Thiên
Chúa & Chủ thuyết Vô thần mới
John
F. Haught
Trần
Hữu Thuần, PX 53 (Huế), dịch
Vài hàng giới thiệu tác phẩm và tác giả
của người dịch:
Tại
Hoa ḱ, hiện nay có một nhóm tự xưng là vô thần,
phổ biến nhiều sách bán chạy nhất và bài báo,
cả trên mạng,phi bác sự hiện diện của Thiên
Chúa và tôn giáo, cách riêng Kitô giáo. Trong nhóm này phải kể
đến Richard Dawkins, một giáo sư đại
học, Sam Harris, Christopher Hitchens, Daniel Dennett, vv.
John
F. Haught là Trưởng khoa và Giáo sư tại Phân khoa
thần học Đại học Georgetown từ năm 1970
đến 2005. Ông là Thành viên thâm niên về Khoa học và Tôn
giáo tại Trung tâm thần học Woodstock thuộc
Đại học Georgetown. Về vị giáo sư tác
giả của “Thiên
Chúa và chủ thuyết vô thần mới” (God and the New
Atheism) này, tôi xin mượn lời của Elia Delio trong bài
nhận định của bà về tác phẩm mới
nhất của John F. Haught “Làm cho tiến hóa có ư
nghĩa” (Making Sense of Evolution): “John Haught không chỉ là
một trong các nhà thần học hay nhất của thời
đại chúng ta; ông, như Teilhard, là một tiên tri.”
Trong
bản dịch này, chúng tôi cố gắng sử dụng
từ thuần Việt, tránh dùng từ Hán Việt khi có
thể được. Về tên riêng người và
địa điểm, chúng tôi giữ lại gốc
tiếng Anh trừ phi tên đă quá quen thuộc, ví dụ
chúng tôi viết Frank, nhưng Phêrô, nước Sweden,
nhưng nước Pháp. Theo ư kiến riêng, điều này
sẽ dễ dàng cho bạn đọc trẻ đă quá quen
thuộc với các ngoại ngữ Anh Pháp ngày nay, hơn là
viết theo các phiên âm nhiều khi gây bối rối.
Trần
Hữu Thuần
Dẫn nhập
Bất
cứ ai theo dơi ngày nay sách bán chạy trong thế giới
xuất bản không thể không chú ư đến sự bùng
phát gần đây các luận giải vô thần đầy
khiêu khích. Các sách bán chạy nhất của Richard Dawkins, Sam
Harris, và Christopher Hitchens đă lôi cuốn một số
lượng chú ư khác thường. Nhiều người
đọc, kể cả các nhà khoa bảng, đă t́m
thấy các sách đó không chỉ hấp dẫn mà c̣n, trong
vài trường hợp, thuyết phục. Cuốn Ảo
giác về Thiên Chúa (The God Delusion) của Dawkins viết
hay tuyệt vời, cho dẫu không luôn luôn chính xác, những
ǵ một số nhà khoa học và triết học đă
từng suy nghĩ đến. Tương tự, trong
cuốn Chấm dứt đức tin (The End of Faith) và
Thư cho một quốc gia Kitô giáo (Letter to a Christian
Nation), và Hitchens, trong cuốn Thiên Chúa không vĩ
đại: Làm sao tôn giáo đầu độc mọi
thứ (God Is Not Great: How Religion Poisons Everything), đă nêu
lên rơ ràng và thích thú những ǵ mà nhiều người
đọc của họ cũng cho tôn giáo là sai lầm. Tôi
sẽ nói đến các tác phẩm đó cách chung là “chủ
thuyết vô thần mới.”1
Một
số sách có vẻ trí thức tương tự giờ
đây đang cố gắng nhân danh khoa học vạch
trần tôn giáo và cách riêng ư niệm về Thiên Chúa.2
Thoạt tiên tôi có ư muốn kể cả cuốn Phá
vở lời nguyền: Tôn giáo như là một hiện
tượng tự nhiên (Breaking the Spell: Religion as a Natural
Phenomenon) của Daniel Dennett một cách tập chú hơn vào
trong nghiên cứu của tôi về chủ thuyết vô
thần mới, nhưng sách của Dennett là một lư
luận dài ḍng vô ích về một vấn đề tương
đối đơn giản, và dù cách nào cũng không là
một phương cách ngoại lệ để tấn
công tôn giáo.3 Hơn nữa, khi trả lời ba cuốn sách
mà tôi đă chọn để đánh giá, tôi quả thực
cũng đề cập đến tuyên bố chính yếu
của Dennett, nói rơ ra là rằng tôn giáo nên được
nghiên cứu theo tự nhiên, cách riêng theo cách nh́n của sinh
vật học tiến hóa. Dù sao tên của Dennett cũng
thường được nhắc tới, nhưng v́ các
hạn chế của độ dày và phức tạp
của cuốn sách này, tôi đă quyết định
đề cập minh nhiên với ba tác giả kia, và với
Dennett thỉnh thoảng hơn.
Quan
điểm chính của Dennett là rằng khoa sinh vật
tiến hóa cung cấp cách giải thích sâu sắc nhất
về mọi hiện tượng, kể cả
đạo đức và tôn giáo. Xem xét một nhận
thức tiến hóa về tôn giáo, tôi có thể lư luận,
không là điều thần học chống đối.
Thực tế, thần học, như tôi nhận thức
nó, không có đối kháng nào trong việc thúc đẩy các
cách giải thích tiến hóa về mọi hệ thống
sinh vật, kể cả tôn giáo, bao lâu nó có thể hữu
lư và hiệu quả khoa học để làm như vậy.
Với khoa học, nói cho cùng, các tôn giáo cũng là thành
phần của thiên nhiên như tất cả mọi
thực tế khác có thể quan sát được. Tuy nhiên,
Dennett không ngừng lại với nhận thức rằng
tôn giáo là một hiện tượng tự nhiên mà khoa học
có đủ mọi quyền để nghiên cứu. Theo
ông, cũng như theo Dawkins, một tri thức tự nhiên
về tôn giáo không c̣n dành chỗ đáng kể nào nữa cho
các tường tŕnh thần học đáng tin cậy
về tại sao phần lớn con người có tôn giáo.
Thần học theo Dennett, cũng như theo Dawkins, Harris, và
Hitchens, giờ đây hoàn toàn thừa thăi. Chỉ một
ḿnh khoa học có thể cho chúng ta biết mọi
điều về tôn giáo thực sự là ǵ, và nó có thể
cung cấp các giải đáp tốt hơn thần học
có
thể
cung cấp cho mọi câu hỏi quan trọng người ta
hỏi đến. Theo Dawkins, khoa học thậm chí có
đủ tư cách để quyết định liệu
Thiên Chúa có hiện hữu hay không. Cho dẫu Dennett không hoàn
toàn tự tin như vậy, ông chia sẻ sự tin tưởng
rằng tầm bao quát nhận thức của khoa học là
toàn vẹn, và từ đó rằng nó không để lại
chỗ đáng kể cho giải thích thần học về
tôn giáo.
Sự
tin tưởng của Dennett rằng khoa học có thể
cung cấp một tri thức đầy đủ về
tôn giáo hiển nhiên không phải là một tuyên bố đă được
khoa học chứng tỏ hay thậm chí có thể chứng
tỏ được. Đó là một tín điều,
một tuyên ngôn về đức tin. Không một tích lũy
lớn lao nào về lời lẽ phỉ báng châm chọc
hay rèn luyện trí tuệ có thể che đậy sự
kiện này khỏi người đọc có tính phê phán.
Hệ thống niềm tin mà Dennett và các người vô
thần mới khác tán đồng được biết
đến như là “chủ thuyết thiên nhiên khoa học”
(scientific naturalism). Giáo điều trọng tâm của nó là
rằng chỉ có thiên nhiên, kể cả nhân loại và các
tạo dựng của chúng ta, là thực; rằng Thiên Chúa
không hiện hữu; và rằng chỉ có khoa học có
thể cho chúng ta tri thức hoàn toàn và đáng tin cậy
về thực tế. V́ Thiên Chúa không nằm trong phạm vi
lănh vực của “chứng cứ” (evidence) mà khoa học
cứu xét đến, bất cứ ai có lư trí, có giáo
dục về khoa học phải do đó từ
khước niềm tin vào Thiên Chúa. V́ phần lớn
mọi điều Dennett viết về tôn giáo đều
dựa trên niềm tin riêng của ông vào chủ thuyết
thiên nhiên khoa học, tôi sẽ trả lời phê phán các bài
viết của ông thậm chí nếu tôi không luôn luôn nêu
đích danh ông.
Theo
Dawkins và Dennett, người ta phải quyết định
giữa các giải thích thần học và
Carl
Sagan, Michael Shermer, Steven Weinberg, Owen Flanagan, và Victor Stenger,
ấy là chỉ kể ra một ít, đă tuyên bố
tương tự,4 v́ thế ở đây không cần
phải khảo sát riêng lẻ các tác giả này. Các tác
giả mà tôi cứu xét đề cập đến cũng
lănh vực đó và hơn thế nữa. Vô số cuốn
sách, bài báo, và điểm sách hiện nay tán đồng giáo
điều trọng tâm của chủ thuyết vô thần
mới, nhưng tôi thấy rất ít điều trong các tác
phẩm khác đó đă không được đề
cập đến, nếu không muốn nói hay hơn,
bởi ba tác giả mà tôi nêu bật trong bộ sách này.
Tuy
nhiên, tôi phải thú nhận niềm thất vọng của
tôi khi chứng kiến sự trỗi sinh gần đây
mối quan tâm đến chủ thuyết vô thần. Đó
chẳng phải mảy may v́ cuộc đời tôi như
là một nhà thần học gặp nguy hiểm—cho dẫu
các tác giả được bàn đến thiết tha ao
ước như vậy. Cũng chẳng phải v́ xử
lư về tôn giáo trong các tiểu luận này bao gồm
phần lớn các khái quát quá mức hời hợt bỏ
ra ngoài hầu hết mọi điều mà các nhà thần
học có thể muốn nêu rơ lên trong cuộc thảo
luận đương thời của chính họ về
Thiên Chúa. Đúng ra, chủ thuyết vô thần mới không
một chút thử thách nào về thần học. Việc
dấn thân vào thần học của chủ thuyết này
nằm gần như ở cùng một tầm mức
với suy tư về đức tin mà người ta có
thể t́m thấy trong văn chương của các
người theo thuyết tạo dựng (creationist) và
căn bản (fundamentalist) đương thời.
Điều này không ǵ đáng ngạc nhiên v́ chính từ
những người theo thuyết tạo dựng và người
hữu thần theo thiết kế thông minh mà các người
vô thần mới thu nhặt phần lớn nhận
thức của họ về đức tin tôn giáo. Các nhà
thần học ḍng chính, cũng như các sinh viên lịch
sử trí tuệ, sẽ t́m thấy trong các sách báo đó quá ít
những ǵ họ chưa từng được thấy
trước đây. Hơn nữa, tôi có thể giả
thiết nhiều người đọc cuốn sách này
không có bối cảnh thần học để biết rơ
cách làm sao đối xử với họ, và v́ thế không
phải chỉ dành cho các chuyên viên, thầy cô giáo, và sinh viên
học sinh, mà c̣n cho người đọc đại chúng
mà tôi cống hiến trong các trang sách này một trả
lời theo thần học.
Sử
dụng từ “theo thần học” ở đây, tôi
muốn chứng tỏ, trước hết, rằng suy
tư của tôi phát sinh từ việc tôi tùy thuộc vào
một truyền thống tôn giáo hữu thần, nghĩa
là, một truyền thống tuyên xưng niềm tin vào
một Thiên Chúa có tính con người (personal God5), một
Thiên Chúa của quyền uy và t́nh yêu vô tận, Đấng
tạo dựng và duy tŕ thế giới, và Đấng măi
măi mở ra cho thế giới một tương lai
mới và không có tiền lệ, một Thiên Chúa làm mới
mọi sự.
Nhận
thức Kinh thánh thiết yếu này về Thiên Chúa nói
rằng huyền nhiệm siêu nhiên chỉ có thể xử
lư bằng phương cách đức tin, tin tưởng,
và hy vọng (các quan niệm gần như không thể phân
biệt được trong văn chương Kinh thánh),
không phải như là một sở hữu nhận thức
hay tôn giáo. Hơn nữa, cho dẫu Thiên Chúa không thể
được biết đến tách rời khỏi
đức tin và hy vọng, đa số các nền thần
học cho phép rằng đức tin và hy vọng hoàn toàn
nhất quán với và tràn đầy nâng đỡ bởi
lư trí con người, kể cả việc theo đuổi
nhận thức khoa học.
