă góp phần tái lập kỷ luật của Giáo Hội và đưa các tu sĩ Ḍng Xi-tô (Cistercian Monks) vào Ái Nhĩ Lan (Ireland).

Ngài mất năm 1148 trong Tu viện Clairvaux (Pháp) và ít năm sau được phong thánh. Lễ kinh ngài là ngày 2 tháng 11.

Sau khi ngài mất năm 1148, đến thế kỷ 16, người ta thấy xuất hiện những lời “tiên tri” gán cho ngài là tác giả. Những lời tiên tri huyền hoặc này nói về 111 vị Giáo Hoàng kế tiếp lên ngôi sau khi Đức Giáo Hoàng Celestine II qua đời năm 1144. Mỗi vị Giáo Hoàng kế vị đó đều được mang một biệt danh bằng tiếng Latinh. Nhưng cho đến nay, không một lời “tiên tri” nào của ai bịa đặt nói trên đă ứng nghiệm với các Giáo Hoàng nối tiếp lên ngôi sau Giáo Hoàng Celestine II như những lời “tiên tri" huyền hoặc kia đă bịa đặt.

Nay nhân việc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đột nhiên từ chức v́ lư do sức khỏe, và trong lúc Giáo Hội sắp tiến hành thủ tục bầu Tân Giáo Hoàng lên thay thế, một số người giầu tưởng tượng và muốn làm “tiên tri” đă vội vin vào những lời tiên tri giả gán cho thánh Malachy, lưu truyền từ thế kỷ 16, để đưa ra những lời “tiên tri hoang đường” về Tân Giáo Hoàng sắp được bầu lên để kế vị Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

Chắc chắn đây là những lời “tiên đoán huyền hoặc” không có chút cơ sở giáo lư, Kinh thánh hay tài liệu căn bản nào của Giáo hội cho người tín hữu tin và hy vọng.

Do đó, là tín hữu chân chính, chúng ta chỉ nên cầu nguyện để Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ dẫn cho các Hồng Y sắp họp Mật Nghị (Conclave) để các ngài chọn đúng người Chúa muốn lên kế vị Đức Thánh Cha Biển Đức để cai trị Giáo Hội và chăn dắt toàn dân Chúa trong giai đoạn mới này mà thôi. Vị tân Giáo Hoàng chắc sẽ không phải là người mà những “tiên tri giả” kia đang loan truyền. Nghĩa là chúng ta phải bỏ ngoài tai mọi lời “tiên tri giả” mọi tin đồn vô căn cứ, mọi suy đoán theo khôn ngoan của người đời quanh việc chọn Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội.

Đây phải là công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và dẫn dắt Giáo Hội của Chúa Kitô từ thủa sơ khai ban đầu cho đến ngày này và c̣n măi về sau cho đến ngày cánh chung.

Có thể nói : nếu không có Chúa Thánh Thần hiện diện và d́u dắt, th́ Giáo Hội không thể trường tồn và huy hoàng như ngày nay được, v́ có quá nhiều “sóng gió” làm nghiêng ngửa Con Thuyền Phêrô, chở Giáo Hội trong quá khứ.

Mặc dù có thời Giáo Hội đă sai lầm trong việc chọn các vị lănh đạo cũng như sai lầm trong việc điều hành, nhưng Chúa Thánh Thần đă giúp Giáo Hội kịp sửa sai để trở nên Hiền Thê đích thực và trung tín của Chúa Kitô, Đấng đă thiết lập và yêu thương Giáo Hội là Hiền Thê, là Thân Thể Nhiệm mầu của Người trong trần thế.

Vậy Chúng ta hăy sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần trong những ngày này để Người hướng dẫn Giáo Hội- cụ thể là các Hồng Y sắp nhóm họp, để các ngài chọn đúng Chủ Chăn mới cho Giáo Hội, đáp đúng nhu cầu rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng trong hoàn cảnh quá nhiễu nhương và thách đố của thế giới hiện nay. Chắc chắn Chúa Thánh Thần sẽ nâng đỡ và dẫn dắt Giáo Hội trong mọi lănh vực để giúp Giáo hội chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đă trao phó.

Đôi Ḍng Cảm Nghĩ Về Việc Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Từ Chức

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tin Đức Thánh Cha Benedict 16 đột nhiên tuyên bố từ chức sáng thứ Hai 11-2-2013 vừa qua đă làm chấn động thế giới và kinh hoàng mọi người trong toàn Giáo Hội Công Giáo.

Thật vậy, đây quả là biến cố trọng đại nhất trong Giáo Hội từ 600 năm qua sau ngày cố Đức Giáo Hoàng Gregorio 12 tự ư thoái vị năm 1415 để giúp chấm dứt t́nh trạng Đại ly giáo phương Tây (Great Western Schism) xảy ra trong Giáo Hội từ năm 1378 và dọn đường cho Đức Giáo Hoàng Martin V lên cai trị Giáo Hội

Trong lịch sử Giáo Hội th́ đă có 3 lần các Đức Giáo Hoàng tự ư thoái vị hay từ chức như sau:

1- Đầu tiên là Thánh Giáo Hoàng Pontian lên ngôi ngày 21-7-230 (230-235) Ngài từ chức trong đợt Hoàng đế Maximinus Thrax bách hại các Kitô hữu và các thủ lănh Giáo hội năm 235. Ngài bị lưu đầy qua Sardinia cùng với Hippolitus và ở đây, Ngài tuyên bố thoái vị ngày 26-9-235 và được phúc tử Đạo cùng với Hippolitus. Sau đó Ngài được phong hiển thánh với ngày lễ kinh là 19 tháng 11 hàng năm.

2- Kế đến là Đức Thánh Cha Celestine V, một tu sĩ Biển Đức, lên ngôi Giáo Hoàng ngày tháng 7 năm 1294 ở tuổi 84. Nhưng đến ngày 13 tháng 12 năm đó, ngài xin từ chức v́ không am hiểu nhiệm vụ được trao phó, và không muốn bị chi phối bởi Vua Charles V của lănh địa Naples muốn khuynh đảo Giáo Hội. Ngài mất năm 1296 và được phong thánh năm 1313 tại Avignon (Pháp Quốc) nơi Ṭa Thánh c̣n đóng đô ở đây.

3- Tiếp theo là Đức Giáo Hoàng Gregory XII lên kế vị Giáo Hoàng Innocent VII ngày 30-11-1406 với hy vọng chấm dứt cuộc Đại ly giáo Tây phương đă kéo dài từ năm 1378 mà hậu quả là có hai Giáo Hoàng nữa là Alexander V và Gioan XXIII cũng tranh Ṭa Phêrô với ngài.

Để chấp dứt t́nh trạng này và cũng để chữa vết thương ly giáo, Đức Giáo Hoàng Gregory XII đă xin thoái vị ngày 4-7-1414, dọn đường cho Công Đồng Constance đang họp để truất phế ngụy giáo Hoàng Gioan XXIII (ngụy Giáo Hoàng Alexander V đă chết cách bí ẩn ngày 3-5-1410 sau 10 tháng tại chức) và bầu Đức Martin V lên làm Giáo Hoàng thống nhất của Giáo Hội. Đức Gregory XII qua đời ngày 18-19-1417. V́ Joan XXIII không được công nhận là Giáo Hoàng, nên năm 1958 khi Hồng Y Angelo Giuseppe Roncalli đắc cử Giáo Hoàng, ngài đă chọn lại tước hiệu Gioan XXIII.

Như vậy, trước Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, đă có ba Giáo Hoàng từ nhiệm v́ những hoàn cảnh và lư do khác nhau. Tuy nhiên, v́ đă sáu thế kỷ qua chưa có thêm Giáo Hoàng nào từ nhiệm, nên quyết định rời bỏ ngai ṭa Phêrô của Đức đương kim Giáo Hoàng đă là một tiếng sét vang động khắp Giáo Hội và thế giới ngày thứ Hai 11-2-2013 vừa qua.

Lư do mà ngài tự ư xin từ nhiệm là v́ “tuổi tác và sức khỏe không c̣n đủ để cho phép Ngài tiếp tục Sứ Vụ cai quản Giáo Hội nữa. Thật là một biến cố ngoài sức tưởng tượng của toàn thể Giáo Hội khiến mọi người đều đang c̣n bàng hoàng về tin quá bất ngờ này. Tuy nhiên ai cũng phải nh́n nhận rằng đây là một quyết định rất can đảm và đầy khiêm nhu của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, người Cha chung rất đáng kính yêu của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, đă khôn ngoan, sáng suốt chèo lái Con Thuyền Phêrô trong suốt gần 8 năm qua.

Ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng rất nhanh chóng ngày 19-4-2005, để kế tục sứ mạng chăn dắt Giáo Hội do Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II để lại.Trong gần 8 năm qua, ngài đă chứng tỏ là một Thầy dạy Đức tin rất vững vàng, một thần học gia uyên thâm, một mục tử tha thiết với đoàn chiên và một sứ giả của ḥa b́nh và đại kết (ecumenism).

Theo gương mục vụ của Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, Ngài đă thăm viếng mục vụ các Giáo Hội địa phương ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Đức, ÚC Châu, Ba Lan, Tây ban Nha, Ba Tây, Do Thái, Palestine …

Chắc chắn sự từ nhiệm của ngài đang gây luyến tiếc cho mọi người trong Giáo Hội hiện nay.

Tuy nhiên, sự từ nhiệm này đă diễn ra đúng với điều Giáo Luật số 332, triệt 2 đă dự liệu như sau:

Nếu xảy ra trường hợp Đức Thánh Cha từ chức, th́ để được hữu hiệu, sự từ chức phải được tự do và được bày tỏ cách hợp thức nhưng không cần được ai chấp nhận.”

Trong tuyên bố từ chức sáng thứ hai vừa qua, Đức Thánh Cha đă nói rơ lư do như sau:

“... để lèo lái Con Thuyền Phêrô và để công bố Tin Mừng, sức mạnh thể xác và tinh thần đều cần thiết. Nhưng trong vài tháng qua sức mạnh đó trong tôi đă suy giảm đến mức tôi phải nh́n nhận là tôi không c̣n đủ năng lực để chu toàn sứ vụ đă được trao phó cho tôi. V́ thế, ư thức rơ về tầm mức quan trọng của quyết định này và với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám mục Rôma, Người kế vị Thánh Phêrô mà các vị Hồng Y đă trao cho tôi ngày 19-4-2005.”

Như thế, lư do vững chắc mà Đức Thánh Cha nêu ra đă phù hợp với tinh thần giáo luật nêu trên, và sự từ nhiệm của ngài là hợp thức, có hiệu lực v́ không cần ai chấp nhận.

Ngài sẽ chính thức rời bỏ nhiệm vụ Giáo Hoàng vào lúc 20 giờ địa phương ngày 28 tháng 2/2013 này và các Hông Y dưới 80 tuổi sẽ họp Mật Nghi (Conclave) để chọn Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội.

Là đoàn chiên trong Giáo Hội, chúng ta tha thiết cầu xin cho Đức Thánh Cha Biển Đức XVI để ngài được an vui, mạnh khỏe sau khi rời Ṭa Phêrô, cũng như cầu xin cho Giáo Hội sớm có Chủ Chiên mới để chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trong giai đoạn mới này.

Sau hết, một điều phải tránh là hăy bỏ ngoài tai những lời đồn đoán và “tiên tri giả” đang loan truyền những điều huyền hoặc vô căn cứ về Giáo Hoàng mới sắp được bầu lên. Chúng ta hăy tin tưởng và phó thác Giáo Hội cho Chúa Thánh Thần để Người soi sáng các Hồng Y trong việc chọn Tân Giáo Hoàng trong những ngày sắp tới. Chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn Giáo Hội trong mọi quyết định quan trọng và chúng ta sẽ có Chủ Chăn mới đúng theo ư muốn của Người.

Thế Nào Là Phạm Tội Trong Tư Tưởng?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích phạm tội trong tư tưởng là ǵ? Một người “ngoại t́nh” nhưng không làm chuyện “vợ chồng” với nhau th́ có tội không?

Trả lời:

Con người khác với mọi sinh vật ở chỗ có lư trí, ư chí và t́nh cảm. Lư trí để suy nghĩ và hướng dẫn mọi hành động bên ngoài cũng như tự do chọn làm theo ư muốn riêng của ḿnh. V́ thế chỉ có con người mới có đời sống luân lư và chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về mọi việc ḿnh làm bao lâu c̣n sống trên đời này.

Là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi và mong đợi sống đời sống luân lư cách thích đáng theo hướng dẫn của lương tâm và giáo lư của Giáo Hội để được chúc phúc và nhất là được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, “Đấng đă chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không c̣n sống cho chính ḿnh nữa, mà sống cho Đấng đă chết và sống lại v́ ḿnh.”(2 Cor 5: 15)

Nói đến đời sống luân lư th́ phải nói đến sự có mặt của tội lỗi và sự dữ (evils) trong đời sống cá nhân, xă hội và cộng đồng nhân loại nói chung.Cụ thể, gian dâm, gian ác, giết người, trộm cắp, bóc lột, đàn áp, gây chiến tranh giết hại dân lành và chiếm đoạt tài nguyên của nước khác v.v là những điều trái ngược với luân lư phổ quát, với đạo đức làm người theo theo tiếng nói của lương tâm lành mạnh và giáo lư vững chắc của Giáo Hội.

Thật vậy, như đă nói ở trên, v́ con người có tự do, nên vấn đề tội lỗi chỉ đặt ra cho con người có lư trí và ư muốn tự do (free will) chứ không đặt ra cho bất cứ sinh vật hay động vật nào. Do đó, muốn sống đẹp ḷng Chúa trong trần thế này, người có niềm tin Chúa phải hết sức xa tránh mọi tội lỗi và mọi nguy cơ đưa đến phạm tội v́ chỉ có tội mới làm ngăn cách con người với Thiên Chúa, hay đẩy con người ra khỏi thân t́nh với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, rất yêu thương con cái loài người nhưng lại gớm ghét mọi tội lỗi v́ tội lỗi và mọi sự dữ đều xúc phạm nặng nề đến bản chất yêu thương, thánh thiện và công chính của Người.

Thánh Gioan Tông Đồ đă quả quyết như sau về nguy hại của tội lỗi :

Ai phạm tội th́ là người của ma quỉ
V́ ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu
Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện
Là để phá công việc của ma quỷ.
” (1 Ga 3 : 8)

Con người phạm tội v́ bản chất yếu đuối, v́ gương xấu của xă hội và nhất là v́ ma quỉ cám dỗ. Người ta cũng phạm tội v́ tự do muốn làm những việc mà lương tâm lành mạnh không cho phép. Là người có lư trí, có lương tâm và ư muốn tự do (free will), nên người ta phải có dự mưu trước khi muốn làm việc ǵ. Do đó, mọi tội con người có thể vấp phạm đều xuất phát từ trong ḷng thầm kín trước khi thể hiện ra bên ngoài bằng hành động.

Chúa Giêsu đă nói rơ điều này khi Người trả lời cho Phêrô về việc bọn Biệt phái bắt lỗi những người ăn mà không rửa tay :

… C̣n những cái ǵ từ miệng xuất ra là phải xuất từ ḷng. Chính những cái ấy mới mới làm cho con người ra ô uế., v́ tự ḷng phát xuất những ư định gian tà, những tội giết người, ngoại t́nh, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống…Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế.; c̣n ăn mà không rửa tay th́ không làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15: 18-20)

Nói khác đi, mọi tội lớn nhỏ đều xuát phát từ trong nội tâm mỗi người.Cụ thể kẻ trộm, kẻ cướp là những kẻ thấy của cải, tiền bạc của người khác mà sinh ḷng ham mê, nên đă bắt chấp lương tâm để mưu chiếm đoạt của cải của người khác. Cũng vậy, v́ nuôi oán thù trong ḷng nên mới thể hiện bằng hành động mưu hại người khác.

Liên can đến tội nghích điều răn thứ Sáu và thứ Chín ngăn cấm con người không được ước muốn và làm những việc dâm ô như : ngoại t́nh (adultery), thông dâm (fornication), ấu dâm (child prostitution), thủ dâm (masturbation), hiếp dâm (rape), ước muốn vợ/ chồng hay tài sản của người khác, xem phim ảnh, sách báo khiêu dâm (pornography). Chúa Giêsu cũng dạy rơ như sau:

Anh em đă nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại t́nh, c̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nh́n người phụ nữ mà thèm muốn th́ trong ḷng đă ngoại t́nh với người ấy rồi.” (Mt 5: 27-28)

Như thế có nghĩa là dù chỉ thèm muốn trong ḷng vợ hay chồng của người khác, muốn chiếm đoạt tiền của hay tài sản của ai, giân ghét và muốn giết hại ai ... th́ đă phạm các tội ngoại t́nh, trộm cắp và giết người trong tư tưởng rồi, v́ trong ḷng đă nuôi dưỡng những tư tưởng hay ước muốn sai trái đó, cho dù chưa thực hiện được trong thực tế.

Đây là điểm khác biệt giữa con người và mọi thú vật là loài không có lư trí, chỉ sống theo bản năng, nên không con vật nào như chó, mèo, voi, hổ, báo sư tử…lại có âm mưu hại người hay con vật khác. Chúng tấn công người để tự vệ hay giết lẫn nhau để t́m của ăn theo nhu cầu sinh tồn của chúng mà thôi.

Ngược lại, chỉ có con người mới “bề ngoài nói nói cười cười,” mà trong ḷng có thể đang âm mưu sát hại người khác bằng nhiều thủ đoạn gian manh như ta thấy trong thực tế ở mọi lănh vực sống của người đời, nhất là trong phạm vi chính trị đầy sảo trá, gian manh, phản bội.

Liên quan đến câu hỏi được đặt ra, và dựa vào lời dạy của Chúa trên đây, th́ nguyên một ư muốn “ngoại t́nh” với người khác đă là điều trái với luân lư, đạo đức nghĩa là có tội rồi, v́ từ ước muốn này sẽ dẫn đến hành động phản bội t́nh nghĩa vợ chồng của đương sự.Do đó không thể lư luận rằng chưa làm việc “vợ chồng” th́ không phải là ngoại t́nh.

Khi nói đến “ngoại t́nh” (adultery) là nói đến t́nh cảm và tương giao bất chính giữa một người đă có gia đ́nh với người khác phái không phải là vợ hay chồng của ḿnh.

Nếu chỉ là giao thiệp trong sáng giữa hai người khác phái th́ không thể nói là “ngoại t́nh” được. Thực tế, người vợ hay chồng có thể có bạn khác phái v́ cùng làm chung một nơi hay hoạt động chung trong một môi trường như Giáo xứ, Công đoàn, nhưng chỉ là bạn hay người quen biết đúng nghĩa th́ đâu có lỗi ǵ?

Ngược lại, chỉ khi nào vượt qua danh giới vơ chồng để chạy theo người khác phái trong mục đích san sẻ t́nh yêu hay dục vọng với người ấy th́ đó mới chính là tội “ngoại t́nh” trong tư tưởng dù chưa có hành động trong thực tế, căn cứ theo lời Chúa Giêsu đă dạy trên đây là dù chỉ “nh́n người phụ nữ và thèm muốn, th́ đă phạm tội ngoài t́nh trong ḷng với người ấy rồi” không cần phải làm chuyện “vợ chồng” mới đủ thành tội ngoại t́nh.

Nói rơ hơn, người vợ hay chồng chỉ cần có “tà ư” muốn vượt qua ranh giới vợ chồng để đi vào “thân t́nh” riêng tư với người khác không phải là vợ hay chồng của ḿnh th́ đă bước chân vào ngưỡng của ái t́nh vụng trộm –hay là ngoại t́nh, cho dù chưa làm việc “vợ chồng” với nhau.

Tóm lại, mọi tội con người có thể phạm đều xuất phát từ trong nội tâm mỗi người như Chúa đă dạy trên đây. Do đó, muốn tránh tội th́ phải có quyết tâm từ bỏ tội ngay trong ḷng và nương nhờ ơn Chúa giúp sức th́ người ta mới có thể đứng vững trong đường ngay chính để sống chung thủy trong hôn nhân, và để thăng tiến trên đường trỏ nên thánh thiện với tư cách là tín hữn như Chúa mong muốn cho mỗi người chúng ta.

Nếu không có cố gắng nội tâm để xa tránh tội lỗi mà cứ đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh th́ không vợ chồng nào có thể sống trọn vẹn với nhau trong ơn gọi hôn nhân được; cũng như không ai có thể được cứu rỗi nếu không quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và cộng tác với ơn Chúa để được thắng tiến trong đời sống thiêng liêng, xa tránh tội lỗi và mọi quyến rũ của ma quỉ và thế gian. Nếu không có quyết tâm này, th́ Chúa sẽ không thể cứu ai được v́ con người c̣n có tự do để chọn sống theo Chúa hay sống theo xác thịt, theo thế gian và ma quỉ, là kẻ luôn cám dỗ để lôi kéo ta ra khỏi t́nh thương của Chúa.

Ước mong giải đáp này thỏa măn câu hỏi đặt ra.

Cầu Nguyện Là Gi Và Phải Cầu Nguyện Thế Nào Cho Đẹp Ḷng Chúa?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích cầu nguyện là ǵ ? Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, phải bỏ ḿnh và vác thập giá theo Ta.” Như vậy cầu xin Chúa cho kḥi bệnh tật và mọi gian nan khốn khó ở đời th́ có trái với lời dạy trên của Chúa và có tội hay không ?

Trả lời: Trước hết, xin giải thích cầu nguyện là ǵ.

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa để tâm sự hay nói chuyện với Chúa trong thân t́nh Cha con khi vui cũng như lúc buồn, khi gặp gian nan khốn khó hay lúc được những điều vui thỏa vừa ư.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê su cũng nói : “đối với tôi, cầu nguyện là một sự hướng ḷng lên, một cái nh́n đơn sơ hướng lên trời. Đó là tiếng kêu của ḷng tri ân và của t́nh yêu trong cơn thử thách cũng như trong lúc hưởng niềm vui.”(St Therese of Licieux, Autobiography C. 25p)

Như thế cầu nguyện là tâm t́nh thân mật với Chúa trong niềm tin có Chúa là Cha nhân từ luôn lắng nghe mọi lời cầu nguyện, cầu xin của con cái loài người và hằng ban muôn ơn lành cho chúng ta, những người có đức tin và ngay cả cho những người chưa có đức tin, chưa biết Chúa và yêu mến Người, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đă nói với các mộn đệ xưa như sau:

C̣n Thầy, Thầy bảo anh em : hăy yêu kẻ thù và và cầu nguyện cho những kẻ ngược đăi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, v́ Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5:44- 45)

Vậy chúng ta phải cầu nguyện cách nào cho đẹp ḷng Chúa ?

Căn cứ vào kinh Lậy Cha mà Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ xưa, chúng ta có thể rút ra được những chỉ dẫn sau đây:

Trước hết, Chúa nói cho chúng ta biết:

1- Chúng ta có một CHA ở trên trời

2- V́ thế, chúng ta phải nguyện xin trước hết cho danh CHA cả sáng, cho Vương Quốc của Cha được lan rộng và nhất là cho thánh Ư Cha được thực hiện dưới đât cũng như trên trời.

3- Sau cùng, chúng ta xin CHA ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn áo mặc, để sống, hạnh phúc ở đời này.

Như vậy, cầu xin cho được an vui, mạnh khỏe, có công ăn việc làm và khỏi bệnh tật là điều đẹp ḷng Chúa, v́ là con người, chúng ta phải cần những nhu cầu ấy bao lâu c̣n sống trên trần thế này.

Trong tinh thần cầu nguyện trên đây, chúng ta đọc thấy nhan nhản trong Kinh Thánh những lời cầu nguyện có nội dung ca ngợi, cảm tạ và cầu xin Chúa thương cứu giúp như sau:.

a- Cầu xin Ca ngợi (prayer of praises):

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa
Câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi
Linh hồn tôi hănh diện v́ Chúa
Xin các bạn nghèo hăy nghe tôi nói mà vui lên
Hăy cùng tôi ngượi khen ĐỨC CHÚA
Ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34 :2-4)

b. Cầu nguyện tạ ơn (Prayer of Thanksgivíng)

Chúc tụng Chúa v́ Người nghe tiếng tôi khẩn nguyện
Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi
Ḷng tôi đặt tin tưởng nơi Người
Tôi đă được Người thương trợ giúp
Nên ḷng tôi vui mừng hoan hỉ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người” (Tv 28:6-7)

c- Cầu nguyện xin ơn (prayer of petitions)

Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho con,v́ gân cốt ră rời
Toàn thân con ră rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa c̣n tŕ hoăn đến bao giờ ?
Lậy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con
Cứu độ con, v́ Ngài nhân hậu” (Tv 6:2-5)

Trong khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu cũng đă chữa lành cho biết bao người bệnh tật như đui, mù, què, câm điếc, phong cùi … cũng như làm phép lạ biến bánh ra nhiều để cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Điều này cho thấy, Chúa đă quan tâm đến nhu cầu thể lư của con người, ngoài nhu cầu thiêng liêng là cần được cứu rỗi. Vầ để thỏa măn những nhu cầu đó, Chúa Giếsu đă dạy câc Tông Đồ phải cầu xin với Chúa Cha nhân danh Người như sau:

Thật, Thầy bảo thật anh em
Anh em mà xin Chúa Cha điều ǵ, th́ Người sẽ ban cho anh em
Vỉ danh Thầy”
(Ga 16:23)

Phải cầu xin Chúa CHA v́ Người là nguồn ban phát mọi ơn lành và, phúc lộc tối cần cho con người sống vui và hạnh phúc ở đời này và nhất là được cứu rỗi để sống đời đời trên Thiên Quốc mai sau.

Như thế, cầu nguyện là một nhu cầu tối cần thiết cho những ai có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu t́nh thương và vô cùng nhân hậu. Phải cầu xin Người v́ chúng ta thiều thốn mọi sự, và nhất là không có đủ sức để đứng vững trước mọi thù địch đe dọa niềm tin có Thiên Chúa và hy vọng được sống hạnh phúc với Người, ngay từ đời này trước khi được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người trên Nước trời mai sau.Cầu nguyện ví được như hơi thở của thân xác. Không có hơi thở th́ không thân xác nào có thể sống được. Đó là lư do v́ sao Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa “Không có Thầy, anh em chẳng làm ǵ được.” (Ga 15:5) Không có Thầy, nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp, th́ ta không thể đứng vững và thăng tiến trong đời sống tin, cậy, mến, cũng như được an vui, mạnh khỏe khỏe và may lành trong trần thế. này.

Nhưng khi Chúa nói : “Ai muốn theo Thầy,phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo” (Mt 16:24), chúng ta phải hiểu thế nào ?

Trước hết, nói đến thập giá là nói đến sự đau khổ mà bản chất con người không ai muốn chấp nhận. Nhưng đau khổ thập giá lại là phuơng tiện cứu độ hữu hiệu nhất mà Chúa Giêsu đă vui ḷng chấp nhận để đền tội thay cho cả nhân loại trong chương tŕnh cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. V́ thế, muốn dự phần vinh quang phục sinh với Chúa Kitô, tức là được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Thiên Quốc th́ chúng ta cũng phải chia sẻ phần nào sự đau khổ của Người.

Tuy nhiên, nói chia sẻ đau khổ với Chúa, hay vác thập giá theo Người không có nghĩa là phải xin Chúa trao cho thập giá để vác, nhiều khốn khó để chịu. mà chủ yếu là phải vui ḷng chấp nhận những thánh giá mà Chúa muốn gửi đến hay tha phép cho xảy ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói rơ hơn, khi gặp phải những gian nan khốn khó mà ḿnh không mong muốn, nhưng không tránh được như bệnh tật, nghèo khó, thất nghiệp, bất công v.v. thi phải coi đó như những khổ giá mà Chúa muốn chia sẻ để cho ta được dự phần đau khổ với Chúa hầu được thông phần vinh quang với Người. Nhưng cầu xin Chúa giúp cho có sức chịu đựng và vượt qua những khó khăn, đau khổ này lại là điều phải lẽ và đẹp ḷng Chúa v́ Người nhân nhậu và vui thích đuợc ban ơn cho ta. Nói khác đi. Chúa không cấm chúng ta cầu xin Chúa cho ḿnh hay cho người thân được kḥi bênh tật, được có công ăn việc làm tốt, đươc thành đạt trong học hành v.v. Mặt khác, Chúa cũng không mong muốn chúng ta “anh hùng” xin Người gửi những đau khổ tinh thần và thể xác cho ta chịu để lập công.

Chính Chúa Giê su cũng không tự nguyện vác thập giá xưa kia. Khi đối diện với đau khổ này trong đêm Người bị nộp v́ Giuđa phẩn bội, Chúa Giêsu đă thống thiết cầu xin cùng Chúa Cha như sau: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ư con, mà xin theo Ư Cha” (Lc 22:42)

Lời cầu nguyện trên đây của Chúa Giêsu chính là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta bắt chước mỗi khi chúng ta muốn xin Chúa bất cứ ơn ǵ cho ḿnh và cho người khác.Và cách cầu nguyên này chắc chắn đẹp ḷng Chúa nhất v́ chúng ta không xin theo ư riêng ḿnh mà xin theo ư CHA trên trời như Chúa Giêsu đă xin..

Tóm lại, cầu xin Chúa ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn, áo mặc, sức khóe và b́nh an là điều tự nhiên không có ǵ sai trái, hay thiếu đạo đức. Điều quan trọng là phải xin cho được vâng theo Thánh Ư Chúa trong mọi sự mà thôi.

Năm Đức Tin: Ư Nghĩa Và Tầm Quan Trọng Của Bí Tích Thánh Thể

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Các bí tích mà Chúa Kitô đă thiết lập và ban cho Giáo Hội cử hành, đều rất quan trọng và cần thiết cho mục đích cứu độ con người nhờ công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu. Do đó, mọi tín hữu trong Giáo Hội đều được kêu gọi năng lănh nhận các bí tích tối quan trọng là Thánh Thể và Ḥa giải sau khi đă được tái sinh qua Phép Rửa và củng cố đức tin qua Bí tích Thêm sức.Nhưng muốn sống sung măn và lớn lên trong đức tin th́ phải siêng năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất để giúp trở nên thánh thiện nhờ được tham dự vào đời sống thần linh của Chúa Ba Ngôi mỗi khi được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể cử hành trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn.

Thật vậy, có thể nói : Bí tích Thánh Thể là bí tích ban ơn cứu độ quan trọng nhất mà Chúa Kitô đă trao cho Giáo Hội cử hành để tiếp tục công tŕnh cứu độnhân loại của Người cho đến ngày măn thời gian.

Nói được như vậy, là v́ qua việc cử hành Bí Tích quan trọng này trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn (Eucharist), Chúa Kitô lại thực sự hiện diên nơi các thừa tác viên con người là linh mục và giám mục để dâng lại Hy Tế cực trọng mà Người đă một lần dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt v́ tội lỗi.

Hiến Chế Tin Lư Lumen Gentium của Đại Công Đồng Vaticanô II đă nói rơ về mục đích và ơn ích của Thánh lễ Tạ Ơn như sau :

mỗi lần Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế” (1 Cor 5, 7), th́ công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” (LG. số 3)

Nghĩa là mỗi khi Thánh lễ tạ Ơn được cử hành ở bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, th́ Hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô lại được diễn ra để xin ơn tha thứ cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích mà Chúa Kitô đă một lần dâng Hy tế của Người trên thập giá xưa kia.Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá, chính Chúa Kitô – vừa là bàn thờ, vừa là linh mục và là của lễ- đă đích thân dâng Hy Tế của Người qua khổ nạn thập giá và máu Người đă đổ ra từ canh sườn và trong toàn thân từ đầu, ḿnh và chân tay, v́ bị đánh đập tàn nhẫn, bị đóng đanh và đầu đội măo gai. Chúa đă dâng tất cả sự đau khổ lớn lao đó và cả mạng sống của ḿnh làm giá chuộc cho muôn người. Trên thập giá Người đă thực sự đổ máu và bị sát tế như Chiên Vượt qua để cho chúng ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc vô giá của Người.

Ngày nay, trên bàn thờ, Chúa dùng tay mà miệng của các thừa tác viên tư tế là linh mục và Giám mục để dâng lại cách bí nhiệm Hy Tế thập giá của Người cũng như diễn lại Bữa Tiệc ly để ban ḿnh và máu Người làm của ăn và của uống cho chúng ta được nuôi dưỡng về mặt thiêng liêng và nhất là có hy vọng được sống đời đời với Chúa như Người đă phán hứa xưa kia:

“Ai ăn thịt và uống máu Ta, th́ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6 :54)

Chỉ có qua bí tích Thánh Thể cử hành trong Thánh Lễ Tạ Ơn mà chúng ta được dự bàn tiệc thánh để ăn uống Ḿnhvà Máu thánh Chúa hiện diện thực sự (real presence) dưới hai h́nh Thánh Thể là bánh và rượu nho.