Thứ
hai, thần học, như tôi dùng từ đó, là một suy
tư tán thưởng nhưng cũng phê phán, triết
học về các tôn giáo tuyên xưng niềm tin vàoThiên Chúa.
Từ đây trở đi, khi tôi nói đến “thần
học,” tôi sử dụng từ này như là nhăn hiệu chung
cho công việc của nhiều người tư duy về
thông tin Kinh thánh, suy tư phê phán, và tôn giáo mà tôi đă t́m thấy
hữu ích trong việc h́nh thành nhận thức của riêng
tôi về đức tin và chủ thuyết vô thần. Cách
riêng, tôi muốn nói đến các nhà tư duy như Paul
Tillich, Alfred North Whitehead, Paul Ricoeur, Rudolf Bultmann, Edward Schillebeeckx,
Bernard Lonergan, Karl Barth, John Bowker, Elizabeth Johnson, Karl Rahner,
Jürgen Moltmann, Wolfhart Pannenberg, Ian Barbour, David Tracy, Dorothee
Soelle, Sallie McFague, Henri de Lubac, Hans Konas,
Emil
Fackenheim, và Seyyed Hossein Nasr, chỉ kể ra một ít.
Rơ
ràng các người vô thần mới không quen thuộc
với bất cứ ai trong các nhà tư duy tôn giáo, và sự
thù địch với cái mà họ gọi là “thần
học” gần như không dính líu ǵ đến nền
thần học như tôi sử dụng từ đó.
Thỉnh thoảng, phê phán của chúng tôi đến gần
việc nghi ngờ rằng có thể có cả một
thế giới khác về tư duy tôn giáo thích đáng ở
ngoài đó, nhưng họ muốn làm cho mọi sự
dễ dàng cho họ và các người đọc họ, v́
thế họ để thần học, ít nữa theo ư
nghĩa của tôi với từ này, ra ngoài toàn bộ
thảo luận của họ. Chiến thuật này là
để chận đứng trên thực tế bất
cứ tiếng nói thần học có ư nghĩa nào có thể
mong muốn tham gia vào tṛ chuyện với họ. Kết
quả của việc loại bỏ này, phẩm chất trí
tuệ của chủ thuyết vô thần của họ
bị giảm giá trị một cách không cần thiết.
Nhận thức của họ về đức tin tôn giáo vẫn
nhất quán ở cùng một tầm mức không uyên bác
như tính tôn giáo không suy tư, mê tín, và theo nghĩa đen
của những người mà họ chỉ trích. Hơn
nữa, ở giữa tất cả nổi bất b́nh
biện minh được của họ với các lạm
dụng tôn giáo, họ không thể đo lường tính
khả dĩ rằng tôn giáo nhân gian cũng thường lên
đến độ cao của cao quí, can đảm, và
đích thực mà không một học thuật công b́nh và vô
tư nào có thể làm ngơ.
Một
cách lư tưởng, tác giả các sách tôi sẽ đánh giá
cũng sẽ liếc nh́n vào các trang sau đây, nhưng v́
các bài viết của họ cho đến nay cho thấy
không quan tâm ǵ đến thần học, chắc chắn
không c̣n trông mong rằng họ cũng sẽ ḥa điệu
vào. Tôi cũng sẽ rất vui nếu các người
hữu thần Do thái và Hồi giáo t́m thấy
được điều ǵ đáng quan tâm trong nghiên
cứu này, cho dẫu họ chắc chắn sẽ có câu
trả lời độc đáo của riêng họ cho
chủ thuyết vô thần mới.
TẠI SAO CÓ SÁCH NÀY?
(Why This Book?)
Tôi
quyết định viết cuốn sách này nhằm
để phơi bày các sai lầm và ngụy biện cơ
bản làm cho chủ thuyết vô thần mới ít có ấn
tượng hơn là nó thoạt xem ra như vậy. Tôi
không thể xử lư từng tác giả với chi tiết,
cũng không thể trả lời mọi quan điểm,
nhưng không cần thiết phải làm như vậy
nhằm để phơi bày tính không nhất quán họ cùng
chia sẻ. Các người vô thần mới có biết bao
nhiêu điều chung với nhau cũng như với các
thể loại chủ thuyết vô thần trước kia
cho đến nổi những ǵ tôi sẽ phải nói
để phê phán một người này, ngoại trừ
một vài khác biệt thứ yếu, thường thường
cũng áp dụng cả cho các người khác. Kết
luận này cách riêng đúng về quan điểm chung
họ chia sẻ với nhiều nhà khoa học, triết
học,và các nhà trí thức đương thời. Ở
đây tôi dẫn chiếu đến viễn ảnh
ảnh hưởng gia tăng của thực tế mà
trước đây tôi đă gọi là chủ thuyết thiên
nhiên khoa học. V́ sự quan trọng của nó trong
việc h́nh thành định kiến của tất cả
các người vô thần mới, kể cả nhiều
người tôi không thể đề cập đến,
tôi sẽ liệt kê ra đây các giáo điều chính của
nó:
1.
Ngoại trừ thiên nhiên, bao gồm cả hiện thân con
người và các tạo dựng văn hóa của chúng ta,
không có ǵ nữa cả. Không có Thiên Chúa, không linh hồn, và
không có đời sống sau sự chết.
2.
Thiên nhiên tự khởi sinh (self-originating), không phải Thiên
Chúa tạo dựng
3.
Vũ trụ không có quan điểm chung hay mục đích,
cho dẫu các cuộc sống con người cá nhân có
thể được sống với chủ đích.
4. V́
Thiên Chúa không hiện hữu, tất cả mọi giải
thích và mọi nguyên ủy đều thuần túy tự
nhiên và có thể được nhận thức chỉ
bằng khoa học.
5.
Tất cả mọi h́nh thái đa dạng của hiện
thân sống động, kể cả trí thông minh và cách
cư xử của con người, đều có thể
cuối cùng được giải thích thuần túy
bằng diễn giải tự nhiên, và ngày nay điều
này thường có nghĩa là bằng diễn giải
tiến hóa, cách riêng theo thuyết Darwin.
Các người
vô thần mới có thể thêm các điều sau đây vào
các giáo điều của chủ thuyết thiên nhiên khoa
học:
6.
Đức tin vào Thiên Chúa là nguyên ủy của vô số
điều ác (evils) và phải bị từ khước
trên nền tảng luân lư.
7.
Luân lư không đ̣i buộc niềm tin vàoThiên Chúa, và
người ta cư xử tốt không có đức tin
hơn là có nó.
Các
giả định cùng chia sẻ đó, căn bản trí
tuệ của chủ thuyết vô thần mới, đ̣i
buộc một trả lời nếu chúng ta phải đào
sâu tận gốc rễ. Trong cuốn sách trước
đây, Thiên nhiên đă đủ chưa? Ư nghĩa và sự
thực trong thời đại khoa học (Is Nature
Enough? Meaning and Truth in the Age of Science), tôi đă lư luận sâu
rộng hơn rằng chủ thuyết thiên nhiên khoa
học là một hệ thống niềm tin không mạch
lạc và tự hủy hoại (incoherent and self-subverting),
nhưng tôi không thể nhắc lại toàn bộ lư luận
trong thảo luận ngắn ngủi hơn này. Tôi
đề cập đến tác phẩm trước
đây, và nhiều tính khoa bảng hơn, để
trường hợp vài người đọc đang t́m
kiếm một phiên bản tương đối mở
rộng hơn của một số các lời phê b́nh tôi
tŕnh bày ở đây khi áp dụng Dawkins, Harris, và Hitchens.
Tôi
tiến hành như sau:
Trong
chương 1, tôi hỏi chủ thuyết vô thần
mới mới đến chừng nào. Trong chương
thứ nhất, tôi nhằm cung cấp một tóm
lược ngắn về các tuyên bố của từng
người trong ba tác giả của chúng ta, hỏi xem nếu
có khía cạnh nào có thể xứng đáng được
xem xét đặc biệt. Tôi nhận thấy rằng các tác
phẩm được nghiên cứu cung cấp một
phơi bày mới mẻ và đôi khi lư thú về các vấn
đề quan trọng, nhưng chúng chủ yếu cũng
giống như những điều đă ám ảnh các tôn
giáo và các nền thần học nhiều thế hệ.
Năm câu hỏi kiên định phát sinh từ bất
cứ cuộc thảo luận nào về chủ thuyết
vô thần, và các câu hỏi đó được dùng làm
chủ đề cho các chương 3-7: Thần học có
quan trọng ǵ không (chương 3)? Thiên Chúa có phải là
một “giả thiết” (hypothesis) mà khoa học có thể
xác nhận hay từ khước không (chương 4)?
Tại sao con người lại nghiêng về niềm tin
tôn giáo (chương 5)? Chúng ta có thể tốt mà không có
Thiên Chúa không (chương 6)? Ư tưởng về một
Thiên Chúa có tính con người có thể tin được
không trong một thời đại khoa học
(chương 7)?
Chương
2 chỉ hỏi chủ thuyết vô thần mới vô
thần đến chừng nào. Một Nietzsche, Camus, hay
Sartre nghĩ ǵ về Dawkins, Harris, và Hitchens? Ở đây tôi
phân biệt giữa chủ thuyết vô thần “hạng
nặng” (hard-core) của nhiều chỉ trích cổ
điển về tôn giáo một bên, và bên kia là đặc
tính “hạng nhẹ” (soft-core 6) đa dạng mới
của các người vô thần mới. Rôi tôi hỏi các
cách đo lường của nhóm sau hay ho chừng nào so
với các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của nhóm trước.
Cuối cùng, trong chương 8, tôi cống hiến một
câu trả lời cách riêng theo Kitô giáo cho các câu hỏi
biện giải trong các chương 3-7. Với một
số người đọc, chương cuối cùng
sẽ xem ra như tùy chọn, cho dẫu với riêng tôi
đó là chương quan trọng nhất. Bảy
chương đầu của tôi tránh xử lư chủ
thuyết vô thần mới theo quan điểm thuần túy
Kitô giáo. Thay vào đó, phê b́nh của tôi theo thể loại
thế nào để những người hữu thần
không Kitô giáo (cách riêng người Do thái và Hồi giáo tin vào
Thiên Chúa), cũng như những người vô thần và
không thể biết được (agnostics7) có thể theo
dơi dễ dàng. Chỉ trong chương kết luận tôi
mới phác họa một đáp ứng theo thần học
Kitô giáo. Tôi chứng tỏ trong chương 8 rằng
những ǵ các người vô thần mới của chúng ta
hiểu về “Thiên Chúa” gần như chẳng có ǵ liên quan
đến những ǵ đức tin và thần học Kitô
giáo ngày nay hiểu về tên gọi này.
Càng
đi sâu vào việc viết sách này, càng có nhiều chứng
cứ hơn cho tôi rằng tôi đang cống hiến
một phê phán không chỉ về chủ thuyết vô
thần mới mà c̣n về thể loại tư duy tôn giáo,
đạo đức, và tâm linh mà cuốn sách này phản
ứng chống lại. Tôi gợi ư rằng có các cách thay
thế thần học đáng tin cậy và hấp dẫn
cho cả hai. Tuy nhiên, cho dẫu các người vô thần
mới từ khước Thiên Chúa của những
người tin vào thuyết sáng tạo, cơ bản,
khủng bố, và những người bảo vệ
thiết kế thông minh, không phải không hấp dẫn khi
thấy họ đă quyết định bàn căi với các
người cực đoan đó hơn là với bất
cứ nhà thần học chính yếu nào. Việc chọn
lựa người đối kháng này phản bội
sự tôn trọng vô ư thức của họ các phiên bản
theo nghĩa đen và bảo thủ của tư duy tôn giáo
trên các thể loại ḍng chính theo truyền thống
hơn—điều họ hoàn toàn làm ngơ và ngấm
ngầm từ khước v́ tính không chính thống của
họ. Thực sự các người vô thần mới này
đang nói nếu Thiên Chúa quả thực hiện hữu,
chúng ta phải cho phép nhân dạng của vị Thiên Chúa này
được những người theo thuyết cơ
bản (fundamentalists) của các truyền thống tôn giáo
Abraham chỉ định ra một lần dứt khoát. Tôi
tin họ đă chọn chiến thuật này không chỉ
để làm cho công việc hủy hoại của họ
dễ dàng hơn mà c̣n bởi v́ họ thán phục khó che
dấu nổi sự đơn giản của các quan
điểm của phe đối lập với họ
về thực tế. Chứng cứ rơ nhất việc
họ bị thu hút vào một quan điểm thế
giới không phức tạp có thể t́m thấy trong
việc họ trung thành với giả định thậm
chí đơn giản hơn của chủ thuyết thiên
nhiên khoa học.