Như thế, tham dự và cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, v́ đây chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.

Là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, v́ chỉ qua Hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ ngày nay mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, lại tuôn đổ muôn ơn thánh của Người cho chúng ta nhờ công nghiệp của Chúa Kitô với Hy tế một lần của Người trên thập giá và nay đang được tiếp tục dâng lại trên bàn thời qua tác vụ của Giáo Hội. Chính nhờ Hy tế cực trọng này mà con người được giao ḥa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui và hạnh phúc bất tận. Và cũng chỉ nhờ có Hy tế thập giá mà mọi ơn ích của các bí tích khác được kiện toàn và thêm phong phú.

Cụ thể, sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội, trẻ em hay người lớn không thể lớn lên trong đức tin và thân t́nh với Chúa nếu không được bồi dưỡng bởi ơn đặc biệt của phép Thánh Thể nhờ lănh nhận Ḿnh Máu Chúa Kitô hiện diện cách trọn vẹn nhưng bí nhiệm trong bánh và rượu nho.

Nói khác đi, không có việc đạo đức hay cử hành phụng vụ nào quan trọng và có giá trị về mặt thiêng liêng hơn Thánh lễ Tạ ơn, v́ qua Bí tích cao trọng này, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành Bữa ăn sau hết và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô với Nhóm Mười Hai Tông Đồ trong đêm Người bị nộp, v́ Giuđa phản bội. Trong bữa ăn cuối cùng này, “Chúa Cứu Thế đă lập hy lễ Thánh Thể của Ḿnh và Máu Người để lưu truyền vạn đại lễ hy sinh thập giá của Người đến muôn đời, cho tới khi Người đến, và cũng là để trao lại cho Giáo Hội là Hiền thê yêu quí của Người bí tích của t́nh yêu, dấu chỉ của hiệp nhất, sợi dây liên kết của đức ái. Với Bữa tiệc Vượt qua, trong đó Chúa Kitô được ban làm lương thực, linh hồn ta được đổ tràn đầy ân sủng là bảo chứng cho vinh quang mai sau đă được ban cho chúng ta. (x. SGLGHCG số 1323)

Trong Thánh Lễ Tạ Ơn, Giáo Hội hiệp cùng Chúa Kitô dâng lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa Cha về hồng ơn cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, Đấng đă thực sự đổ máu trên thập giá để “lập Giao Ước mới ”, có giá trị cứu chuộc vượt trên hết mọi giao ước cũ.

Có giá trị cứu rỗi hơn, v́ với Giao Ước mới, Chúa Kitô được ví như Chiên vượt qua bị sát tế để cho muôn người được cứu độ như tác giả Sách Khải Huyền đă viết :

“Ngài xứng đáng lănh nhận cuốn sách
Và mở ấn niêm phong
V́ Ngài đă bị giết
Và đă lấy máu đào
Chuộc về cho Thiên Chúa
Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ
Thuộc mọi nước mọi dân.”
(x. Kh 5: 9)

Như thế, chính nhờ Hy Tế thập giá qua đó Chúa Kitô bị sát tế như chiên bị giết làm tế vật trong phụng vụ thời Cựu Ước, mà nhân loại được thứ tha mọi tội lỗi cho đến ngày nay và c̣n măi về sau cho đến khi măn thời gian.Nói rơ hơn, cử hành bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ Tạ Ơn là diễn lại Hy tế đền tội của Chúa Kitô để những ai tin và sống theo đường lối của Chúa sẽ được ơn cứu độ nhờ Người đă một lần đổ máu ra trên thập giá cho muôn người được cứu độ.

Do đó, khi tham dự hay cử hành Thánh lễ Tạ Ơn là tham dự trước hết vào Bữa Ăn mà Chúa Kitô tiếp tục khoản đăi với thực phâm hảo hạng là chính ḿnh và máu Người hiện diện thực sự nhưng bí tích dưới hai h́nh bánh và rượu nho.Đây chính là thần lương nuôi dưỡng và bổ sức cho ta trong cuộc lữ hành tiến về quê Trời.

Mặt khác khi tham dự và dâng Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời Chúa, là lời ban sự sống và cũng là của ăn thiêng liêng cần thiết cho ta lớn lên trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Quan trọng hơn nữa là chúng ta được hiệp nhất với Chúa Kitô trong mục đích dâng lại Hy tế cực trọng của Người lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho chúng ta và cho mọi người c̣n sống hay đă qua đời.. Chỉ có sự khác biệt là xưa trên thập giá Chúa Kitô đă thực sự đổ máu ḿnh ra, nhưng nay trên bàn thờ Chúa đổ máu cách bí nhiệm nhưng cùng mục đích là để ban ơn cứu chuộc cho chúng ta mỗi khi chúng ta sốt sắng tham dự và sạch tội trọng để xứng đáng lănh nhận Ḿnh Máu thánh Chúa trong phần hiệp lễ (communion). Về điểm này, Giáo lư và giáo luật của Giáo Hội dạy rằng:

Ai muốn rước lấy Chúa Kitô trong phần hiệp lễ Thánh Thể, th́ phải ở trong t́nh trạng có ân sủng.Nếu ai biết ḿnh đă phạm tội trọng, th́ không làm lễ và rước lễ, nếu không nhận được ơn tha thứ trước đó qua bí tích ḥa giải (sám hối)” (x SGLGHCG số 1415,giáo luật số 916)

Được kết hợp với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể là được tham dự ngay từ đời này vào đời sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi, v́ ở đâu có Chúa Con th́ ở đó có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như thế, thật hạnh phúc biết bao cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa mỗi khi ta tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn với tư cách là tín hữu hay cử hành với tư cách là tư tế (linh mục và Giám mục). Thánh Lễ Tạ Ơn quả thật là đỉnh cao của đời sống Kitô giáo v́ không c̣n phương thế nào có giá trị cứu rỗi cao hơn nữa, cũng như cho ta được lănh nhận ơn Chúa dồi dào hơn nữa.

Trong Bữa ăn sau cùng, Chúa Cứu Thế Giêsu không những đă lập Phép Thánh Thể và Chức Linh mục thừa tác (Ministerial priesthood) để “anh em làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”(Lc 22: 19) mà c̣n lập Giao Ước mới kư kết bằng chính máu của Người đổ ra ngày hôm sau trên thập giá. Chúa đă loan báo Giao Ước mới này khi Người trao chén máu thánh cho các Tông Đồ hiện diện và nói: “anh em hăy lănh nhận mà uống v́ này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội…” (1 Cr 11: 25; Lc 22: 20).

Như thế Bữa ăn cuối cùng của Chúa cũng liên kết mật thiết với Hy Tế thập giá v́ đă loan báo trước việc Chúa đổ máu trên thập giá ngày hôm sau để hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đă trao phó cho Người. Ngày nay, trên bàn thờ, mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành, Chúa Kitô cũng đổ máu cách bí nhiệm, như Chiên Vượt qua bị sát tế để “nhờ đó công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện. (x LG số 11). Nghĩa là khi tham dự Thánh Lể Tạ Ơn hay cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự Bữa Ăn của Chúa và cùng với Chúa dâng mọi đau khổ, sướng vui của mỗi người chúng ta hiệp thông với khổ nạn của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha đễ xin Người tha thứ mọi tội lỗi cho ta được ơn cứu chuộc là mục đích của Hy tế thập giá xưa và nay.

Đây cũng là phương cách thi hành chức vụ tư tế thông thường của người giáo dân (common Priesrhood of the Laity) hiệp thông với hàng tư tế thừa tác hay phẩm trật (hierarchical or ministerial Sacerdos) trong việc cử hành và tham dự Thánh lễ Tạ Ơn.

Sau nữa, nhờ việc cử hành Thánh Lễ, “chúng ta được kết hợp với Phụng vụ trên trời và được thấy trước sự sống vĩnh cữu sẽ diễn ra khi Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong mọi người.” như Thánh Phaolô đă dạy. (1 Cor 15: 28) (x SGLGHCG số 1326)

Tóm lại, Bí tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất cho ta được hưởng nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô v́ được kết hợp mật thiết với Người ngay từ trong cuộc sống ở đời này trước khi được chiêm ngưỡng Chúa trên Nước Trời mai sau. Do đó, mọi tín hữu được mời gọi siêng năng chạy đến với Chúa trong bí tích cao trọng này đặc biệt trong năm Đức Tin đang được mở ra trong toàn Giáo Hội, v́ đây cũng là cách sống đức tin cụ thể và sống động nhất của mọi tín hữu Chúa Kitô trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, phi luân ngày nay.

Giáo hội có sai lầm trong việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các vị lănh đạo trong giáo hội hay không?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: Có phải tất cả mọi việc tuyển chọn, bổ nhiệm và thuyên chuyển các Giám mục trong Giáo Hội đều là công việc của Chúa Thánh Thần hoạt động âm thầm nhưng hữu hiệu trong Giáo Hội ?

Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi này, xin được nói qua về ơn gọi (vocation) của một số người được Thiên Chúa dùng trước hết để mặc khải Người cho nhân loại, và thay mặt Chúa để nói với con người những ǵ Thiên Chúa muốn con người nghe, phải làm và sống để được chúc phúc và cứu rỗi, căn cứ vào lời ông Mô-sê đă nói với dân Do Thái như sau:

Từ giữa anh em, trong số anh em của anh em, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hăy nghe vị ấy. “ (Đnl 18: 15).

I- Thời Cựu Ước

Trong thời gian này, Thiên Chúa đă gọi một số người, đặt làm ngôn sứ hay tiên tri như các ông Abraham, Mô-sê, Amos, Osea, Isaiah, Giêremia, Daniel, Ezekiel, Zakaria, Giona…

Trong số những ngôn sứ trên đây, ông Môsê được Thiên Chúa gọi từ “bụi cây bốc cháy” và truyền cho ông: “Bây giờ ngươi hăy đi. Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái It-ra-en ra khỏi Ai Cập.” (Xh 3:10) Thiên Chúa chọn ông Mô-sê làm người lănh đạo dân không v́ ông có phẩm chất xứng đáng mà v́ sự khôn ngoan khôn lường của Chúa. V́ nếu xét theo khôn ngoan của con người, th́ Môsê là người bất xứng như ông tự nhận ḿnh không có tài ăn nói và c̣n phạm tội sát nhân nữa (giết một người Ai Cập). Nhưng Thiên Chúa không thay đổi ư định chọn và sai ông đi, trước hết để mặc khải danh Người là “Đấng Hiện Hữu” (Xh 3:14) cho dân Do Thái và sau nữa để dẫn đưa họ ra khỏi ách nô lệ thống khổ bên Ai Cập.

Ngôn sứ I-sai-a được nghe tiếng Chúa trực tiếp phán bảo ông như sau:

" Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán:

Ta sẽ sai ai đây? "

Tôi thưa: "Dạ con đây, xin sai con đi"

Chúa phán: "Hăy đi nói với dân này rằng..." (Is 6: 8-9)

Ngôn sứ Giêrêmia cũng được gọi cách đặc biệt khi Thiên Chúa trực tiếp nói với ông:

Trước khi cho ngươi thành h́nh trong dạ mẹ, Ta đă biết ngươi; trước khi lọt ḷng mẹ, Ta dă thánh hóa ngươi. Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1: 5)

Đó là tiêu biểu những người được gọi để làm lănh tụ và ngôn sứ trong thời Cựu Ước.

II- Thời Tân Ước:

Khi Chúa Giêsu xuống thế làm Con Người và đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa đă goi Nhóm Mười Hai Tông Đồ lớn và Bảy mươi hai Tông Đồ nhỏ, (Mc 3: 14-19; Lc 10:1-2) Và sai họ ra đi rao giảng với “quyền trừ quỉ” và chữa lành. Hai Nhóm Mươi Hai và Bảy Mươi Hai này là những cộng sự viên đầu tiên được gọi để tham gia vào Sứ Vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô trong buổi ban đầu.

Sau khi Chúa hoàn tất công tŕnh cứu chuộc nhân loại của Người qua khổ h́nh thập giá, chết, sống lại và lên trời, các Tông Đồ được sai đi khắp nơi để “làm cho muôn dân trở thành môn đệ và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” (Mt 28:19)

Nhưng trước khi các Tông Đồ tiên khởi này qua đời, th́ chắc chắn các ngài phải chọn những người thay thế để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin mừng và làm Phép Rửa cho các thế hệ nối tiếp, căn cứ vào lời Thánh Phaolô đă căn dặn môn đệ của ngài là Timôthê như sau:

Những ǵ anh đă nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, th́ hăy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác.” (2 Tim 2: 2)

Như thế, rơ ràng cho thấy các Tông Đồ đă chọn người kế vị các ngài và truyền chức cho họ qua việc đặt tay như Thánh Phaolô viết tiếp dưới đây:

V́ lư do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đă nhận được khi tôi đặt tay trên anh.” (2 Tm 1: 6)

Đây là truyền thống kế vị Tông Đồ (Apostolic succession) mà Giáo Hội đă thi hành từ xưa cho đến nay để chọn các Giám mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ trong sứ mạng chăn dắt, dạy dỗ, thánh hóa và cai trị Dân Chúa trong các Giáo hội địa phương trọn vẹn hiệp thông và vâng phục Giám Mục Rôma, tức Đức Thánh Cha là vị Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trên trần thế trong sứ mệnh cai quản Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

III- Giáo Hội có sai lầm khi chọn các Giám Mục không?

Bản chất của Giáo Hội là thánh thiện, công giáo tông truyền và truyền giáo. Nhưng các thành phần con người trong Giáo Hội th́ chưa phải tất cả là thánh như bản chất của Giáo Hội. Cho nên, trừ hai phạm vi tín lư (dogma) và luân lư (moral) là hai lănh vực mà Giáo Hội – cụ thể qua Đức Thánh Cha và các Giám Mục hiệp thông - được giữ ǵn cho khỏi sai lầm (́nfallibility). Ngoài hai phạm vị này, Giáo Hội có thể sai lầm trong tất cả các lănh vực khác, cách riêng là việc bổ nhiêm và thuyên chuyền các cấp lănh đạo như Hồng Y và Giám Mục.

Nếu trung thành với sứ mạng và truyền thống của ḿnh, th́ Giáo Hội ngày nay phải noi gương các Tông Đồ xưa kia mỗi khi quyết định tiến cử ai đảm trách nhiệm vụ lănh đạo trong Giáo Hội, cụ thể là việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các Giám Mục. Xưa kia, khi chọn người thay thế Giuđa cho đủ con số 12 Tông Đồ tiên khởi, các Tông Đồ đă hội họp cầu nguyện và đề cử hai người xuất sắc là các ông Giuse và Mat-thia. Sau đó, các Tông đồ đă cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt ḷng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này để nhân chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ mà Giu-đa đă bỏ để đi về chỗ dành cho y. Họ rút thăm và ông Mat-thia trúng thăm: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.” (Cv 1: 23-26).

Trên đây là bằng chứng cụ thể về cách thức chọn người thay thế nhiệm vụ Tông Đồ trong Giáo Hội sơ khai.Từ đó đến nay, Giáo Hội đă theo truyền thống này mỗi khi phải chọn lựa và bổ nhiệm các Giám mục ở khắp nơi trong Giáo Hội. Tuy nhiên, v́ c̣n là con người trần thế như đă nói ở trên, nên những vị có trách nhiệm đề cử và chọn lựa ứng viên không hẳn đă hoàn toàn vô tư để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chỉ đạo trong việc hệ trọng này… V́ thế chắc chắn đă có những vị được đề cử v́ thân quen, v́ người cùng phe, cùng Ḍng tu, cùng gốc chủng tộc với ḿnh (ở Mỹ, Giám mục gốc Ái Nhĩ Lan (Irish) gốc Đức hay Ư thường chọn người công tác hay kế vị thuộc gốc chủng tộc của ḿnh). Ấy là chưa kể trường hợp có những người đă “vận động ngầm” để tiến cử ứng viên của ḿnh và đă được toại nguyện.

Hậu quả là có những người lẽ ra “không nên chọn” mà lại được đưa lên địa vị cao này. Cho nên, đă có các giám mục không dạy dỗ đúng theo giáo huấn của Giáo Hội, (có giám mục kia đă tán thành việc phong chức linh mục cho nữ giới !) có người đă nêu gương xấu như một Tổng Giám Mục Phi Châu đă bỏ Giáo Hội Công Giáo để gia nhập một giáo phái khác (đạo Mum của người Đại Hàn) -tức là phạm tội bội giáo (Apostasy) - và đă lấy vợ, bắt chấp luật độc thân của Giáo Hội. Tai hại hơn nữa, ông c̣n truyền chức giám mục cho một số linh mục Mỹ đă hồi tục bắt chấp giáo luật và kỷ luật của hàng giáo sĩ đ̣i buộc phải vâng phục thẩm quyền tối cao của Đức Thánh Cha trong việc chọn và bổ nhiệm các giám mục trong Giáo Hội. Cụ thể gần đây nhất, có giám mục Trung Hoa kia đă cộng tác với tổ chức "Công Giáo Yêu Nước", tay sai của nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa để truyền chức giám mục bất hợp pháp (không có phép của Đức Thánh Cha) cho một linh mục quốc doanh, tạo thêm căng thẳng giữa Ṭa Thánh và chánh quyền Trung cộng..

V́ thế, các vị có nhiệm vụ đề cử và tuyển chọn Giám muc cần phải theo gương các Tông Đồ xưa cầu nguyện và bỏ phiếu kín để Chúa Thánh Thần có thể tự do làm việc hữu hiệu qua tiến tŕnh này, để Giáo Hội có được những vị lănh đạo xứng đáng về đạo đức, khả năng chuyên môn (competence) và t́nh thần Tông Đồ để thi hành sứ vụ Tông Đồ trong Giáo Hội Địa phương hay hoàn vũ.

Giám mục là người kế vị các Thánh Tông Đồ nên phải có tinh thần Tông Đồ, phải là người " có khả năng giảng dạy" (1Tm 3: 2) th́ mới chu toàn được nhiệm vụ Tông Đồ. Nghĩa là chức vụ giám mục không phải là cái vinh quang trần thế, mà phải là ơn gọi phục vụ theo gương Chúa Kitô, Người đến không phải để t́m vinh quang trần thế, nhà cao cửa rộng, phú quư sang giầu.Ngược lại, Người đă sống như kẻ vô gia cư, không được như " con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Mt 8:20). Như thế, người Tông Đồ xứng đáng với danh vị này phải là người " không ai chê trách được" (1 Tm 3:2),và là người có tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em, để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cr 8:9). Nghĩa là, Giám mục phải là người nêu gương sáng về đức khó nghèo của Phúc Âm cho người khác, và dám can đảm đ̣i hỏi quyền tự do tôn giáo và tự do hành đạo, lên án những tội ác của xă hội, của chế độ cai trị về những tụt hậu thê thảm về đức công b́nh, nhất là về luân lư, đạo đức, phương hại cho đời sống tinh thần của dân chúng và cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô. Đó là sứ vụ đ̣i hỏi thực thi công b́nh, bác ái, yêu thương, tha thứ và lên án mọi tội ác và sự dữ (evils) đang lan tràn ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.Lại nữa, Giám mục phải là người tha thiết và trung thành với sứ vụ Tông Đồ, là sứ vụ hoàn toàn thiêng liêng, không "dính bén" ǵ đến mọi hư danh và quyền lực trần thế, v́ nếu dính dáng ở mức độ nào để mưu lợi ích riêng tư, th́ sẽ phương hại lớn cho uy tin và sứ mệnh siêu nhiên của Giáo Hội,- và cách riêng- cho sứ vụ và trách nhiệm Tông Đồ của ḿnh.

Thiên Chúa, từ đầu, đă biết sự kiện có những người không xứng đáng được chọn để đảm trách vai tṛ lănh đạo và dạy dỗ Dân Chúa nên Người đă than trách như sau:

Chúng phong vương người mà Ta không chọn.
Tôn làm lănh tụ kẻ Ta không biết
Dùng vàng bạc làm ra ngẫu tượng để rồi bị đập tan
.” (Hôsê 8: 4)

Chúa biết nhưng vẫn làm ngơ cho sự việc xảy ra, v́ Người tôn trọng ư muốn tự do (free will) của loài người. Bằng cớ: khi dân Do Thái đ̣i ông Samuel cho họ có vua để cai trị và xử kiện cho họ, ông đi cầu nguyện và Chúa đă phán bảo ông như sau:

Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, v́ không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.” (1 Samuel 8:7)

Thánh Phaolô cũng tỏ ư quan tâm về việc có những người không đáng “được đặt tay” để lănh nhiệm vụ Tông Đồ, nên đă căn dặn Ti-mô-thê như sau:

“Anh đừng vội đặt tay trên ai, đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác. Hăy giữ ḿnh trong sạch.” (1 Tim 5: 22)

Đừng “vội đặt tay trên ai” có nghĩa là không nên tuyển chọn và truyền chức cho ai v́ áp lực, hay v́ thân quen “gửi gấm”, mua chuộc, hơn là v́ có điều kiện xứng đáng về đạo đức, khả năng (competence) và ư thức trách nhiệm.

Sứ vụ Tông Đồ (Apostolic Ministries) là Sứ Vụ mà Chúa Kitô đă trao lại cho các Tông Đồ để các ngài tiếp tục rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa cho muôn dân và phục vụ mọi người theo gương Chúa Kitô, Người “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Như thế việc chọn lựa và bổ nhiệm các Giám mục phải là việc rất hệ trọng v́ cần có người xứng đáng kế vị các Thánh Tông Đồ cho nhu cầu thiêng liêng của Giáo Hội ngày nay. Đây không phải là “vinh quang trần thế” cho những ai thích “mũ gậy” mà phải là ơn gọi đặc biệt của Chúa dành cho những người Chúa muốn đặt lên để coi sóc Dân của Người.

Do đó, những ai có nhiệm vụ thi hành “Truyền thống kế vị Tông Đồ” để chọn hay tiến cử hoặc thuyên chuyển các Giám mục trong Giáo Hội, cần phải noi gương các Tông Đồ họp nhau cầu nguyện, gạt bỏ mọi thiên tư, hay vị lơi để cho Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ đạo việc rất hệ trọng này ngơ hầu Giáo Hội có được những vị lănh đạo xứng đáng theo Ư Chúa muốn, chứ không theo ư người có tham vọng muốn địa vị này.

Đây cũng là điều rất quan trọng phải nói đến trong năm Đức Tin này, v́ Giáo Hội phải nêu gương sáng đức tin cho giáo dân trong mọi lănh vực giảng dạy chân lư, thánh hóa, cai trị và chọn người cai trị theo thánh ư Chúa muốn chứ không theo ư riêng ḿnh.

Năm Đức Tin: Tầm Quan Trọng Của Bí Tích Ḥa Giải

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Bí tích ḥa giải (reconciliation) là một trong các bí tích ban ơn cứu độ rất quan trọng và cần thiết mà Chúa Kitô đă trao cho các Tông Đồ trước tiên và cho Giáo Hội ngày nay cử hành để ban ơn tha thứ của Chúa cho các hối nhân c̣n tin tưởng nơi ḷng thương xót tha thứ của Chúa.

Thật vậy, sau khi từ cơi chết sống lại và hiện ra với các Tông Đồ, Chúa Kitô đă nói với các ông như sau:

“Anh em tha cho ai, th́ người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai th́ người ấy bị cầm giữ”
(Ga 20: 23)

Trước khi thọ nạn thập giá, Chúa Giêsu cũng đă trao quyền tha tội cho Phêrô, sau khi môn đệ này tuyên xưng Chúa là “Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16: 16)

“Thầy sẽ trao cho anh ch́a khóa Nước Trời : dưới đất anh cầm buộc điều ǵ, trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều ǵ, trên Trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” (Sđd : 16 : 19)

Trên đây là nền tảng Kinh Thánh của bí tích ḥa giải mà Chúa Kitô đă thiết lập và trao cho các Tông Đồ trước khi Người về Trời.

Sở dĩ Chúa ban bí tích này là v́ Người biết rơ con người vẫn c̣n yếu đuối sau khi được tái sinh qua bí tích Rửa tội. C̣n yếu đuối và dễ nghiêng chiều về sự xấu trong bản tính đă bị băng hoại v́ Tội Nguyên Tổ (original sin) cộng thêm với ư muốn tự do (Free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dựng, cho nên nguy cơ phạm tội c̣n đó . V́ thế Chúa đă ban bí tích ḥa giải để giúp con người nối lại t́nh thân với Chúa sau khi đă lỡ phạm tội cá nhân v́ yếu đuối và nhất là v́ ma qủi cám dỗ và gương xấu của thế gian. Bao lâu c̣n sống trong thân xác có ngày phải chết này, th́ bấy lâu con người c̣n phải chiến đấu, hay bị giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa sự tốt và sự xấu trái nghịch nhau như ánh sáng và bóng tối. Do đó, “Anh em hăy đứng vững trong đức tin mà chống cự, v́ biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế.” (1 Pr 5 : 8-9).

Đó là lời khuyên dạy của Thánh Phêrô Tông Đồ.

I- Nhưng trước hết phải hiểu rơ thế nào là tội và có mấy loại tội

Con người ngày nay, phần nhiều đă mất hết ư thức về tội nên đă thi nhau làm những điều tự bản chất là sai trái, là vô luân như ăn gian, nói dối, trộm cắp, dâm đăng, ngoại t́nh, cờ bạc, giết người, phá thai, buôn bán ma túy, súng đạn giết người, sách báo phim ảnh dâm ô, nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghê măi dâm, hoặc làm nô lệ t́nh dục cho người nước ngoài dưới chiêu bài “hôn nhân ngoại quốc” hay “lao động nước ngoài”.Nhiều tín hữu cũng mất ư thức về tội nên đă coi thường hay không muốn đi xưng tội nữa dù đă làm những việc mà thực chất là có tội.

Những h́nh thức của tội lỗi nói trên đây đă ít nhiều xúc phạm đến Thiên Chúa là t́nh thương, là công b́nh và thánh thiện. Do đó, khi ta làm bất cứ điều ǵ xúc phạm đến t́nh thương, sự công b́nh và thiện hảo th́ đă xúc phạm đến chính Thiên Chúa là hiện thân của Chân, Thiện Mỹ tuyệt đối.

Giáo lư Công Giáo cũng dạy rằng : “Tội lỗi chống lại t́nh thương của Thiên Chúa dành cho ta và khiến trái tim ta xa ĺa t́nh yêu đó. Cũng như tội nguyên thủy, tội lỗi của ta là một sự bất phục tùng, một sự phản loạn chống lại Thiên Chúa…” (x. SGLGHCG số 1850)

Thánh Phaolô đă liệt kê những tội con người có thể phạm như sau :

“Những việc do tính xác thịt gây ra th́ ai cũng rơ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đăng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất ḥa, nghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo cho mà biết như tôi đă từng bảo : những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” (Gl 5:19-21 )

Thánh Gioan cũng quả quyết rằng “Mọi điều bất chính trên đều là tội.” (1 Ga 5 : 17)

II- Giáo Hội phân biệt tội thành hai loại : tội trọng và tội nhẹ

1- Tội trọng (mortal sin) là tội tự bản chất nó là sự dữ như giết người, hiếp dâm, ngoại t́nh, tiếp tay với quân khủng bố đặt bom giết hại người khác, nhất là chối bỏ hay lăng mạ Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, công khai chối đạo …

Ngoài bản chất là nghiêm trọng, tội trọng chỉ thành tội khi người ta đă biết rơ tính chất nghiêm trọng đó mà vẫn cố t́nh phạm với ư muốn tự do (free will). Tội trọng phá hủy hoàn toàn đức ái và và cắt đứt mọi t́nh thân đối với Chúa v́ đă chống lại Người cách quá nặng nề.

Do đó, nếu ai chết trong khi đang mắc tội trọng mà không kịp xin tha qua bí tích ḥa giải th́ sẽ chiu h́nh phạt hỏa ngục (x. SGLGHCG số 1035)

2- Tội nhẹ (Venial sin) : không cắt đứt t́nh thân với Chúa nhưng cũng xúc phạm đến Người và làm tổn thương phần nào đức ái (x SGLGHCG số 1855)

Đây là giáo lư của Giáo Hội mà mọi tính hữu phải tuân thủ cho được hiệp thông với Giáo Hội trong mục đích yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa và thực hành các giới răn của Người hầu được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Cũng theo giáo lư của Giáo Hội th́ mọi tội nặng hay nhẹ đều có thể được tha qua bí tích ḥa giải nếu hối nhân c̣n tin tưởng nơi ḷng thương xót tha thứ của Chúa và thật ḷng ăn năn sám hối. Chỉ có một tội không thể tha được, đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn và không c̣n tin tưởng ǵ nơi ḷng thương xót của Chúa nữa.

Liên quan đến bí tích ḥa giải, không thể quan niệm rằng người tín hữu trưởng thành không cần giữ Đạo cách “cổ xưa” với việc tuân giữ luật lệ. Nếu việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa và giáo lư của Giáo Hội là không “hợp thời” và cần thiết th́ tạo sao Thiên Chúa lại ban 10 điều răn cho con người tuân giữ để được chúc phúc và tại sao Chúa Kitô đă nói với các môn đệ xưa điều này:

Nếu anh em yêu mến Thầy
Anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy
” (Ga 14: 15)

Như thế, yêu mến Chúa đồng nghĩa với việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Và nếu không tuân giữ th́ đă phạm tội chống lại Chúa là t́nh thương, công b́nh, bác ái và thánh thiện, v́ mọi tội con người có thể phạm đều liên hệ ít nhiều đến các đặc tính trên đây của Thiên Chúa.Cụ thể : giết người hay âm mưu sát hại người khác là chống lại bản chất yêu thương, nhân từ của Chúa. Trộm cắp, gian tham, lừa đảo là phạm đến sự công b́nh của Chúa. Dâm ô – đặc biệt là tội ấu dâm rất khốn nạn (child prostitution)- là xúc phạm nặng nề đến sự thánh thiện, trong sạch của Chúa . Do đó, muốn sống đẹp ḷng Chúa và nhiên hậu được cứu độ th́ mọi người có niềm tin yêu Chúa phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi v́ chỉ có tội mới đẩy chúng ta ra khỏi t́nh thương của Chúa là Đấng yêu thương và “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4) nhưng lại gớm ghét mọi tội lỗi v́ nó hoàn toàn đi ngược lại với bản chất yêu thương, nhân từ, công b́nh và thánh thiện của Người.

III- Tại sao cần phải xưng tội và xưng cách nào ?

Như đă giải thích ở trên, tội là một thực thể và một thực tế (entity and reality) trong trần gian và trong mỗi người chúng ta. Không ai có thể nói là ḿnh không có tội nào như Thánh Gioan đă quả quyết :

nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội
Chúng ta tự lừa dối ḿnh
Và sự thật không ở trong chúng ta.” (
1 Ga 1 : 8)

Nhận biết ḿnh có tội th́ lời mời gọi là hăy sám hối và xin Chúa tha thứ. Chúa ghét mọi tội nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết ăn năn xin tha thứ, như Chúa Giêsu đă đối xử với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại t́nh và bị bọn Biệt phái dẫn đến xin Chúa cho ném đá. Chúa đă không ném đá và chỉ nói với chị kia rằng “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”(Ga 8: 11).

Qua lời Chúa trên đây, chúng ta hiểu rơ ḷng nhân từ và khoan dung của Chúa đối với kẻ có tội, nhưng cũng không muốn ai lợi dụng ḷng nhân từ đó để cứ phạm tội, cứ lấy cớ Chúa yêu thương tha thứ để không quyết tâm cải thiện đời sống và xa tránh mọi tội lỗi. Đành rằng là con người, ai cũng yếu đuối trong bản tính, nhưng nếu ta quyết tâm và nương nhờ ơn Chúa phù giúp th́ chúng ta mới có thể đứng vững được trước mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, ví như “sư tử gầm thét rảo quanh t́m mồi cắn xé” (1 Pr 5: 8), của xác thịt yếu đuối dễ sa ngă và của gương xấu đầy rẫy ở mọi môi trường sống.