(Cước
chú cuối bài là của tác giả trừ phi có ghi là của
người dịch [nd])
1Richard
Dawkins, The God Delusion (
2
Victor J. Stenger, God: The Failed Hypothesis: How Science Shows That God
Does Not Exist (Amherst, N.Y.: Prometheus Books, 2007); Carl Sagan, The
Demon-Haunted World: Science as a Candle in the Dark (New York: Ballantine
Books, 1997); Steven Weinberg, Dreams of a Final Theory (New York:
Pantheon, 1992); Michael Shermer, How We Believe: The Search for God in an
Age of Science (New York: W. H. Freeman, 2000); Owen Flanagan, The
Problem of the Soul: Two Visions of Mind and How to Reconcile Them (New
York: Basic Books, 2002).
3
Daniel Dennett, Breaking the Spell: Religion as a Natural Phenomenon (
4 Xem
số 2 trên
5
Personal God: Một quan điểm thần học về
Thiên Chúa, không phải là con người nhưng có tính con
người. Có các tài liệu khác được dịch là
Thiên Chúa (Thượng đế) con người có
thể gây hiểu lầm Thiên Chúa là một con
người. Tôi dịch là Thiên Chúa có tính con
người để tránh hiểu lầm (người
dịch)
6
Hard-core; Soft-core: Xin tạm dịch. Hard-core: hạng
nặng; Soft-core: hạng nhẹ (nd)
7
Agnostics: Thường dịch là bất khả tri.
Trong bản dịch này, tôi sẽ dùng từ thuần
Việt thay cho Hán Việt khi có thể được (nd)
1
Chủ
thuyết vô thần mới mới chừng nào?
(How
New Is the New Atheism?)
“Khi Con của Người đến,
Người có sẽ t́m thấy đức tin trên quả
đất không?”
—Luca 18, 8
Ngày sau khi tháp đôi của Trung tâm mậu
dịch thế giới sụp đổ vào tháng chín 2001,
vợ tôi và tôi tham dự một nghi lễ đặc
biệt tại Thánh đường Công giáo Thiên Chúa Ba Ngôi
gần Đại học Georgetown nơi tôi đă dạy
học nhiều năm. Bill Byron, vị chánh xứ Ḍng Tên và
nguyên viện trưởng Đại học Công giáo
Mỹ, dâng Thánh Lễ và giảng một bài
giảng đầy ư cầu nguyện. Nếu quí
vị muốn ḥa b́nh, ông nói, hăy thực hiện công b́nh.
Người có đức tin phải không bao giờ từ
bỏ hy vọng cải thiện phẩm chất cuộc
sống khắp thế giới. Chúng ta cần tránh các
giải pháp đơn giản hóa và kết án tổng quát
các tôn giáo. Chúng ta tất cả phải làm cho thế
giới công chính hơn không kể bao lâu, và không phải
sử dụng bạo lực. Giữa nỗi kinh hoàng và
đau đớn to lớn những ngày sau 11 tháng 9,
khuyến khích tương tự về thực hiện
khoan dung, t́nh yêu, và công b́nh ngân vang qua các nơi thờ
phượng trên khắp thế giới.
Vào khoảng đồng thời với các nghi
lễ đó đang tiếp tục, một nhà triết
học và sinh viên khoa học thần kinh trẻ tuổi
tại Đại học Standford, Sam Harris, đang sáng
chế ra một giải pháp khác, cấp tiến hơn
nhiều, cho vấn đề đang leo thang của
chủ thuyết khủng bố toàn thế giới. Khoan
dung và đồng cảm đơn giản sẽ không làm
được ǵ, ông ta nghĩ. Quả thực, khoan dung
của đức tin là một nguyên ủy chính yếu
của vấn đề. Đề nghị của Harris,
như được tŕnh bày trong các sách bán chạy
nhất của ông Chấm dứt đức tin (The
End of Faith) và Thư cho một quốc gia Kitô giáo (Letter
to a Christian Nation), rơ như ban ngày.1 Chúng ta có thể loại
bỏ đức tin khỏi thế giới không phải
bằng bạo lực mà bằng lư trí và sự lan tràn
của khoa học. Tự xem ḿnh như là một ông
Phật mới, Harris quyết định chia sẻ
với các người đọc của ông—và với toàn
thế giới—một cái ǵ như một phiên bản
mới của Tứ diệu đế (Four Noble Truths)
của Đức Phật cũ. Richard Dawkins và Christopher
Hitchens thiết yếu cũng tuyên bố tương
tự.
CHỨNG ĐẾ THỨ NHẤT
(The First Evident Truth)
Nhiều người trên thế giới đang
sống những cuộc sống bi thảm một cách không
cần thiết, Harris ghi nhận, phảng phất dội
lại Diệu đế thứ nhất của
Đức Phật “mọi cuộc sống đều
đau khổ.” Giả định về bối cảnh
của Harris là rằng mục đích của cuộc
sống con người là để t́m hạnh phúc.
Ngược lại, triết gia Immanuel Kant và các nhà tư
duy khôn ngoan và các bậc thầy tâm linh khác đă dạy
rằng hạnh phúc chỉ đến như là một phó
sản phẩm của việc t́m kiếm một điều
ǵ vĩnh cửu. Nhắm trực tiếp đến
hạnh phúc là một phương cách chắc chắn không
t́m thấy nó. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không hiện hữu
và vũ trụ là không cứu cánh, điều tốt
nhất chúng ta có thể làm là nỗ lực cho một
thế giới trong đó hạnh phúc, “một h́nh thái sung
túc là điều thay chỗ cho mọi chuyện khác,”
được bảo đảm cho số đông các cá
thể (Harris, 205)2. Harris không định nghĩa hạnh
phúc, cũng không phân biệt nó với các thể loại
khác của toại nguyện. Ông đơn giản giả
định rằng tất cả chúng ta đều
biết theo trực giác hạnh phúc là ǵ và rằng chúng ta
phải lấy đó làm chủ đích của mọi
hiện hữu đạo đức (170-71).
Rằng tất cả chúng ta chịu đau
khổ và cuối cùng chết là không thể tránh khỏi,
Harris nhận ra, v́ đó là cách làm sao thiên nhiên và tiến hóa
hành động. Chúng ta có thể làm dịu một số
ưu phiền tự nhiên và kéo dài cuộc sống của chúng
ta thậm chí nếu chúng ta không thể hoàn toàn loại
bỏ đau khổ. Tuy nhiên, nổi đau đớn vô
nghĩa mà chủ thuyết khủng bố gây ra là một
chuyện khác. Có thể chúng ta có thể làm
điều ǵ đó với chuyện đó, một
điều ǵ cấp tiến. Như với việc
nhận ra đầu tiên của Đức Phật, chúng ta
phải bắt đầu đối mặt hoàn toàn
với sự kiện rằng thế giới thực
tại chứng kiến nhiều nỗi khốn khổ
không cần thiết, rơ nét nhất là các biến cố
như cuộc thảm sát 11 tháng 9.
CHỨNG ĐẾ THỨ HAI
(The Second Evident Truth)
Harris tuyên bố, nguyên ủy của biết bao
nhiêu phiền năo chính là đức tin, cách riêng dưới
h́nh thái niềm tin vào Thiên Chúa. Đức tin là “niềm tin
không chứng cứ” (belief without evidence) (58-73, 85), và theo
Hitchens điều này chính là điều “đầu
độc mọi thứ.” Dawkins đồng ư (308), và
cả ba tác giả cố gắng thuyết phục
người đọc của họ rằng các
đức tin độc thần—Do thái, Kitô, và Hồi
giáo—tạo cơ sở cho một phần đáng kể
của điều ác mà hiện thân con người làm
khổ nhau suốt ba ngàn năm qua. Nhưng không phải
chỉ các ư niệm kinh hoàng về Thiên Chúa như các ư niệm
của Al-Qaeda và những người cuồng tín khác gây ra
biết bao khổ đau không cần thiết. Chính là
đức tin, thuần túy và đơn giản.3
Tuyên bố này không hoàn toàn như Diệu
đế thứ hai của Đức Phật, nói rằng
nguyên ủy của đau khổ là tham vọng (tanha).
Nhưng có sự tương đồng, trong trường
hợp này v́ các ư kiến bệnh hoạn để
thoả măn ước muốn h́nh như không đáy
biết bao nhiêu con người có do ảo vọng (Harris 23,
26-27, 38-39, 58-73). Trong một công thức gần như
ngắn gọn như của Đức Phật—nguyên
ủy của đau khổ là đức tin—các
người vô thần mới của chúng ta muốn
tập chú sự chú ư một cách chính xác trên những ǵ
cần bị tiệt trừ nếu hạnh phúc đích
thực phải được thực hiện.
Ư kiến Thiên Chúa được làm thành
(fabricated) bởi đức tin là “nguy hiểm cách nội
tại” (intrinsically dangerous) (44) và ác độc
về luân lư (morally evil), không kể nó được h́nh
thành dưới h́nh thái nào trong trí tưởng tượng
của chúng ta. Tại sao? Tại v́ không có chứng
cứ nào về điều đó, và thực tế
“không một chứng cứ nào thậm chí có thể quan
niệm được” (no evidence is even conceivable)
(23). Đặt căn bản nhận thức trên “chứng
cứ” không chỉ là cần thiết về ư thức mà c̣n
thiết yếu cả về luân lư. Thất bại thử
nghiệm về chứng cứ, điều làm cho khoa
học đáng tin cậy, “đức tin tôn giáo đại
diện cho việc dùng sai quyền lực của tâm trí
chúng ta cho đến nổi nó tạo thành một thể
loại đơn biệt ngoan cố, văn hóa—một
điểm ảo bên ngoài nó mà tiến tŕnh lư trí chứng
minh là không có thể
được. Khi gán ép lại trên từng
thế hệ, nó làm cho chúng ta không c̣n khả năng
nhận ra thế giới của chúng ta đă nhượng
bộ chừng nào cho một quá khứ đen tối và
mọi rợ.” (25)
Các người vô thần mới muốn làm
thật sáng tỏ rằng điều thực sự ác
của các tôn giáo tin vào Thiên Chúa không những chỉ là các
h́nh ảnh phỏng theo con người (anthropomorphic images) thô
thiển của các thần chúa trỗi sinh từ “các
điều tự nhiên tầm thường hơn—các
lực như tham vọng, ghét bỏ, và sợ hăi” (15), mà
c̣n rằng các thần chúa đó trỗi sinh từ
“đức tin” hơn là từ “chứng cứ.” Cả
“đức tin” và “chứng cứ” cần phải
được hiểu cách cẩn thận. Ở đây
từ “đức tin” có chức năng với các
người vô thần mới gần như là “tham
vọng” (greedy desire) với Đức Phật. Đức
Phật đă gán nỗi đau khổ của chúng ta với
xu hướng bám víu vào các sự vật một cách ám
ảnh cho đến nỗi chúng ta tự làm cho
vướng phải thất vọng một khi chúng ta
phải đối mặt với sự phù vân của
mọi hiện thân. V́ thế nếu chúng ta muốn
hạnh phúc, tốt hơn cả chúng ta đừng bám víu
vào bất cứ thứ ǵ. Theo Đức Phật, “tham
vọng” là nguồn gốc của đau khổ của
chúng ta. Theo các người vô thần mới, đó chính là
xu hướng của chúng ta tin vào bất cứ
điều ǵ không có chứng cứ. Đức tin làm
cho thế giới thành thảm hại hơn biết bao
nhiêu so với việc cần đến nó.