Nói rơ hơn, nếu ta không có thiện chí xa lánh tội và mọi cơ hội đưa đến phạm tội, để rồi cứ sa đi ngă lại, th́ Chúa không thể cứu ai được mặc dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá, và đủ cho ta được cứu rỗi.Nhưng dù là đủ, Chúa vẫn c̣n mong đợi nơi thiện chí công tác của con người vào ơn cứu độ, v́ con người c̣n có tự do để cộng tác hay khước từ ơn cứu độ và t́nh thương của Chúa để sống theo ư riêng ḿnh..Đó là lư do v́ sao Chúa Kitô đă cảnh cáo những ai không quyết tâm chừa tội và sống theo đường lối của Chúa mà cứ đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh như sau:

Ta biết việc các ngươi làm.: ngươi chẳng nóng và cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi ! nhưng v́ ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3 : 15-16)

IV- Xưng tội là một tiến tŕnh hoán cải đả trở nên hoàn hảo hơn:

Như đă nói ở trên, Chúa Kitô ban bí tích ḥa giải v́ Người biết trước con người sẽ c̣n phạm tội cá nhân nhiều lần nữa, sau khi được rửa sạch một lần hậu quả của tội nguyên tổ qua phép Rửa.

Phạm tội v́ yếu đuối th́ khác với cố t́nh không quyết tâm chừa tội để rồi lại tái phạm nhiều lần nữa. Cha giải tội có thể không ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng măi một tội v́ không cố gắng chừa bỏ..

Trong Tin Mừng Thánh Lu ca, để trả lời cho một số người đến hỏi Chúa xem có phải những người Ga li-Lê bị Tổng trấn Phi-la-tô giết chết, lấy máu ḥa lẫn với tế vật là vị họ tội lỗi hơn những người khác hay không, Chúa Giêsu đă trả lời họ như sau :

“… Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối th́ các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc 13 : 3)

Như thế có nghĩa là chúng ta phải cố gắng chừa tội và sám hối về những việc sai trái đă làm.

Sám hối là nh́n nhận ḿnh có tội, ăn năn chừa bỏ và mau kíp chạy đến với Chúa qua bí tích ḥa giải để được tha thứ và giao ḥa lại với Chúa và với Giáo Hội.

Khi đi xưng tội, mọi hối nhân cần lưu ư hai điều quan trọng sau đây:

1- Phải hoàn toàn tin tưởng có Chúa Kitô hiện diện trong các thừa tác viên con người là Giám mục hay Linh mục. Chính Chúa nghe và tha tội cho ta qua tay các thừa tác viên.

2- Do đó, phải thành thật xưng các tội nặng nhẹ đă phạm v́ yếu đuối con người, kể cả những tội kín thuộc các giới răn thứ sáu và thứ chin. Nếu không thành thật xưng ra Các tội ḿnh đă phạm, nghĩa là có ư dấu không xưng một tội nào th́ việc xưng tôi sẽ không thành và không đáng được Chúa tha thứ qua trung gian của thừa tác viên. (x SGLGHCG số 1505)

Xưng tội là dịp cho ta nhớ đến ḷng thương xót tha thứ của Chúa sau khi nhận biết tội lỗi ḿnh đă xúc phạm đến Chúa. Nhưng phải có quyết tâm từ bỏ tội với ơn Chúa nâng đỡ để không sa đi ngă lại. Đây là tiến tŕnh trở nên hoàn hảo hơn như Chúa mong muốn cho mỗi người tín hữu chúng ta. Nói rơ hơn, không phải cứ theo thói quen lâu lâu đi xưng tội để cho an tâm rồi lại không quyết tâm từ bỏ tội lỗi nên lại tái phạm để rồi lại đi xưng tội. Sống đức tin kiểu này th́ quả thật xứng đáng để nghe lời Chúa cảnh cáo trên đây.

Nói khác đi, phải quan niệm đúng đắn hơn về bí tích ḥa giải. Đây phải là phương thế hữu hiệu để giúp con người không những lấy lại t́nh thân với Chúa mà c̣n giúp ta dần dần trở nên hoàn hảo về mặt thiêng liêng qua quyết tâm từ bỏ tội lỗi để trở nên thánh thiện như Chúa Kitô đă kêu gọi:

“Anh em phải nên thánh (nên hoàn hảo) như Cha anh em ở trên Trời là Đấng toàn thiện.” (Mt 5: 48)

Trở nên thánh thiện hay hoàn hảo là trở nên giống Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, là suối nguồn an vui và hạnh phúc của các Thánh và các Thiên Thần. Do đó, phạm tội hay sống trong tội là tự ư xa ĺa Chúa và không muốn được cứu độ để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Tóm lại, Bí tích ḥa giải không chỉ đơn thuần tha các tội nặng nhẹ con người có thể phạm mà c̣n là phương thế hữu hiệu để giúp con người trở nên hoàn thiện, qua cố gắng xa tránh mọi tội lỗi để trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối..

Chính trong chiều kích thiêng liêng nói trên mà mọi tín hữu được mời gọi cách riêng trong Năm Đức Tin này là hăy siêng năng đến với bí tích ḥa giải trong tâm t́nh ca tụng và cảm tạ t́nh thương, tha thứ vô biên của Chúa và cũng để nói lên quyết tâm cải thiện đời sống thiêng liêng bằng cố gắng chửa bỏ dần dần mọi tội lỗi như một thiện chí muốn trở nên hoàn hảo hầu xứng đáng được “thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đă thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này” như Thánh Phêrô đă mời gọi (2 Pr 1 : 4).

Ước mong mọi quí tín hữu suy nghĩ và thực hành mục đích của bí tích ḥa giải trong Năm Đức Tin này.

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Sống đức tin Công Giáo cách sâu sắc và tưởng thành không những đ̣i hỏi phải có can đảm để tuyên xưng đức tin ấy bằng hành động cụ thể bên ngoài qua việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng của người tín hữu sống trong Giáo Hội, như siêng năng việc thờ phượng Chúa, học hỏi lời Chúa, năng lănh nhận các bí tích ban ơn cứu độ như Thánh Thể và ḥa giải, và làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời -mà hơn nữa- c̣n phải ư thức sâu xa về những nguy cơ đe dọa đức tin đó nữa.

Đe dọa không phải chỉ đến từ phía các chế độ chính trị thù ghét mọi niềm tin của con người, mà đặc biệt nguy hiểm không kém sự bách hại niềm tin đó là những nguy cơ như tội lỗi, các chủ nghĩa vô thần (atheism) tục hóa (vulgarism) tương đối (relativism) tôn thờ vật chất và khoái lạc (materialism and hedonism) và làm nô lệ cho tiền của là trọng tâm của bài viết này.

Thật vậy, tiền của là một trở ngại lớn lao cho con người muốn sống công b́nh, lương thiện, bác ái, và là nguyên nhân chính gây ra những sự dữ, sự gian ác bất công, bóc lột người như ta thấy đầy rẫy ở khắp nơi trên thế giới ngày nay. Do đó, không thể sống đức tin cách đich thực mà không quyết tâm xa tránh nguy cơ này, v́ nó là cạm bẫy xô đẩy người tín hữu vào con đường làm nô lệ cho tiền của đến chỗ chối bỏ hay sống mâu thuẫn với niềm tin có Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành, công minh, chính trực giữa bao người vô tín ngưỡng ở thời đại tục hóa (vulgarism) vô luân vô đạo này.

Ngoài tội lỗi, là nguy cơ thường xuyên do ma quỷ, ví như “sư tử gầm thét, rảo quanh t́m mồi cắn xé” mà Thánh Phêrô đă cảnh giác,(1 Pr 5: 6) c̣n có gương xấu dịp tội đẫy rẫy trong trần gian cộng với bản chất yếu đuối của con người, là hậu quả của tội nguyên tổ c̣n để lại trong mỗi người chúng ta cho chúng ta phải chiến đấu để sống niềm tin có Chúa, có hạnh phúc vinh cửu và cũng có hỏa ngục là nơi dành cho những kẻ hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền của và mọi thú vui của “văn hóa sự chết” đang lộng hành trong trần gian ngày nay.

Trên b́nh diện quốc tế, chính ḷng ham mê tiền của và mọi của cải vật chất như dầu hỏa, khí đốt, quặng mỏ, hải sản… đă và đang là nguyên nhân gây ra chiến tranh, giết hại hàng triệu người dân vô tội, v́ những kẻ tham mê của cải trần gian cách bất lương đă t́m mọi cách để chiếm hữu, dù phải gây ra chiến tranh - khéo che đậy, nguy tạo với những chiêu bài giả dối, phỉnh gạt công luận như giải phóng, bảo vệ tự do, dân chủ và quyền sống của con người. Nhưng thực chất chỉ là muốn vơ vét của cải của người khác để làm giầu cho quốc gia hay tập đoàn đế quốc của ḿnh mà thôi.

Lại nữa, cũng chính v́ ḷng ham mê tiền của và quyền lực chính trị nên có biết bao kẻ độc tài, độc đảng đă cố bám lấy địa vị cai trị sắt máu để vơ vét tiền của, núp bóng dưới chiêu bài giải phóng cho giai vô sản bị bóc lột, nhưng thực tế chính họ lại trở thành những đại gia, đại tư bản xanh đỏ đang bóc lột dân nghèo, ăn cắp của công để làm giầu cho cá nhân và tập thể cai trị, gửi tiền ra nước ngoài để kinh doanh và pḥng thân, trong khi nhắm mắt, bịt tai trước sự nghèo đói cùng cực của người dân, nạn nhân của mọi bất công xă hội, hậu quả hiển nhiên của chế độ cai trị phi nhân vô đạo như mọi người đă nh́n rơ mà chưa biết phải làm ǵ để thay đổi.

Về mặt luân lư, đạo đức, có biết bao kẻ đă v́ ham mê tiền của mà dă tâm làm những việc vô cùng xấu xa, tội lỗi như mở ṣng bạc casino, nhà điếm, buôn bán phụ nữ, nhất là trẻ em, cho kỹ nghệ măi dâm để kiếm tiền cách vô luân và đầy tội ác. C̣n ǵ ghê tởm và gian ác hơn khi bắt cóc hay mua bán trẻ em cho bọn người đă trở thành thú vật đi t́m thú ấu dâm rất khốn nạn này (child prostitution) v́ đă gây đau khổ, thương tật cho biết bao trẻ em bị bán cho bọn thú vật này hành hạ thân xác. Đây chính là bộ mặt, là h́nh ảnh rơ nét nhất của hỏa ngục trên trần gian này hiện nay.

Chưa hết, cũng v́ tham tiền mà có những kẻ đă bán rẻ lương tâm để làm tay sai cho ngoại bang, giết hại đồng bào ruột thịt của ḿnh, phản bội chính nghĩa của dân tộc khi ra tay sát hại cách giă man người khác để giúp cho quan thầy ngoại bang thi hành mục đích thống trị theo sách lược thâm độc của chúng. Cụ thể, đó là những kẻ đă nhận tiền thuê mướn của CIA Mỹ để giết hại rất dă man anh em Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và một số nạn nhân khác năm 1963 dưới danh nghĩa “cách mạng”. Nhưng thực chất đó chỉ v́ ḷng tham mê tiền bạc đă đưa họ mù quáng vào con đường gian ác, phản bội, tàn nhẫn không hơn không kém. Những kẻ gian ác, phản bội này chắc chắn sẽ không thể ăn ngon, ngủ yên, và vui sống được v́ tội ác đang nung đốt lương tâm, dù đă bị băng hoại của chúng. Nếu ta tin có một Thiên Chúa yêu thương nhưng rất công minh, th́ những kẻ gian ác đó sẽ phải chịu phán xét đích đáng về những việc làm độc ác, dă man của chúng.

Như thế, tiền bạc, mặc dù cần thiết cho con người sống ở trần gian này, nhưng lại là một nguy cơ to lớn cho con người muốn sống lương thiện nói chung và cách riêng cho người tín hữu muốn sống đức tin thực sự vào Chúa Kitô, Đấng đă “chúc phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, v́ Nước Trời là của họ.” (Mt 5: 3)

Thật vậy, Tin Mừng của Chúa Kitô đă cho ta biết bao lời khuyên phải tránh cạm bẫy của tiền bạc để được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc giầu sang, phú quư với Chúa trên Nước Trời.

Trước hết, là câu truyện người thanh niên giầu có trong Phúc Âm Thánh Mac cô. Anh ta đến hỏi Chúa Giêsu xem anh phải làm ǵ “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Anh ta tự khoe đă tuân giữ mọi giới răn của Chúa cách hoàn hảo từ bé.Nhưng có một điều anh c̣n thiếu và không thể làm được đó là về bán hết tài sản, lấy tiền cho người nghèo, rồi đi theo Chúa như Chúa đ̣i hỏi anh ta.

Nhưng trước đ̣i hỏi này, anh đă buồn rầu bỏ đi, không thể thực hành được v́ anh có quá nhiều của cải ! (Mc 10 : 17-22)

Như vậy, rơ rệt cho thấy là ḷng ham mê tiền của trần thế đă là trở ngại lớn lao nhất cho anh thanh niên kia vào Nước Trời. V́ thế, Chúa Giêsu đă kết luận với các môn đệ như sau :

Con lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn cho người giầu vào Nước Thiên Chúa.” (Mc 10:17-23; Lc 18: 18-24)

Con lạc đà to lớn như vậy làm sao chui qua được lỗ kím quá nhỏ như thế ? Thật là điều không tưởng, nhưng lại giúp nói lên điều không tưởng lớn lao hơn nữa đó là người giầu có khó có thể vào được Nước Trời. Khó vào được v́ có những người giầu đă làm nô lệ cho tiền của đến mức không thể hy sinh được của cải phù vân ở đời này cho hạnh phúc Nước Trời mai sau như trường hợp chàng thanh niên giầu có trên đây.

Chính v́ muốn cho các môn dệ xưa và mọi người tín hữu chúng ta ngày nay phải ư thức sâu xa về nguy hại của tiền bạc, của cải vật chất trong khi sống đức tin ở đời này mà Chúa Giêsu “Người vốn giầu sang phú quư, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có. (2 Cr 8: 9),

Chúa đă nên gương nghèo khó cùng cực khi chọn sinh ra trong hang ḅ, lừa giữa mùa đông lạnh lẽo, khiến phải nhờ hơi ấm của chiên, ḅ, lừa ngựa, sưởi cho đỡ lạnh trong đêm giáng trần. Lón lên, đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa đă sống lang thang như kẻ vô gia cư, đúng với ư nghĩa câu trả lời của Chúa cho một kinh sư kia ngỏ ư muốn đi theo Người:

“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. (Mt 8:20)

Như vậy, Chúa đă thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra cho đến ngày chết trần trụi trên thập giá. Suốt đời sống nghèo khó đến nỗi khi chết chết cũng không có chỗ để chôn, khiến môn đệ phải mượn ngôi mộ trống của ông Giô-xép cho Chúa nằm tạm 3 ngày chờ sống lại.(Mt 27: 57-60; Ga 19: 41-42)

Như thế ai có thể ngờ vực được gương khó nghèo của Chúa Kitô ???

Người sống và chết khó nghèo để dạy cho tất cả chúng ta, những người muốn đi theo Chúa vào Nước Trời, một điều rất quan trọng là không được tôn thờ hay yêu mến tiền của đến mức làm nô lệ cho nó mà quên mất hay coi nhẹ việc tối quan trọng hơn là phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, phải t́m kiếm sự sang giầu của Nước Trời trên mọi phú quư sang giầu ở đời này. Trên trần gian này, không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ được, cho nên “anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” (Lc 16: 13) như Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa.

V́ nếu làm tôi tiền của th́ sẽ dễ trở thành bất lương, độc dữ, gian ác và lănh cảm trước sự nghèo đói của người khác. mà Chúa Kitô đang hiện diện nơi họ để thách đố chúng ta biết cảm thông và chia sẻ cơm áo với những anh chị em kém may mắn đó.

Nói thế không có nghĩa là cứ phải nghèo đói, rách rưới và ốm đau bệnh tật mới được vào Nước Trời. Ngược lại, lo cho ḿnh và cho người thân của ḿnh được có của ăn, áo mặc, có tiền mua thuốc chữa bệnh, có phương tiện di chuyển cần thiết th́ lại là điều tốt đẹp phải làm và không có ǵ nguy hại cho mục đích sống đức tin có Chúa. Chỉ khi nào ham mê tiền của đến mức làm nô lệ cho nó khiến có thể mù quáng làm những việc bất lương, bất công và vô luân để có tiền th́ mới là điều đáng chê trách và phải xa tránh mà thôi.

Chính v́ giá trị chính đáng của những nhu cầu cần thiết cho con người như của ăn nuôi sác, được khỏe mạnh để làm việc và sống vui ở trần gian này, mà xưa Chúa Giêsu đă làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi hàng ngàn người đi theo Chúa nghe Người giảng dạy và không có của ăn trong ngày (Mc 6 : 35-44). Chúa cũng chữa lành biết bao người bệnh tật, câm điếc, đui mù què, phong cùi và bị quỷ ám để minh chứng Người là Thiên Chúa giầu ḷng xót thương và cảm thông nỗi đau khổ của con người và dạy chúng ta phải biết yêu thương, chia sẻ với người khác nghèo khó vật chất hơn ḿnh.

Chúa không lên án những người giầu có chỉ v́ họ có nhiều tiền của mà v́ họ mê tiền của hơn yêu mến Chúa và hạnh phúc Nước trời. Có tiền của mà biết dùng vào việc bác ái đích thực để chía sẻ với người khác kém may mắn hơn ḿnh những ǵ ḿnh có th́ đó lại là việc tốt đẹp phải làm. Nghĩa là nếu người giầu có biết dùng tiền của để xoa dịu nỗi thống khổ của người nghèo đói, bệnh tật không có tiền chữa trị, hay giúp cho các cô nhi viện, trẻ em khuyết tật, và các nhà truyền giáo có phương tiện vật chất để đi mở mang Nước Chúa th́ đă “mua sắm những túi tiền không bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt cũng không đục phá.” (Lc 12 : 33).

Đó là sự khôn ngoan biết dùng tiền của chóng qua ở đời này để mua sự sang giầu, phú quí vĩnh viễn trên Nước Trời, như Chúa Giêsu đă dạy các môn đệ xưa và cho tất cả chúng ta ngày nay.

Đó cũng là thái độ khinh chê, không làm nô lệ cho tiền của mà chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh 62 :

Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở
Ḷng chẳng nên gắn bó làm chi
.”(Tv 62 : 11)

Chính v́ hiểu rơ giá trị của sự sang giầu trên Nước Trời và niềm vui sướng được biết Chúa Kitô hơn mọi lợi lăi vinh quang ở đời này mà Thánh Phaolô đă thốt lên những lời sau đây:

Những ǵ xưa kia tôi coi là có lợi, th́ nay, v́ Đức Kitô, tôi cho là thiệt tḥi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt tḥi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki Tô-Giêsu, Chúa của tôi. V́ Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác để được Đức KiTô.” (Pl 3: 7-8)

Lời Thánh Phaolô trên đây quả là khuôn vàng thước ngọc cho mọi người tín hữu chúng ta suy nghĩ và noi theo, v́ được biết Chúa Kitô nhờ đức tin quả thực là mối lợi lớn lao mà không có bất cứ cái ǵ, của ǵ trên trần gian này như tiền bạc, kim cương đá quí hay danh vọng có thể sánh được .

Do đó, nếu nhờ Đức Tin, ta nhận biết Thiên Chúa là chính sự sang giầu và hạnh phúc tuyệt vời nhất th́ nhiên hậu, lời mời gọi sẽ là phải yêu mến Chúa và Vương Quốc của Người trên hết mọi sự, nhất là trên tiền bạc và của cải ở trần gian này để không làm nô lệ cho tiền của, hay say mê đi t́m tiền của hơn tha thiết t́m Chúa và hạnh phúc được chiêm ngắm Thánh Nhan Người trên cơi vinh hằng mai sau.

Lời mời gọi này không những chỉ dành cho các tín hữu sống ơn gọi gia đ́nh hay độc thân giữa đời mà c̣n dành riêng cho các giáo sĩ và tu sĩ là những người được mong đợi sống “cái nghèo của Chúa Kitô” để làm nhân chứng cho Chúa và nêu gương sáng cho người khác. Do đó, người tông đồ của Chúa không nên để ḷng dính bén vào tiền của để thi nhau ra nước ngoài xin tiền hết đợi này đến đợt khác. Lại nữa, cũng không nên thích tiền để chỉ nhận dâng lễ với bổng lễ cao, đi đồng tế cho đông để nhận phong b́ và coi trọng người giầu có, khinh thường người nghèo, chê hay không nhận dâng lễ cho người không có tiền xin lễ hậu hĩ như các người giầu có ! Đó là thực trạng vẫn c̣n diễn ra ở nhiều nơi và gây tai tiếng không ít cho ơn gọi và tinh thần phục vụ của người tông đồ ngày nay.

Là Tông đồ lớn nhỏ của Chúa mà sống như vậy, th́ có phù hợp với tinh thần “khó nghèo” mà Chúa Giêsu đă sống và dạy các môn đệ neo theo hay không ?

Lại nữa, giảng sự khó nghèo của Chúa cho người khác mà chính ḿnh lại ham thích tiền của, chậy theo tiền của, th́ lời giảng dạy của ḿnh có thuyết phục được ai tin và thực hành không ?

Sự thật th́ dễ mất ḷng nhưng vẵn cần thiết phải nói ra. “Ai có tai nghe th́ nghe.” Đó là lời Chúa. Giêsu đă nói với các môn đệ xưa. (Mt 13: 43; Mc 4: 23; Lc 8: 8)

Tóm lại, là người may mắn có đức tin, chúng ta phải quyết tâm sống đức tin cách sâu đậm không những bằng đời sống thiêng liêng mật thiết với Chúa mà c̣n phải lưu tâm đến những nguy cơ đe dọa đức tin như tội lỗi, gương xấu và cám dỗ của tiền bạc của cải vật chất, là những trở ngại rất lớn cho chúng ta sống đạo đức, lương thiện, công bằng và bác ái như đức tin đ̣i hỏi.

Đó chính là điều chúng ta cần suy nghĩ và thực hành trong năm Đức Tin này.Amen.

Năm Đức Tin: Học Hỏi Tài Liệu Của Công Đồng Vaticanô II (tiếp)

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Phần 2: Giáo Dân Có Bổn Phận và Trách Nhiệm Ǵ Trong Giáo Hội?

Giáo Hội của Chúa Kitô, xây trên nền tảng các Tông Đồ, bao gồm những thành phần sau đây :

1- Hàng Giáo Phẩm (Hỉerachy) đứng đầu là Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Rôma với trách nhiệm lănh đạo Giáo Hội hoàn vũ với sự hiệp thông, vâng phục của hàng Giám Mục (College of Bishops) là những vị kế nghiệp các Tông Đồ trong sứ mang rao giảng, dạy dỗ và cai quản.

2- Hàng Giáo sĩ (Clergy) tức những người được tuyển chọn để lănh các chức thánh như Phó tế Linh mục và Giám mục để phục vụ cho Dân Chúa được trao phó cho các ngài coi sóc về mặt thiêng liêng.

3- Tu Sĩ (Religious, men and women consecrated) là những người được chọn để sống ba lời khuyên của Phúc Âm là khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh (chastity). Nam tu sĩ có thể học và lănh nhận các chức thánh như hàng giáo sĩ.

4- Giáo dân (laity) là thành phẩn Dân Chúa được hiểu là “tất cả những Kitô hữu không có chức thánh hoặc bậc tu tŕ được Giáo Hội công nhận.” (LG. số 31). Đây là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội. Do đó, giáo dân có vai tṛ rất quan trọng trong Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập để tiếp tục Sứ Vụ của Người trên trần thế cho đến thời sau hết.

Công Đồng đă dành trọn Chương IV của Hiến Chế tín lư Lumen Gentium để nhấn mạnh về vai tṛ và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội ngày nay. Theo đó, giáo dân, nhờ Bí Tích Rửa Tội, đuợc tham dự vào các sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, nhưng với “cách thức riêng của họ”. Nghĩa là, họ được tham dự và thi hành theo cách thức sau đây:

1- Sứ vụ tư tế (priestly ministry) :

Công Đồng nói rơ: Chức tư tế chung của giáo dân (Common priesthood of the Faithful) và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật (ministerial or hierachical priesthood) của hàng giaó sĩ “khác nhau không chỉ về cấp bậc và c̣n về yếu tính” nữa, mặc dù cùng tham dự vào Chức Tư Tế duy nhất của Chúa Kitô. (x LG số 10)

Linh mục, Giám mục là những người lănh Chức Thánh (Holy Orders) để thay mặt Chúa Kitô cử hành các bí tích, đặc biệt là dâng Thánh lễ Tạ ơn (Eucharist) hàng ngày dâng lên Chúa Cha để cảm tạ và xin ơn tha thứ cho kẻ có tội, xin ơn lành cho người c̣n sống và giải thoát cho các linh hồn c̣n đang ở nơi Luyện tội. Giáo dân, ngược lại, được mời gọi dâng chính đời sống chứng tá của ḿnh trong các môi trường sống và làm việc cùng mọi niềm vui, nỗi buồn, việc bác ái, hy sinh, cầu nguyện lên Thiên Chúa trong tinh thần hiệp thông với khổ nạn của Chúa Kitô một lần dâng hy tế lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa và c̣n đang tiếp tục dâng hy tế này cách bí nhiệm qua thừa tác vụ của Giáo Hội, cụ thể là qua thừa tác vụ của những vị được tấn phong làm tư tế thừa tác như linh mục và Giám mục. Như vậy, tuy cùng tham dự vào Chức Tư Tế của Chúa Kitô, nhưng cách thức và bản chất hoàn toàn khác với vai tṛ tư tế của Linh Mục và Giám Mục.

Cụ thể, khi tham dự Thánh Lễ tạ ơn (Eucharist), giáo dân không được phép đọc chung kinh nguyện nào, đặc biệt là Kinh Nguyện Thánh Thể (Eucharistic prayers) cùng với chủ tế, (celebrant) hoặc giơ tay trên lễ vật cùng với Chủ tế và các vị đồng tế (concelebrant), dù được mời đứng vây quanh Bàn thánh. Ngay cả Phó tế cũng không được phép làm việc này hoặc đọc chung các kinh Tiền tụng và Kinh nguyện Thánh Thể cùng với Chủ tế, và phải qú gối khi Chủ tế bắt đầu đọc Kinh nguyện Thánh thể (Tạ Ơn) để phân biệt rơ vai tṛ tư tế của chủ tế (và đồng tế nếu có) với nhiệm vụ phụ giúp Bàn Thánh của Phó tế.

Về việc tôn kính Phép Thánh thể, giáo dân không được phép tự ư lấy Ḿnh Thánh Chúa trong Nhà tạm (Tabernacle), hoặc trên Bàn Thờ để rước lấy, hay mang cho người khác, trừ trường hợp được Giám Mục trao cho nhiệm vụ làm thừa tác viên thánh thể (Extraordinary minister of Holy communion) để phụ giúp trao Ḿnh Thánh trong Thánh Lễ hay mang cho người đau ốm ở tư gia hoặc bệnh viện.Trong nhiệm vụ đặc biệt này, giáo dân phải hết sức tỏ ḷng tôn kính đối với Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Phép Thánh Thể. Cụ thể, phải mặc y phục xứng đáng và mang Ḿnh Thánh trong hộp đứng riêng (Pix) và đeo quanh cổ khi đi ra ngoài. Không được bỏ hộp đựng Ḿnh Thánh này chung với các vật dụng khác trong ví sách tay, giỏ đi chợ hoặc hộp để đồ trong xe. Cũng phải mang Ḿnh Thánh đến ngay cho người muốn lănh nhận, không thể mang về nhà hoặc đi đây đó làm việc riêng trước khi trao cho bệnh nhân.Ḿnh Thánh c̣n dư, phải đem về đặt lại trong Nhà Tạm, không được phép cất giữ ở nhà hay trong xe qua đêm, trừ trường hợp bất khả kháng không thể đến nhà thờ để trả lại trong ngày.

2- Sứ vụ ngôn sứ và chứng nhân (prophetic ministry)

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, người giáo dân tham dự cùng với hàng tư tế phẩm trật vào Sứ Vụ ngôn sứ của Chúa Kitô, nhưng với cách thế khác nhau v́ địa vị của họ trong Giáo Hội. Thật vậy, Hàng giáo sĩ phẩm trật (Giáo Hoàng, Giám mục, Linh muc) rao giảng lời Chúa, dạy dỗ và cử hành các Bí tích trong phạm vi thánh đường (Phó tế được công bố và giảng Phúc âm, được chứng hôn, rửa tội cho trẻ em, chủ sự nghi thức an táng nhưng không được cử hành các bí tích khác). Giáo dân, ngược lại, được mời gọi rao giảng lời Chúa và giáo lư của Chúa bằng chính đời sống chứng nhân của ḿnh ở giữa những người khác trong các môi trường sống. Nghĩa là được mời gọi và có bổn phận làm tông đồ cho Chúa bằng cách chu toàn các bổn phận ở gia đ́nh trong vai tṛ làm cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị, em. Bên ngoài xă hội, người giáo dân làm tông đồ cho Chúa qua đời sống chứng tá, bằng cách nêu cao những giá trị của Phúc âm trong khi sống và làm việc chung với những người không cùng tín ngưỡng với ḿnh để giúp họ nhận ra Chúa và tin yêu Người như Chúa Giêsu đă dạy:

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ nh́n thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:16).

Đây là sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu Chúa Kitô, tức sứ mạng góp phần phúc âm hóa thế giới cùng với hàng giáo sĩ. V́ sống giữa đời nên người giáo dân có nhiều cơ hội thuận tiện để rao giảng lời Chúa bằng chính đời sống của ḿnh. Nếu họ can đảm sống trung thực với những giáo huấn của Chúa về công bằng, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng danh dự, tính mạng và quyền lợi của người khác cách phải lẽ th́ chắc chắn họ sẽ phúc âm hóa hữu hiệu trong những môi trường có mặt họ sống chung với người khác tín ngưởng với ḿnh. Trong viễn ảnh này, đời sống chứng tá của họ có giá trị thuyết phục người khác mạnh hơn cả những lời giảng thuyết hùng hồn trong nhà thờ của hàng giáo sĩ. V́ thế, Thánh Công Đồng Vaticanô II đă nói “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” (cf. LG, IV, 33).

Ngược lại, nếu người tín hữu Chúa Kitô “thỏa hiệp” với thế gian, chấp nhận những lối sống đi ngược với mọi giá trị của Phúc Âm, th́ họ đă chối Chúa Kitô cách hữu hiệu trước mặt người đời. Nói khác đi, nếu người công giáo cũng ăn gian, nói dối, cờ bạc, ly dị, dâm đăng, phá thai, nói hành, lăng mạ người khác, hay mê tín dị đoan tôn thờ của cải vật chất hơn những giá trị tinh thần và chấp nhận những lối sống vô luân, phi nhân bản th́ chắc chắn không thể rao giảng hữu hiệu Phúc Âm công b́nh, bác ái, thánh thiện, yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu-Kitô cho ai được v́ không ai có thể cho người khác cái chính ḿnh không có.Cũng vậy, không ai có thể thuyết phục người khác tin và làm những điều chính ḿnh không tin và không thực hành trong đời sống. Nhiệm vụ ngôn sứ của người giáo dân đuợc mong đợi cụ thể trong hai lănh vực chính sau đây:

a- Trong lănh vực xă hội trần thế:

Những môi trường hoạt động chính của người giáo dân là các môi truờng xă hội, chính trị, kinh tế, thương mại, công nghiệp, văn học, nghệ thuật, giáo dục, truyền thông. v.v Như mọi công dân sống trong cộng đồng xă hội, người giáo dân tham gia các môi trường trên v́ nhu cầu sinh sống, v́ nghề nghiệp chọn lựa hay chuyên môn đ̣i hỏi sự dấn thân hoạt động cuả họ. Chính ở những môi trường này, họ có cơ hội tốt để thi hành sứ vụ ngôn sứ và chứng nhân của ḿnh truớc tha nhân. Trong mục đích này, người giáo dân đặc biệt được mời gọi và mong đơị dùng hiểu biết và khả năng chuyên môn của ḿnh để cải tạo thế giới, lành mạnh hoá xă hội, chống lại mọi khuynh hướng tha hoá, lối sống phi luân, suy tôn vật chất làm băng hoaị tinh thần con người trong mọi môi trường xă hội ngày nay. Cụ thể, họ có bổn phận phải tận dụng những phương tiện truyền thông hữu hiệu như sách báo, truyền thanh truyền h́nh để chống lại những ảnh hưởng khốc haị của “văn hóa sự chết” (culture of death) đang xâm nhập mọi lănh vực sống hiện nay ở khắp mọi nơi. Họ phải có can đảm lên tiếng chống laị nhửng tệ trạng xă hội, chủ nghiă hưởng thụ và tôn thờ vật chất (consumerism &materialism) vô luân như phim ảnh, sách báo khiêu dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho những kẻ luân, vô đạo hành nghề măi dâm. Phải chống laị mọi h́nh thức khuyến khích bạo động, ly dị và hôn nhân đồng tính (gay or lesbian marriage), một suy thoái nghiêm trọng về giá trị và mục đích của hôn nhân đang đuợc cổ vơ và hợp thức hoá ở nhiều nơi trên thế giới và đặc biệt ở Mỹ này.

Mặt khác, để góp phần tích cực cải taọ xă hội, với tư cách công dân, người giáo dân có quyền và có bổn phận phải tham gia các sinh hoạt chính trị để ủng hộ các chính trị gia hay chánh đảng có lập trường công chính, bênh vực cho chân lư, cho những giá trị tinh thần phù hợp với Phúc Âm và quyền căn bẳn cuả con người . Nhưng giáo dân không được phép thành lập bất cứ tổ chức chính trị nào với danh xưng Công giáo, nghiă là không được nhân danh Giáo Hôị Công giáo để làm chính trị. Ngay cả các đoàn thể Hiệp hội và Phong trào, “ không một sáng kiến nào đuợc lấy danh nghĩa công giáo nếu không có sự ưng thuận của giáo quyền hợp pháp” (x.Sắc Lệnh Tông Đồ Giaó dân Apostolicam actuositatem V, 24).

b- Trong phạm vi Giáo Hội:

Giáo dân được mời gọi và có bổn phận xây dựng Giáo Hội bằng những đóng góp tích cực và thích đáng để làm cho Giáo Hội ngày thêm vững mạnh về lượng nhất là về phẩm chất thánh thiện theo gương Chúa Kitô.

Cụ thể, giáo dân hăy can đảm sống đức tin Công Giáo không những trong lănh vực tinh thần bằng việc chu toàn mọi bổn phận thiêng liêng như cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ (Eucharist) là đỉnh cao (climax) của phụng vụ thánh (sacred liturgy) và đời sống của Giáo Hội. Việc siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Ḿnh, Máu Chúa Kitô là phương thế hửu hiệu nhất để được trở nên giống Chúa Kitô là khuôn mẫu tuyệt vời của mọi sự thánh thiện, hoàn hảo.

Nhưng bổn phận và trách nhiệm của ngướ giáo dân không chỉ giới hạn vào việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng này mà c̣n đ̣i hỏi tích cực tham gia vào việc xây dựng và phục vụ tích cực cho Giáo Hội hoàn vũ cũng như Giáo Hội địa phương trong những công việc thích hợp với vai tṛ và khả năng chuyên môn của ḿnh.

Cụ thể, giáo dân phải cộng tác chặt chẽ với hàng giáo phẩm trong moị công việc cần sự tiếp tay góp sức của họ như giúp việc quản trị và điều hành giáo xứ trong vai tṛ và trách nhiệm của các Hội Đồng Mục Vụ (Pastoral Councils) Hội đồng tài chánh (Finance Councils). Nhưng cần nói rơ là theo Giáo luật (số 511-14 & 37) giáo dân phục vụ trong những Hội Đồng này chỉ đảm trách vai tṛ tư vấn (consultation) mà thôi. Nghiă là, họ chỉ dùng hiểu biết và khả năng chuyên môn của ḿnh để đưa ra những khuyến cáo, đề nghị cho Linh mục Chánh Xứ (pastor) hay Quản nhiệm (Administrator) những phương thức tốt đẹp nhằm xây dựng, quản lư và phát triển giáo xứ, mưu ích lơị chung cho cộng đồng dân Chúa ở địa phương, nhưng họ không có quyền quyết định hay ra lệnh cho ai thi hành.

Hiện nay, giáo dân đang có mặt trong nhiều lănh vực hoạt động của Giaó Hội .Thí dụ trong lănh vực giáo dục, có nhiều giáo dân đang đảm trách giảng dạy ở các Đại Học, Chủng viện Công giáo từ Roma cho đến địa phương như Đại Học Công giaó ở thủ đô Washington, Đại Học St. Thomas ở Houston .v.v.Nhiều giáo dân cũng đang làm việc trong các Cơ quan trung ương của Ṭa thánh và các Giáo phận trên toàn thế giới, góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo, giáo dục, hành chánh, quản trị, và truyền thông của Giáo Hội.

Trong lănh vực phụng vụ, giáo dân được phép đọc sách thánh và làm thừa tác viên Thánh thể, tức những thừa tác vụ (ministries) mà họ không được giao phó trước Công Đồng Vaticanô II. Đây là vinh dự đặc biệt của giáo dân tham gia vào đời sống của Giáo Hội ngày nay.

c- Địa vị vương giả hay sứ vụ vương đế của giáo dân:

Bí Tích Rửa Tội không những cho người tín hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ, tư tế và c̣n cả địa vị vương đế của Chúa Kitô nữa.

Thật vậy, Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và dẫn đưa nhân loại vào Nước Thiên Chúa là Vương Quốc của b́nh an, thánh thiên, công b́nh, yêu thương và tha thứ.Nghĩa là phải tích cực hoạt động để đẩy lui bóng tối của sự dữ, sự tội bằng ánh sáng Chúa Kitô.Với tinh thần làm men, làm muối và ánh sáng, người giáo dân, khi tham gia sinh hoạt và làm việc với người khác, phải cố gắng nêu cao những giá trị và đặc tính của Nước Thiên Chúa trước những thách đố của thời đại, của xă hội hưởng thụ vật chất, của chủ nghă vô thần và tục hóa (Atheism & secularism) của “văn hoá sự chết” nhằm chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc và vui thú bất chính, dửng dưng trứớc sự đau khổ, nghèo đói của đồng loại, đánh mất mọi ư thức đúng đắn về tội lỗi và tội ác (sins & crimes) khiến coi nhẹ việc giết người, dâm ô, trộm cướp và bóc lột người dân cách vô nhân vô đạo...

Trước thực trạng đó, người giáo dân phải có can đảm chống lại những nếp sống vô luân, những bất công xă hội, những vi phạm quyền sống của con người, những guơng xấu xô đẩy ngườ́ lớn và thanh thiếu niên vào con đường trụy lac, làm băng hoại gia đ́nh và xă hội từ gốc dễ.

Tóm lại, trong một thế giới gian tà và tội ác, sống xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu là sống xứng đáng với địa vị vương giả của ḿnh, tức là góp sức đem Nước Thiên Chúa đến những nơi có bất công, tranh chấp, hận thù, gian ác, và nhơ uế.

Với địa vị vương giả này, người tín hữu được mời gọi và có bổn phận mở mang Vương Quốc của Chúa Kitô Vua trên trần thế này trong mọi môi trường sống và hoạt động, v́ “Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở mang nước Người, nước của chân lư và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lư, t́nh yêu và hoà b́nh.” (LG. n. 36)

d-Tương quan vói hàng Giáo Phẩm

Trong tương quan với Hàng Giaó Phẩm và để thi hành bổn phận góp sức xây dựng, bảo vệ và phát triển Giáo Hội từ trung ương đến điạ phương, người giáo dân cần lưu ư lời dạy sau đây cuả Giaó Hội : “… như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ (giáo dân) cũng sẽ tŕnh bày với các vị ấy (hàng giáo phẩm) những nhu cầu và khát vọng của ḿnh một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi c̣n có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ cuả ḿnh về những việc liên quan đến lợi ích cuả Giáo Hội.Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ các cơ quan đă được Giaó Hội thiết lập nhằm mục đích ấy, nhưng luôn luôn với ḷng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những ngướ thay mặt Chúa Kitô v́ nhiệm vụ thánh của các ngài” (cf.LG.IV, n.37).

Nhưng mọi người trong Giáo Hội phải hiểu rơ là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ không phải là một cơ chế chính trị, xă hội hay văn hoá mà là một Bí Tích Cứu Độ, có mặt và hoạt động trong trần gian với sứ mạng hoàn toàn siêu nhiên, dù có phương tiện nhân sự là Hàng Giáo Phẩm, giáo sĩ, phương tiên vật chất là các cơ sở thờ phượng, giáo dục, nhà thương, trường học và có sở từ thiện (Caritas, St Vincent de Paul Societies) ở khắp nơi trên thế giới cũng như cần đến nhiều khoản tài chánh để chi phí cho những nhu cầu chính đáng và cần thiết nói trên..

V́ không phải là một cơ chế chính trị hay xă hội nên không thể áp dụng bất cứ đường lối, phương thức nào của các đoàn thể chính trị, xă hội vào các sinh hoạt của Giáo Hội. Mọi sinh hoạt trong Giáo Hội được chỉ đạo bằng tinh thần vâng phục các Đấng Bề Trên thay mặt và nhân danh Chúa Kitô (in persona christi), dưới sự hướng dẫn, soi sáng, nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Cụ thể, các giám mục hiệp thông và vâng phục Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô trong sứ mạng “chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Thầy”. Các linh mục hiệp thông, vâng phục và cộng tác với các giám mục trực thuộc để thi hành thừa tác vụ (ministry) đuợc trao phó. Phó tế phụ giúp cho linh mục và giám mục. Tu sĩ nam nữ vâng phục các Bề trên liên hệ của ḿnh.

Giáo dân vâng phục hàng giáo phẩm theo lời dạy sau đây của Thánh Công Đồng Vaticnô II : “Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của ngướ Kitô hữu, giáo dân cũng hăy mau mắn chấp nhận những điều các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô đă quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lănh đạo trong Giáo Hội. Làm thế, họ đă theo gương Chuá Kitô, Đấng đă vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng các vị lảnh đạo của ḿnh cho Thiên Chúa, để các ngài hoan hỉ mà không than phiền thi hành nhiệm vụ chăm sóc chúng ta như những người sẽ phải trả lẽ." (x.Dth 13, 17) (LG.IV.n.37).

Vâng phục theo tinh thần trên không có nghiă giáo dân không được quyền phát biểu đóng góp điều ǵ cho Giáo Hội, và chỉ biết cúi đầu vâng nghe. Nhưng truớc khi nói đến phạm vi và giới hạn của quyền phát biêủ đó, th́ cần nhấn mạnh điều quan trọng này: Trong Giáo Hội Công Giáo, mọi tín hữu phải vâng nghe Quyền Giáo Huấn (Magisterium) của Giáo Hội. Không có vấn đề dân chủ để cho phép một thành phần nào trong Giáo Hội được quyền thách đố (challenge), đặt vấn đề hay bác bỏ điều ǵ được dạy dỗ bởi quyền này, đặc biệt trong hai lănh vực tín lư (dogma) và luân lư (morals) v́ Đức Giaó Hoàng và các giám mục hiệp thông với ngài được ơn bất khả ngộ (không thể sai lầm= infallibility) của Chúa Thánh Thần khi dạy dỗ tín hữu đặc biệt trong hai lănh vực này. Vậy khi các linh mục và giám mục hiệp thông với Đức Thánh Cha để giảng dạy những ǵ về đức tin, về giáo lư, luân lư, Kinh Thánh, phụng vụ th́ các tín hưũ phải vâng phục thi hành. Không có vấn đề không đồng ư kiến (disagreement) ở đây. Cũng không ai đuợc phép từ chối tuân theo hay phê b́nh những ǵ liên quan đến kỷ Luật bí tích, Thư qui (canon) Kinh Thánh, Giáo luật (canon law), phụng vụ thánh (sacred liturgy). Không thể đ̣i chia sẻ quyền giảng dạy chân lư của Giáo Hôi để đưa ra những lư thuyết, những tư tưởng canh tân không phù hợp với Giáo lư của Giáo Hội. Cụ thể không thể lâư cớ góp ư xây dựng Giaó Hội bằng những lư thuyết về tâm sinh lư và y học để đ̣i cho phép phá thai (abortion) ly dị (divorce) và hôn nhân đồng tính (same sex marriage).Không thể bất đồng với Giaó Hội về luật độc thân (celibacy) của hàng giaó sĩ, tu sĩ hay đ̣i cho nữ giơí được làm Linh mục.

Vậy giáo dân có thể đóng góp ǵ để xây dựng Giáo Hội ngoài những điều nên tránh trên đây?

Ta hăy đọc lại lời dạy của Thánh Công Đông Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lư Lumen Gentium về việc này: “Họ (giáo dân) cũng sẽ tŕnh bày với các vị ấy (Hàng Giaó phẩm) những nhu cầu và khát vọng cuả ḿnh một cách tự do và tín cẩn. Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín cuả họ, họ có thể và đôi khi c̣n có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ cuả ḿnh về những việc liên quan đến lơị ích của Giaó Hội… nhưng luôn vơí ḷng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô v́ nhiệm vụ thánh cuả các ngài” (LG. n.37).

Như vậy, khi phải bày tỏ điều ǵ với hàng Giáo phẩm, giáo dân nên làm với ḷng yêu mến Giáo Hội và chỉ v́ thiện chí muốn xây dựng cho Giáo Hội ngày một thêm trở nên giống Chuá Kitô là Đầu của Thân thể Nhiệm mầu là chính Giáo Hội mà mọi tín hữu là những chi thể lớn nhỏ.Cụ thể, giáo dân có thể và c̣n có bổn phận tŕnh bày cho các vị lảnh đạo Giáo hội địa phương những thao thức về mục vụ, những khao khát được học hỏi về Kinh Thánh, tín lư, giáo lư, luân lư và phụng vụ để biết sống và hành Đạo cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn trong hoàn cảnh thế giới ngày nay. Cũng trong mục đích ấy, giáo dân có quyền nêu ra những thắc mắc của ḿnh trong các lănh vực này hầu mong được hiểu rơ và hiểu đúng để thực hành trong đời sống đức tin.Ngoài ra, giáo dân cũng có thể góp ư hoặc đề nghị những phương pháp sư phạm giúp giảng daỵ giáo lư cách hiệu quả và cập nhật hơn cũng như góp ư về việc kiến thiết, xây dựng Giáo Xứ kể cả phương thức gây qũy (fundraising) để giúp tài trợ cho những nhu cầu cần thiết.Nhưng cần phân biệt rơ là góp ư xây dựng (suggest constructively) th́ khác với chỉ trích (criticize), bôi nhọ (smear) và tạo gương xâú (scandalize) có hại cho uy tín của Giáo hội. Khi muốn sửa sai điều ǵ liên quan đến cá nhân, tập thể th́ chúng ta cần nhớ laị lời Chúa sau đây về cách sửa lỗi anh em (fraternal correction): “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, th́ anh hăy đi sửa lỗi nó, một ḿnh anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, th́ anh đă được món lợi là người anh em ḿnh.C̣n nếu nó không chịu nghe, th́ hăy đem theo một hay hai ngướ nữa để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hay ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ th́ hăy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe th́ hăy kể nó như một người ngoại hay một kẻ thu thuế” (Mt 18:15-18)

Như vậy, khi thâư có sự sai trái nào trong Giáo Hội, trong cách hành xử của một hay nhiều giáo sĩ, hoặc tai tiếng về đời tư của ai, mà đă vội rỉ tai loan truyền cho người khác biết rồi viết thư nặc danh, viết báo, lên internet công khai đả kích hay nói xiên xéo, bóng gió về sự sai trái đó cho công chúng biết th́ có phù hợp với lời dạy của Chúa trên đây không?

Chúng ta nên hiểu rằng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này không phải là nơi qui tụ toàn các Thánh nam, nữ, tức những người không c̣n t́ vết nào đáng chê trách nữa. Trái lại, phải thành thật nh́n nhận rằng Giáo Hội chỉ là công đoàn những người muốn được nên thánh và được cứu rỗi và c̣n đang trên tiến tŕnh hoàn thiện để đạt mục đích ấy. Do đó, chúng ta không nên hoảng hốt hay bất măn khi thấy một số hay nhiều phần tử trong Giáo Hội chưa tốt lành như ta mong muốn. Vậy ta hăy nên khoan dung nh́n nhận sự kiện này như Chúa đă và đang khoan dung, nhân từ, nhẫn naị với những khiếm khuyết, lầm lỗi và cả tội lỗi của mỗi người trong chúng ta. Chắc chắn Chúa không muốn chúng ta ném đá bất cứ ai c̣n khuyết điểm và tội lỗi. Chúa mong muốn chúng ta luôn cố gắng thăng tiến và giúp người khác nhận ra lầm lôĩ và sửa đổi để được tha thứ và nên thánh.

Vả lại, trong chúng ta có ai dám tự nhận ḿnh là người hoàn hảo chưa ? Nêú chưa, th́ chúng ta nên khoan dung, nhẫn nại với những ai đang c̣n khuyết điểm và bị tai tiếng, thay v́ vô t́nh “ném đá” họ bằng những phản ứng nông nổi, thiếu suy nghĩ núp dưới danh nghĩa muốn “lành mạnh hoá Giáo Hội”

Nhưng nếu thấy có gương xấu (scandals) công khai trong đời sống của một hay nhiều người trong Giáo hội địa phương, nếu có sự “lạm dụng Toà giảng” (pulpit) để công kích cá nhân hay phổ biến những điêù ngoài phạm vi chia sẻ lời Chúa, hoặc thâư những sai lệch “fantaisie” (phóng túng) trong phụng vụ (thí dụ cho giaó dân đứng quanh bàn thờ để cùng giơ tay trên lễ vật với chủ tế và cùng đọc chung Lời truyền phép!, mời đôi tân hôn lên đồng tế quanh bàn thờ sau khi chứng hôn, rửa tội hay chứng hôn tại tư gia, làm Lễ ngoài băi biển hay nơi giải trí công cộng v, v) hoặc trong cung cách hành xử cuả linh mục, tu sĩ nào đó th́ giaó dân có bổn phận trước tiên là phải can đảm và thẳng thắn bày tỏ quan tâm cuả ḿnh cách khôn ngoan, kính trọng và kín đáo với các đối tượng liên hệ để xin điều chỉnh, thay đổi. Nếu phương cách này tỏ ra vô hiệu quả th́ bước tiếp có thể làm là tŕnh cho Bề Trên liên hệ trong Giáo phận (Giám Mục) biết về mối quan tâm của ḿnh.Không ai cấm giáo dân làm việc này. Không phải vâng phục mà câm nín, làm ngơ trước những sự kiện khách quan là “guơng xấu", là sai trái, cần được phê b́nh, sửa chữa. Chỉ xin một điều là đừng bày tỏ quan tâm của ḿnh v́ bực tức, v́ bất măn cá nhân nên công khai chỉ trích, bêu xấu khiến phương hại cho uy tín chung của Giáo Hội, là điều nên tránh mà thôi.

Kết luận:

Giáo dân có vai tṛ và trách nhiệm xây dựng Giáo Hội cùng với hàng giáo sĩ.

Giáo dân vâng phục các vị chủ chăn nhận lănh năng quyền dạy dỗ, thánh hóa và cai trị xuất phát từ Chúa Kitô-Giêsu qua vị Đại Diện duy nhất của Chúa trên trần thế là Đức Thánh Cha xuống các giám mục, linh mục hiệp thông và cộng tác với ngài trong Giáo hội. Như thế, vâng phục các chủ chăn liên hệ (linh mục, giám mục) là vâng phục chính Chúa Giêsu mà các ngài nhân danh (in persona Christi) để giảng dạy, thánh hóa và cai trị. Sự vâng phục và kính trọng này không làm mất danh dự, địa vị và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, mà ngược lại c̣n chứng tỏ đức tin trưởng thành và đúng đắn của người tín hữu Chúa Kitô nữa. V́ như lời Thánh Công Đồng Vaticanô II đă dạy, người Kitô hữu khi vâng phục các chủ chăn trong Giáo Hội “đă theo gương Chúa Kitô, Đấng đă vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người.” (LG.IV, 37).

Các vị chủ chăn được kêu gọi không những “phải nh́n nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội” mà c̣n “nên sẵn sàng chấp nhận những ư kiến khôn ngoan của họ” được tŕnh bày nữa (Ibid. IV, 37).

Nhưng giáo dân cũng phải kính trọng các chủ chăn của ḿnh ngay cả khi phải tŕnh bày với các ngài những ưu tư xây dựng của ḿnh về một vần đề nào có liên quan đến lợi ích chung của Giáo Hội, của giáo xứ hay Cộng đoàn.

Tóm lại, phải có sự tương kính giữa mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội. Tôn trọng lẫn nhau v́ vai tṛ và địa vị của ḿnh cho mục đích xây dựng và phát triển Giáo Hội của Chúa là phương tiện cứu rỗi cho mọi người, mọi dân tộc ở mọi thời đại.

Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân đều có chung một sứ mạng là hoạt động tích cực để mở mang Nước Chúa trên trần thế hầu cho nhiều người được hưởng Ơn Cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả đều có chung một khát vọng là được nên thánh như Cha trên trời là Đấng chí Thánh, mặc dù khác nhau về địa vị và phương thức thi hành sứ mạng cuả ḿnh trong Giáo Hội. Sự khác biệt này không làm thương tổn đến địa vị của một thành phần nào trong Giáo Hội mà chỉ nói lên tính đa dạng của ơn gọi phục vụ mà thôi. Ước mong mọi người ư thức điều quan trọng này đặc biết trong Năm Đức Tin để có thái độ sống thích hợp hầu tránh gương xấu về nguy cơ tranh chấp quyền bính trong Giáo Hội.

Năm Đức Tin: Học Hỏi Tài Liệu Của Công Đồng Vaticanô II

Năm đức tin được mở ra trong Giáo Hội vào đúng ngày kỷ niệm lễ khai mạc Thánh Công Đông Vaticanô II cách nay 50 năm.

Ngày 11 tháng 10 năm 1962 Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đă long trọng khai mạc Đại Công Đồng Vaticanô II (tức Công Đồng Đại Kết = Ecumenical Council) tại Đền Thánh Phêrô, La Mă với sự có mặt, tham dự của 2300 giám mục và đại diện các giáo hội đang hiệp thông hay muốn tiến đến hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Đây là sự kiện lịch sử lớn lao nhất của Giáo Hội trong thế kỷ 20 và cũng là Đại Công Đồng thứ hai sau cuộc Cải Cách (Reformation) của nhóm Tin lành trong thế kỷ 16. Đức cố Giáo Hoàng Gioan 23 (nay là Chân Phước = Blessed) đă loan báo quyết định mở Công Đồng này ngày 25 tháng 1 năm 1959, với hy vọng thổi một luồng gió mới vào buồng phổi của Giáo Hội

Như vậy, công cuộc chuẩn bị cho Công Đồng đă kéo dài trong suốt 3 năm (1959-1862) để các vị phụ trách có đủ th́ giờ chuẩn bị kỹ càng cho biến cố trọng đại này trong đời sống của Giáo Hội.

Cũng cần nói thêm là Công Đồng Đại kết (Ecumenical Council) là dịp cho Giáo Hội, dưới quyền lănh đạo tối cao của Đức Thánh Cha, tức Giám Mục Roma, họp với các giám mục hiệp thông trong toàn Giáo Hội, cùng với các nhà chuyên môn về thần học, giáo luật, phụng vụ để bàn thảo về những việc trọng đại liên quan đến đời sống đức tin, bí tích, phụng vụ và sứ mệnh rao truyền đức tin Kitô Giáo của Giáo Hội trong hoàn cảnh thế giới thế giới xưa và nay.

Từ trước cho đến nay, mới chỉ có 21 Công Đồng Đại Kết hay c̣n gọi là Công Đồng Chung (General Council) đă được triệu tập trong Giáo Hội. Công Đồng Vaticanô II là Công Đồng Đại Kết thứ nhất được triệu tập trong thế kỷ 20, và là Công Đồng Đại kết thứ hai được triệu tập sau Phong Trào Cải Cách của nhóm Tin Lành như đă nói ở trên.

Trong giới hạn của bài biên khảo này, tôi chỉ xin lượt qua một vài kết quả cụ thể của Công Đồng Vaticanô II để mong giúp quư tín hữu khắp nơi thêm hiểu rơ về những thành quả lớn lao của Công Đồng Đại Kết này hầu thêm yêu mến và vâng phục Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ và loan truyền Đức tin Kitô Giáo dựa trên Chính Chúa Kitô và Tin Mừng Cứu Độ của Người cho mọi dân tộc trên toàn thế giới cho đến ngày măn thời gian.

Thành quả của Công Đồng Vaticanô II.

Sau 3 năm làm việc dưới sự nâng đỡ và soi sáng cách riêng của Chúa Thánh Thần, Công Đồng đă đạt được những thành quả phi thường khiến cho bộ mặt của Giáo Hội đă thay đổi về mọi phương diện như chúng ta đă chứng kiến từ sau Công Đồng (1962-65) đến nay.

Liên quan đến Phụng Vụ Thánh (Sacred Liturgy) và trực tiếp liên hệ đến việc sống đạo của các tin hữu, Công Đồng đă chấp thuận và đươc Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành năm 1970 Nghi thức mới (Novus Ordo) về cử hành Thánh lễ Misa- tức Thánh lễ tạ Ơn (The Eucharist) hoàn toàn bằng các ngôn ngữ địa phương thay v́ thống nhất bằng tiếng La Tinh như Nghi Thức cũ được Đức Thánh Cha Piô V kư ban hành ngày 4 tháng 7 năm 1570 cho áp dụng trong toàn Giáo Hôi cho đến ngày ban hành Nghi thức mới nói trên.

Nghi thức mới này (Novus Ordo) được gọi là h́nh thức thông thường (Ordinay Form) trong khi Nghi thức cũ (dùng tiếng LaTinh) trở thành h́nh thức bất thường (Extraordinay Form) trong Phụng Vụ Thánh, cụ thể là cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn theo Sách Lễ Rôma (Roman Missal).

Nhưng đến ngày 7 tháng 7 năm 2011 vừa qua, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 đă ban hành Tông Thư Summorum Pontificum cho phép sử dụng rộng răi Nghi thức cũ (bằng tiếng Latinh) song song với Nghi thức mới (bằng các ngôn ngữ địa phương) ban hành năm 1970. Nghĩa là từ nay, nơi nào có nhu cầu thực sự muốn cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latinh th́ không c̣n phải xin phép trước Đấng Bản Quyền (Ordinary = Giám mục giáo Phận) hay Ṭa Thánh như trước nữa, nếu có nhu cầu chính đáng và có linh mục sử dụng được tiếng Latinh.

Có người đă vội cho rằng Đức đương kim Giáo Hoàng đă làm một cuộc cách mạng về Phụng vụ thánh với quyết định trên. Thật ra không phải vậy, v́ Thánh Lễ cử hành theo Nghi thức cũ dùng tiếng Latinh hay Nghi thức mới dùng các ngôn ngữ địa phương th́ cũng cử hành đúng theo Sách lễ Rôma, thể hiện đúng Luật cầu nguyện (lex orandi = law of prayer) của Giáo Hội mà thôi. Tuy nhiên, với quyết định cho phép nói trên của Đức Thánh Cha, người ta có thể coi đây là cố gắng ḥa giải của Ṭa Thánh đối với một số người vẫn c̣n âm ỷ bất măn về những thay đổi của Công Đồng Vaticanô II. Cụ thể là nhóm theo Tổng Giáo Mục Lefebre (người Pháp đă qua đời) vẫn bất tuân những thay đổi của Công Đồng và tiếp tục cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latinh cho đến nay. Hy vọng với quyết định trên của Đức Thánh Cha sẽ giúp lôi kéo nhóm ly khai này trở lại hiệp thông với Giáo Hội

Ngoài Thánh lễ ra, các bí tích khác của Giáo Hội cũng được cử hành bằng các ngôn ngữ địa phương, giúp tín hữu hiểu rơ hơn về các nghi thức này.

Một điều rất quan trọng nữa là Kinh Thánh (Bible) được dịch ra các ngôn ngữ của các dân nói các ngôn ngữ khác nhau, như Anh, Pháp, Đức, Việt Nam … nên Lời Chúa được quảng bá sâu rộng hơn trong cộng đồng tín hữu ở khắp nơi trên thế giới. Từ đó, việc đọc và học hỏi Thánh Kinh đă trở thành một nhu cầu lớn ở khắp nơi trong Giáo Hội, giúp nâng cao tŕnh độ hiểu biết và sống Lời Chúa của giáo dân.

Cũng liên quan đến giáo dân, kể từ sau Công Đồng, gíáo dân được phép đọc Sách Thánh (Lector) và làm thừa tác viên trao ḿnh Thánh Chúa trong Thánh lễ, (Extraordinary Minister of the Holy Communion) một điều mà trước Công Đồng giáo dân không được phép làm.

Đây là một vinh dự lớn cho Giáo dân được tham dự vào những hoạt động phụng vụ, một lănh vục mà trước Công Đồng Vaticanô II, chỉ dành cho hàng giáo sĩ (phụ phó tế, phó tế linh mục, và giám mục) mà thôi.

Trong phạm vi bài này, tôi xin được nói rơ hơn về một vài tài liệu rất quan trọng của Công Đồng mà các tín hữu cần biết và học hỏi trong năm Đức Tin này.

Trước hết là Hiến Chế tin lư Lumen Gentium (Dogmatic Contitution Lumen Gentium = Ánh Sáng muôn dân).

I- Hiến Chế Lumen Gentium (LG)

Có thể nói đây là Hiến Chế quan trọng nhất của Công Đồng Vaticanô II về Mầu nhiệm, và Sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế, theo đó Giáo Hội nhận biết rơ ḿnh là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô trên trần gian với sứ mệnh mà Chúa Kitô đă trao cho các Thánh Tông Đồ trước khi Người về Trời : “Vậy anh em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28: 19-20). Nghĩa là Giáo Hội được trao phó trọng trách tiếp tục rao giảng Tin Mừng và ban phát ơn cứu độ của Chúa Kitô cho mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ và văn hóa cho đến ngày măn thời gian.Do đó, ai nghe Giáo Hội là nghe chính Chúa Kitô như Người đă nói với các môn đệ xưa :

Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy
Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đă sai Thầy
.” (Lc 10: 16)

Hiến Chế Lumen Gentium đă dành trọn hai Chương Một và Hai, để nói về Mầu nhiệm Giáo Hội ở hai chiều kích siêu nhiên và nhân bản theo ḍng thời gian của lịch sử cứu độ, qua đó Thiên Chúa tỏ ḿnh trước hết cho dân Do Thái.Rồi qua các ngôn sứ trong thời Cựu Ước và cuối cùng qua chính Con Một Người là Chúa Kitô, Thiên Chúa đă mặc khải trọn vẹn ư muốn cứu độ con người qui tụ thành một cộng đoàn đức tin là Giáo Hội với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và cử hành các bí tích mang ơn cứu độ như Phép Rửa, Thêm Sức, Thánh Thể và ḥa giải.

Tiếp theo các chương Ba và Bốn nói về cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, đặc biệt là chức Giám Mục với ba nhiệm vụ rất quan trọng là giáo huấn, thánh hóa và cai quản. Giám Mục là “những người kế vị các Tồng Đồ với sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật, hầu cho mọi người được cứu rỗi nhờ lănh nhận đức tin, phép rửa và chu toàn giới răn của Chúa.” (LG. số 24). Liên quan đế vai tṛ và địa vị của Giáo Dân, Công Đồng cũng đặc biết nhận mạnh đến sứ mệnh của người giáo dân, một thành phần rất quan trọng được “kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” (LG số 33).

Chương Năm của Hiến chế dành kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội phải cố gắng trở nên thánh thiện v́ Chúa Kitô, là “Đấng thánh duy nhất” đă yêu thương Giáo Hội như hiền thê của ḿnh. (LG, số 39). Chương Sáu dành riêng để nói về ơn gọi của hàng tu sĩ, tức những người có ơn gọi sống ba lời khuyên của Phức Âm là khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh (chastity). Chương Bẩy nói về đặc tinh lữ hành của Giáo Hội trong trần thế nhưng hiệp nhất với Giáo Hội vinh quang chiến thắng trên Trời. Sau cùng là Chương dành riêng nói về vai tṛ của Đức Trinh Nữ Maria trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội.