Niềm tin vào Thiên Chúa là một phiên bản
độc hại của đức tin. Chỉ cần xem
đến mọi phương cách trong đó niềm tin vào
Thiên Chúa và cuộc sống đời sau khuấy trộn
thế giới ngày nay. Ví dụ, tôi đang viết các trang
này vào ngày chết chóc nhất cho đến nay của
việc thất bại hoàn toàn ở
“Chứng cứ” là một cụm từ sống
c̣n, nêu lên vô số lần trong sách của Harris và tại các
điểm ch́a khóa trong sách của Dawkins (282-83). Nhưng
“chứng cứ” là ǵ? Các tác giả không bao giờ cẩn
thận định nghĩa cụm từ đó có ư nghĩa
ǵ, rơ ràng nó có nghĩa đối với họ là bất
cứ những ǵ khả dĩ thử nghiệm, thực
nghiệm, hoặc quan sát được cách công khai. Các
tuyên bố khác thường như tuyên bố về tôn
giáo, như Harris xác nhận, đ̣i buộc một “thể
loại thử nghiệm khác thường,” nhưng
chẳng có loại nào khả dĩ. V́ chỉ có khoa học
mới chứng thực hay không thực các định đề
của nhân loại, người ta phải kết luận
rằng các ư niệm tôn giáo, thiếu bất cứ
chứng cứ cụ thể nào, không thể tuyên bố là
đúng sự thực một cách hợp pháp. Không trải
qua một vài thể loại thử nghiệm thực
nghiệm, gần như bất cứ thứ ǵ cũng có
thể trở thành chấp nhận được trong tâm
trí tôn giáo, kể cả niềm tin rằng tử
đạo bằng nổ bom tự tử sẽ phóng
người ta lập tức vào thiên đàng. V́ thế,
chỉ có các tuyên bố có “đầy đủ chứng
cứ” là chấp nhận được với những
ai muốn chấm dứt sự thảm hại con
người.
Các nhà thần học ngày nay hiểu đức
tin như là sự cam kết trọn vẹn hiện thân
của con người với Thiên Chúa (the commitment of one’s
whole being to God). Nhưng các người vô thần mới,
dội lại một nền thần học giờ đây
đă thành cổ điển, nghĩ đến đức
tin theo một nghĩa trí tuệ và định đề
hẹp ḥi. Vị trí của đức tin theo họ không
phải là một con tim dễ bị thương tổn mà
là một trí tuệ yếu hèn. Harris, Dawkins, và Hitchens xem
mọi h́nh thái đức tin là phi lư, và lạm dụng lư
trí bằng cách chứa chấp đức tin trong tâm trí con
người cũng là không đạo đức một
cách kinh hoàng. Thật sai lầm theo luân lư để tin vào
bất cứ điều ǵ không đủ chứng cứ.
Theo quan điểm đó, các người vô thần mới
nhận lấy những ǵ mà các người vô thần
của thế hệ cũ hơn gọi là “đạo
đức tri thức” (ethic of knowledge) làm nền tảng
cho cuộc sống cả luân lư lẫn nhận thức.Vào
các năm cuối 1960, nhà sinh hóa học đáng chú ư và vô thần
Jacques Monod tuyên bố rằng “đạo đức tri
thức” phải là nền tảng của mọi tuyên
bố luân lư và trí tuệ. Ông tuyên bố thật là không
đạo đức khi chấp nhận bất cứ ư
kiến nào thất bại trong việc dính liền với
“định đề về khách quan”
(postulate of objectivity). Nói cách khác, thực là sai
lầm về luân lư khi chấp nhận bất cứ tuyên
bố nào không thể chứng thực được trên
nguyên lư bằng hiểu biết khoa học “khách quan.”
Nhưng, thế th́, chính bản thân giáo điều đó th́
sao? Có ai có thể chứng tỏ một cách khách quan
rằng định đề khách quan là chân thực? Ở
đây Monod thành thực hơn các người vô thần
mới rất nhiều. Ông thú nhận có một ngoại
lệ cần thực hiện với định
đề khách quan. Đạo đức tri thức chính
tự bản thân là một chọn lựa “tùy tiện”
(arbitrary), không phải là một tuyên bố đă từng có
đầy đủ chứng cứ khoa học.
Đức tin, h́nh như thế, cũng mở ra một
cánh cửa đủ rộng cho chủ thuyết vô
thần nữa.4
Dĩ nhiên, mọi hiểu biết phải
khởi đầu ở đâu đó, và cái ở đâu
đó được gọi cách đúng đắn là
đức tin, thậm chí nếu các người chỉ
trích của chúng ta bất b́nh về từ ngữ đó.
Ở một vài tầm mức nền tảng, mọi
hiểu biết bắt nguồn từ một tuyên ngôn
về tin tưởng, trong một “ư nguyện để
tin” (a “will to believe”). Ví dụ, chúng ta phải tin
tưởng vũ trụ đă có một vài ư nghĩa nào
đó thậm chí trước khi chúng ta có thể bắt
đầu t́m hiểu về tính tri thức của nó. Các
tuyên ngôn không tri thức được về đức
tin cũng ủng hộ mọi tuyên bố các người
vô thần đưa ra, kể cả việc chính thức
loại bỏ đức tin. Trong một luận văn
nhan đề “Ư nguyện để tin” (The Will to Believe),
luận văn mà các người vô thần của chúng ta
không tỏ dấu hiệu nào cho thấy họ đă
đọc, triết gia William James chỉ trích W. K. Clifford
về việc đưa ra một tuyên bố đạo
đức cách tùy tiện cho đến nổi thực là
sai lầm nếu tin vào bất cứ điều ǵ mà không
đầy đủ chứng cứ. 5 Tất cả
những ǵ quí vị phải làm là đọc luận
văn rất quan trọng của James để nhận ra
rằng, ít nữa trong những ǵ chúng ta đă nh́n thấy
cho đến nay, hoàn toàn chẳng có ǵ mới trong chủ
thuyết vô thần mới. Nhưng xin để chúng ta tiếp
tục xem xét.
CHỨNG ĐẾ THỨ BA
(The Third Evident Truth)
Phương cách để tránh nổi đau
khổ vô ích của nhân loại ngày nay là loại bỏ
đức tin ra khỏi bề mặt trái đất.
Diệu đế thứ ba của Đức Phật nói
rằng phương cách để vượt qua đau
khổ là t́m cách xa rời khỏi bám víu vào ham muốn. Các người
vô thần mới—cách riêng Harris, người ưa
chuộng một phiên bản biên tập lại rất sát
giáo lư Phật giáo—tin rằng xa rời khỏi ràng buộc
với đức tin có thể loại bỏ đau
khổ không cần thiết cho thế giới. Ở
đây, “đức tin” là cái hầm không đáy trong ư
thức tạo thành chỗ cư trú cho mọi thứ
từ niềm tin vào đĩa bay, đến phù thủy,
linh hồn, thiên thần, ma quỉ, thiên đàng, và Thiên Chúa.
Đa phần các niềm tin đó xem ra cũng vô hại,
nhưng nếu chúng ta cho phép người ta bỏ đi
thậm chí các ví dụ vô tội nhất của đức
tin, điều ǵ sẽ ngăn cản một người
cấp tiến Hồi giáo khỏi tin tưởng rằng
ư định của Thiên Chúa là hủy diệt Israel và Hoa
kỳ, hoặc một người theo chủ thuyết
Zion khỏi tin tưởng rằng Thiên Chúa muốn chúng ta
sát hại những người Palestine vô tội, hoặc
một người Kitô giáo khỏi tin tưởng rằng
ư Thiên Chúa muốn bỏ bom các nơi phá thai? Một khi ư
nguyện của Thiên Chúa bị tưởng tượng
để chấp nhận các hành động bạo
lực như vậy, lúc đó điều ǵ cũng có
thể được—kể cả các điều kinh hoàng
nhất không thể nghĩ tới.
Thông cảm được, lúc đó, các
người vô thần mới hỏi làm cách nào chúng ta có
thể chuyển hướng một thế giới nơi
giết chóc và gây thương tật v́ kỳ thị nhân
danh Thiên Chúa trở thành thực sự không thể nghĩ
tới được. V́ một thế giới như
vậy chưa hiện hữu, đ̣i buộc phải có
một giải pháp cấp tiến: chúng ta phải gạt
bỏ toàn bộ đức tin. Mọi người cần
phải chấm dứt tin tưởng vào bất cứ
khẳng định nào không thể được
“chứng cứ” ủng hộ. Điều này cách riêng áp
dụng cho tất cả mọi cuốn sách mà người
theo tôn giáo đă từ bao đời cho là thiêng thánh. V́
loại văn chương cho là được cảm
hứng của các tôn giáo tin vào Thiên Chúa là một sản
phẩm của đức tin, không có một lí do nào
để chấp nhận nó cách nghiêm chỉnh. Ngoại
trừ một vài đoạn đây đó hấp dẫn
cách thẩm mỹ, các Kinh thánh của mọi tôn giáo
đều vô giá trị. Hơn nữa, những ǵ xem ra
đúng về luân lư hay quyền rủ về thẩm
mỹ trong các cuốn sách cho là thánh thiêng và các truyền
thống của chúng ta có thể đến được
bởi lư trí hoạt động độc lập với
đức tin.
Việc chỉ trích đức tin cũng áp
dụng cả cho thần học, điều mà các
người vô thần mới tỏ ra tuyệt đối
khinh khi, hoảng kinh với sự kiện rằng vào lúc
này ở thời đại chúng ta thậm chí vẫn c̣n các
điều lố bịch như là các phân khoa khoa bảng
mang tên như vậy. Họ băn khoăn tại sao càng
nhiều học giả và những người khác mà chúng
ta trông mong họ là thông minh xem ra không chú ư đến
việc thần học nguy hiểm đến thế nào
cho thế giới. Thần học, nói cho cùng, dẫn phái
Hồi giáo này giết chết phái khác nhân danh Thiên Chúa. Chính
trong đầu óc của các nhà thần học mà các khích
lệ về toà án dị giáo và tàn sát đă nẩy nở.
Chứng cứ không thể chối căi được.
Lịch sử của Do thái, Kitô, và Hồi giáo là một lê
lết của vô số đau khổ và chết chóc gây ra
bởi các cuộc tranh chấp thần học lố lăng.
Đó là phán đoán của tất cả ba người
chỉ trích của chúng ta. Xin thành thực nh́n vào gốc
rễ của chủ thuyết khủng bố ngày nay,
họ có thể khuyên bảo chúng ta như thế. Xin nh́n
vào tất cả các vấn đề quốc gia và quốc
tế gây ra bởi ư niệm về Thiên Chúa trỗi sinh
từ các sản phẩm tưởng tượng thần
học ăn bám vào xu hướng đáng khinh của chúng
ta về đức tin. Mỗi một khi chúng ta tháo giày ra
ở trạm kiểm soát an ninh của sân bay, người
ta có thể thêm, cũng xin chỉ suy tư đến nguyên
ủy cuối cùng của điều tuế toái này.
Các nguy hiểm không tiền lệ đe dọa
chúng ta ngày nay, Harris nhấn mạnh, sẽ chỉ trở
nên tệ hại hơn trừ phi một giải pháp kiên
quyết có thể được t́m thấy. Người
theo phái phóng túng và xă hội khờ khạo gợi ư
rằng nếu chúng ta muốn có ḥa b́nh, chúng ta tất
cả cần thực hiện công b́nh. Nhưng một
giải pháp như vậy chưa đủ cực đoan
cho các người vô thần mới. Nguyên ủy cội
rễ của các h́nh thái rồ dại nhất của
bạo lực dù sao cũng không phải là nghèo đói và
bất công. Đúng ra, chính là đức tin và thần
học. Đức tin và thần học có thể dẫn
một số người đến các nghi lễ
đầy nguyện cầu như người tôi đă nói
ngay đầu chương này. Nhưng v́ kinh nguyện
dựa vào tính phi lư của đức tin, bằng cách
thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta chỉ đang kéo dài
nổi đau khổ của con người về lâu
về dài. Ngày sau ngày 11 tháng 9, thay v́ dự phần vào
một nghi lễ tôn giáo, vợ tôi và tôi lẽ ra dùng
thời giờ của chúng tôi tốt hơn, theo Harris, bằng
cách làm việc t́m đến một chủ thuyết
thế tục cấp tiến chối bỏ bất cứ
t́nh trạng nào của đức tin của đủ mọi
thể loại. Chỉ có “chấm dứt đức tin”
nắm giữ bất cứ lời hứa nào về
việc cứu thế giới.
Thay v́ chấp nhận Diệu đế thứ
ba dịu dàng hơn của Đức Phật xưa cũ
như là phương cách chấm dứt đau khổ, các
người vô thần mới t́m cách đề ra cho chúng ta
một thể loại khác cấp tiến nhưng, họ
nghĩ, hữu hiệu hơn về tu khổ
hạnh—đích danh là, xóa sạch đức tin khỏi tâm
trí chúng ta. Môn học mới này về thanh tẩy, nếu
thi hành theo các tiêu chuẩn khắc nghiệt của các
người vô thần mới, sẽ dẫn đến
việc loại bỏ mọi xu hướng ngây ngô tin
tưởng mà không chứng cứ. Ư niệm về Thiên
Chúa do đó phải được tẩy sạch vĩnh
viễn khỏi nhận thức con người, nhưng
điều này không thể xẩy ra riêng biệt với
việc “chấm dứt đức tin.” Làm sạch thế
giới khỏi những ǵ như là Osama bin Laden và Al-Qaeda
bằng vũ lực sẽ không làm tṛn sự việc.
Điều cần phải loại bỏ là đức tin
dưới mọi h́nh thái, và tất cả các người
vô thần mới của chúng ta nghĩ về chính họ
như là tiên phong trong việc tẩy sạch trước
sau chưa hề có này.
Đến lúc này, các người vạch trần
sự thực của chúng ta h́nh như đă hoàn tất,
nhưng họ chỉ mới khởi đầu. Ở
đây họ bắt đầu cống hiến một
điều ǵ đó mới mẻ đáng giật ḿnh, ít
nữa ra ngoài tầm với của tính độc tài vô
thần. Họ nói, không chỉ đức tin mà sự khoan
nhượng lịch thiệp và văn minh của chúng ta
về đức tin phải bị lật gốc rễ
lên nếu tiến tŕnh đến hạnh phúc đích
thực muốn thành tựu. Harris là minh nhiên nhất trong
quan điểm này. Những người ôn ḥa tôn giáo và
biện bác của họ về quyền đức tin, ông
bực tức, chịu “phần lớn, trách nhiệm
về sự đối kháng tôn giáo trong thế giới
chúng ta…” (45). Dawkins hoàn toàn ủng hộ ông: Bao lâu chúng ta tôn
trọng nguyên lư rằng đức tin tôn giáo phải
được tôn trọng, đơn giản v́ nó là
đức tin tôn giáo, khó mà rút sự tôn trọng khỏi
đức tin của Osama bin Laden và những người ôm
bom tự sát. Việc làm thay thế, một điều rơ
ràng cho đến nổi không cần phải nhấn
mạnh, là từ bỏ nguyên lư tự động tôn
trọng đức tin tôn giáo. Đó là lư do tại sao tôi làm
mọi điều có thể làm được trong
quyền hạn của tôi để cảnh báo con
người chống lại chính đức tin, không
chỉ chống lại cái gọi là đức tin “cực
đoan.” Việc giáo huấn của tôn giáo “ôn ḥa,” cho
dẫu tự chúng không phải là cực đoan, là một
mời gọi rộng mở cho chủ thuyết cực
đoan. (306)
Khoan nhượng đức tin vẫn c̣n là
một thành phần không thắc mắc của các xă
hội dân chủ, nhưng ảo giác ác độc mà sự
độ lượng này cho phép sẽ tiếp tục gây
ra nổi khốn khổ vô cùng. Nếu chúng ta nuông chiều
bất cứ thể loại đức tin nào, chúng ta
tự đặt ḿnh thành nạn nhân hóa bởi “những
người tin đích thực” đủ mọi thể
loại. Tôn trọng không kỳ thị với đức
tin đủ để làm cho mỗi một con
người khoan nhượng giữa chúng ta thành một
ṭng phạm trên thực tế (de facto) gây điều ác.
Thay v́ đồng cảm với đức tin tôn
giáo theo phương cách dịu dàng mà những người
ôn ḥa thế tục và tôn giáo đă làm trong quá khứ, các
người vô thần mới muốn chúng ta từ bỏ
sự tôn trọng như vậy cả với tự do
đức tin lẫn với tư duy tôn giáo. Không có ǵ
cản trở việc nắm bắt nh́n rơ vấn
đề khẩn cấp nhất của thế giới
ngày nay—chủ thuyết khủng bố cảm hứng
từ tôn giáo—một cách kém tư duy hơn là thần
học ôn ḥa và sự khoan nhượng thế tục phóng túng
về đức tin. Cuối cùng, chúng ta phải nhận
biết rằng sự khoan nhượng thần học,
thế tục, cánh trái, sau hiện đại, và ḷng
tốt cách đơn giản của chúng ta về
đức tin tự nó đă trở thành không thể khoan
nhượng được. Những người ôn ḥa tôn
giáo, Harris viết, “tưởng tượng rằng con
đường đến ḥa b́nh sẽ mở ra bằng
phẳng một khi mỗi một người trong chúng ta
đă học cách tôn trọng các niềm tin không biện minh
được của người khác.” Nhưng “chính ư
niệm về khoan nhượng tôn giáo—sinh ra từ khái
niệm rằng mỗi hiện thân con người phải
được tự do tin tưởng vào bất cứ điều
ǵ người ta muốn về Thiên Chúa—là một trong các
động lực chính yếu đẩy chúng ta tiến
đến vực thẳm khôngđáy” (14-15). Từ bỏ
bất cứ quan tâm về tính đúng đắn chính
trị, Harris xem ra tuyệt đối nghiêm chỉnh trong
lời tuyên bố của ông rằng chúng ta không c̣n có
thể khoan nhượng được sự khoan
nhượng phóng túng về đức tin. Như thế,
ở đây, chúng ta gặp được một
điều ǵ tương đối mới mẻ trong các
bài viết của các người vô thần mới.
Cũng mới mẻ qua Dawkins, Harris, và Hitchens là
sự không khoan nhượng chẳng những với
thần học mà c̣n với sự điều chỉnh
mềm mại, “Neville Chamberlain6,” mà gần hết những
người đồng bạn của họ và những
người theo chủ thuyết thiên nhiên khoa học
đối xử với sự hiện hữu của
đức tin (Dawkins 66-69). Trong nhiều năm nghiên cứu
và bàn luận với các người thiên nhiên khoa học,
tôi chưa hề gặp phải một sự không khoan
nhượng hoàn toàn như vậy với ḷng khoan
nhượng. Sự không khoan hượng với ḷng khoan
nhượng (intolerance of tolerance) xem ra là một khía
cạnh thực sự mới của giải pháp của
các người vô thần mới đối với vấn
đề khốn khổ của con người. Gần
hết mọi
điều Dawkins, Harris, và Hitchens (và cố
vấn triết học của họ Dennett) có ǵ để
nói về tôn giáo, đức tin, và thần học đều
đă được nói đến rồi. Chắc
chắn việc từ khước phủ trùm vị trí
nhận thức về đức tin tôn giáo không phải là
mới mẻ, cũng không phải việc họ kết án
tôn giáo trên cơ sở luân lư. Chủ thuyết thiên nhiên khoa
học, mà các giáo điều của nó các người vô
thần mới của chúng ta đă lập thành
trường phái một cách có phương pháp, đă
từ lâu cho rằng thiên nhiên là điều duy nhất có và
rằng khoa học là con đường đặc
quyền đi tới việc nhận hiểu thế
giới. Tuy nhiên, đa phần những người trung
kiên với chủ thuyết thiên nhiên khoa học trong giai
đoạn hiện đại đă nhận ra rằng
họ may mắn sống trong các nền văn hóa và các
đất nước nơi đa số các đức tin
được chấp nhận. Họ đă biết ơn
v́ ḷngnhận hậu đó, v́ nếu khác đi, chủ
thuyết thiên nhiên khoa học có thể không bao giờ
được phép hiện hữu song song với các hệ
thống niềm tin chống đối lại nó theo ư
thức hệ. Quả thực, nếu nó tùy thuộc vào
một cuộc bầu phiếu tại Hoa kỳ ngày nay,
như các người vô thần mới chắc chắn
đồng ư thế, chủ thuyết thiên nhiên khoa học
sẽ bị bỏ phiếu đuổi khỏi
địa bàn bởi đa số các công dân.
Các người vô thần mới đúng khi
chỉ ra biết bao nhiêu hệ thống niềm tin khác
với niềm tin của họ thường thường
không khoan nhượng và man dă. Nhưng chắc chắn
họ phải nhận ra rằng hệ thống niềm
tin của chính họ, chủ thuyết thiên nhiên khoa
học, sẽ không bao giờ tự nó được thành
lập trong thế giới hiện đại này nếu
không phải nhờ ḷng khoan nhượng trải ra cho
những “người tư duy tự do” (freethinkers) bởi
cũng chính các nền văn hóa tôn giáo đă cho khoa học
trỗi sinh. Câu trả lời của họ là rằng
trước tiên các nền văn hóa tôn giáo chính chúng nó không
bao giờ là một biện minh thực sự luân lư hay
hợp lư để hiện hữu. Đức tin, v́
nội tại là điều ác, một cách lư tưởng,
phải không bao giờ được trao một chút
quyền hiện hữu nào. Hơn nữa, khi sự thông
minh con người thoạt xuất hiện trong tiến
hóa, nó lẽ ra không cho phép chính nó bị kiềm hăm bởi
đức tin, bất kể bằng cách thích nghi sinh
học nào của tâm trí với không lư trí đă xẩy ra
như thế.
Harris nghĩ ông có thể tránh được
chuyện không khoan nhượng cực đoan này v́ theo
mức ông liên hệ, nó dựa vào lư trí hơn là đức
tin. Tuy nhiên, chủ thuyết khoa học (scientism) của
chính Harris và Dawkins, cột sống trí tuệ của chủ
thuyết thiên nhiên khoa học của họ, là một
niềm tin cũng có thể không “đủ” “chứng
cứ” khoa học hay thực nghiệm. Không có phương
cách nào, nếu không suy nghĩ ṿng quanh, thiết lập thí
nghiệm khoa học để chứng minh rằng mọi
mệnh đề đúng phải đặt cơ sở
trên chứng cứ thực nghiệm hơn là đức
tin. Việc kiểm duyệt mọi trường hợp về
đức tin, theo nghĩa hẹp ḥi của các
người vô thần mới của cụm từ này,
sẽ cũng phải kể cả việc loại bỏ
chủ thuyết khoa học nữa. Người theo
chủ thuyết thiên nhiên khoa học thực sự
đầy đủ tư duy—Einstein là một ví dụ
tốt—đă đủ
thành thực để thú nhận rằng
đức tin, cách riêng đức tin rằng vũ trụ
có thể được hiểu đầy đủ,
đều đặt nền tảng cho chính công việc
của khoa học. Hơn nữa, tuyên bố rằng
sự thực chỉ có thể đạt tới bằng
lư trí và khoa học hoạt động độc lập
với bất cứ đức tin nào tự nó cũng là
một tuyên bố về đức tin. Sự nhất quán
hoàn toàn sẽ đ̣i buộc rằng thế giới tư
duy của các người vô thần mới cũng phải
bị tẩy sạch chủ thuyết khoa học và
chủ thuyết thiên nhiên khoa học nữa.
CHỨNG ĐẾ THỨ TƯ
(The Fourth Evident Truth)
Phương cách để loại bỏ
đức tin, và từ đó loại bỏ đau khổ,
là đi theo con đường thánh thiêng của
phương pháp khoa học. Đề xuất bởi
Harris, và được các người vô thần mới
khác ủng hộ, con đường khó khăn nhưng
không thể thiếu này đi đến khai sáng đích
thực là phiên bản Bát chánh đạo (the Eightfold Path)
của các người vô thần mới như
được
kê đơn cho Tứ điệu đế
của Đức Phật. Đi theo con đường
khoa học sẽ đem lại cho người ta một
thể loại mới về “liên kết đúng” (right
association)—nói rơ ra, với những ai đă nắm
được tinh thần của khoa học—và “nhận
thức đúng” (right understanding), một phương pháp
thực nghiệm sẽ đem tâm trí chúng ta vượt
khỏi những tưởng tượng và tầm thường
của đức tin tôn giáo. Chúng ta có thể t́m thấy
khai sáng đích thực chỉ nếu chúng ta đích thân
tập sự với các bậc thầy đó, trong đó có
Harris, Dawkins, Dennett, và Hitchens, những người đă
đạt đến khai sáng bằng phương cách lư trí
khoa học.
Giải pháp này chỉ ngang trang vừa lứa
trong tính nông cạn của nó vớí chủ thuyết cơ
bản tôn giáo mà nó phản ánh cho dẫu trong khi chống
đối lại. Trong một thế giới hỗn
loạn và không chắc chắn, sự hấp dẫn
của một giải pháp đơn độc, đơn
giản có thể không cưỡng lại được.