Sau đây là những điểm căn bản trong tám chương nói trên của Hiến Chế Lumen Gentium:

a- Mầu Nhiệm và Sứ mệnh của Giáo Hội

Giáo Hội là Nhiệm Tích (Sacrament) của Chúa Giêsu trong trần thế.với sự mệnh tiếp tục công tŕnh cứu độ của Chúa qua nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Cứu độ, và cử hành các bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể để “mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô “chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (1 Cor 5, 7) th́ công tŕnh cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” (x. LG, số 3)

Nghĩa là, Chúa Kitô đă một lần dâng Hy tế trên thập giá để đền tội cho nhân loại. Người đă hoàn tất công tŕnh cứu độ của Người qua khổ h́nh thập giá, chết,sống lại và lên trời. Nhưng công tŕnh cứu chuộc này c̣n được tiếp tục ban phát cho nhân loại cho đến ngày măn thời gian, v́ Thiên Chúa “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4)

V́ Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ nhờ Chúa Kitô, nên bao lâu c̣n có con người sinh ra trên trần thế này, th́ bấy lâu Tin Mừng Cứu Độ và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô c̣n tiếp tục được rao giảng và cử hành để mang lợi ích thiêng liêng cho mọi người sinh ra sau này mà chưa được biết Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Người.

Đây chính là sự mệnh mà Chúa Kitô đă trao phó trước tiên cho Giáo Hội sơ khai với 12 Tông Đồ giường cột. Các Tông Đồ đă trao lại cho các vị kế tục, tức là cho Tông Đồ Trưởng là Đức Thánh Cha và các giám mục hiệp thông và vâng phục Ngài trong Giáo hội theo Truyền thống Tông Đồ (Apostolic succession) cho đến nay và c̣n măi về sau cho đến ngày cánh chung, tức là măn thời gian. Trung thành với sứ mệnh này, Giáo Hội đă hăng say rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cho mọi dân tộc trên thế giới và làm nhân chứng cho Chúa, mặc dù gặp phải nhiều gian nan khốn khó như Chúa đă báo trước cho các môn đệ :

“Trong thế gian
Anh em sẽ phải gian nan khốn khó
Nhưng can đảm lên !
Thầy đă thắng thế gian.”
(Ga 16 : 33)

Chúa đă thắng thế gian và tội tỗi qua sự chết và sống lại của Người để cho chúng ta hy vọng cũng sẽ được sống lại như Chúa sau khi kết thúc hành tŕnh nhân thế qua cái chết trong thân xác của mọi người chúng ta.

Như thể, khi tham dự Thánh lễ Tạ ơn, chúng ta không những hiệp cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Thiên Chúa và dâng mọi vui buồn, đau khổ của chúng ta hiệp với sự đau khổ của Chúa Kitô làm của lễ dâng lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho chúng ta ngày nay cùng thể thức mà Hy Tế của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha lần đầu tiên trên thập giá để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại. Đó là tất cả ư nghĩa “công tŕnh cứu chuộc chúng ta được thực hiện khi Chúa Kitô chịu hiến tế” cách bí nhiệm mỗi khi Thánh lễ Tạ Ơn được cử hành trên bàn thờ, như Giáo Hội dạy (LG số 3)

Do đó, Thánh lễ Tạ Ơn là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của mọi tín hữu Chúa Kitô, v́ mỗi khi Thánh lễ được cử hành, Chúa Kitô lại hiện diện cách bí tích qua các thừa tác viên con người là linh mục hay giám mục để nhắc lại Giao Ước mới đă được đóng ấn bằng chính máu Chúa đă đổ ra thực sự trên thập giá làm Hy Tế đền tội cho cả loài người đáng bị phạt v́ tội lỗi. Chính nhờ Hy Tế này mà con người được giao ḥa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời mai sau.

Phải nói có hy vọng thôi chứ chưa chắc chắn bảo đảm như vậy v́ con người c̣n có tự do để cộng tác với ơn cứu đô của Chúa để sống theo đường lối của Người hay khước từ Chúa để sống theo ư muốn cá nhân và lănh nhận hậu quả của tự do chọn lựa này.

Chính trong chiều hướng muốn được cứu độ, mà Hiến Chế Tín lư- trong Chương thứ Năm, đă kêu gọi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội- từ Hàng Giáo Phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân phải cố gắng nên thánh vi, “Cha của anh em trên Trời là ĐấngThánh” (Mt 5 : 48). Đây là ơn gọi chung của mọi tín hữu trong Giáo Hội, phải sống để trở nên giống Chúa Kitô, Đấng đă vui ḷng hiến mạng sống ḿnh “làm giá chuộc cho muôn người”. (Mt 20: 28)

Mặt khác, cũng trong khát vọng được cứu rỗi nhờ Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người mà mọi tín hữu được mong đợi sống đời nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời chưa biết và tin yêu Chúa như chúng ta. Nói khác đi, là những tín hữu Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi mang Chúa đến cho người khác qua lời nói và việc làm của chính ḿnh nhằm nêu cao những giá trị của Tin Mừng Cứu độ như công b́nh, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong sạch để đương đầu với “văn hóa của sự chết” tôn thờ vật chất và mọi vui thú vô luân, vô đạo, như thực trạng sống của con người ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

Có phải hễ được lănh ơn toàn xá là được lên thiên đàng ngay?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: Nhân Năm Đức Tin, và tháng cầu cho các linh hồn (tháng 11) xin cha giải thích giúp 2 câu hỏi sau đây:

1- Ân xá là ǵ và có hiệu quả ra sao ?

2- Một người khi sống th́ bê bối, bỏ Đạo lâu năm, lấy 2, 3 vợ… nhưng khi gần chết kịp ăn năn, xưng tội và được lănh ơn toàn xá trong giờ sau hết. Như vậy chắc chắn được lên Thiên Đàng rồi như một linh mục đă giảng?

Xin cha cho biết điều này có đúng hay không?

Đáp: Tôi không biết linh mục kia nói thế nào. Tuy nhiên căn cứ theo giáo lư của Giáo hội, th́ xin được nói rơ lại như sau:

1- Trước hết, theo giáo lư và giáo luật, th́ ân xá hay ơn xá giải (Indulgences) “là ơn sủng mà Giáo Hội lấy ra từ kho tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh để tha các h́nh phạt hữu hạn (temporal punishment) cho tín hữu c̣n sống hay cho các linh hồn c̣n đang ở nơi gọi là “Luyện tội” (x. SGLGHCG, số 1471; Giáo luật số 992- 994). Nói rơ hơn, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần tức tội chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn th́ không thể tha được (x. Mt 12:32; Mc 13:28-29) – c̣n các tội nặng nhẹ khác đều có thể được tha qua bí tích ḥa giải, như Chúa Giêsu đă bảo đảm với các Tông Đồ xưa:

Anh em tha tội cho ai, th́ người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai, thí người ấy bị cầm giữ
.” (Ga 20:23)

Được tha tội qua bí tích ḥa giải rồi nhưng hối nhân vẫn phải làm một việc gọi là việc “đền tội” (penance) do cha giải tội giao để tẩy xóa đi mọi hậu quả do tội để lại trong tâm hồn ḿnh. Đây là h́nh phạt hữu hạn (temporal punishment) khác xa với h́nh phạt đời đời (eternal punishment) trong nơi gọi là hỏa ngục dành cho những ngượi chết “trong khi đang mắc tội trọng và không kịp sám hối để xin Chúa thứ tha”. (x. SGLGHCG, số 1033-1035).

Nghĩa là, khi ta nhận biết ḿnh có tội nặng hay nhẹ và muốn xin Chúa tha thứ qua bí tích ḥa giải th́ phải tin rằng Chúa sẵn ḷng tha, nếu ta thật ḷng sám hối và c̣n tin tưởng nơi ḷng thương xót vô biên của Chúa. Sau đó, phải đi xưng tội với một linh mục đang có năng quyền tha tội. (Linh mục nào đang bị Giám mục tạm rút năng quyền – hay nôm na gọi là “bi treo chén”(Suspension) th́ thông thường không được giải tội hay cử hành bất cứ bí tích nào trong thời gian c̣n bị tạm rút năng quyền ). Nếu ai thành tâm và thành thực xưng ra các tội đă phạm v́ yếu đuốii con người và v́ ma quỷ cắm dỗ, th́ chắc chắn sẽ được Chúa thương tha thứ qua tác vụ của linh mục như Chúa Giêsu đă phán hứa trên đây.

Cũng cần nói rơ thêm là linh mục hay Giám mục th́ cũng chỉ là thừa tác viên mà Chúa Kitô dùng để ban ơn thánh của Người cho chúng ta trong Giáo Hội. Do đó, đừng ai đặt vấn đề linh mục có xứng đáng hay không khi cử hành các bí tích. Mọi linh mục đang có năng quyền (Priestly Faculties) nhận lănh từ Giám mục trực thuộc th́ đều có thể cử hành thành sự (validly) các bí tích, đặc biệt là bí tích ḥa giải, v́ linh mục nghe và giải tội cho ai th́ đều phải làm nhân danh Chúa Kitô (in Persona Christi) chứ không nhân danh chính ḿnh. Như thế, chính Chúa Kitô nghe và tha tội cho mọi hối nhân thành thật xưng tội qua trung gian của một linh mục, dù linh mục đó là người bất xứng đến đâu dưới mặt của người đời. Phải nhấn mạnh thêm về sự thành thật khi xưng tội, v́ nếu hối nhân dấu tội không muốn xưng hết với linh mục th́ việc xưng tội sẽ không thành, mà c̣n phạm thêm tội cố ư nói dối Chúa nữa. Chính v́ người ta cứ nghĩ lầm là xưng tội với cá nhân linh mục, chứ không phài thú nhận tội lỗi với chính Chúa Kitô, nên nhiều người không dám xưng hết các tội đă phạm - cách riêng các tội phạm điều răn thứ sáu và chin- với linh mục v́ mắc cở hay sợ bị tiết lộ ra ngoài. Lo ngại như vậy là không đúng v́ mọi linh mục đều bị buộc phải giữ kín mọi điều nghe được từ hối nhân trong Ṭa giải tội. Đây là “ấn ṭa giải tội = seal of confessions) buộc mọi linh mục phải triệt để tuân giữ. Ai vi phạm sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết. (x Giáo luật sớ 1388, triệt 1) Vạ này chỉ có Ṭa Thánh giải mà thôi.

Ân xá – toàn phần hay bán phần – chỉ có mục đích tha từng phần hay toàn phần các h́nh phạt hữu hạn (temporal punishment) sau khi các tội nặng nhẹ đă được tha qua bí tích ḥa giải, để tẩy xóa đi những hậu quả do tội c̣n để lại trong tâm hồn hối nhân như đă nói ở trên. Nghĩa là ân xá không có hiệu năng tha các tội lớn nhỏ cho ai mà chỉ tha hay tẩy xóa h́nh phạt hữu hạn của các tội đă được tha qua bí tích ḥa giải mà thôi. Do đó, ai đang có tội trọng th́ không thể lănh ân xá hữu hiệu được mà phải đi xưng tội trước rồi mới lănh ân xá sau để xin tha h́nh phạt hữu hạn, theo giáo lư Giáo Hội dạy.

Vể thẩm quyền ban phát ân xá, th́ giáo luật chỉ qui định một ḿnh Đức Thánh Cha có quyền ban ân xá hay cho phép Bản quyền địa phương nào ban ân xá v́ lư do chính đáng được Ṭa Thánh chấp thuận. Thí dụ mừng kỷ niệm thành lập Giáo phận hay Nhà Ḍng. (x Giáo luật số 995, triệt 1 & 2)

2- Liên quan đến câu hỏi thứ hai, xin được trả lời như sau:

Giáo lư của Giáo Hội chỉ nói đến hiệu quả của bí tích ḥa giải là cho chúng ta được giao ḥa hay hiệp thông lại với Thiên Chúa trong thân t́nh Cha-con từng bị gián đọan v́ tội, nhất là tội trọng, cũng như chỉ nói đến hiệu quả của ân xá là tha h́nh phạt hữu hạn sau khi tội được tha qua bí tích ḥa giải.

Nhưng Giáo Hội không hề đưa ra tiêu chuẩn cụ thể nào về số phận đời đời của một ai sau khi chết. Nghĩa là Giáo Hội chưa hề dạy nếu ai sống thế nào, hoặc làm điều ǵ, ngay cả tự tử th́ chắc chắn sẽ xuống hỏa ngục hoặc sẽ lên thẳng Thiên Đàng sau khi chết... Giáo lư chỉ nói đến những trường hợp gia trọng để lưu ư giáo dân phải tránh mà thôi. Thí dụ Giáo Lư của Giáo Hội dạy rằng: “những ai đang có tội trọng th́ không được rước Ḿnh Thánh Chúa và không được cử hành Thánh lễ” (nếu là linh mục) (x Giáo luật số 916, SGLGHCG số 1415) hoặc “nếu ai đang mắc tội trọng mà chết không kịp sám hối để được ḥa giải với Chúa th́ sẽ phải h́nh phạt hỏa ngục”. (x. SGLGHCG, số1033-1035)

Nhưng ai đă rơi vào t́nh trạng tuyệt vọng nói trên để đáng phải xuống hỏa ngục, th́ chỉ một ḿnh Chúa biết và phán đoán mà thôi. Giáo Hội không biết được nên vẫn dạy phải cầu nguyện cho mọi kẻ chết, kể cả cho những người đă tự tử, hay tự sát sau khi giết một hay nhiều người khác, mặc dù Giáo Hội nghiêm khắc lên án hành vi sát nhân hay tự tử này.

Mặt khác, Giáo Hội cũng chưa hề phong thánh cho ai ngay sau khi người đó chết. Cụ thể, ai sống thánh thiện, đạo đức hơn các Đức Giáo Hoàng. Trước khi chết các ngài cũng được xức dầu và lănh ơn toàn xá trong giờ sau hết, (trừ Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô I chết bất ngờ trong nhà nguyện riêng sau 33 ngày lên ngôi). Nhưng Giáo Hội vẫn cử hành lễ an táng để cầu nguyện cho, chứ chưa hề tức khắc tuyên bố vị nào đă lên Thiên Đàng rồi, nên khỏi cầu nguyện nữa. Ai được phong thánh (canonization) th́ cũng phải chờ một thời gian và hội đủ một số tiêu chuẩn theo luật định. Nghĩa là cho đến nay, Giáo Hội chưa hề phong thánh cho ai ngay sau khi người đó chết, mặc dù nhiều người biết đời sống thánh thiện của người đó.

Tóm lại, chúng ta phải tin và trông cậy ḷng thương xót tha thứ vô biên của Thiên Chúa, cũng như tin giá trị và hiệu quả của bí tích ḥa giải và ơn toàn xá. Nhưng không thể căn cứ vào đây để phán đoán ngay ai được lên Thiên Đàng hay phải sa hỏa ngục để khỏi cầu nguyện cho những người đó nữa. Có chăng chỉ nên tin rằng những ai đă thực tâm yêu mến và sống theo đường lối của Chúa th́ chắc chắn Chúa sẽ không bỏ qua mà không tiếp nhận vào Nước Người nơi dành cho các Thánh và các Thiên Thần.Nhưng ai đă được lên Thiên Đàng và ai phải xuống hỏa ngục th́ chỉ có một ḿnh Chúa biết mà thôi.

Vậy chúng ta không nên vội đưa ra những phán đoán về số phận đời đời của ai cho dù người đó sống chết ra sao, mà chỉ nên cầu nguyện cho họ mà thôi.

Ước mong những giải đáp trên đây thỏa măn các câu hỏi đặt ra.

Sự Thưởng Phạt Đời Đời

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: Nhân tháng cầu cách riêng cho các linh hồn (tháng 11), xin Cha giải thích hai câu hỏi sau :

1- tạo sao Thiên Chúa là t́nh thương và tha thứ lại có thể phạt con người trong nơi gọi là hoả ngục được? Và thực sự có nơi gọi là “hoả ngục” hay không?

2- Luyện tội là nơi nào và dành cho ai ?

Trả lời:

1- Đúng, Thiên Chúa là t́nh yêu như Thánh Gioan đă quả quyết. (x.1Ga :4:8)

Chính v́ yêu thương nên Thiên Chúa đă tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Giêsu-Kitô, Đấng cũng v́ yêu thương con người mà đă tự hiến chiu khổ h́nh thập giá để “hiến dâng mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28) Thiên Chúa tuyệt đối không được lợi lộc ǵ và cũng không hề muốn t́m lợi lăi ǵ cho riêng ḿnh mà phải làm việc này. Đây là điều chắc chắn chúng ta phải tin và cảm tạ Chúa về t́nh thương vô biên của Người là Cha nhân lành.

Khi tạo dựng, Thiên Chúa đă ban cho con người sự khác biệt độc đáo so với mọi loài thụ tạo khác: đó là có trí hiểu biết và ư muốn tự do (intelligence and free will). Nghĩa là Ngài không tạo dựng loài người như những người máy “robots” chỉ biết thi hành theo mệnh lệnh của người điều khiển, mà là những tạo vật có lư trí và tự do để nhận biết và chọn lựa. Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng ư chí tự do này của con người. Do đó, con người phải chịu trách nhiệm trước Chúa về mọi chọn lựa của ḿnh khi sống trên trần gian này.

Và cũng chính v́ con người có lư trí và tự do nên mới có vấn đề thưởng phạt được đặt ra. cho riêng con người trước Thiên Chúa giầu t́nh thương nhưng cũng rất công minh khi phán xét con người

Nhưng truớc khi đi sâu vào sự thưởng phạt của Thiên Chúa, chúng ta cần biết xem Kinh Thánh và Giáo lư của Giáo Hội nói ǵ về nơi gọi là “hoả ngục = hell

A- Kinh Thánh

Trước hết, Ngôn sứ Isaia đă dùng h́nh ảnh sau đây để nói về nơi trừng phạt đời đời của những ai chối bỏ Thiên Chúa và t́nh thương của Người để làm những sự dữ trái nghịch hoàn toàn với t́nh thương và bản chất cực tốt cực lành của Chúa:

Khi ra về, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại Ta v́ gịi bọ rúc tiả, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi . Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người phàm”. (Is 60:24)

Sau này, khi đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đă nhiều lần nói đến hoả ngục và h́nh phạt ở nơi này như sau:

Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngă, th́ móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa c̣n hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi gịi bọ không hề chết, lửa không hề tắt.” (Mc 9: 47- 48)

Nơi khác, Chúa c̣n nói rơ thêm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hăy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28)

Thánh Gioan Tông Đồ cũng quả quyết như sau về sự hư mất đời đời dành cho những ai không yêu mến người khác như Chúa dạy:

Phàm ai ghét anh em ḿnh, th́ là kẻ sát nhân
Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.
” (1 Ga 3 : 15)

B- Giáo Lư của Giáo Hội

Từ ngữ hoả ngục (hell) được dịch từ chữ “Sheol” của Do Thái, hay “Hades” của Hy lạp để chỉ nơi ở của những người không được nh́n thấy Thiên Chúa, là nguồn vui và hạnh phúc bất diệt. Đây chính là nơi mà Chúa Giêsu đă nhiều lần nói đến trong khi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nơi này “dành cho những ai, cho đến lúc chết, vẫn từ chối tin và trở lại. Đó là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất. Và danh từ “hoả ngục” được dùng để chỉ t́nh trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh trên trời.” (x. SGLGHCG, số 633, 1033).

V́ thế Giáo Hội, theo gương Chúa Giêsu, cũng tha thiết và nghiêm trọng “cảnh cáo các tín hữu về thực tế đáng buồn và thảm khốc của sự chết đời đời, c̣n được gọi là hoả ngục” (x. Sđd, số 1056-58)

Giáo lư của Giáo Hội cũng nói thêm là “Linh hồn của những người chết trong t́nh trạng mang tội trọng sẽ lập tức xuống hoả ngục, lửa vĩnh viễn.” (x. Sđd số 1035)

Nói rơ hơn, những ai biết ḿnh đang có tội trọng như giết người, ngoại t́nh, âm mưu giết vợ hay chồng của người khác để cướp vợ hay chồng của họ, trôm cướp, tống tiền, làm chứng gian để hại người khác…th́ phải nhanh chóng chạy đến với bí tích ḥa giải để xưng và đền bù thiệt hại gây ra cho người khác (trộm cắp) để được tha tội và nối lại t́nh thương với Chúa, là Đấng gớm ghét mọi tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối xin tha.

Như vậy, qua những bằng chứng trên đây, chúng ta không có lư do ǵ để nghi ngờ hay phủ nhận sự tồn tại của một nơi đáng sợ hăi gọi là “hoả ngục”, tức là nơi hoàn toàn đối nghịch với “Thiên đàng” (paradise), là chỗ “vinh phúc cho ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa và được sống đời đời” sau khi đă hoàn tất hành tŕnh đức tin trong trần thế này theo lời dạy của Thánh Phêrô. (x. 2 Pet 1:4)

C- Chúacó phạt ai xuống hoả ngục hay không?

Như đă nói ở trên, Thiên Chúa là t́nh yêu và giầu ḷng tha thứ, là “Đấng cứu độ chúng ta, Đấngmuốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (x.1 Tm 2:4). Nghĩa là, Thiên Chúa không tiền định hay muốn cho ai phải hư mất đời đời, tức là phải phạt trong nơi gọi là hoả ngục. Lư do là v́ “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đă ban Con Một để ai tin vào Con của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3: 16)

Tuy nhiên, như đă nói ở trên, Thiên Chúa tạo dựng con người với hai đặc tính độc đáo là có lư trí và ư chí tự do. Lư trí để nhận biết và ư muốn tự do để lựa chọn. Như vậy, nếu Chúa bắt buộc con người phải yêu mến Ngài th́ t́nh yêu này sẽ không có giá trị v́ như thế con người sẽ mất hết tự do lựa chọn và sống như mọi loài thụ tạo khác mà thôi. Chính v́ Thiên Chúa ban cho và hoàn toàn tôn trọng cho con người sử dụng ư chí tự do (free will) nên sự chọn lựa của cá nhân mới có giá trị thưởng phạt.

Nói khác đi, Thiên Chúa không ép buộc ai phải yêu mến và sống theo đường lối của Ngài. Ngược lại, Ngài chỉ mời gọi và tuỳ con người tự do đáp trả như tác giả Đệ Nhị Luật đă viết:

Hôm nay tôi lấy trời đất làm chứng để cáo tội anh (em): tôi đă đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hăy chọn để anh (em) và ḍng dơi anh (em) được sống.”(Đnl 30:19)

Do đó, nếu con người sử dụng ư muốn hay ư chí tự do (free will) mà khước từ Thiên Chúa để sống theo ư riêng của ḿnh th́ Thiên Chúa sẽ tôn trọng và người ta phải hoàn toàn chịu mọi hâu quả về sự chọn lựa của ḿnh trong cuộc sống trên trần gian này cho đến chết.

Thực tế khắp nơi và ở mọi thời đại đă cho ta thấy rơ là : có biết bao triệu người đă và đang chọn nếp sống phóng túng, gian ác, lưu manh, trộm cướp, bóc lột, gian dâm, khủng bố, giết người, dâm ô, và tôn thờ tiền bạc, vật chất với mọi thú vui vô luân, vô đạo. v.v… Đây là những lối sống hoàn toàn đi ngược với mọi Thánh chỉ của Thiên Chúa và Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Giêsu đă rao giảng và trả giá bằng chính cái chết của Người trên thập giá năm xưa.

Nếu người ta cương quyết chọn con đường sai trái và từ chối hoáncải để được tha thứ và cứu độ th́ họ đă tự ư chọn lựa cho ḿnh nơi ở dành cho những kẻ đă khước từ Thiên Chúa là t́nh thương, an vui, công b́nh và thánh thiện. Nghĩa là, nếu cuộc sống trên đời này có dẫn đưa ai cuối cùng phải dừng chân ở nơi gọi là “hoả ngục” th́ đó hoàn toàn là hậu quả tất nhiên của sư tự do cá nhân muốn chọn lựa, chứ không phải v́ Chúa muốn trừng phạt ai, hay tiền định cho ai phải chịu h́nh phạt đáng sợ này. Như vậy, phải hiểu án phạt hoả ngục theo nghĩa con người có lư trí và tự do đă chọn lựa cho ḿnh một nếp sống hoàn toàn trái ngược với cuộc sống dẫn đưa đến hạnh phúc thiên đàng như Chúa hứa ban cho những ai thành tâm ước muốn khi c̣n sống trên đời này.Cho nên, không có ǵ là tàn nhẫn hay trái ngược với t́nh thương vô biên của Thiên Chúa là Đấng “muốn cho mọi người được cứu độ” và sống đời đời.

Mặt khác, sở dĩ phải đặt vấn đề “thưởng phạt đời đời” là v́ sự có mặt của tội lỗi và sự dữ trong trần gian này như một thực tế không ai có thể phủ nhận được

Đó là chiến tranh, v́ quyền lợi kinh tế hay chính trị, đang giết hại hàng trăm ngàn người vô tội ở Iraq, Afghanistan, Libya, Syria...Đó là những kẻ đang khai thác kỹ nghệ măi dâm, sản xuất phim ảnh đồi trụy, buôn bán ma túy, phụ nữ và trẻ em cho những kẻ t́m thú vui dâm ô vô cùng khốn nạn này ở khắp nơi trên thế giới. Đó là các tập đoàn tư bản xanh và đỏ đang gia sức bóc lột dân nghèo, lấy của công làm của tư, độc quyền cai trị, kinh doanh và thao túng thị trường để vơ vết của cải cách bất công, vô nhân đạo.

Nghĩa là, bao lâu c̣n sống trên trần gian này và trong bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, con người sẽ luôn luôn bị giằng co giữa sự dữ và sự thiện, giữa cái tốt và cái xấu đối chọi nhau như ánh sáng và bóng tối.

Nếu nhờ đức tin và lư trí, chúng ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Đấng tạo dựng mọi loài mọi vật, là Chân Thiên Mỹ tuyết đối, th́ lời mời gọi sẽ là: hoặc chọn Chúa để yêu mến và sống theo đường lối của Người hay chốibỏ Chúa để buông ḿnh sống theo những đ̣i hỏi, quyến rũ của trần gian về danh vọng, tiền tài, vui thú vô luân vô đạo và bịt tai nhắm mắt không nghe tiếng lương tâm và không c̣n nh́n rơ lằn ranh giữa sự thiện và sự dữ, sự tội đầy rẫy trong trấn thế này.

Do đó, nếu ai phải bị hư mất đời đời trong nơi gọi là “hỏa ngục” th́ đó chính là hậu quả chọn lựa của người ấy khi sống trên trần thế này, chứ không phải v́ Thiên Chúa đă tiền định hay muốn phạt ai xuống hỏa ngục. Trong tinh thần đó, ân thưởng mà Thiên Chúa hứa ban được ví như bàn tiệc với những thực phẩm tối hảo, trường sinh bất tử mà Người đă dọn sẵn và mời mọi khách đến thưởng thức.

Nếu ai từ khước tham dự Bàn tiệc Nước Trời, th́ dĩ nhiên họ không được hưởng những thực phẩm tối cần cho sự sống đời đời, khiến phải chết đói, chết khát là hậu quả tất yếu họ phải gánh chịu v́ đă tự do chọn lựa như thế.

2- Luyện Tội (Purgatory) là ǵ?

Theo giáo lư của Giáo Hội th́ Luyên Tội hay Luyện ngục là nơi dành cho “những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn th́, tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của ḿnh, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.” (x . SGLGHCG, số 1030)

Nói rơ hơn, một người sau khi chết sẽ tức khắc bị phán xét riêng để nếu đă thánh thiện đủ th́ được vào ngay nơi gọi là “Thiên đàng” để sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa. Ngược lại, nếu đă phạm mọi tội nghịch cùng Thiên Chúa và hoàn toàn từ khước Người cho đến hơi thở cuối cùng th́ sẽ vào nơi gọi là “hỏa ngục” như đă giải thích ở trên.Nhưng điều này chỉ có Chúa biết mà thôi và không ai trong Giáo Hội có thể biết được. V́ thế, Giáo Hội vẫn dạy phải cầu cho mọi người đă qua đời kể cả những người đă tự tử chết, v́ không biết số phận đời đời của họ ra sao, sau khi chết.

Giữa Thiên Đàng và hỏa ngục, c̣n nơi thứ ba gọi là Luyện ngục hay Luyện tội là nơi dành cho những linh hồn đă ĺa đời trong on nghĩa của Chúa, nhưng chưa thánh thiện đủ để vào ngay Thiên Đàng mà cần được thanh luyện thêm ở nơi này một thời gian trước khi được vào chốn an nghỉ muôn đời với Chúa trên Thiên Đàng.

Cũng theo giáo lư của Giáo Hội, th́ các Thánh ở trên trời, các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các tín hữu c̣n sống đều hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, ca ngượi và cảm tạ dâng lên Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng “chậm giận và giầu t́nh thương.” (Tv 103: 8).

Đây là tín điều các Thánh thông công mà Giáo Hội dạy con cái ḿnh tin và sống trong cuộc lữ hành tiến về Quê Trời. Nghĩa là các Thánh trên Thiên Đàng có thể cầu bầu đắc lực cho các linh hồn trong Luyện ngục và cho các giáo hữu c̣n sống trên trần gian. Các linh hồn trong Luyện ngục cũng có thể cầu xin hữu hiệu cho các tín hữu c̣n sống, nhưng không thể tự giúp ḿnh được v́ thời giờ làm việc lành phúc đức đă hết.V́ thế, các linh hồn mong đợi các tín hữu c̣n sống làm việc lành để cầu cho các linh hồn sớm được đón nhận vào Thiên đàng. V́ thế, chúng ta được khuyên khích cầu nguyện cách riêng cho các linh hồn trong tháng 11 là tháng dành để cầu xin cho các linh hồn đang c̣n được thanh luyện trong nơi Luyện tội. Giáo Hội ban ân xá (Indulgences) để tha các h́nh phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người c̣n sống và cho các linh hồn trong Luyện tôi. H́nh phạt hữu hạn hay việc đền tội là việc xin tẩy xóa những hậu quả của các tội nặng nhẹ đă được tha qua bí tích ḥa giải. Tội được tha nhưng hậu quả của tội c̣n để lại trong tâm hồn hối nhân. Do đó, mọi hối nhân, sau khi xưng tội cách thành thật, đều phải làm việc gọi là “đền tội” do cha giải tội ấn định.

Nhằm mục đích tha hay tẩy xóa các h́nh phạt hữu hạn, Giáo Hội ban một đặc ân gọi là ân xá (Indulgence) lấy trong kho tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các Thánh để ban cho các tính hữu c̣n sống hay các linh hồn trong Luyện tội. Ân xá được ban trong những dịp đặc biệt như trong tháng cầu cho các linh hồn (tháng 11) trong Năm Thánh (Year of Jubilee) Năm Đức Tin (năm nay cho đến 24 tháng 11 năm 2013). Ân xá có thể là từng phần (partial indulgence) hay toàn phần tức ân toàn xá (full indulgences) để tha các h́nh phạt hữu hạn nói trên. Do đó, mọi tín hữu đang hiệp thông với Giáo Hội có thể lănh ân xá để xin tha h́nh phạt hữu hạn cho ḿnh hay nhường lại cho các linh hồn nơi Luyện Tội, nhưng không thể nhường cho các tín hữu c̣n sống.

Muốn hưởng ân toàn xá th́ các tín hữu phải thi hành một số việc lành ấn định như xưng tội, rước Ḿnh Thánh Chúa, viếng nhà thờ và cầu nguyện theo ư Đức Thánh Cha.Về việc viếng nhà thờ th́ trong tháng 11 có thể viếng bất cứ nhà thờ nào cũng được. Riêng cho Năm thánh hay Năm Đức Tin th́ phải viếng nhà thờ nào được Giáo quyền địa phương (Đức giám mục) chỉ định để được ân xá. Vậy chúng ta hay sốt sắng làm những việc lành thường lệ để lănh ân xá cầu cho các linh hồn trong tháng 11 này, và trong suốt Năm Đức Tin đang mở ra trong toàn Giáo Hội.

Tóm lại, có Thiên Đàng là nơi dành cho những ai yếu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và xa lánh mọi tội lỗi bao lâu c̣n sống trên trần gian này. Cũng có hỏa ngục là nơi dành cho những người đă tự do chọn chỗ này cho ḿnh khi tự ư khước từ Thiên Chúa để sống theo ma quỉ, xác thịt và trần gian cho đến hơi thở cuối cùng.Ở giữa hai nơi trên là chốn thanh luyện các linh hồn chưa được tẩy sạch mọi hậu quả của tội lỗi trước khi được gia nhập hàng ngũ các Thánh và các Thiên Thần trên Thiên Đàng.

Ước mong giải đáp này thỏa măn các câu hỏi được đặt ra.