Khi sự vật trở thành xấu đi, nó có xu
hướng trở thành quỉ quái và xé toạc ra một
trong vô số tao của mạng lưới phức tạp
của đời người, trách cứ mọi
điều chỉ riêng v́ tao đó. Ví dụ, một số
Kitô hữu Mỹ mộ đạo ngày nay t́m thấy nguyên
ủy chính duy nhất của tất cả mọi bệnh
hoạn của thời hiện đại trong “chủ
thuyết
Đức tin, với các người vô thần
mới, tương đồng với những ǵ là chủ
thuyết
Ư NGHĨA CỦA ĐỨC TIN
(The Meaning of Faith)
Nếu người đọc vẫn c̣n chưa
rơ ràng, việc nhận thức “đức tin” mà các
người vô thần mới cho là dĩ nhiên mang rất ít
tương đồng với đức tin của
thần học. Điểm khác biệt chính yếu là
rằng các người vô thần mới nghĩ về
đức tin như là một nỗ lực sai lầm về
trí tuệ (an intellectual erroneous attempt) với
một điều ǵ như nhận thức khoa học chẳng
hạn, trong khi thần học nghĩ về đức tin
như là một t́nh trạng tự dâng nộp (self-surrender)
trong đó toàn thể hiện thân con người, và không
chỉ trí tuệ, kinh nghiệm qua việc được
đưa đi vào trong một chiều kích của thực
tại sâu thẳm hơn và thực sự hơn bất
cứ thứ ǵ có thể được khoa học và lư
trí nắm bắt. Đó là lư do tại sao rất thông
thường đức tin đi kèm với nghi lễ.
Nhưng định nghĩa của đức tin mà Dawkins,
Dennett, Harris, và Hitchens tất cả chấp nhận lại
là “niềm tin không chứng cứ.” Họ nghĩ về
đức tin như là một loạt giả thiết—ví
như giả thiết về Thiên Chúa hoặc giả
thiết về linh hồn—thiếu chứng cứ khoa
học hoặc thực nghiệm đầy đủ cho
những người có lư trí chấp nhận. Họ cho phép
rằng nếu thể loại đích thực của
chứng cứ thực nghiệm có bao giờ sẽ bày tỏ
ra, lúc đó những người có lư trí sẽ
được phép đưa ra sự đồng thuận
với giả thiết Thiên Chúa hoặc giả thiết
linh hồn. Nhưng lúc đó sẽ không c̣n cần
đến đức tin nữa. Tri thức sẽ thay
thế nó.
Với thần học, tuy nhiên, mục tiêu là làm
sâu thêm đức tin, không phải loại bỏ nó. Theo các
truyền thống hữu thần, tinh túy của cuộc
sống lư tưởng, ngay cả cuộc sống anh hùng,
là sẵn sàng chờ đợi trong đức tin, tín
nhiệm và hy vọng về sự hoàn thành rốt cuộc
và sự giải thoát cuối cùng. Hậu quả, khi Harris
và các người khác mời gọi mọi người
từ bỏ đức tin của họ và sống chỉ
bằng lư trí, họ không hề biết họ đang
đ̣i hỏi điều ǵ. Lời mời gọi tham gia với
họ vào một thế giới không có đức tin
đối với phần lớn con người nghe
như một khẩn nguyện thu nhỏ thế giới chúng
ta thành một điểm nơi tất cả chúng ta
đều có thể bị ngột ngạt. V́ thậm chí
nếu vũ trụ gồm 300 tỉ hệ mặt
trời, và nhiều vũ trụ, nếu nó hiện
hữu, hàng tỉ nhiều hơn, người có học
thức biết rằng thế giới vẫn là hữu
tận và có thể tàn lụi. Và theo tính toán của bất
cứ ai, một mầu nhiệm siêu nhiên vô tận vẫn
nhiều ấn tượng hơn bất cứ sự bao
la không gian và thời gian hữu tận dưới
quyền của khoa học. Khuyên bảo người ta
từ bỏ những ǵ họ cho là—dù đúng dù sai—đường
đời của họ đến sự vĩ
đại vô tận của mầu nhiệm siêu nhiên, và
mời gọi họ rút nhỏ cuộc đời, tâm trí,
và tâm hồn họ vào trong một thế giới
tương đối nhỏ nhoi của việc mục
tiêu hóa khoa học, sẽ không được tiếp
đón nồng nhiệt ở khắp nơi. Dĩ nhiên,
khoa học chẳng có ǵ sai cả. Nhưng nếu chúng ta
được phép phỏng theo h́nh ảnh phi thời gian
của Edwin Abbott, Harris, Dennett, Hitchens, và Dawkins xem như
người đang ở một thế giới hai
chiều, những người sau khi đă làm chủ
được lănh vực sinh sống đó, giờ đây
bận bịu mời gọi những ai đang chiếm
giữ thế giới được thú nhận là mất
phương hướng hơn của nhiều chiều
kích vui ḷng đi xuống sống với họ trong vùng
Đất phẳng (Flatland).8
1 Tôi khuyến khích người đọc cũng
đọc “Atheist Manifesto” trên mạng http://www.truthdig.com/dig/item/200512_an_atheist_manifesto/
(truy
cập ngày 14/10/2007)
2 Số trang dẫn chiếu cuốn End of Faith của
Harris, trừ phi ghi chú khác.
3 Hitchens, God Is Not Great; Dawkins, God Delusion. Số
trang của các tác giả này dẫn chiếu các sách đó,
trừ phi ghi chú khác.
4 Jacques Monod, Chance and Necessity: An Essay on the Natural
Philosophy of Modern Biology, Austryn Wainhouse dịch (New York:
Vintage Books, 1972), 160-80.
5 William James, The Will to Believe and Other Essays in
Popular Philosophy (
6 Neville Chamberlain: Thủ tướng Anh (1869-1940) (nd)
7 Phillip E. Johnson, Darwin on Trial (Washington, D.C.:
Regnery Gateway, 1991)
8 Edwinn Abbott, Flatland: A Romance of Many Dimensions (
2
Chủ
thuyết vô thần mới vô thần chừng nào?
(How
Atheistic Is the New Atheism?)
Nếu có ai đă viết một cuốn sách
chỉ trích đức tin tôn giáo nhiều hơn tôi đă
viết, tôi không được biết đến.
—Sam Harris1
Trong nhiều năm, tôi dạy một khóa
thần học nhập môn gọi là “Vấn đề
về Thiên Chúa” (The Problem of God) cho các lớp cử nhân
Đại học
Tôi không thể nói thay cho các giáo sư đại
học ngày nay, nhưng trong các lớp của chính tôi, các
sách mới của Dawkins, Harris, và Hitchens không bao giờ
nằm trong bản liệt kê các sách phải đọc. Các
lời chỉ trích đó đơn giản sẽ tăng
cường sự ngu dốt của sinh viên không chỉ
về tôn giáo mà chua chát thay cả về chủ thuyết vô
thần. Tột mức, các tŕnh bày của các người
vô thần mới sẽ như là tài liệu hữu ích cho
việc đọc ngoại khóa, các kế hoạch nhóm,
hoặc các tŕnh bày trước lớp. Và quan điểm
của các hoạt động bên ngoài đó có thể không
phải để cung cấp bất cứ điều ǵ gia
tăng sự khôn ngoan hay trí thức. Đúng hơn, nó
được dùng để xem công việc tương
đối nhẹ mà các người vô thần mới bày ra
hay ho chừng nào so với sức nặng của một
thế hệ xưa hơn và đầy tư duy hơn
của những người chỉ trích tôn giáo.
Nhận thức “mới” nguyên thủy nhất
trong sách của Hitchens, ví dụ, là rằng “tôn giáo do con
người làm ra (religion is man-made) (8, 10, 17, 52, 54, 99-100, 115,
130, 151, 167-68, 181, 202, 229, 240). Điệp khúc này lách cách qua
các trang sách của phê phán của ông với hết năng
lực của một mặc khải đáng kinh hăi. Sinh
viên của tôi sẽ thấy thích thú, ấy là nói ít
nhất, làm sao một nhận thức sáo ṃn như vậy
có thể trở thành trung tâm tổ chức của một cuốn
sách bán chạy nhất. Sau khi quen thuộc với chủ
thuyết vô thần cảm hứng bởi khoa học
của Sigmund Freud hoặc Bertrand Russell và chủ thuyết
lư tưởng nhân bản của Ludwig Feuerbach và Karl Marx,
chủ thuyết vô thần mới xem ra nhiều phần
phờ phạc v́ cung cấp ít ỏi nhận thức
mới tại sao tôn giáo lại có thể nguy hiểm
đến như vậy.
Liên quan đến quan tâm nâng cao tri thức về
tôn giáo, các người vô thần mới chẳng làm ǵ
nhiều hơn là cung cấp một danh mục mới
mẻ các điều ác do các đức tin hữu thần
chế tác ra. Cùng lúc, tâm trí người trẻ đích
thực muốn t́m hiểu vẫn chưa yên t́m kiếm
nhận thức sâu xa hơn. Thậm chí lư thuyết của
Freud về nguồn gốc tôn giáo, cùng với các lư
thuyết của Feuerbach và Marx, cho dẫu xem ra sai lầm
đến thế nào với các sinh viên của tôi, ít
nhất cũng lôi cuốn họ chú ư và làm cho họ
bắt đầu suy tư liệu toàn bộ công chuyện
về tôn giáo có thể là một tạo dựng của con người
ảo tưởng hay không. So sánh với các bậc thầy
ngày xưa của lư thuyết dự đoán, các sinh viên
của tôi sẽ nhận thấy cuốn sách của Hitchens
đúng ra là những ǵ tẻ nhạt. V́ trong khi Feuerbach,
Marx, và Freud cung cấp các khung lư thuyết hấp dẫn cho
các lư thuyết của họ, Hitchens chẳng cung cấp
được thứ ǵ đại loại như vậy.
Mặt khác, tôi nghi ngờ các sinh viên của tôi
sẽ bị kích thích bởi các bài viết gần đây
của Dawkins, Dennett, và những người khác tuyên bố
đưa ra một giải thích sinh học, tiến hóa
về lư do tại sao người ta tin tưởng vào Thiên
Chúa. Họ có thể đă học trong khóa học của
chúng tôi rằng không có một lư do thần học hay ho nào
để phản kháng bất cứ nỗ lực nào
của khoa học về nhận hiểu tôn giáo, thậm
chí theo cách tiến hóa. Khóa học đă nói rơ rằng tôn giáo
có thể và quả thực phải được nghiên
cứu như là một hiện tượng tự nhiên. Nói
cho cùng, đây là phương cách duy nhất khoa học có
thể nghiên cứu bất cứ điều ǵ, và các
nhận thức của nó hoàn toàn phù hợp với bất
cứ nền thần học chính đáng nào. Nhưng v́ các
lư do tôi triển khai trong các chương 5 và 6, các sinh viên
của tôi có quyền phân vân liệu lư thuyết tiến
hóa, hoặc bất cứ khoa học tự nhiên hay xă
hội nào, có thể đưa ra một nhận thức
hoàn toàn và đầy đủ về tôn giáo hay không. Trong
khóa học một học kỳ của chúng tôi, sinh viên
đă gặp gỡ trong cuốn sách của Freud Tương
lai của ảo giác (The Future of an Illusion) lời tuyên
bố rằng một ḿnh khoa học là con đường
đáng tin cậy để
nhận thức đích thực về bất
cứ điều ǵ. Và họ có thể đă học
được từ các sách đọc thêm khác rằng
tuyên bố này là một tuyên ngôn về đức tin
được biết đến như là chủ
thuyết khoa học (scientism), một hệ thống
niềm tin hiện đại đă có dấu ấn thêm vào
của việc tự đối kháng.
Tại sao tự đối kháng? Bởi v́
chủ thuyết khoa học bảo chúng ta không chấp
nhận thứ ǵ theo đức tin, thế nhưng đức
tin đ̣i buộc phải có để chấp nhận
chủ thuyết khoa học. Những ǵ đáng chú ư là
rằng chẳng có ai trong các người vô thần mới
xem ra đă mảy may chuẩn bị để thú nhận
rằng chủ thuyết khoa học của ông ấy là
một thú nhận tự hủy diệt về đức
tin. Xin lắng nghe Hitchens: “Nếu người ta phải có
đức tin nhằm để tin tưởng vào một
điều ǵ, như thế việc xem ra cái điều ǵ
đó nếu có sự thực hay giá trị nào đều
xem như bị giảm giá trị” (71). Nhưng lời phát
biểu này tự nó vô giá trị v́ nó cũng trỗi sinh
từ đức tin vào các điều không nh́n thấy.