Năm Đức Tin : Thế Nào Là Người Thực Sự Có Đức Tin?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Năm Đức tin đă được mở ra trong Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 cho đến ngày 24 tháng 11 năm 2013. Mục đích là để mọi người trong Giáo Hội nh́n lại đời sống đức tin của ḿnh để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đă ban quà tăng đức tin vô giá cho chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách cụ thể và có chiều sâu hơn nữa để thích nghi với những thách đố của thời đại tục hóa, trống vắng mọi niềm tin này, và cũng để phúc âm hóa người khác, tức là mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.

Đó là tất cả ư nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân phúc âm hóa để loan truyền đức tin Kitô-Giáo” (New Evangelization for the transmission of Christian faith) mà Giáo Hội thi hành trong Năm Đức Tin này

Thực vậy, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh tục hóa của thời đại tôn thờ vật chất (Materialism), chuộng khoái lạc (hedonism), vô thần (atheism) và phi luân vô đạo (amoralism).

Do đó, hơn bao giờ hết, là người tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu h́nh và vô h́nh, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là Thần Chân Lư, hiệp nhất cùng một bản thể với Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa duy nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin và rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày măn thời gian và tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại.

Đó là nội dung căn bản của Đức Tin Công Giáo mà chúng ta hănh diện tuyên xưng, sau khi được lănh nhận qua Phép Rửa để trở thành tạo vật mới và được phép gọi Chúa là Cha. (Abba).

Như thế “Đức tin là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đă được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11 : 1-2).

Trước hết, Đức tin là điều kiện tiên quyết cho ta được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian làm Con Người để “phục vụ và hiếm nạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20; 28).

Do đó, phải có đức tin để tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu ta thực sự cộng tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa trong suốt cuộc đời trên trần thế này.

Nhưng phải sống đức tin cách nào cho xứng đáng là người thực sự có đức tin?

Có đức tin là điều tối cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải sống đức tin ấy bằng hành động cụ thể từ trong tâm hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người không có đức tin để minh chứng ḿnh khác với họ ở điểm then chốt là có động lực nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, t́nh cảm và hành động của ḿnh về Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện hảo, sự lành và trong sạch giữa thế gian ô uế v́ tội lỗi, v́ gian ác và đầy bất công, vô nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, uy quyền vô song, rất công b́nh và giầu t́nh thương.

Như vậy, người có đức tin phải sống đức tin ấy sao cho phản ảnh trung thực những đặc tính của Đấng ḿnh tin yêu tôn thờ để nhờ sống niềm tin như vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa hiện diện trong ta và đem ḷng tin yêu Người như Chúa Giêsu đă dạy các môn đệ xưa:

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giăi trước mặt người thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời.” (Mt 5: 14-16)

Nói rơ hơn, trong khi những người không có niềm tin Chúa, nên làm những việc sai trái như thề gian, nói dối, bất công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất là giết người, gian dâm, cờ bạc, thay vợ đổi chồng, tiếp tay với kẻ cầm quyền vô đạo để đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đ̣i quyền sống và công b́nh xă hội th́ người có đức tin phải nêu cao những giá trị của niềm tin là ngay thẳng, lương thiện, công b́nh, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong sạch để nên nhân chứng đích thực cho Chúa trước mặt những người không có niềm tin và đang làm những sự xấu, sự dữ nói trên, để mong thức tỉnh họ từ bỏ con đường dẫn đến hư mất đời đời.

Như thế, sống đức tin cách hoàn hảo và cụ thể không những góp phần phúc âm hóa người khác mà c̣n nói lên chính ḿnh là người thực sự tin có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài, mọi vật và đặc biệt tạo dựng con người “giống h́nh ảnh Thiên Chúa” (St 1 : 27) Đấng “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1 Tm 2 : 4), v́ “Thiên Chúa là t́nh yêu” (2 Ga 4: 8).

Nói khác đị, đức tin phải được chứng minh bằng hành động cụ thể để cho thấy sự trung thực giữa lư thuyết và thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin khác biệt với hành động được đức tin thúc đẩy, soi dẫn và qui chiếu về Thiên Chúa là nguồn mạch chân lư, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đă dạy như sau:

Hỡi người đầu óc rỗng tuếch : bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không ? Ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đă chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con ḿnh là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó, đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo.” (Gc 2 : 20-22)

Nghĩa là, v́ có đức tin mạnh mẽ và ḷng mến Chúa thâm sâu, nên ông Abraham đă dám hy sinh con một của ông là Issac theo lời đ̣i hỏi của Thiên Chúa nhằm thử thách đức tin và ḷng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy tay ông đang cầm dao vung lên, th́ chắc chắn con ông đă bị giết. Thiên Chúa đă can thiệp để cứu mạng sống của Issac, v́ đă nh́n thấy rơ đức tin phi thường của ông Apbraham, nên Chúa đă phán bảo ông như sau qua Sứ thần của Người:

Sứ Thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy danh Ta mà thề : bởi v́ ngươi đă làm điều đó, đă không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho ḍng dơi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài băi biển…chỉnh bởi v́ ngươi đă vâng lời Ta” (St 22: 15- 18).

Sự kiện trên cho thấy là ông Abraham đă thể hiện cách cụ thể ḷng tin yêu Thiên Chúa qua việc ông dám hy sinh con một của ḿnh để tế lễ Chúa như Người đă truyền cho ông. Hành động cụ thể của ông đă đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo của ông khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến Thiên Chúa cách cụ thể và đầy thuyết phục như Thánh Gia-cô-bê nói trên đây.

Cũng phải kể thêm gương đức tin sáng chói nữa là của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là các anh hùng Tử Đạo Viêt-Nam, cha ông chúng ta đă can đảm và anh dũng chịu mọi cực h́nh để tuyên xưng niềm tin sắt son của ḿnh trước bạo quyền bách hại. Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đă nẩy sinh ra nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.

Ngay nay, chúng ta không có cơ hội đổ máu ḿnh ra để tuyên xưng đức tin như các anh hùng Tử Đạo xưa kia. Nhưng chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức tin của ḿnh trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ như giết người, giết thai nhi, bóp nghẹt lương tâm để lường gạt người khác, hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác phạm tội như mở ṣng bạc, nhà măi dâm, buôn bán ma túy, hoặc phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô dưới chiêu bài “hôn nhân nước ngoài” khiến biết bao phụ nữ, v́ nghèo đói, phải cam chịu đem bán ḿnh làm thú vui cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và ngoài nước.

Trước thực trạng ghê tởm này, người tín hữn Chúa Kitô- đều được mong đợi sống niềm tin của ḿnh cách cụ thể là không những phải xa tránh những lối sống vô luân vô đạo nói trên mà c̣n phải can đảm lên án những tụt hậu thê thảm về luân lư, đạo dức của xă hội ḿnh đang sống, theo gương Chúa Kitô, Người đă lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :

Thế hệ gian ác và ngoại t́nh này đ̣i dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna” (Mt 16: 4).

Dấu lạ ông Giôna là dấu dân thành Ni-ni-vê, nghe lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để ăn chay, xám hối, xin Chúa tha thứ không đánh phạt và Chúa đă nhậm lời xin tha không trừng phạt họ như Người đă ngăm đe (Gn 3: 1-10).

Như vậy, gương đức tin của ông Abraham và của các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể trước thế gian chúng ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được xem thấy, nhưng vững ḷng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương mọi con cái loài người đến mức đă hy sinh chính Con Một của ḿnh là Chúa Kitô, Đấng cũng vui ḷng hiến mạng sống ḿnh cho chúng ta được tha thứ tội lỗi và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa t́nh thương trên Nước trời mai sau.

Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ v́ tất cả c̣n tùy thuộc một phần nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc sống đức tin trên trần thế này.

Thức vậy, chúng ta phải sống đức tin có Chúa ở mọi chiều kích như đức tin đ̣i hỏi. Đó là -trước hết- phải thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy xa con người ra khỏi t́nh thương của Chúa. Đó là hành động cụ thể để chứng minh hùng hồn đức tin hoàn hảo v́ “đức tin không có hành động th́ quả là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đă dạy (cf. Gc 2: 17).

Kinh nghiệm phổ biến trong cuộc sống ở khắp mọi nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói, nói nhiều, nói hay, mà không thực hành điều ḿnh nói th́ chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin những ǵ ḿnh nói. Thí dụ hô hào, kêu gọi người khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo đói, nhưng bản thân ḿnh lại không hề bỏ ra một đồng nào để giúp các nạn nhân trong khi ḿnh có dư khả năng làm việc đó, thí làm sao lời hêu gọi của ḿnh được ai hưởng ứng nữa ?

Lại nữa, khuyên người khác sống ḥa thuận vợ chồng mà ḿnh lại ly dị vợ hay chồng để lấy người khác trẻ, đẹp hơn th́ lời khuyên của ḿnh c̣n thuyết phục được ai nữa ?

Cũng vậy, mang danh người tín hữu Chúa Kitô mà tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất công, bóc lột người khác, dửng dưng trước sự kḥ nghèo của người khác, có dư th́ giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng lại không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn vẹn, cũng như không hề cầu nguyện và năng xưng tội, rước Ḿnh Thánh Chúa, th́ đức tin kia c̣n sống hay đă chết ?

Lại nữa, miệng nói tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại bước vào những con đường dẫn đến các ṣng bạc lớn nhỏ, đến những nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri tội lỗi để thỏa măn thú vui xác thịt, và nhất là thú ấu-dâm (child prostitution) rất khốn nạn th́ mang danh Công giáo và tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng có ích lợi ǵ cho ai ?

Khi lời nói không đi đôi với việc làm th́ sẽ trở thành người đạo đức giả, giống bọn biệt phái và luật sĩ mà Chúa Giêsu đă nặng lời chỉ trích xưa kia.

Những ai sống kiểu này cần nghe lại lời Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa như sau:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai ai thi hành ư muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ư muốn của Cha trên Trời có nghĩa là phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đă rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh Chúa và sống những đ̣i hỏi của Phúc Âm sự sống trước mặt người đời, trước mặt những kẻ đang sống theo “văn hóa của sự chết” để làm những điều gian ác vô luân vô đạo ở khắp nơi.

Người tín hữu nào không có can đảm sống đức tin như vậy th́ hăy nghe lời Chúa cảnh giác sau đây :

Giữa thế hệ ngoại t́nh và tội lỗi này, ai hổ thẹn v́ Ta và những lời Ta dạy.
th́ Con Người cũng sẽ hổ thẹn v́ kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh
Thiên thần, trong vinh quang của Cha Người
” (Mc 8: 38).

Tóm lại, Năm Đức Tin mời gọi mọi tín hữu không những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức tin quư giá đă nhận được, mà cần thiết phải nh́n lại cách sống đức tin của ḿnh trong bao năm qua, để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng - biết chuyển hướng đời sống đức tin của ḿnh cho thêm cụ thể và sống động để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người khác trong hoàn tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới ngày nay.

Năm Đức Tin : Ư Nghĩa và Giá Trị Của Sự Đau Khổ

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đau khổ là một thực tế hiển nhiên trong đời sống của con người, dù có niềm tin hay không .

Đây là một thực trạng mà không ai có thể phủ nhận hay tránh được trong cuộc sống trên trần gian này. Nào đau khổ v́ bệnh tật, v́ nghèo đói, v́ bất công xă hội, v́ thiên tai, động đất, băo lụt. Nào đau khổ v́ bị tù đầy, tra tấn, bị kỳ thị, khinh chê và cô lập (dân Untouchable bên Ấn Độ). Sau hết, đau khổ lớn lao nhất là chết chóc đau thương.

V́ đâu có đau khổ?

Thực khó t́m được câu trả lời thỏa đáng theo suy nghĩ của con người cho câu hỏi này..

Tuy nhiên, có điều nghịch lư đáng nói ở đây là ở khắp nơi, và ở mọi thời đại, luôn có những kẻ gian ác, làm những sự dữ, sự tội, như giết người, trộm cắp, hiếp dâm, đặc biệt là cai trị độc ác và gây ra chiến tranh khiến hàng triệu người vô tội bị giết … nhưng những kẻ đó vẫn sống phây phây với địa vị và tiền bạc dư thừa của chúng, trong khi biết bao người lành, lương thiện, đạo đức lại nghèo khó, bệnh tật nan y hay gặp tai nạn xe cộ, tầu bè. Cụ thể, năm 2008, một xe buưt chở giáo dân ở Houston, Texas đi dự Đại Hội Thánh Mẫu ở Carthage, Missouri đă gặp tai nạn khiến hàng chục người chết hoặc bị thương nặng! Trong khi những xe và phi cơ chở người đi đánh bạc ở Las Vegas, Lake Charles (Louisiana)… hoặc du hí ở các nơi tội lỗi như Cancun (Mexico), Thái Lan, Campuchia... th́ chưa hề gặp tai nạn tương tự! Lại nữa, những người nghiện rượu và thuốc lá thường dễ bị ung thư phổi, nhưng biết bao người không uống rượu và hút thuốc lá mà vẫn bị ung thư phổi, thi sao? Lại nữa, phụ nữ sinh con th́ dễ bị ung thư ngực, nhưng có nữ tu không hề sinh đẻ mà vẫn bị ung thư ngực!

Vậy không lẽ Chúa phạt những người bị tai nạn hay bệnh tật kia???

Chắc chắn là không. Nhưng phải giải thích thế nào cho hợp lư và t́m ra ư nghĩa của sự đau khổ với con mắt đức tin của người tín hữu Chúa Kitô trong năm Đức Tin này.

Thật vậy, đau khổ là một thực trạng không thể tránh được trong trần gian này như Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ xưa :

“Trong thế gian
Anh em sẽ phải gian nan khốn khó
Nhưng hăy can đảm lên
Thầy đă thắng thế gian”.
(Ga 16: 33)

Nhưng trước khi Chúa đến trần gian để chia sẻ thân phận con người với nhân loại, sự đau khổ, sự dữ đă đầy rẫy trong trần gian như Kinh Thánh Cựu Ước đă ghi lại. Cụ thể ông Gióp (Job) là người “vẹn toàn, ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và tránh xa điều ác.” (G 1: 1). Vậy mà ông đă gặp hoạn nạn, đau khổ lớn lao bất ngờ, không thể tưởng tượng được : nào con cái (bảy con trai, ba con gái) bỗng chốc lăn ra chết hết trong một trận cuồng phong từ sa mạc thổi đến. Nào đàn gia xúc của ông gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi ḅ, năm trăm lừa cái và một số đông tôi tớ cũng bỗng chốc bị giết và cướp mất khỏi tay ông ! Nhưng trước tai ương khủng khiếp này, ông Gióp chỉ biết quỳ xuống than thở với Chúa như sau :

Thân trần truồng
Sinh ra từ ḷng mẹ
Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng
ĐỨC CHÚA đă ban cho
ĐỨC CHÚA lại lấy đi
Xin chức tụng danh ĐỨC CHÚA!
” (G 1 : 21)

Chính v́ ḷng trung kiên yêu mến, kính sợ Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, như khi được mọi điều sung sướng và nhất là khi phải đau khổ v́ tai ương bất ngờ, ông Gióp đă được Thiên Chúa khen lao và ban lại cho ông gấp đôi những ǵ ông đă mất: ông lại sinh được bảy con trai và ba con gái xinh đẹp nhất trong xứ sở và sống thọ thêm một trăm bốn mươi năm nữa. (cf. G 42: 12-17)

Như thế, sự đau khổ, tai ương là phương tiện hữu hiệu Thiên Chúa đă dùng để thử thách các tôi tớ trung kiên của Người như các ông Mô- sê, Ap-bra-ham Gióp và Tô-bia.

Ngươc lai, đôi khi Thiên Chúa cũng dùng tai ương, đau khổ để trừng phạt con người v́ tội lỗi và ngoan cố không muốn ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó là hinh phạt Đại hồng thủy trong thời Cựu Ước, đă cuốn đi vào ḷng đai dương tất cả mọi người, mọi sinh vật trên mặt đất, trừ gia đ́nh ông Nô-e và các sinh vật được ông đem vào tàu trước khi mưa tuôn đổ xuống địa cầu. (St 6: & 7)

Lại nữa, Thiên Chúa đă dùng lửa và mưa sinh diêm từ trời xuống để hủy diệt thành Xô-đôm, v́ ông Ap-bra-ham không t́m được người ngay lành nào trong thành tội lỗi đó, để xin Chúa tha chết cho thành ấy. (Sđd : 19)

Nhưng khi dân thành Ni-ni-vê nghe theo lời kêu gọi của ngôn sứ Giô-na ăn chay, cầu nguyện và xám hối th́ Thiên Chúa đă tha không đánh phạt họ như Người đă ngăm đe. (Gn 3: 1-10)

Như vậy, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đă dùng đau khổ, gian nan khốn khó để thử thách các tôi tớ trung thành và cũng để đánh phạt những kẻ làm những sự dữ, tội lỗi mà không chiu xám hối và từ bỏ con đường gian ác.

Dân Do Thái, cho đến thời Chúa Giêsu xuống trần và đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, vẫn quen nghĩ rằng sự khó, sự đau khổ và tai ương xảy ra cho ai th́ tại tội lỗi của người đó hay của cha mẹ nạn nhân. Cho nên khi thấy một người mù từ bé, các môn đệ của Chúa Giêsu đă hỏi Người như sau :

“Thưa Thầy, ai đă phạm tội khiến người này sinh ra đă bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9 : 2). Chúa Giêsu đă trả lời họ như sau : “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đă phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Sđd 9; 3)

Việc của Thiên Chúa được tỏ hiện là Chúa Giêsu đă chữa cho anh mù được xem thấy để minh chứng Người là quả thực là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) đă đến trong trần gian để “cho người mù được thấy. kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” (Lc 7 : 22).

Nhưng cũng trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu cũng nói với một người đă đau ốm lâu năm và Chúa đă chữa lành cho anh ta.Nhưng khi gặp lại anh này trong Đền Thờ sau đó, Chúa đă nói với anh điều đáng chú ư như sau :

Này, anh đă được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước.” (Ga 5: 14)

Như thế có nghĩa là tội lỗi cũng có thể là nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người như Chúa đă nói trên đây. Kinh nghiệm thực tế ngày nay cũng chứng minh điều này. Kẻ trộm cắp cứ quen sống bất lương như vậy, sẽ có ngày gặp tai họa khi vào nhà ai để ăn trộm và có thể bị chủ nhà bắn chết (ở Mỹ rất nhiều người dân có súng trong nhà để tự vệ). Người ngoại t́nh cũng có thể bị t́nh địch giết chết v́ đă gian díu với vợ hay chồng của người khác. Lái xe ẩu, vượt đèn đỏ có thể gây ra án mạng cho người khác và cho chính người lái xe ẩu. Đúng là tội đâu vạ đấy như người Việt Nam chúng ta thường nói.

Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta được dạy dỗ để tin rằng sự đau khổ về thể lư hay tâm hồn cũng là phương tiện mà Thiên Chúa dùng để cho chúng ta được thông phần sự thương khó đau khổ với Chúa Kitô, Đấng đă vui ḷng chịu mọi sự khốn khó cho đến chết đau thương trên thập giá để cho chúng ta được cứu độ và có hy vọng được hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa sau hành tŕnh đức tin trên trần thế này.

Thật vậy, Chúa Giê-su Kitô là Đấng Thiên Sai (Messaih) đă đến trần gian làm Con Người, đă chiu khốn khó ngay từ khi sinh ra trong cảnh cực kỳ khó nghèo nơi hang lừa máng cỏ, bị đe dọa giết chết bởi Hêrôđê khiến Đức Mẹ và Thánh Giuse phải mang chậy trốn sang Ai Cập lúc đêm khuya. Lớn lên, Người đi rao giảng Tin Mừng trong điều kiện rất khó nghèo, lang thang đó đây như kẻ vô gia cư đúng như Chúa đă nói với các môn đệ : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Mt 8 : 20)

Là Đấng Thiên Sai, Chúa Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Sđd 16: 21)

Phêrô, môn đệ được Chúa khen ngợi v́ đă tuyên xưng đúng Người là “Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.” Nhưng khi nghe Chúa nói đến những đau khổ mà Người sắp phải chịu trước khi chết, sống lại và lên trời vinh hiển, Phêrô đă t́m cách can ngăn Chúa như sau : “Xin Thiên Chúa thương đừng để cho Thầy gặp chuyên đó.” (Sđd 16: 22)

Để trả lời cho Phêrô và cũng để dạy cho chúng ta biết giá trị của đau khổ, Chúa đă quở trách ông như sau: “Xa tan, hăy lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, v́ tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”(Sđd 16: 23)

Phêrô can ngăn Chúa v́ đă hành động đúng với suy tư của mọi người trần thế là không ai muốn chiu sự ǵ khốn khó, đau khổ. Ai cũng muốn được luôn khỏe mạnh, sung sướng, an nhàn, có nhiều tiền của và danh vọng ở đời. Không ai muốn bệnh tật, nghèo đói và bị khinh chê, tù đầy hay bắt bớ . Ước vọng được khỏe mạnh cũng rất chính đáng và đẹp ḷng Chúa, như tác giả Sách Huấn Ca đă viết:

Người đă chết th́ hết xưng tụng v́ nó không c̣n nữa
Chỉ người đang sống và khỏe mạnh mới ca ngợi Đức Chúa
.” (Hc 17 : 28)

V́ thế, người đau ốm cầu xin Chúa cho được lành bệnh tật của thân xác:

Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho v́ gân cốt ră rời
Toàn thân con ră rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa c̣n tŕ hoăn đến bao giờ?”
(Tv 6 : 3-4)

Cầu xin cho được khỏe mạnh và b́nh an trong cuộc sống là điều tốt phải xin Chúa và không có ǵ đáng chê trách. Nhưng bệnh tật và rủi ro th́ không ai tránh được trong cuộc sống ở đời này. Người đạo đức,lương thiện và kẻ bất lương gian ác đều không ít th́ nhiều phải đau khổ như bệnh tật, tai nạn bất ngờ, tang chế trong gia đ́nh v́ người thân mất đi... Tuy nhiên, cứ xem gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh th́ người có đức tin phải hiểu rằng đau khổ có giá trị cứu rỗi và là phương thế hiệu nghiệm mà Thiên Chúa dùng để thánh hóa và cải hóa con người. Cũng như để thử thách ḷng tin yêu của các tôi tớ trung kiên như trường hợp các ngôn sứ Mô-Sê, Abraham, Gióp và Tôbia đă nói ở trên.

V́ đau khổ có giá trị xin tha tội, nên ông Mô-sê đă xin hiến mạng sống ḿnh làm của lễ để xin Thiên Chúa tha tội cho dân Do Thái xưa:

“Ông Mô-sê trở lại với ĐỨC CHÚA và thưa : “Than ôi dân này đă phạm một tội lớn. Họ đă làm cho ḿnh một tượng thần bằng vàng. Nhưng giờ đây ước ǵ Ngài miễn chấp tội họ. Bằng không, th́ xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn Sách Ngài đă viết.” (Xh 32 : 31-32)

Chính v́ giá trị cứu chuộc của đau khổ mà Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai, Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, đă vui ḷng “uống chén đắng” là vác thập giá, chịu mọi cực h́nh cho đến khi chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ, không phải v́ sự đau khổ của Chúa Kitô chưa đủ cho con người được cứu rỗi, mà v́ con người c̣n có tự do để cộng tác với ơn Chúa để được cứu chuộc hay bị loại v́ đă tự ư khước từ ơn cứu rỗi đó để sống buông thả theo tính hư nết xấu của xác thịt và chạy theo những quyến rũ của thế gian đang tràn ngập với “văn hóa của sự chết” mà những kẻ không có niềm tin đang ngụp lặn trong đó.

Nếu con người không có thiện chí muốn cộng tác với ơn Chúa để sông theo đường lối của Chúa, th́ Chúa không thể cứu ai được, mặc dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá và đủ cho con người được cứu rỗi.

Tóm lại, không ai có thể tránh được đau khổ trong cuộc sống trên trần gian này. Tuy nhiên, như đă nói ở trên, với người có niềm tin nơi Chúa th́ đau khổ là phương thế tốt nhất cho ta được trở nên giống Chúa Kitô, Người đă đi vào vinh quang phục sinh qua khổ h́nh thập giá để dẫn đưa chúng ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta cũng vui ḷng vác thập giá theo Người. Nghĩa là chúng ta phải vui ḷng chấp nhận những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta không kiêu căng đi t́m kiếm nhưng không hậm hực kêu trách Chúa khi gặp phải trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là cách chấp nhận đau khổ đẹp ḷng Chúa, đúng theo lời dạy của chính Chúa Kitô, là “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo.” (Mt 16: 24).

Vác thập giá theo Chúa có nghĩa là vui ḷng chịu mọi sự khó Chúa gửi đến trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Vậy chúng ta hăy can đảm và bằng ḷng chịu những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta không ai muốn kiếm t́m nhưng không tránh được, v́ Chúa đă tha phép cho xảy ra để cho ta được thông phần sự thương khó của Chúa Kitô để đền tội ḿnh và tội của người khác, cũng như để cầu xin cho nhiều người chưa biết Chúa được nhân biết và tin yêu Chúa để cùng hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Đó là điều quan trọng chúng ta cần suy tư và sống trong Năm Đức Tin này.

Năm Đức Tin: Thực Trạng Tội Lỗi Cần Lưu Ư Và Tránh Để Sống Đức Tin Vững Vàng

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Năm Đức Tin đă khai mạc ngày 11 tháng 10/2012 vừa qua tại Rôma nhắm mục đíchkêu gọi mọi tín hữu trong Giáo hội nh́n lại đời sống đức tin của ḿnh để canh tân và đào sâu thêm nữa hầu thêm yêu mến Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian làm Con Người, đă mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho chúng ta và nhất là đă hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được cứu rỗi để hưởng hạnh phúc vinh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Nhưng muốn sống đức tin cách hữu hiệu và chân thật, không ai có thể coi nhẹ một trở ngại lớn lao, đó là tội lỗi, một nguy cơ không những đe dọa cách nặng nề đức tin có Chúa mà c̣n có thể làm mất hy vọng được cứu rỗi nữa.

Thật vậy, tội là một thực tế (reality) không ai có thể chối căi hay phủ nhận được trong đời sống cá nhân, gia đ́nh, xă hội và trong cộng đồng thế giới; nhất là trong thời buổi hiện nay, khi các nhóm Hồi Giáo quá khích chủ trương bạo động, “thánh chiến = jihad” để đánh phá và giết hại những ai họ cho là thù nghịch của họ. Đây là một tội lớn mang mầu sắc tôn giáo v́ người ta đă nhân danh tôn giáo để tiêu diệt người khác. Và chắc chắn điều này không phù hợp với mục đích của bất cứ vị sáng lập tôn giáo nào, v́ không tôn giáo nào có thể chấp nhận hay khuyến khích tín đồ của ḿnh giết hại người khác để độc tôn tín ngưỡng của ḿnh.

Mặt khác, các chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa tương đối (relativism) và chủ nghĩa tôn thờ khoái lạc (hedonism) và tiền bạc vật chất cũng góp phần không nhỏ gây ra tội lỗi cho con người ở khắp mọi nơi.

Nhưng trước hết, cần biết v́ đâu tội lỗi có mặt trong trần gian như một thách đố lớn lao cho những ai có niềm tin Thiên Chúa là Đấng đầy ḷng yêu thương, nhưng rất công b́nh và thánh thiện.

Thánh Kinh đă cho ta biết nguồn gốc của tội như sau :

V́ một người duy nhất (Adam) mà tội lỗi đă xâm nhập trần gian, và tội gây nên sự chết; như thế sự chết đă lan tràn tới hết mọi người bởi v́ mọi người đă phạm tội.” (Rm 5 : 12)

Tội xâm nhập trần gian và lan tràn đến hết mọi người với nhiều h́nh thức và mức độ khác nhau. Tội là điều trực tiếp xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, công minh, chính trực nên Người không thể dung tha cho bất cứ loại tội nào mà con người có thể phạm v́ cố ư hay v́ yếu đuối. Tùy theo mức lỗi phạm mà tội mang lại hậu quả nặng hay nhẹ cho người có tội.

Trước tiên, Thiên Chúa đă nói rơ cho Adam và Eva biết về hậu quả của tội như sau, nếu họ ăn trái cấm:

Ngày nào ngươi ăn, chắc chắn người sẽ phải chết.” (St 2: 17)

Cái chết mà Thiên Chúa nói trên đây là cái chết về mặt linh hồn, chứ không phải chết ngay về thể xác.Cho nên con Rắn đă nói với bà Eva như sau : “chẳng chết chóc ǵ đâu.” (Sđd 3: 4).

Rắn Satan nói thể để phỉnh gạt Eva v́ biết là Thiên Chúa không phạt nhăn tiền bằng cái chết về thể lư cho ai từ xưa đến nay. Bằng cớ là có biết bao kẻ gian ác, độc tài tàn bạo, vô tâm vô đạo đă giết hại không biết bao nhiêu người chỉ v́ muốn củng cố địa vị cá nhân hay bảo vệ các thể chế độc tài, độc đảng, độc tôn gây đau khổ và chết chóc cho biết bao triệu người dân lành từ Đông sang Tây chẳng may rơi vào ách thống trị độc ác của chúng. Nhưng chúng vẫn sống phây phây, làm giầu và hưởng thụ,cha truyền con nối với chế độ tàn bạo không biết đến bao giờ mới xụp đổ.

Mặt khác, những kẻ có tâm địa độc dữ, với ḷng tham vô đáy, và say mê những vui thú vô luân vô đạo cũng vẫn sống nhởn nhơ trong giầu sang nhờ gian manh, bất công và lường gạt, trong khi người lành lương thiện lại nghèo khó và đau khổ, v́ xă hội bất công, dung dưỡng cho kẻ có nhiều tiền bạc và lắm mưu kế gian xảo lèo lái.

Như thế không phải v́ Thiên Chúa bất lực, hay không nh́n thấy những tội ác của họ. Thiên Chúa biết nhưng vẫn làm ngơ cho chúng sống để hy vọng chúng hoán cải để được tha thứ, v́ Người gớm ghét tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối, xin tha. Ngược lại, nếu chúng cứ ngoan cố tiếp tục con đường gian ác th́ Thiên Chúa sẽ đối xử với chúng như chủ ruộng kia đă làm ngơ cho cỏ lùng mọc xen lẵn với cây lúa tốt. Và đợi đến mùa gặt, chủ sẽ bảo thợ gặt : “Hăy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, c̣n lúa th́ hăy thu vào kho lẫm cho ta.” (Mt 13:20)

Dụ ngôn trên cũng áp dụng thích đáng cho người tín hữu Chúa Kitô đang sống đức tin trên trần gian này, giữa bao kẻ gian ác đang phạm biết bao tội nghich cùng Thiên Chúa và gây đau khổ cho bao người khác. Kẻ gian ác cứ sống trong tội ác của chúng như có lùng mọc xen với cây lúa. Và chắc chắn đến mùa gặt, tức ngày Phán Xét, chúng sẽ bị quăng vào nơi “tối tăm, khóc lóc và nghiến răng”.(Lc 13: 28)

Thật vậy, do hậu quả của tội nguyên tổ, bản chất thiện hảo ban đầu của con người đă bị thương tổn nặng nề đến nỗi dù đă được tái sinh qua Phép Rửa, và trở thành tạo vật mới, con người vẫn không lấy lại được bản chất thiện hảo ban đầu (Original Innnocence) đă mất đi sau khi nguyên Tổ loài người đă phạm tội. V́ thế, con người ngày nay vẫn hoàn toàn yếu đuối và dễ nghiêng chiều về sự xấu, sự tội bao lâu c̣n sống trên trần gian và trong thân xác có ngày phải chết này.

Mặt khác, ma quỷ ví như “sư tử gầm thét rảo quanh t́m mồi cắc xé” (1Pr 5 : 8) luôn ŕnh rập quanh ta để cám dỗ, lôi kéo ta vào đường tội lỗi dẫn đến hư mất đời đời. Cho nên “anh em phải đứng vững trong đức tin mà chống cự, v́ biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (Sđ d 5: 9) đúng theo lời khuyên dạy của Thánh Phêrô cách nay đă trên 2000 năm nhưng vẫn c̣n nguyên giá trị thực hành trong hoàn cảnh sống của con người ngày nay.

Ngoài ma quỷ là kẻ thù chính ra, thế gian hay môi trường sống của mỗi người chúng ta là kẻ thù thứ hai cộng tác đắc lực với ma quỷ để xúi dục ta phạm tội v́ gương xấu đầy rẫy ở khắp nơi. Nào phim ảnh sách báo dâm ô,đồi trụy, bạo động, nào ṣng bạc lớn nhỏ và nơi ăn chơi sa đọa công khai quảng cáo trên truyền thông để lôi cuốn con người thuộc mọi lớp tuổi t́m đến để thỏa măn dục vọng và ḷng ham mê tiền của, bắt chấp mọi hậu quả tai hại cho linh hồn, nếu ta tin con người có hồn và xác, có sự thưởng phạt sau khi chết.

Thánh Phaolô đă nói đến các giống tội do xác thịt yếu đuối gây ra và hậu quả của tội như sau:

Những việc do tính xác thịt gây ra th́ ai cũng rơ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đăng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất ḥa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đă thường bảo: Những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” (Gl 5 :19-21).

Như thế, người ta phạm tội v́ bản chất yếu đuối, v́ ma quỷ tinh quái cám dỗ và v́ gương xấu của người khác.

Chúa Giêsu đă nghiêm khắc cảnh cáo về các dịp tội và gương xấu như sau :

“Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngă. Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngă. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, c̣n lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn này phải vấp ngă.” (Lc 17: 1-2)

Như vậy, muốn tránh tội, ta phải ư thức đây đủ về những nguy cơ đưa đến phạm tội để từ đó quyết tâm xa tránh với ơn Chúa nâng đỡ để đứng vững, v́ “không có Thầy anh em sẽ chẳng làm ǵ được.” (Ga 15: 5). Nghĩa là nếu không có ơn Chúa giúp sức th́ ta không thể đứng vững trước mọi cám dỗ nặng nề của ma quỷ, gương xấu đầy rẫy của thế gian và những khuynh hướng xấu c̣n tồn tại trong ta.

Cứ nh́n quanh ta th́ đủ biết tội lỗi đang thống trị con người và thế giới như thế nào.

Tại sao người ta đang làm những sự dữ như giết người, cướp của, ăn gian nói dối, cờ bạc, dâm ô phóng đăng, hiềm thù,nghen ghét, bỏ vạ cáo gian, thay chồng đổi vợ, chiến tranh, khủng bố ?

Câu trả lời đúng nhất là v́ người ta không có niềm tin nào, hay có mà không có can đảm sống niềm tin ấy cách sống động và cụ thể để đẩy lui bống tối của sự dữ, sự tội đang lan tràn ở khắp nơi.

Trước thực trạng trên đây, là người có đức tin vào Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, mọi tín hữu chúng ta đều được mong đợi sống đức tin của ḿnh cách cụ thể là phải xa tránh mọi sự xấu, sự tội, v́ chỉ có tội lỗi mới làm ngăn cách con người với Thiên Chúa là t́nh thương nhưng gớm ghét mọi thứ tội lỗi.Nói khác đi, sống đức tin Kitô Giáo đ̣i hỏi chúng ta phải ư thức sâu xa về nguy cơ của tội lỗi đến từ ma quỷ, từ thế gian và từ bản chất yêu đuối của chính ḿnh.

Trong thời đại văn minh vật chất và điện toán hiện nay, rất nhiều người đă mất hết ư thức về tội. Chủ nghĩa tương đối (relativism) đă góp phần không nhỏ vào việc lừa dối rất nhiều người tin là không có giá trị nào tuyết đối về luân lư, đạo đức cả.. V́ thế người ta đă mặc sức làm những sự dữ, thí dụ, làm luật để bảo vệ cho súc vật như chó, mèo, chim, rùa ngoài biển. Nhưng lại hợp thức hóa việc phá thai khiến hàng năm ở Mỹ có trên một triệu thai nhi bị giết ngay trong ḷng mẹ mà luật pháp quốc gia chính thức cho phép khiến không ai gặp khó khăn nào với luật pháp khi trực tiếp hay gián tiếp ra tay giết hại một hài nhi tức một nhân mạng! Ngoài ra, người ta cũng đang t́m cách định nghĩa lại hôn nhân, vốn là một định chế bắt nguồn từ Thiên Chúa khi Người tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ sứ mệnh “Hăy sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thông trị mặt đất.” (St 1 :28)

Vậy mà bây giờ người ta đang hợp thức hóa những cặp hôn nhân đồng tính (same sex marriage), để công khai nh́n nhận việc sống chung của những cặp nam nữ bệnh hoạn tâm sinh lư này.C húng ta cảm thông hoàn cảnh của họ nhưng không thể tán thành việc cho họ kết hôn để đạp đổ truyền thồng hôn nhân giữa một người nam và một người nữ như Thiên Chúa đă thiết lập từ đầu.

Mặt khác trên b́nh diện quốc tế, cộng đồng thế giới vẫn làm ngơ cho các chế độ tàn ác của Assad ở Syria, của Bắc Hàn, của Cuba… và nhiều nơi khác nữa đă giết hại hàng triệu người dân vô tội, v́ dám chống lại chế độ cai trị tàn ác của kẻ cầm quyền... Đây là một tội ác chống lại con người của các kẻ độc tài độc đảng mà các nước có thể lực lớn trên thế giới phải chịu trách nhiệm v́ đă không dám hành động thích đáng để bảo vệ cho quyền sống của con người.

Trước thực trạng tội lỗi của cá nhân, xă hội và cộng đồng quốc tế, người tín hữu Chúa Kitô thuộc mọi thành phần trong Giáo Hội hơn bao giờ hết phải sống niềm tin của ḿnh cách cụ thể và thuyết phục để làm nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian để “hy sinh mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Nói rơ hơn, nếu người tín hữu mà cũng ăn gian nói dối, cũng lường gạt, bóc lột người khác để trục lợi, cũng lui tới những ṣng bạc lớn nhỏ, cũng đi du hí ở những nơi tội lỗi, cũng nhẩy nhót cuồng loạn mất nết, cũng cấu kết hay làm tay sai cho những thế lực, hay chế độ phi nhân bóc lột đàn áp người dân vô tội, th́ chắc chắn đă chà đạp lên hay chối bỏ niềm tin của ḿnh và cùng lớn tiếng hô to với những kẻ vô thần, vô luân vô đạo là KHÔNG CÓ THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ SỰ SÔNG ĐỜI SAU để mặc sức ngụp lặn ở hiện tại trong vũng bùn nhơ của tội lỗi v́ đam mê của cải, chuộng hư danh và tôn thờ mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt rơ nét nhất của “văn hóa sự chết” đang lộng hành ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

Quan trọng hơn nữa, nếu người tín hữu không quyết tâm từ bỏ mọi giống tội và nương nhờ ơn Chúa phù giúp để đứng vững trong đức tin th́ không ai có thể đạt được mức hoàn hảo để được cứu rỗi. Sở dĩ thế là v́ con người c̣n có tự do để chọn lựa giữa sự tốt và sự xấu, giữa ánh sáng và bóng đêm bao lâu c̣n sống trên trần gian này. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do đó của con người. Nghĩa là nếu con người chọn con đường gian tà v́ mê đắm sắc dục, để lui tới những nơi ăn chơi sa đọa, thay chồng đổi vợ, hoặc v́ đam mê tiền của để trộm cướp, bóc lột người khác th́ Thiên Chúa sẽ không ngăn cản và con người sẽ phải hoàn toàn chiu trách nhiệm về chọn lựa của ḿnh. Đó là lư do thưởng phạt của Thiên Chúa dành cho những kẻ chối bỏ Người bằng tư tưởng và hành động, hay yêu mến và quyết tâm thi hành ư muốn của Người để được vào Nước Trời như Chúa Giêsu đă nói rơ với các môn đệ xưa như sau:

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa! lậy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7 : 21)

Thi hành ư muốn của Cha trên trời có nghĩa là phải cương quyết từ bỏ mọi tội lỗi, mọi sự dữ và “hăy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, v́ Tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ t́m cách vào mà không thể được.” (Lc 13: 24)

Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói trên đây, chính là cửa công chính để tránh đi vào con đường của kẻ gian ác, giết người, cướp của, bóc lột, dâm đăng và bất công với người khác. Cửa hẹp cũng là cửa bác ái để mở ḷng cảm thương anh chị em nghèo khó, bệnh tật, cô thân cô thế. Sau nữa, cửa hẹp cũng là cửa trong sạch để không đi vào con đường dẫn đến những nơi xú uế v́ cờ bạc vui chơi dâm ô khốn nạn. Người tín hữu Chúa Kitô mà đi vào những con đường nói trên th́ chắc chắn sẽ không gặp được Chúa là cội nguồn của mọi giầu sang, phú quư và hoan lạc; mà ngược lại, chắc chắn sẽ rơi xuống hố diệt vong v́ phải vĩnh viễn xa ĺa Thiên Chúa là cùng đích của niềm tin và hy vọng của người có đức tin chân chính.

Tóm lại, Năm Đức Tin mời goi và nhắc nhở mọi tín hữu sống đức tin cách chân thật và sống động để minh chứng ḿnh thực sự tin Chúa Kitô, Đấng đă cứu chuộc nhân loại qua khổ h́nh thập giá để cho chúng ta hy vọng được gặp Thiên Chúa là Cha và được sống hạnh phúc đời đời với Người trên Thiên Quốc, sau khi chấm dứt hành tŕnh con người trên trần thế này.

Nói khác đi, chúng ta phải thể hiện đức tin của ḿnh cách cụ thể trước mặt người đời để làm nhân chứng cho Chúa Kitô với mục đích mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa để cùng được cứu độ, v́ Thiên Chúa, “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1Tm 2:4)

Nhưng- cần nhấn mạnh thêm một lần nữa- muốn sống đức tin cách hữu hiệu, vững vàng đẹp ḷng Chúa và có sức thuyết phục người khác th́ ta phải ư thức đầy đủ nguy cơ của tội lỗi để quyết tâm xa tránh không làm những ǵ phương hại hay mâu thuẫn với đức tin có Chúa là Đấng thánh thiện, nhân từ, công b́nh, yêu thương và tha thứ. (tha thứ cho kẻ có tội biết ăn năn xin tha chứ không được lợi dụng tha thứ để cứ tiếp tục phạm tội nữa !)

Tóm lại, sống đức tin không những để biết thờ lậy, ngợi khen,yêu mến và cảm tạ Chúa ngày một hơn, mà quan trọng không kém là đoạn tuyệt với tội lỗi, v́ “ai phạm tội là người của ma quỷ” như Thánh Gioan Tông Đồ đă dạy. (1 Ga 3: 8).

Năm Đức Tin: Trách Nhiệm Ngôn Sứ Của Người Tông Đồ Và Của Người Tín Hữu Giáo Dân

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Thánh Lễ khai mạc Năm Đức Tin sẽ được Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 long trọng cử hành tại Rôma ngày 11 tháng 10/2012 tới đây. Năm Đức Tin được mở ra nhân kỷ niêm 50 năm sau Công Đồng Vaticanô II kết thúc, và cũng kỷ niệm 20 năm ngày công bố Sách Giáo Lư mới của Giáo Hội Công Giáo, đồng thời cũng là dịp Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới (Synod of Bishops) họp phiên kháng đại lần thứ 13.

Đây là thời điểm thích hợp để toàn thể Giáo Hội nh́n lại đời sống đức tin của ḿnh dựa trên nền tảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian làm Con Người để rao giảng Tin Mừng, và hy sinh “hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Nghĩa là mọi người trong Giáo Hội – Hàng Giáo Phẩm, Giáo sĩ, Tu ś và Giáo dân- đều được mời gọi để canh tân, củng cố và sống niềm tin của ḿnh vào Chúa Kitô cách hữu hiệu hơn nữa để ứng phó với những thách đố của thời đại tục hóa (vulgarism), tôn thờ khoái lạc (hedonism), vô thần (atheism), và phi luân (amoralism) là những đặc trưng của “văn hóa sự chết” đang lan tràn ở khắp nơi trên thế giới ngày nay để lôi cuốn biết bao người vào hố diệt vong. Diệt vong v́ không có niêm tin vào một Quyên Lực, hay một Đấng tối cao mà người tín hữu chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa, Đấng dựng nên và thưởng phạt con người về những việc ḿnh làm trong cuộc sống trên đời này. V́ không có niềm tin này, nên người ta tự do sống thác loan, làm những sự dữ và tội ác không sao tả cho siết được. Thực trạng này phải là mới ưu tư hàng đầu của những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa cực tốt cực lành, đă sai Con Một là Chúa Kitô đến trần gian v́ “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1Tm 2 : 4)

Nhưng muốn được cứu độ và nhận biết chân lư th́ phải thực sự và thực tâm tin Chúa Kitô và thể hiện niềm tin ấy cách cụ thể bằng thực hành hay sống theo Tin Mừng Cứu độ của Người.

Thật vậy, Phức Ăm Sự Sống hay Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đă rao giảng và trả giá bằng chính mạng sống của Người trên thập giá cách nay trên 2000 năm, cho đến nay vẫn c̣n xa lạ đối với đa số người trên trái đất này, v́ hiện c̣n trên 5 tỷ người chưa biết Chúa Kitô và đang c̣n ở ngoài Giáo Hội Công Giáo là phương tiện hữu hiệu nhất để chuyên chở ơn cứu độ của Chúa Kitô đến cho mọi dân mọi nước trên khắp địa cầu cho đến ngày măn thời gian.

V́ thế, sứ mang Phúc âm hóa thế giới vẫn là trọng trách và là mối ưu tư hàng đầu của Giáo Hội. Và để thi hành sứ mang này cách hiệu quả hơn, Giáo hội cần nh́n lại chính ḿnh để xem Tin Mừng của Chúa Kitô đă thấm sâu vào tim óc của ḿnh đến đâu cũng như đă biến đổi chính ḿnh ra sao, trước khi tiếp tục sứ mạng phúc âm hóa người khác, tức mời gọi thêm nhiều người nữa đón nhận và tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc duy nhất của nhân loại.

Đó là lư do Giáo Hội mở Năm Đức Tin để toàn thể Giáo Hội được dịp kiểm điểm đời sống đức tin của ḿnh trước khi quảng bá đức tin ấy cho những người chưa nhận được Tin Mừng này.

Ngày 22 tháng 9 vừa qua, nhân tiếp kiến một số đông tân Giám mục ở Rôma, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đă lưu ư các tân Giám mục về sứ mệnh phúc âm hóa như sau :

Công cuộc Phúc âm hóa quả thực không phải là công việc của các chuyên gia mà là của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của các chủ chăn. Mỗi thành viên của tập thể tín hữu ở trong và cùng với cộng đồng Giáo Hội phải cảm thấy ḿnh có trách nhiêm công bố và làm nhân chứng cho Tin Mừng.

(Evangelization, indeed, is not a work of specialists, but of the entire people of God under the guidance of theirs Pastors. Every member of the faithful, in and with the ecclesial community must feel responsible for proclaiming and witnessing to the Gospel. (L’Osservatore Romano, September 26, 2012, p.5)

Đây chính là sứ mệnh mà Chúa Kitô đă trao phó cho các Tông Đồ trước tiên và cho toàn thể Giáo Hội ngày nay trước khi Người về Trời:

Anh em hăy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; c̣n ai không tin th́ sẽ bị kết án.” (Mc 16 :16)

Như thế loan báo Tin Mừng hay Phúc Âm hóa thế giới phải là sứ mênh quan trọng nhất của Giáo Hội nhận lănh từ chính Chúa Kitô sau khi Người hoàn tất công tŕnh cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa qua khổ h́nh thập giá, chết, sống lại và lên Trời.

Nhưng muốn cho công cuộc Phúc âm hóa được kết quả mong muốn th́ người công bố phải là người chứng tá cho Tin Mừng ḿnh loan truyền cho người khác, như Đức Thánh Cha đă nhắc nhở các Tân Giám Mục trên đây. Nghĩa là chính ḿnh phải sống Tin Mừng ấy cách đích thực và sâu đậm th́ mới có sức thuyết phục người khác tin điều ḿnh rao giảng cho họ.

I- Trách nhiệm ngôn sứ và nhân chứng của người Tông Đồ.

Thật vậy, người Tông Đồ xưa và nay là người được Chúa kêu gọi cách riêng đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.Thế giới xưa và đặc biệt ngày nay, đă và đang thách đố niềm tin Kitô Giáo và những ai rao giảng Tin Mừng của Chúa với thực trạng của “văn hóa sự chết” chối bỏ Thiên Chúa và mọi giáo lư của Người để quyến rũ con người vào đường hư mất đời đời.

V́ thế cho nên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” (1 Cor 9: 16) như Thánh Phaolô đă nhắc nhở chính ḿnh và những ai được ơn gọi đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, là linh dược để chữa lành mọi bệnh tật của linh hồn và bảo đảm hy vọng được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Nói khác đi, để đối kháng với mọi thách đố của “văn hóa sự chết” chỉ có Phúc Âm sự sống của Chúa Kitô mới có sức hóa giải mọi độc hại của các tà thuyết vô thần, tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, chuộng khoái lạc vô luân vô đạo, dừng dưng trước sự đau khỏ, nghèo đói của người khác. Đó là bộ mặt của thế gian trống vắng niềm tin, và nhuộm đầy mầu sắc của sự dữ sự gian ác, sự ô uế, sự bất công và thiếu t́nh người.

Nhưng cho được thuyết phục người khác nghe và tin Chúa Kitô, người Tông Đồ phải là người chứng tá trung thực của Tin Mừng ḿnh rao giảng.

Cụ thế, nếu người Tông Đồ cũng ham mê tiền của và hư danh trần thế, để vận động hay mua chuộc ai hầu được tiến cử vào các chức vụ lănh đạo trong Giáo hội hoàn vũ hay địa phương, -hoặc tệ hại hơn nữa- làm tay sai cho thế quyền để mưu lợi ích cá nhân, th́ chắc chắn sẽ không thể giảng sự khó nghèo của Phúc Âm và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này và khiêm tốn phục vụ theo gương Chúa Kitô, Người đă sống lang thang, khó nghèo đến nỗi “không có nơi tựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ.” (Mt 8: 21)

Như vậy, nếu dính bén vào của cải trần thê, và chạy theo danh vọng hư hèn th́ đă khinh chê tinh thần khó nghèo của chính Chúa Kitô.

Mặt khác, để nói lên sự khinh chê về những ham muốn danh vọng hư hăo trên đời này v à cũng để trả lời các môn đệ đến hỏi Chúa xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, Chúa Giêsu đă nói với họ như sau : “ai tự hạ, coi ḿnh như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18 : 4)

Đó chính là gương phục vụ sáng chói mà Chúa Giêsu đă nêu cao khi Người cúi ḿnh rửa chân cho các môn đệ trong Bữa tiệc Ly sau hết trước khi Người bị trao nộp và tử nạn trên thập giá để đền tội thay nhân loại và cứu chuộc cho muôn người. khỏi chết đời đời v́ tội.

Như thế, sống đức tin cho có chiều sâu và có sức thuyết phục người khác trong Năm Đức Tin này cũng đ̣i hỏi cách riêng người Tông Đồ lớn nhỏ ngày nay phải nh́n lại đời sống đức tin của chính ḿnh, xem ḿnh có thực sự sống cốt lơi của Tin Mừng hay chưa và, -và đặc biệt- đă thực sự sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô ” Đấng vốn giầu sang phú quư, nhưng đă tự ư trở nên khó nghèo v́ anh em, để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8: 9) ?

Nếu người Tông Đồ mà không là mẫu mục đức tin, đức cậy, đức mến, kèm với tinh thần phục vụ khiêm tốn và khó nghèo theo gương Chúa Kitô, th́ làm sao có thể thuyết phục được ai nghe ḿnh giảng dạy về những nhân đức này nữa ? Chúa nói: “Ai có tai nghe th́ nghe.” (Mt 13 : 43; Mc 4: 23; Lc 8: 8)

II- Trách nhiệm ngôn sứ và chứng tá của người tín hữu giáo dân:

Không phải chỉ người Tông Đồ mới có trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Ngược lại, qua bí tích Rửa tội, người giáo dân cũng tham dự vào ba chức Tư Tê, Ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô nhưng với thể thức khác với hàng Giáo phẩm, giáo sĩ và tu sĩ..

Cụ thể, hàng Giáo sĩ và Tu sĩ thừa tác (Ministerial clergy and religious) như các Giám mục và linh mục Ḍng và Triều thi hành chức năng tư tế bằng việc tế lễ trên bàn thờ, tức là dâng lại hy Tế thập giá của Chúa Kitô, giảng Phúc Âm và cử hành các bí tích trong nhà thờ nhân danh Chúa (in persona Christi).

Người tín hữu giáo dân, ngược lại, dâng chính đời sống của ḿnh với mọi vui buồn, sướng khổ để hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá xưa và cách bí nhiệm ngày nay trên bàn thờ mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist) được cử hành để cảm tạ Chúa Cha và xin ơn tha tội cho chúng ta cùng thể thức và mục đích của Hy tế Chúa Kitô dâng lần đầu tiên trên thập giá.

Cũng vậy, người tín hữu giáo dân thi hành sứ mạng ngôn sứ của ḿnh bằng chính đời sống của ḿnh trước mặt người đời để “họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5: 16).

Nghĩa là trong khi những người không có niềm tin vào Chúa Kitô và đang làm những sự xấu sự dữ như giết người, giết thai nhi, thay vợ đổi chồng, dâm ô trác táng, gian manh, trộm cắp, cờ bạc, căm thù, chia rẽ, coi nhẹ lương tâm để lường gạt, bóc lột người khác…th́ người có niềm tin nơi Chúa phải sống niềm tin ấy cách cụ thể và sống động để nêu cao những giá trị của niềm tin là tôn trọng sự sống, tôn trọng công b́nh, lương thiện, thực thi bác ái, yêu thương, tha thứ, “như thế, anhem sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều ǵ, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời.” (Pl 2: 15) theo lời dạy của Thánh Phaolô Tông Đồ.

Thật vậy, sống trong thời đại của “văn hóa sự chết”, đức tin của người tín hữu Chúa Kitô đang bị thách đố nặng nề bởi những kẻ không có niềm tin nào, nên chỉ c̣n biết chay theo những quyến rũ của tiền bạc và danh vọng hư hăo, coi nhẹ luân thường,đạo lư để làm những sự độc ác như giết người không gớm tay, lường đảo, gian manh, pha chế chất độc vào thực phảm để làm hại sức khỏe của dân chúng, trông cây thuốc phiện, cần sa, ma túy, mở ṣng bạc, nhà điếm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ măi dâm, ấu dâm vô cùng khốn nạn và tội lỗi.

Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà cũng tham gia vào những việc tội lỗi nói trên, th́ đă tự đánh mất niềm tin của ḿnh và đă thỏa hiệp với thế gian vô đạo cách rơ nét nhất. Và như thế th́ thay v́ làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời, người tín hữu sẽ trở thánh phản chứng (anti-witness) bằng chính đời sống của ḿnh trước mặt người khác khi không dám sống niềm tin của ḿnh phản ảnh trung thực Tin Mừng của sự sống, sự công b́nh, đức bác aí, t́nh thương tha nhân, ḷng yêu mến sự trong sạch thánh thiện là những đặc trưng và đ̣i hỏi của Tin Mừng Cứu Độ, tức Phúc Âm sự Sống đối nghịch hoàn toàn với : “văn hóa sự chết” của thế giới tục hóa ngày nay.

Mặt khác, khi người tín hữu Chúa Kitô tích cực hoạt động để bảo vệ cho sự sống, bảo vệ và nêu cao những giá trị của luân lư Kitô Giáo về hôn nhân, về gia đ́nh, về sự chung thủy của vợ chồng trong hôn nhân, về công b́nh xă hội, về tôn trọng quyền sống của con người th́ đă góp phần tích cực vào việc mở mang Nước Chúa là Vương quốc của sự b́nh an, công b́nh, yêu thương và thánh thiện.

Đó là trách nhiệm ngôn sứ và nhân chứng của người giáo dân trong Giáo Hội. Công Đồng Vaticanô II đă đặc biệt nói đến trách nhiệm này trong Hiến Chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân LG) như sau:

V́ thế, giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh của Giáo Hội Mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc nhận lănh Phép Rửa và Thêm sức… Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” (x. LG 33)

Nói khác đi, mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi đều có trách nhiệm rao giảng lời Chúa và làm nhân chứng cho Chúa để đem ánh sáng Chúa Kitô vào nơi tối tăm ô uế v́ ham chuộng khoái lạc dâm ô, nhảy nhót mất nết, đem công b́nh vào nơi bóc lột và bất công, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem b́nh an vào nơi đang sôi sục lửa chiến tranh và khủng bố.

Tóm lại, Năm Đức Tin là thời cơ thuận lợi cho mọi người trong Giáo Hội kiểm điểm đời sống đức tin của ḿnh để canh tân và đào sâu thêm đức tin vào Chúa Kitô trong hai chiều kích đi loan truyền và làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi thêm nhiều người nữa tin và yêu mến Chúa Kitô để được cứu độ và được vinh phúc “thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đă thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” (1 Pr 1 : 4)

Năm Đức Tin: Cần Thiết Nghe Lời Chúa Và Lănh Các Bí Tích

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Năm Đức Tin sẽ chính thức mở ra trong toàn Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 đến ngày 24 tháng 11 năm 2013.

Trong Năm Đức Tin này, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 đăc biệt nhấn mạnh đến việc tân phúc âm hóa để quảng bá đức tin Kitô-Giáo (New Evangelization for the transmission of Christian Faith).

Tân Phúc Âm hóa có nghĩa là đọc lại lời Chúa cách thấu đáo hơn để từ đó thêm biết sống niềm tin Kitô Giáo cách thiết thực và có sức thuyết phục người khác tin yêu Chúa để cùng hưởng hạnh phúc Nước Trời như ḷng Chúa mong muốn “cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư” (1 Tm 2 : 4)

Phúc Âm sự Sống (Gospel Of Life) mà Chúa Kitô đă rao giảng trên 2000 năm trước đây đang bị “văn hóa của sự chết” thách đố nặng nề, v́ nó đang lôi cuốn được nhiều người sống theo nó kể cả những người đă lănh Phép rửa để được tái sinh trong sự sống mới, nhưng nay đang bị “văn hóa của sự chết” lôi kéo vào hố giệt vong v́ thực chất vô luân vô đạo của trào lưu tục hóa thế giới hiện nay.Hậu quả là có nhiều người Công giáo -cách riêng giới trẻ- đă không thực hành đức tin như tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật, xưng tội, rước Ḿnh Máu Chúa Kitô. Có người c̣ bỏ theo Tin Lành, Baptist, Methodist.

Do đó, cần thiết phải được tái Phúc Âm hóa, nghĩa là được nghe lại lời Chúa Kitô, v́ chỉ có Người “mới có những lời đem lại sự sống đời đời” như Phêrô đă ttả lời Chúa một ngày kia sau khi nhiều môn đệ khác “đă rút lui, không c̣n đi với Người nữa.” (Ga 6:66,68)

Họ rút lui v́ cho là chướng tai khi nghe Chúa nói Người là Bánh từ trời xuống cho những ai ăn th́ sẽ được sống đời đời.

I. Sự cần thiết phải nghe Lời Chúa:

Thiên Chúa đă nói với con người qua miệng các Ngôn sứ (prophets) trong thời Cựu Ước như ông Mô Sê đă nói với dân Do Thái xưa như sau:

Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hăy ra lệnh cho con cái Israel và nói với chúng lời của Ta: “Vào đúng thời đúng buổi, các ngươi sẽ chăm lo dâng lên Ta lễ vật, lương thực dưới h́nh thức hỏa tế nghi ngút hương thơm, làm thỏa ḷng Ta.”(Ds 28: 1-2)

Lại nữa, qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kien (Ezekiel) Thiên Chúa đă phán những lời cảnh cáo kẻ gian ác ở mọi thời đại và mọi nơi trên mặt đất này như sau:

Phần ngươi, hỡi con người. Ta đă đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel
Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng : “hỡi tên gian ác chắc chắn ngươi phải chết” mà ngươi không chiu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, th́ chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết v́ tội của nó. Nhưng Ta sẽ đ̣i ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đă bảo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, th́ nó sẽ phải chết v́ tội của nó; c̣n ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống ḿnh
.” (Ed 33: 7-9)

Thiên Chúa phán dạy dân Do Thái trước tiên và cũng nói cho mọi dân trên toàn thế giới biết Thánh Ư của Người để họ biết sống xứng đáng hầu được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hạnh phúc Nước Trời là được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa trên nơi vĩnh hằng đô, sau khi mọi người phải trải qua cái chết trong thân sác v́ hậu quả của tội lỗi. Những cái chết về thể lư không quan trọng bằng cái chết của linh hồn nếu trong cuộc sống trên trần thế này con người đă tự do chọn lựa con đường đưa đến cái chết đáng sợ đó. Cứ nh́n vào thực trạng của con người sống hiện nay, ta có thể h́nh dung được ai là người muốn sống hạnh phúc vinh cửu với Thiên Chúa trên Nước Trời và ai là những người đang tự ư khước từ hạnh phúc đó. Họ chính là những kẻ đang làm ngơ hay từ chối lời mời gọi của Chúa vào dự Bàn Tiệc Nước Trời v́ nhiều lư do riêng tư. Có những người đang mải mê t́m tiền bạc và mọi vui thú vô luân vô đạo để hưởng thụ trong giây phút hiện tại mà không thắc mắc ǵ về số phận mai sau. Có những kẻ đang sống trong hận thù, ghen nghét, chia rẽ, chém. giết người khác về thể lư hay về tinh thần, dâm ô nhất là ấu dâm (child prostitution), một tội ác rất nghê tởm và khốn nạn của con người thời nay.Đây là con đường đưa đến sự chết đời đời nhưng lại có nhiều người muốn đi và đang ung dung đi trên đó ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Trước thực trạng đáng buồn này, là tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải sống đức tin có Chúa như thế nào để phân biệt chúng ta với những người không có niềm tin hay có mà đă đánh mất niềm tin ấy v́ những cạm bẫy của văn hóa sự chết ?

Chúng ta có lắng nghe lời Thiên Chúa phán bảo qua các ngôn sứ thời Cựu Ước và nhất là qua Chúa Giêsu vào thời sau hết hay không, v́ Thiên Chúa đă “phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đă nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, và đă đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn loài muôn vật.” (Dt 1 : 2)

Nghĩa là qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đă mặc khải trọn vẹn Thánh Ư Người cho nhân loại,

Cho nên: “Ai yêu mến Thầy, th́ sẽ giữ lời Thầy

Và lời anh em nghe đây
Không phải là của Thầy
Nhưng là của Chúa Cha, Đấng đă sai Thầy
.” (Ga 14 : 23, 24)

Chúa Giêsu đă chọn các Tông đồ và sai họ đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và chữa lành cho các bệnh nhân như ta đọc thấy trong Kinh Thánh Tân Ước. Chúa đă trao cho các ông trọng trách thay mặt Chúa để đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân để ai nghe các ngài th́ cũng nghe lời Chúa như Chúa đă quả quyết:

“Ai nghe anh em là nghe Thầy, và ai khước từ anh em là khước từ Thầy.
Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đă sai Thầy
.” (Lc 10: 16)

Như thế, nghe lời dạy của các Tông Đồ xưa và nghe Giáo Hội ngày nay là người kế vị các Tông Đồ dạy với Quyền Giáo Huấn (Magisterium) là nghe chính Chúa Kitô. Mà nghe Chúa Kitô là nghe Chúa Cha, Đấng đă sai Chúa Kitô đến trần gian làm Con Người “để phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 10: 45)

Do đó, đọc kỹ Kinh Thánh, chúng ta sẽ nghe lại Lời Chúa cách sâu sắc hơn, để từ đó thêm xác tín vào Chúa Kitô, hiện thân của Chúa Cha khi Người đến trần gian đi rao giảng và dạy dỗ chân lư như Chúa đă trả lời Tổng Trấn Philatô xưa như sau:

“Tôi đă sinh ra và đă đến thế gian v́ điều này
Đó là để làm chứng cho sự thật
Ai đứng về phía sự thật th́ nghe tiếng Tôi
.” (Ga 18: 37

Sự thật mà Chúa Giêsu nói ở đây là sự thật có Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành muôn loài muôn vật hữu h́nh và vô h́nh- trong đó có con người được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đă trao nộp chính Con Một Người là Chúa Kitô để cho muôn người được cứu độ nhờ máu Người đă đổ ra trên thập giá làm Hy Tế đền tội thay cho muôn dân. Đây là sự thật mà người tín hữu chúng ta phải tin và tuyên xưng bằng hành động biết ơn thiết thực là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và xa tránh mọi tội lỗi v́ chỉ có tội mới cắt đứt t́nh thân giữa ta và Thiên Chúa. Và cũng chỉ có tội mới đóng đanh Chúa Kitô một hay nhiều lần nữa trong tâm hồn chúng ta. Cho nên, sống cho sự thật này là sống đức tin có chiều sâu thực sự và có sức thuyết phục người khác.