Không có một tập hợp các thử nghiệm hữu
h́nh hoặc các tŕnh bày có thể trông thấy đă từng
chứng minh được bằng khoa học rằng
lời phát biểu đó là chân thật. Nhằm đề
xuất lời tuyên bố vừa dẫn chiếu cách
tự tin như vậy, Hitchens đă phải chấp
nhận tín điều (creed) vào một cộng đoàn
đức tin (faith) mà chủ thuyết khoa học và
chủ thuyết thiên nhiên khoa học cung cấp các căn
bản giáo điều. Và Hitchens phải biết rằng
hầu hết người ta không chấp nhận tín
điều đó, có thể v́ không có “chứng cứ” nào
cho nó cả.
“Chúa của chúng ta là logos2” (Our god is logos),
Freud hănh diện tuyên bố trong Tương lai của
ảo giác, thẳng thắn báo hiệu đặc tính
tín điều của giáo điều trọng tâm
được toàn bộ cộng đoàn những
người theo chủ thuyết duy lư khoa học (scientific
rationalists) tôn thờ.3 Lời tuyên bố là đề tài
tốt cho việc thảo luận trong lớp, nhưng
bất cứ khi nào tôi bảo các lớp của tôi đánh
giá lời tuyên bố của Freud, họ không mất
nhiều th́ giờ để nhận ra rằng chính
lời tuyên bố đó tự đánh bại nó một cách
logic v́ nó không bao giờ có thể được
biện minh bởi bất cứ thực nghiệm khoa học
nào có thể quan niệm được. Phần lớn các
sinh viên của tôi không khó khăn ǵ nhận ra rằng
chủ thuyết khoa học cũng là một tín
điều tự hủy hoại cung cấp nền
tảng ư thức bèo bọt cho toàn bộ công tŕnh mà chúng ta
đề cao với nhăn hiệu “chủ thuyết vô
thần mới.”
Giả sử họ đ̣i buộc phải
đọc hai cuốn sách của Harris, các sinh viên năm
thứ nhất của tôi khó mà thất bại chú ư đến
việc biết bao nhiêu lần anh sinh viên cao học Standford
hô hào người đọc của anh từ bỏ
niềm tin vào Thiên Chúa v́ nó không dựa trên “chứng
cứ.” Chứng cứ là một từ ngữ
được nêu lên với tần số cao trong các tuyên
ngôn của Harris, báo hiệu sự quan trọng của nó
đối với người học giả trẻ
tuổi này. Nhưng v́ rơ ràng với Harris rằng chứng cứ
thực sự nghĩa là những ǵ khả dĩ cho khoa
học nhận biết, chẳng có ǵ trong giả
định đang tiến hành của ông mà các sinh viên
của tôi có thể đă chưa gặp gỡ trong chủ
thuyết thiên nhiên thực nghiệm (empiricist naturalism) mà Freud
và Russell chấp nhận như là quan điểm chung
họ chia sẻ.
V́ lư do đó, sau học khóa “Vấn đề
về Thiên Chúa,” đa số các sinh viên cử nhân của
chúng tôi có thể nghĩ chính là ngu xuẩn cho bất cứ
ai duy tŕ rằng khoa học có thể quyết định
vấn đề về Thiên Chúa. Thế nhưng đó chính
xác là những ǵ Richard Dawkins, người tiến hóa danh
tiếng nhất của thế giới, tuyên bố trong Ảo
giác về Thiên Chúa (48, 58-66). Harris và Hitchens cũng
đồng ư với khẳng định của Dawkins,
thậm chí cho dẫu họ h́nh như quá thận trọng
không dám bạo mồm bạo miệng thẳng thừng
như vậy. Khoa học, Dawkins tin tưởng thế, có
thể quyết định vấn đề về Thiên
Chúa bởi v́ quyền điều khiển tiềm tàng
của nó với mọi chứng cứ liên quan. Thế
nhưng lời tuyên bố này h́nh như chẳng có ư
nghĩa ǵ v́ lư do đơn giản rằng phương
pháp khoa học theo định nghĩa chẳng có ǵ
để nói về Thiên Chúa, ư nghĩa, các giá trị, hay
cứu cánh. Phải mất một thời gian dài cho tư
duy con người để đến được
điểm nhận thức, vào các thế thứ 16 và 17,
rằng không cần phải nói đến Thiên Chúa hoài măi
khi giải thích làm sao các sự việc vận hành. V́
thế các nhà tư duy thiên tài vĩ đại đă
đến với một phương pháp t́m hiểu ngày
nay chúng ta gọi là “khoa học,” điều có thể cho
chúng ta biết rất nhiều về thế giới
bằng cách chỉ nh́n vào các nguyên ủy tự nhiên.
Nhưng ở đây chúng ta có Dawkins, người
giữ chức Khoa trưởng Charles Simonyi về Nhận
thức chung của khoa học (Charles Simonyi Chair for Public
Understanding of Science) tại Đại học Oxford, bảo
chúng ta rằng vấn đề về Thiên Chúa giờ
đây cũng đă trở thành một chủ đề
thích đáng cho cả khoa học. Chắc chắn Dawkins
phải chú ư đến sự trớ trêu, nhưng
điều đó chẳng làm rộn ǵ ông. “Có thể là,”
ông thú nhận, “nhân loại sẽ không bao giờ
vươn tới được sự tận cùng của
nhận thức hoàn toàn, nhưng nếu chúng ta tới
được, tôi đánh liều một lời tiên
đoán vững vàng rằng chính khoa học, không phải tôn
giáo, sẽ đưa chúng ta đến đó. Và nó nghe ra
như là chủ thuyết khoa học, vậy càng hay hơn
cho chủ thuyết khoa học.”4 Trở thành minh bạch
như vậy là một cải tiến trong việc cố
gắng che đậy giả định nền tảng
của chủ thuyết vô thần mới, nhưng nó
chẳng làm được ǵ để làm vững chắc
sự yếu kém logic của nền tảng không
vững chắc đó. Tuy nhiên, logic không phải là
vấn đề duy nhất mà khoa thần học nhập
môn của chúng tôi đă xem xét đến.
Cũng bấp bênh là, nếu chúng ta xem chủ
thuyết vô thần một cách nghiêm chỉnh là đúng
sự thực, liệu nó có thay đổi nhiều
cuộc sống và tự nhận thức của chúng ta hay
không. Dĩ nhiên, các người vô thần mới sẽ
trả lời rằng nó phải thay đổi lớn lao.
Nhưng có thực không? Chúng ta đă thấy trong
chương trước làm sao bốn chứng đế
của họ có mục đích loại bỏ sự đau
khổ không cần thiết và như thế đề cao
hạnh phúc. Nhưng các cuốn sách phổ biến và
hấp dẫn của họ không cống hiến một
thảo luận sâu sắc về “hạnh phúc” nghĩa là
ǵ.5 H́nh ảnh của sự thỏa măn của con
người nổi lên từ các bài viết của họ
là một sự thỏa măn trong đó nếp sống
hiện tại của chúng ta vẫn giữ nguyên gần
như như cũ, ngoại trừ sự bất tiện
của chủ thuyết khủng bố và những
người theo thuyết tạo dựng. Việc tự
nhận thức của chúng ta sẽ được
tạo h́nh theo khoa sinh vật Darwin, nhưng chúng ta có
thể trông mong rằng bản năng luân lư và xă hội
của chúng ta, bắt rễ trong sinh học vẫn như
chúng vốn là thế, sẽ duy tŕ không thay đổi
ngoại trừ một vài sửa chữa văn hóa chút ít
cần phải h́nh thành sau khi tôn giáo biến mất.
Không như các t́nh huống được che
chở mà chủ thuyết vô thần mới bảo thủ
xă hội t́m cách cứu vớt, những người vô
thần cổ điển, tác phẩm của họ các sinh
viên của tôi đ̣i buộc phải đọc, nói chung
đ̣i hỏi một chuyển hóa (transformation) cấp
tiến hơn nhiều về văn hóa và ư thức con
người. Việc chuyển hóa này trở thành
hiển nhiên hơn khi chúng ta chuyển từ Freud, Feuerbach,
và Marx đến những người không thần không chúa
nghiêm trọng hơn trong tác phẩm của Friedrich Nietzsche,
Albert Camus, và Jean-Paul Sartre, các người vô thần
hạng nặng (hard-core) thực sự. Với họ,
chủ thuyết vô thần, nếu người ta thực
sự chấp nhận nó nghiêm chỉnh, sẽ làm cho
thế giới thay đổi hoàn toàn, và sẽ cần
đến một nổ lực siêu phàm để chấp
nhận nó. “Chủ thuyết vô thần,” như Sartre ghi
nhận, “là một công việc độc ác và lâu dài.”6 Cùng
với Nietzsche và Camus, Sartre nhận ra rằng phần
lớn con người sẽ quá yếu đuối
để chấp nhận hậu quả kinh hoàng của
cái chết của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bất cứ
điều ǵ ít hơn sẽ là chủ thuyết trốn chạy
thực tại (escapism), hèn nhát, và đức tin xấu (bad
faith).
Ngược lại, các sinh viên của tôi sẽ
lập tức nhận ra rằng các tác giả mà tôi đang
nghiên cứu trong cuốn sách này muốn chủ thuyết vô
thần thịnh hành mà tổn phí ít nhất cho môi
trường xă hội kinh tế dễ chịu từ
đó họ thuyết giảng. Lợi ích của các
người vô thần mới là ǵn giữ hơn là cải
tổ cấp tiến môi trường văn hóa phản ánh
một cách thiếu phê phán trong các ước muốn
của họ về một thế giới an toàn hơn.
Họ sẽ làm cho các Thiên Chúa giáo—Do thái, Kitô, và Hồi
giáo—đơn giản biến mất đi, sau đó chúng
ta vẫn có thể tiếp tục tận hưởng
cũng một kiểu sống như trước, chỉ không
có sự phiền toái của ôm bom tự sát và các nhà rao
giảng phúc âm trên TV. Chúng ta sẽ có thể thu dọn
những ǵ tốt đẹp nhất mà cuộc sống
cống hiến ngay từ bây giờ, nhưng không phải
lo lắng về việc bị nổ tung bởi những
kẻ cuồng tín cảm hứng từ Thiên Chúa.
Không phải chủ thuyết vô thần mới,
một khi đă thi hành, sẽ không đổi ǵ mới
hết đâu. Nhưng sẽ có một sửa chữa
mỹ phẩm so sánh với định nghĩa lại
sự hiện hữu của con người mà các người vô
thần nghiêm chỉnh thực sự đ̣i hỏi. Hai thay
đổi ư nghĩa nhất các người vô thần
mới muốn làm là, thứ nhất, khoa học hơn là
đức tin sẽ trở thành nền tảng của
nền văn hóa của thế giới mới, như Freud
và Russell đă tiên liệu; và, thứ hai, luân lư sẽ
bắt rễ hoàn toàn từ lư trí. Khoa học, họ hy
vọng, sẽ được giải phóng khỏi mê tín,
và các bản năng đạo đức mà sự
tuyển chọn tự nhiên đă khắc tạo trong
chủng loại chúng ta qua hơn 2 triệu năm, cuối
cùng sẽ được giải thoát khỏi sự ràng
buộc què quặt với tôn giáo.7 Con người lúc đó
sẽ tiếp tục vun trồng cách thiết yếu
cũng các giá trị đó như trước, kể
cả ḷng vị tha, nhưng họ sẽ ḥa hợp
tốt đẹp mà không có các sách được cảm
hứng và điều răn siêu nhiên. Các nhà giáo dục có
thể dạy khoa học mà không có vấn đề
những người theo chủ thuyết tạo dựng
tḥ mũi vào, và sinh viên học sinh sẽ học rằng
tiến hóa chứ không phải là việc tạo dựng
siêu nhiên là cách giải thích cuối cùng về lư do tại
sao chúng ta là thể loại sinh vật như chúng ta đang
là thế. Chỉ có các tuyên bố dựa trên “chứng
cứ” sẽ được khoan nhượng, nhưng
sự thỏa măn nhận biết chân lư về thiên nhiên
bằng phương cách khoa học sẽ bù đắp cho
bất cứ sự kiềm chế đạo đức nào
chúng ta sẽ phải áp đặt trên bản năng thú
vật của chúng ta.