V́ thế, để bồi dưỡng cho đức tin ấy trong Năm Đức Tin này, mỗi người tín hữu chúng ta cần đọc lại và suy gẫm lời Chúa trong các Tin Mừng để biết Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào, để từ đó thêm quyết tâm sống đức tin, đức cậy và đức mến cách sống động hơn nữa hầu chống lại những ảnh hưởng tai hại của văn hóa sự chết đang lan tràn khắp nơi và đầu độc biết bao người già trẻ, nam, nữ.

II. Sự cần thiết năng lănh nhận các bí tích Thánh Thể và Ḥa Giải:

Ngoài việc chú tâm đọc lại lời Chúa để hiểu rơ hơn thánh ư của Người cho mỗi người chúng ta, việc năng lănh nhận các bí tích Thánh Thể và Ḥa giải cũng quan trọng không kém trong Năm Đức Tin này.

Thật vậy, t́nh trạng sống Đạo của nhiểu người ở nhiều nơi thật đáng buồn. Số người đi lễ ngày Chúa Nhật và xưng tội chiều thứ bảy đă giảm sút đáng quan ngại. Rật nhiều người có dư giờ đi du hí, nhẩy nhót, ăn uống vui chơi thiếu lành mạnh cuối tuân, thâu đêm, nhưng lại không có giờ đi lễ, đi cầu nguyện ! Như thế làm sao chứng tỏ ḿnh có đức tin giữa những người không tin ?

Ta không thể nói như một số người rằng đạo tại tâm, không cần thực hành bề ngoài.Lại nữa, có xưng tội th́ xưng với Chúa chứ không cần qua linh mục.

Đây là những quan niệm rất sai lầm về việc sống Đạo của Người tín hữu Công giáo thời nay Chúa Kitô đă ban các Bí Tích cho chúng ta như phương tiện cứu rỗi rất cần thiết, nên trong Năm Đức Tin này, cần phải đặc biệt nói đến hai Bi Tích quan trọng nhất là Thánh Thể và Ḥa giải

Với Bí tích Thánh Thể, chúng ta trước hết được tham dự Hy tế của Chúa Kitô cử hành trên bàn thờ ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế Chúa đă dâng lên Chúa Cha xưa trên thập giá. Nên mỗi lần tham dự tích cực vào Thánh lễ, chúng ta cũng hiệp dâng với Chúa Giêsu hiện diện bí tích nơi thừa tác viên con người là Giám mục hay linh mục để dâng lại Hy Tế Người đă một lần dâng trên thập giá đễ xin ơn tha thứ và cứu chuộc cho toàn thể nhân loại. Cho nên tham dự Thánh Lễ cách tích cực là thể hiện đức tin cách sống động, v́ không có việc đạo đức nào đẹp ḷng Chúa hơn là dâng và hiệp dâng Thánh Lễ Tạ Ơn để cùng với Giáo Hội ca ngợi và cảm tạ Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.

Khi tham dự Thánh lễ, ta được nghe Lời Chúa và được ăn Ḿnh, uống Máu Chúa Kitô để được sống đời đời như Chúa Giêsu đă hứa: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta th́ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6: 54)

Liên quan đến việc chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để rước Chúa vào ḷng, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu năng xưng tội qua bí tích ḥa giải để được tha mọi tội năng và nhẹ đă mắc phạm v́ yêu đuối con người. Người Công Giáo không thể nói như anh em Tin Lành là chỉ cần trực tiếp xưng tội trực tiếp với Chúa, chứ không qua trung gian của ai. Nói thế là chối bỏ điều Chúa Giêsu đă nói rơ trong Phúc Âm Thánh Gioan như sau:

Anh em tha tội cho ai th́ người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai th́ người ấy bị cầm giữ
.” (Ga 20: 22)

Trước đó, Chúa cũng đă trao cho Phêrô quyền tháo gỡ và cầm buộc, tức là được tha tội cho con người nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi):

“Thầy sẽ trao cho anh ch́a khóa Nước Trời : dưới đất anh cầm buộc điều ǵ, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo gỡ điều ǵ, trên trời cũng sẽ tháo gỡ như vậy.” (Mt 16:19)

Như thế rơ ràng Chúa Kitô đă trao quyền tha tội cho các Tông Đồ trước tiên và cho Giáo Hội ngày nay, cụ thể là cho các Giám mục và Linh mục được quyền tha tội cho mọi hối nhân nhân danh Chúa.

Do đó, đi xưng tội với một linh mục là nói lên niềm tin vào lời Chúa đă dạy trên đây.Cũng cần nói thêm là linh mục, dù bất xứng ra sao trước mặt người đời, nhưng khi nhân danh Chúa Kitô để tha tội cho ai th́ người ấy được tha v́ chính Chúa Kitô tha tội cho người ấy qua tay linh mục là thừa tác viên thay mặt Chúa. Cho nên, đừng ai nghi ngại việc này mà không năng đến với Chúa Kitô qua Bí tích ḥa giải. Năng xưng tội, năng rước Ḿnh Thánh Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để trở nên giống Chúa và có hy vọng chắc chắn được cứu rỗi để sống hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước trời mai sau.

Tóm lại, Năm Đức Tin là thời cơ thuận tiện cho chúng ta tái xác định ḷng tin vững vàng vào Chúa, ḷng mến yêu Người thiết tha và hy vọng chắc chắn được “thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đă thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” (1 Pr 1: 4).

Chúng ta cùng cầu xin cho sự thành công của Năm Đức Tin để canh tân đời sống đức tin của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội.

Nhân Năm Đức Tin, Cần Nuôi Dưỡng Và Sống Đức Tin Thế Nào?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Như Đức Thánh Cha Bê-nê-đichtô 16 đă quyết định và loan báo, ngày 11 tháng 10 tới đây, Lễ khai mạc Năm Thánh sẽ được Đức Thánh Cha long trọng cử hành tại Công Trường Thánh Phêrô, Rôma. Năm Thánh sẽ chắm dứt ngày 24 tháng 11 năm 2013.

Nhân dịp này, Đại Hội Đồng Giám Mục Thế giới (Assembly of the Synod of Bishops) sẽ họp phiên thứ 13 thường lệ với chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để loan truyền Đức tin Kitô-Giáo” (New Evangelization for the Transmission of the Christian Faith).

Là người tín hữu Chúa Kitô sồng trong thế kỷ 21 này, chúng ta phải canh tân và sống đức tin cách nào để không những mưu ích cho chính ḿnh mà c̣n mời gọi thêm những người khác chưa biết và tin Chúa Kitô được nhận biết Chúa để cùng hưởng Ơn cứu Chuộc đă mua bằng giá máu Chúa đổ ra trên thập giá năm xưa.

Thật vậy, Đức tin là một quà tặng nhưng không và vô giá (gratuitous and invaluable) mà Thiên Chúa đă ban để giúp ta nhận biết Người là Cha Toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật hữu h́nh và vô h́nh. Đặc biệt, Thiên Chúa tạo dựng con người “giống h́nh ảnh của ḿnh” (St 1 : 27) và muốn cho “mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư.” (1Tm 2 : 8) .

Thiên Chúa tạo dựng và mong muốn cho con người được hạnh phúc chỉ v́ t́nh thương vô vị lợi của Người dành cho tất cả chúng ta, những con người được sinh ra trên trần thế này và có diễm phúc được biết Chúa qua ơn mặc khải mà Chúa Kitô đă cảm tạ Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta về quà tặng đức tin quí giá này:

Lậy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha v́ Cha đă giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này,nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lậy Cha, v́ đó là điều đẹp ư Cha.” (Lc 10: 21)

Như thế có nghĩa là nếu Thiên Chúa không tự mặc khải Người (revealed Himself) cho ai th́ không ai có thể tự ḿnh nhận biết có Thiên Chúa và tin yêu Người.

Tại sao những bậc thông thái, khoa học gia biết cắt nghĩa sự h́nh thành của vũ trụ và mọi qui luật chi phối đời sống của con người và mọi loài động vật, thực vật, và thảo mộc, nhưng lại không khám phá ra được Thiên Chúa là chính Đấng dựng nên mọi loài mọi vật đó ?

Lư do duy nhất để trả lời câu hỏi này là v́ họ không được Thiên Chúa mặc khải hay ban quà tặng đức tin vô giá nên họ không thể biết ǵ về Thiên Chúa với kiến thức tuy rộng lớn đối với con người nhưng lại quá hạn hẹp đối với Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song.

Vậy đối với những ai đă được điễm phúc biết Chúa nhờ đức tin th́ phải bồi dưỡng và sống đức tin ấy ra sao đặc biệt trong Năm Đức Tin này ?

1- Trước hết, phải làm ǵ để bồi dưỡng đức tin cho lớn mạnh thêm nữa ?

Kinh nghiệm đơn sơ của bất cứ người làm vườn (gardener) nào đều cho biết là khi trồng một loại cây trái mới nào, người ta phải lựa giống tốt của cây đó. Nếu là hạt th́ phải đặt vào nơi đất đă bón phân sẵn và chờ cho hạt đó nẩy mầm rồi tiếp tục nuôi dưỡng với nước và phân bón thích hợp. Nếu không chăm lo vun tưới đều đặn th́ hạt sẽ chết khô trong ḷng đất, dù là hạt của giống cây tốt. Nhưng từ lúc hạt nẩy mầm cho đến khi mọc thành cây và sinh hoa trái th́ người làm vườn phải tốn nhiều th́ giờ và công sức chăm bón mới có kết quả tốt để hưởng dùng.

Cũng tương tự như vậy, đức tin được gieo vào tâm hồn con người như hạt giống được gieo xuống đất. Một em bé, sau khi sinh một hai tháng, được rửa tội để được tái sinh trong sự sống mới. Nhưng sau khi rửa tội, nếu cha mẹ và thân nhân sống gần em mà không giúp nuôi dưỡng đức tin đó cho em th́ chắc chắn khi lớn lên em bé sẽ không thể tự biết ǵ về Chúa và tin yêu mến Ngài. Do đó, cha mẹ em phải là người trước hết trực tiếp nuôi dưỡng con ḿnh không những về thể lư cho con lớn lên mạnh khỏe mà đặc biệt c̣n về mặt thiêng liêng để giúp con cái lớn lên trong đức tin đă lănh nhận khi được rửa tội. Nghĩa là, trong gia đ́nh cha mẹ phải là thầy dạy đức tin cho con ḿnh bằng cách dạy cho con cái biết có Thiên Chúa là Cha nhân lành, yêu thương hết mọi người. Sau nữa, bằng gương sáng trong gia đ́nh, cha mẹ dạy con cái biết đọc kinh, cầu nguyện và đem chúng đi dự lễ chung với ḿnh các ngày Chúa Nhật để được nghe giảng về Chúa. Tiếp theo là cho con cái đi học các lớp giáo lư để lănh các bí tích Thánh Thể, Ḥa Giải và Thêm sức, giúp cho con cái lớn lên trong niềm tin có Chúa.

Khi trẻ đă lớn đủ và những người đă trưởng thành ư thức được ḿnh có đức tin, tin có Thiên Chúa, có sự sống đời đời th́ đó là lúc họ cần phải chứng tỏ ư muốn sống đức tin ấy bằng hành động cụ thể. Kinh nghiệm thực tế khác cũng cho biết là khi người ta đă có một kỹ năng (skill) nào như biết bơi, biết lái xe, hay biết chơi một loại nhạc cụ nào như đàn guitar hay piano th́ muốn phát triển kỹ năng đó, người ta phải năng luyện tập để đạt mức hoàn hảo chuyên nghiệp. Nếu không th́ kỹ năng đó sẽ mai một theo thời gian. Thí dụ, người biết bơi mà không tập luyện mỗi ngày hay mỗi tuần th́ không những sẽ không bao giờ bơi giỏi được mà c̣n mất dần kỹ năng này theo thời gian nữa.

Cũng tương tự như vậy, tin có Chúa v́ sinh ra trong một gia đ́nh có Đạo, hay có cảm nghiêm riêng về Thiên Chúa, th́ phải tiếp tục bồi dưỡng cho ánh sáng đức tin ban đầu đó được cháy sáng lên trong tâm hồn đến mức đủ soi sáng cho ḿnh bước đi trên con đường dẫn đến sự sống đời đời. Nghĩa là phải bồi dưỡng đức tin ban đầu với cố gắng học hỏi thêm về giáo lư của Giáo Hội, đọc Kinh Thánh để hiểu và sống Lời Chúa và nhất là năng lănh nhận các bí tích quan trọng như Thánh Thể và Ḥa giải để được luôn sống trong t́nh thân với Chúa. Thêm vào đó, phải siêng năng cầu nguyện luôn, v́ “Không có Thầy anh em sẽ chẳng làm ǵ được.” (Ga 15:5).

Không có Thầy nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp nâng đỡ th́ không ai có thể tự ḿnh lớn lên trong đức tin và có đủ sức để chống lại những yếu đuối của bản năng, nhưng dịp tội đầy rẫy trong môi trường sống và nhất là những cám dỗ của ma quỷ, thù địch của chúng ta luôn ngày đêm ŕnh rập như “sư tử gầm thét rảo quanh t́m mồi cắn xé.” (1 Pr 5 : 8)

V́ thế, cẩn thiết phải bồi dưỡng đức tin bằng nỗ lực cá nhân như siêng năng cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, giáo lư của Giáo Hội và năng lănh nhận hai bí tích rất quan trọng là Thánh Thể và Ḥa giải để được thánh hóa và lớn lên trong đức tin.

Nhưng cho được sống đức tin cách vững chắc và cụ thể, ta phải ư thức đầy đủ về nội dung và đ̣i hỏi của niềm tin là phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự thể hiện qua quyết tâm xa tránh những ǵ mâu thuẩn hay đi ngược lại với đức tin có Chúa là cội nguồn của mọi sự tốt lành, thánh thiện, công b́nh, bác ái, nhân đạo, vị tha. Nghĩa là người có niềm tin nơi Chúa th́ không thể cho phép ḿnh làm những sự xấu, sự độc ác như giận ghét, căm thù ai, nói xẩu, vu cáo ai những điều vô bằng cớ, trộm cắp, gian tham, lừa đảo, thay vợ đỗi chồng, cờ bạc, dâm đăng nhất là thâm độc giết hại người khác về thể lư hay tinh thần… Đây là bộ mặt của sự trống vắng niềm tin, khinh chê mọi giá trị tinh thần, luân lư, đạo đức. Đây là thực chất của xă hội vô luân, vô đạo, của “văn hóa sự chết” (culture of death) đang bành trướng ở khắp nơi trên thế giới ngày nay, đặc biệt là ở những quốc gia tự do quá trớn, tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) tôn thờ phái tính (sex worship) tôn thờ vật chất, tiền bạc, và mọi vui thú phi luân, vô đạo như thực trạng ở các nước Âu Mỹ hiện nay.

Ở bên kia thái cực, là bộ mặt của xă hội vô thần, vô tôn giáo, hay nói rơ hơn là thù địch của những ai có niềm tin vào Đấng toàn năng làm chủ vũ trụ và sự sống của con người và của mọi loài động vật, thưc vật và thảo mộc.Thực trạng ở đây c̣n đáng sợ hơn nữa v́ người ta không tin có một Quyền lực thiêng liêng nào thưởng phạt, nên họ mặc sức làm những sự dữ như hà hiếp bóc lột, giết hại những ai chống đối, vơ vết tài sản công để làm giầu cho cá nhân và tập thể cai trị, trong khi quay lưng lại hay dửng dưng trước sự nghèo đói của người dân và suy thoái đạo đức nặng nề của xă hội.

Thêm vào đó, chế độ c̣n dung dưỡng cho các băng đảng của xă hội đen lộng hành để cướp bóc, hăm hại người dân lành, cô thân, cô thế. Đây là tội ác mà xă hội dung dưỡng để chất thêm thống khổ lên đầu lên cổ người dân đă phải chịu nhiều tai ương khác của xă hội vô luân, phi nhân, vô đạo.

2- Phải sống đức tin cách nào đặc biệt trong Năm Đức Tin này?

Sống trong xă hội với các thực trạng trên đây, người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo hơn bao giờ hết phải có can đảm tuyên xưng đức tin của ḿnh bằng đời sống thực sự công b́nh, bác ái, thánh thiện, xa tránh mọi quyến rũ của xă hội vô luân vô đạo đang lôi kéo con người vào hố diệt vong v́ đam mê của cải và mọi vui thú phi luân, nhắm mắt bịt tai trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác. Trước thực trạng này, người có đức tin –và đặc biết sống đức tin ấy trong Năm Đức Tin này- cần nêu cao những giá trị của niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian để vạch rơ con đường dẫn đến sự sống và con đường đưa đến hư mất đời đời, như Chúa đă dạy sau đây:

Hăy qua cửa hẹp mà vào v́ cửa rộng và đường thênh thang th́ đưa đến diệt vong mà nhiều người lại đi qua đó.C̣n cửa hẹp và đường chật th́ đưa đến sự sống, nhưng ít người t́m được lối ấy.” (Mt 7: 13-14)

Con đường rộng răi thênh thang mà nhiều người muốn đi và đang đi là con đường của văn hóa sự chết, con đường đưa đến các ṣng bạc, nhà điếm, nơi giải trí với mọi thú vui vô luân vô đạo, con đường tham nhũng, ăn cắp của công, bóc lột và bách hai người dân lành vô tội để làm giầu cho cá nhân và tập đoàn thống trị gian ác, đang vơ vét tiền của để gửi ra nước ngoài pḥng thân. Đó cũng là con đường của bọn tài phiệt tư bản chuyên thao túng thị trường chứng khoán để vơ vét tài sản của bao người đầu tư và thua lỗ v́ những kỹ thuật tinh vi của bọn cầm đầu kỹ nghệ xảo quyệt này.

V́ thế, đứng trước một thế giới gian tà từ Đông sang Tây hiện nay, người tín hữu Chúa Kitô, cách riêng người có sứ mạng rao giảng chân lư đức tin và tin Mừng Cứu Độ-hơn lúc nào hết phải có can đảm mạnh mẽ bênh vực cho sự thật, cho công b́nh xă hội và lành mạnh hóa con người để chống lại những suy thoái, tụt hậu của xă hội về mặt luân lư, đạo đức. Nếu làm ngơ, - hay tệ hại hại hơn nữa- thỏa hiệp với kẻ cầm quyền để mưu cầu tư lợi cho ḿnh và bịt tai nhắm mắt trước mọi bất công, sự dữ, th́ đă tự đánh mất niềm tin và chức năng thiêng liêng của người ngôn sứ trong hoàn cảnh cụ thể của xă hội đương thời. Mặt khác, sống đức tin cách hữu hiệu và có sức thuyết phục người khác th́ cũng không cần thiết phải xây thêm hay sửa sang nhà thờ, nhà xứ cho khang trang lộng lẫy khiến phải lặn lội đi xa một năm mấy lần để kiếm tiền. Điều tối cần và quan trọng là phải có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm để noi gương Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó v́ anh em, để lấy cái nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8: 9)

Người phục vụ cho Tin Mừng mà không noi gương Chúa Kitô trong cuộc sống th́ không thể làm gương đức tin cho ai và thuyết phục được ai tin và thực hành những điều ḿnh giảng dạy cho người khác nhân danh Chúa Kitô.

Về phần người tín hữu Chúa Kitô, người Công giáo chân chính cũng phải làm ǵ cụ thể để phân biệt ḿnh với những kẻ không có niềm tin, chỉ biết sống với vui thú hiện tại và không thắc mắc ǵ về một tương lai mai hậu, khi mà mọi sự ở đời này sẽ mau chóng trôi qua kể cả sự sống của con người có hay không có niềm tin nào.

Nếu người có đức tin dám can đảm sống đức tin của ḿnh cách dũng cảm là xa lánh mọi thói hư tật xấu của xă hội như cờ bạc, lường đảo, dâm ô và vui chơi sa đọa, nhẩy nhót, hút xách... th́ đă nêu cao giá trị của niêm tin trước mặt người đời. Ngược lại, nếu người có đức tin mà cũng a dua với kẻ không có niềm tin để cùng nhau làm những việc vô luân,vô đạo, như gian tham,trộm cắp, lương gạt, bất công và bóc lột người khác, vô liêm sỉ, vô lương tâm bỏ vợ già để cưới vợ trẻ, “bồ nhí”, th́ chắc chắn họ đă chối bỏ đức tin của ḿnh bằng chính đời sống cụ thể trước mặt người khác. Và như thế th́ dù họ có kêu cầu ngoài môi miệng “Lậy Chúa, lậy Chúa! cả trăm ngàn lần th́ cũng vô ích mà thôi ! đúng như lời Chúa Giêsu đă dạy các Tông Đồ xưa như sau:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa !, Lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ư muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Trong mấy ngày qua, theo dơi t́nh h́nh thế giới, chúng ta thấy những người Hồi Giáo đă rầm rộ biểu t́nh chông Mỹ ở các quốc gia Hồi Giáo chỉ v́ một cuốn phim chế riễu Mohammad được sản suất ở Mỹ và tŕnh chiếu trên trang mạng Facebook, Youtube. Có thể chúng ta không đồng ư về cách thức phản kháng của anh em Hồi Giáo, nhưng chúng ta phải khen họ về thái độ hăng say bênh vực cho tôn giáo của họ, tuy đó là h́nh thức quá khích và bạo động không nên làm.

Anh em Hồi Giáo hăng say bảo vệ tôn giáo của họ như vậy, c̣n chúng ta th́ sao ? Chắc chắn chúng ta không được mong đợi phải xuống đường để đánh phá những ai nhạo bang Thiên Chúa của chúng ta, nhưng chúng ta được mong phải đợi sống đức tin cách cụ thể bằng tư tưởng và hành động, bằng việc bác ái vị tha, và nhậy cảm (sensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác. Đồng thời, phải xa tránh mọi điều gian ác, tội lỗi, xấu sa của những kẻ không có niềm tin hay có mà không dám sống niềm tin ấy trước mặt người đời.

Ai không có can đảm sống niềm tin của ḿnh trước mặt người khác, th́ hăy nghe lại Lời Chúa Giêsu đă nói với đám đông xưa như sau:

Giữa thế hệ ngoại t́nh và tội lỗi này, ai hổ thẹn v́ Ta và những lời Ta dạy, th́ Con Người (tức Chúa Giêsu) cũng sẽ hổ thẹn v́ kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần trong vinh quang của Cha Người.” (Mc 8: 38)

Như thế có nghĩa là chúng ta phải có can đảm tuyên xưng đức tin bằng chính đời sống của ḿnh giữa bao người khác để làm nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô, Đấng đă đến trần gian làm Con Người để hiến mạng sống ḿnh “làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28)

Tóm lại, Năm Đức Tin là thời điểm thuận lợi để mỗi người tín hữu chúng ta dừng chân để nh́n lại cách sống đức tin của ḿnh trong bao năm qua để canh tân lại những ǵ c̣n thiếu sót, cần đổi mới cho thích hợp.Cụ thể, nên học hỏi kỹ lời Chúa trong Kinh Thánh và các tài liệu giáo lư, tín lư, thần học của Giáo hội để bồi dưỡng thêm cho đức tin được vững mạnh thêm nữa hầu có sức để đương đầu với những thách đố của thời đại trống vắng niềm tin. Hơn thế nữa, đây cũng là thời gian thuận lợi để chúng ta lập lại quyết tâm sống đức tin vào Chúa Kitô cách cụ thể và sống động hơn nữa để giữa bao người không có đức tin và đang làm những sự xấu, sự gian ác, chúng ta phải sống sao cho phù hợp và xứng đáng với lời khuyên dạy của Thánh Phaolô sau đây:

Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều ǵ và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà sa dọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những v́ sao trên ṿm trời.” (PL 2: 15)

Ước mong mọi người tín hữu chúng ta suy gẫm và thực hành lời dạy trên đây của Thánh Phaolô trong Năm Đức Tin này.

Điều Răn Thứ Hai: Kính Thánh Danh Chúa

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi : xin cha giải thích rơ tội phạm điểu răn Thứ Hai của Chúa

Trả lời : Là người tín hữu Công giáo, ai cũng thuộc ḷng điều răn thứ hai cấm kêu tên Chúa vô cớ. Tại sao như vậy ?

Câu trả lời là chính Thiên Chúa đă truyền cho dân Do Thái qua miêng ông Mô-sê mệnh lệnh sau đây:

“Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, v́ Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người cách bất xứng.” (x Xh 20: 7 ; Đnl 5: 11)

Nhưng thế nào là dùng Danh Chúa cách bất xứng ?

Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại sự kiện Thiên Chúa tỏ ḿnh cho ông Mô-Sê từ bụi cây bốc cháy và truyền cho ông sứ mạng dẫn đưa dân Do Thái từ Ai Cập trở về quê hương sau bao năm sống nô lệ và thống khổ trên đất Ai Cập. Ông Mô Sê, trước hết, đă ngần ngại, không dám nhận làm việc đó, nên đă hỏi tên Chúa để có cớ nói với dân và Chúa đă trả lời ông như sau:

Ta là Đấng Tự Hữu. Ngươi hăy nói với con cái Israel thế này: “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ap-ra ham, Thiên Chúa của I xa-ac, Thiên Chúa của Gia-cóp sai tôi đến với anh em. Đó là Danh Ta cho đến muôn thủa. Đó là Danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời này đến đời kia.” (x. Xh 3 : 14-15)

Như thế, Danh của Thiên Chúa là Đức Chúa, Đấng Tự hữu đă mặc khải cho ông Mô-Sê để nói lại cho dân Do Thái trước tiên và cho hết mọi người, mọi dân trên trần thế này được biết để tôn thờ, tôn kính đến muôn đời.

Tác giả Thánh Vinh 29 và 113 đă ca tụng Danh Thánh Chúa như sau :

“ Hăy dâng Chúa vinh quang xứng Danh Người
Và thờ lậy Chúa uy nghiêm thánh thiện
.” (Tv 29: 2)

Hoặc :

Ha-lê-luia !
Hởi tôi tớ Chúa, hăy dâng lời ca ngợi’
Nào ca ngợi Danh thánh Chúa đi
Chúc tụng Danh thánh Chúa.

Do đó, tôn kinh Thánh Danh Chúa cũng thuộc về nhân đức thờ phượng Chúa trên hết mọi sự như nội dung điều răn Thứ Nhất dạy ta.

Giáo lư của Giáo Hội dạy như sau về việc kính Thánh danh Chúa:

Trong số các lời của Mặc Khải, có một lời rất đặc biệt : đó là lời Mặc khải Danh Thánh của Thiên Chúa qua đó Thiên Chúa cho con người biết Danh của Ngài.Nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải ḿnh cho những ai tin Người trong mầu nhiệm riêng tư về Người. Danh thánh của Thiên Chúa là một quà tặng tin cẩn và mật thiết. Danh của Người là thánh, v́ thế con người không được lạm dụng Thánh Danh của Thiên Chúa, mà phải yêu mến tôn thờ trong tâm hồn, và chỉ nhắc đến Danh Thánh Chúa để cảm tạ, ngợi khen và tôn vinh Thánh danh đó mà thôi.”(x SGLGHCG số 2143)

Cũng cần nói thêm nữa là Thánh Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đều phải được tôn thờ tôn kính như nhau, v́ cùng là Một Thiên Chúa duy nhất mặc dù với Ba Ngôi Vị. Thêm vào đó, cũng phải kinh danh thánh của Đức Mẹ và các thánh Nam nữ, v́ các ngài là vinh quang của Thiên Chúa, Đấng đă tạo dựng, thánh hóa và nâng đỡ để các ngài được bước lên bậc hiển thánh trên Nước Trời để cùng với các đạo binh Thiên Quốc ngày đêm chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đến muôn đời.

Do đó, những hành động hay việc làm sau đây được coi là xúc phạm đến Thánh Danh Chúa :

1- Trước hết là phải có can đảm xưng danh Chúa trước mặt người đời và nhất là trước những kẻ muốn bách hại đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, vào Chúa Kitô, Đấng đă đến trong trần gian làm Con Người để “cứu chuộc cho muôn người”. Nghĩa là nếu không dám xưng ḿnh là người tin có Thiên Chúa th́ cũng được coi là chối Chúa và xúc phạm đến Danh Thánh của Người trước mặt người khác.Khi được rửa tội, chúng ta được rửa “nhân danh chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19) Do đó, Người tín hữu Chúa Kitô chân chính mang danh Chúa Ba Ngôi không thể nói ba phải là “ Lậy Chúa, lậy Phật, lậy Đấng Mohammed…để muốn làm vui ḷng người khác tín ngưỡng với ḿnh. Ta tôn trọng niềm tin của họ nhưng phải có can đảm và hănh diện tuyên xưng Thiên Chúa là Cha duy nhất của ḿnh trong mọi hoàn cảnh.

2- Nếu nhân danh Chúa để thề hứa với ai điều ǵ th́ phải tôn trọng và thi hành lời hứa đó v́ đă lấy Danh Chúa mà hứa với họ. Nếu không tôn trọng lời hứa v́ Danh Chúa th́ đă coi Chúa là Người nói dối như Thánh Gioan đă dạy như sau :

Nếu chúng ta nói là chúng ta đă không phạm tội
Th́ chúng ta coi Người (Thiên Chúa) là kẻ nói dối
Và lời của Người không ở trong chúng ta.
” (1 Ga 1 :10)

3- Nói phạm thánh (blasphemy) là trực tiếp phạm điều răn thứ hai.Tội phạm thánh bao gồm những tư tưởng và lời nói xúc phạm đến Danh Thánh Chúa như những lời giận dữ, oán trách Chúa –hoặc ghê gớm hơn nữa- là nguyền rủa Thiên Chúa chỉ v́ một bất măn, hay tai họa chẳng may gặp phải, khiến mất niềm tin và kính trọng đối với Chúa, như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đă nói như sau: ‘

“Chẳng phải họ nói xúc phạm đến Danh Thánh cao đẹp mà anh em được mang đó sao?” (Gc 2: 7)

Đó là những kẻ mang danh Chúa, tự nhận ḿnh là người có Đạo của Chúa Kitô nhưng lại làm hoặc tham gia vào những việc tỗi lỗi như ức hiếp, bóc lột tra tấn người khác, buôn bán dâm ô, cần sa ma túy, làm chứng gian cho người khác thay vợ đổi chồng, lường gạt trộm cướp…Người Kitô-hữu Công giáo mà làm những việc vô luân vô đạo này th́ chắc chắn sẽ khiến cho người khác thù hận tôn giáo của ḿnh và căm thù cả Đấng mà ḿnh mang Danh Thánh là Chúa Kitô. Đây là tội phạm thánh rất nghiêm trọng phải tránh cho được xứng đáng là người tin yêu Chúa Kitô sống giữa những người không chia sẻ cùng niềm tin với ḿnh, giữa những kẻ gian ác v́ không có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, công b́nh và đầy yêu thương.

Cũng được kể là tội phạm thánh khi nói hay có hành động xúc phạm đến Đức Mẹ và các thánh như quăng ảnh tượng Đức Mẹ và thánh nam nữ nào vào thùng rác hay lấy chân đạp lên các thánh tượng đó.Đặc biệt ai lấy Ḿnh Thánh Chúa đem về nhà để làm chuyện mê tín nào đó th́ cũng là hành động phạm thánh nghiêm trọng.

4- Tội bội thệ (perjury) là tội xúc phạm đến Thanh Danh Chúa v́ cố ư tuyên thệ để làm chứng một việc gian dối hay phủ nhận một lỗi nặng của chính ḿnh trước luật pháp xă hội. Bội thệ cũng cố ư hứa với ai điều ǵ nhưng cố ư không thi hành lời đă thề hứa nhân danh Chúa.Do đó, người “bội thệ” không những có lỗi nặng đối với luật pháp xă hội mà c̣n lỗi phạm đến Thiên Chúa là Đấng công b́nh và chân thật tuyệt đối nữa .

Chúa Giêsu đă ngăn cấm việc bội thệ như sau :

Anh em c̣n nghe Luật dạy người xưa rằng: chớ bội thệ, nhưng hăy giữ trọn Lời thề với Thiên Chúa. C̣n Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : đừng thề chi cả … hễ có th́ nói