Cách xử lư này về chủ thuyết vô
thần, dĩ nhiên, chính xác là thể loại làm nôn mửa
Nietzsche và làm Camus và Sartre co rúm người trong các quán cà phê
Bờ bên trái của họ. Chủ thuyết vô thần
với ít tổn phí nhất có thể được cho sự
tầm thường của nền văn hóa phương
Tây chẳng phải là chủ thuyết vô thần ǵ cả.
Nó chẳng là ǵ hơn là sự dai dẵng của tính tôn
giáo tê cóng v́ cuộc sống dưới một chiêu bài
mới. Xin ghi nhận rằng tôi không đang đề cao
triết học phi lư của Camus cũng không phải
chủ thuyết hư vô (nihilism) của Nietzsche hay Sartre.
Nhưng các chỉ trích mạnh mẽ hơn đó về
tôn giáo ít nữa cũng thông minh đủ để
nhận ra rằng một sự chấp nhận hoàn toàn cái
chết của Thiên Chúa sẽ đ̣i buộc một sự
khổ tu hoàn toàn vắng mặt trong các công thức vô
thần mới. Chủ thuyết vô thần, như sự
quen thuộc của các sinh viên của tôi với Nietzsche,
Camus, và Sartre có thể làm sáng tỏ, phải
được nghĩ đến tận các kết
luận logic cuối cùng của nó. Theo quan điểm
đó, chủ thuyết vô thần mới, khi
được đo lường theo các đ̣i hỏi chặt
chẽ của một sự không tin tiếp diễn xuyên
suốt thực sự, sẽ bị phơi bày như
chỉ khác biệt hời hợt bên ngoài với chủ
thuyết hữu thần truyền thống mà nó muốn
thay chỗ. Sự ôn ḥa của chủ thuyết vô thần
tương đối mới mỉa mai thay nằm trong ư
nguyện của nó để thương lượng
với thể loại vô vị cách chính trị và văn hóa
của chủ thuyết hữu thần mà nó tuyên bố
phải hất cẳng. Một nhăn hiệu nhợt
nhạt như vậy về chủ thuyết vô thần cho
phép một cách không phê phán cũng các giá trị và ư nghĩa
cũ tồn tại, chỉ khác giờ đây chúng có
thể trở thành được phong thánh bởi thuyết
chính thống
Theo quan điểm này, chủ thuyết vô
thần mới giống rất nhiều với chủ
thuyết nhân bản thế tục (secular humanism) ngày
xưa bị khiển trách bởi các người vô
thần hạng nặng về tính nhát như chuột
(mousiness) khi đối mặt với những ǵ sự
vắng mặt của Thiên Chúa phải thực sự có ư
nghĩa. Nếu quí vị sắp trở thành một
người vô thần, phiên bản thô kệch nhất
của việc không thần không chúa đ̣i hỏi sự
nhất quán hoàn toàn. Xin đi hết con đường và
suy nghĩ công việc của chủ thuyết vô
thần đến tận cùng cay đắng; trước
khi quí vị trở nên quá thoải mái với thế
giới không thần không chúa mà quí vị trông mong, quí vị
sẽ bị đ̣i buộc bởi logic của
bất cứ chủ thuyết hoài nghi nhất quán nào
để trải qua cảnh hoang dại mất
phương hướng của chủ thuyết hư vô.
Quí vị có can đảm làm điều đó không? Quí
vị sẽ phải chấp nhận chủ thuyết anh
hùng bi thảm của một Sisyphus8, hoặc nhận ra
rằng tự do đích thực trong sự vắng mặt
của Thiên Chúa nghĩa là quí vị chính là
người sáng tạo các giá trị mà quí vị sống
với, một gánh nặng không khoan nhượng mà
phần lớn con người muốn t́m cách tránh khỏi.
Quí vị có sẵn sàng cho phép logic đơn giản
dẫn dắt quí vị đến chân lư đích thực
về cái chết của Thiên Chúa không? Trước khi
ổn định vào một quan điểm chung thực
sự vô thần, quí vị sẽ phải kinh qua cảm xúc
Người điên (Madman9) của Nietzsche về việc
đi lạc qua “sự hư vô vô tận” (infinite
nothingness). Quí vị sẽ bị đ̣i buộc phải huy
động một tŕnh độ trước sau chưa
từng có ḷng can đảm nếu quí vị dự
định xóa bỏ đi toàn bộ chân trời của
siêu việt (transcendence). Quí vị có sẵn ḷng chịu nguy
cơ điên rồ không? Nếu không, vậy th́ quí vị
không thực sự là một người vô thần.10
Có thể tiên đoán được, chẳng có
ǵ trời long đất lỡ bày tỏ ra trong tư duy
của Dawkins, Harris, và Hitchens. Ngoại trừ việc không
nhân nhượng sự khoan nhượng, mà chúng ta đă
ghi chú trước đây, và nồng độ cao của
chủ thuyết Darwin làm nền tảng cho nhiều tuyên
bố của nó, chủ thuyết vô thần hạng
nhẹ ít có ǵ khác biệt với chủ thuyết nhân
bản mà các người vô thần hạng nặng
trừng trị thẳng tay v́ sự lỏng lẻo
của nó. Các người vô thần hạng nhẹ mới
giả định rằng, bằng vào chủ thuyết
Darwin, chúng ta có thể loại bỏ Thiên Chúa đi như
loại bỏ Ông già Noen mà không phải chứng kiến
sự sụp đổ hoàn toàn của nền văn hóa
phương Tây—kể cả cảm quan của chúng ta
về những ǵ là hữu lư và luân lư. Ít nữa các
người vô thần hạng nặng đă hiểu
rằng nếu chúng ta thành thực thực sự trong
chủ thuyết vô thần của chúng ta, toàn thể
mạng lưới các ư nghĩa và giá trị đă vây
bọc chung quanh ư niệm về Thiên Chúa trong nền văn
hóa phương Tây phải sụp đổ cùng với
trung tâm tổ chức của nó. Nietzsche, Camus, và Sartre, và có
lẽ nhiều người trong đám con cháu sau hiện
đại của họ, chẳng dính líu ǵ đến
chủ thuyết hoài nghi nhạt nhẽo thất bại trong
việc suy tư chủ thuyết vô thần cho thông
suốt với tính nhất quán tuyệt hảo.
“Nếu có ai đă viết một cuốn sách
chỉ trích đức tin tôn giáo nhiều hơn tôi đă
viết, tôi không được biết đến,” Sam Harris
tuyên bố.11 Các sinh viên của tôi có thể không chắc
chắn đến thế. Harris có thực sự đă
nghĩ đến điều ǵ có thể xẩy ra nếu
người ta chấp nhận niềm tin của
người vô thần hạng nặng rằng chẳng có
căn bản siêu việt cho các đánh giá luân lư của
chúng ta không? Nếu người ta biết để
hỏi liệu chủ thuyết thiên nhiên
Họ đă không h́nh thành một kế hoạch
để giết Thiên Chúa v́ họ giả định
rằng người giết thần chúa (deicide) đă
xẩy ra trong tay chủ thuyết khoa học và chủ
thuyết thế tục. Nhưng họ đă muốn
mọi người đối diện một cách thành
thực với các hàm ư logic, đạo đức,
và văn hóa của một thế giới không thần không
chúa.
Nietzsche, Camus, và Sartre cũng đă thất bại
tiêu biểu chủ thuyết anh hùng bi thảm mà họ
nghĩ có thể sẽ là kết quả của chủ
thuyết vô thần. Họ trở thành phần lớn
giống tất cả chúng ta. Thế nhưng, sự
thất bại của họ thực sự tăng cường
câu kết luận mà ít nữa một số trong các sinh viên
của tôi đă đạt đến trong khóa “Vấn
đề về Thiên Chúa”: một chủ thuyết vô
thần nhất quán thực sự là không thể thực
hiện được. Và nếu chủ thuyết vô
thần hạng nặng không thể thành công, nghi ngờ
rằng biến thể hạng nhẹ cũng sẽ không
thể thành công được. Sau khi đọc các
luận văn kích động của Nietzsche về sự
sáng tạo các giá trị mới có thể cần để
thay thế một khi người ta nhận ra ư niệm
về Thiên Chúa là hư cấu, các đơn thuốc
đạo đức đích thực ông ủng hộ
kết thúc may ra nghe như một phiên bản thú vị
của cái cũ. Ông nghĩ rằng một khi chúng ta
nhận ra chẳng có Đấng Tạo dựng, tính sáng
tạo vừa được giải thoát của chính chúng
ta sẽ có thể thấm nhuần với các ư nghĩa và
các giá trị hoàn toàn mới sự trống rỗng vô
tận (the infinite emptiness) để lại đàng sau. Sau
khi chúng ta đă uống cạn biển siêu việt, sẽ
có vô số không gian cho một tập hợp hoàn toàn mới
của mệnh lệnh đạo đức (ethical
imperatives). Thế nhưng người ta chỉ có thể
thấy thất vọng với những ǵ Nietzsche chế
tác. Tập hợp luật lệ mới của ông cho
cuộc sống nghe một đầu nghi ngại như là
chủ thuyết khổ tu của tu sĩ, và đầu kia
như chủ thuyết nhân bản thế tục chẳng
có ǵ đặc biệt: “Hăy có tính sáng tạo.” “Đừng
sống đời sống tầm thường!”
“Đừng nghe lời những ai nói về các hy vọng
một thế giới khác!” “Hăy tiếp tục trung thành
với trần thế.” Nietzsche chẳng có cách nào bỏ qua
những ǵ ông đă nghe trước đây từ Kinh thánh.
Lời mời gọi của ông về một một
“sự vô tội mới mẻ của việc thành hiện
hữu” (a fresh “innocence of becoming”) và “sự mới mẻ
của đời sống” (newness of life) ít nữa là
một âm vang phảng phất các tiên tri kinh thánh và Phaolô,
chỉ khác là không có các nhân đức yêu thương và hy
vọng.12
Tương tự, Camus làm một chuyển
mạch ngạc nhiên—không báo cho chúng ta chính xác v́ sao—từ
chủ thuyết phi lư (absurdism) trong các tác phẩm ban
đầu, Người lạ mặt (The Stranger) và Huyền
thoại Sisyphus (The Myth of Sisyphus) đến chủ
thuyết nhân bản cảm động trong Bệnh
dịch (The Plague) và sự ám ảnh phần nào theo
chủ thuyết truyền thống với tội lỗi
luân lư trong Sự sụp đổ (The Fall). Ông có
thể đă đến chỗ nhận ra rằng sự
không hy vọng hoàn toàn của chủ thuyết vô thần
hư vô trước kia của ông không thể cung cấp
một không gian trong đó con người có thể thực
sống cuộc sống của họ. Cùng lúc, Sartre,
một khi đă bảo đảm với chúng ta rằng
chẳng có các giới răn được Thiên Chúa ban cho,
kết cuộc nghe chừng gần như có tôn giáo khi
đề xuất mệnh lệnh “mới” của ông,
gọi là, “Hăy nhận lấy tự do của quí vị!”
(Accept your freedom!). Với Sartre lúc ban đầu, luôn luôn là
sai (“đức tin xấu”—“bad faith”) khi chối bỏ
tự do của chúng ta và của những người khác.
Nhưng đến chừng mực ông muốn tất
cả các điều đó nghe ra có vẻ mới mẻ
cấp tiến, nhằm làm cho chủ thuyết vô thần
của ông nên ngon lành, ông đă phải lập luận
rằng nói cho cùng “chủ thuyết hiện sinh”
(existentialism) của ông thực sự là một h́nh thái
của “chủ thuyết nhân bản.”13
Vậy nếu thậm chí các người vô
thần hạng nặng thất bại trong việc hoàn
thành chương tŕnh của họ về việc tẩy
xóa mọi vết tích của các giá trị siêu việt
khỏi vũ trụ luân lư, thế th́ các người vô
thần hạng nhẹ của chúng ta có thể trông mong ít
đi bao nhiêu, nói theo logic, để hoàn thành mục
đích đó?14
CHÍNH TRỰC
(Rightness)
Các người vô thần hạng nặng
đặt ra các tiêu chuẩn đ̣i hỏi cao về
những ai sẽ được phép vào trong xă hội
của không niềm tin đích thực. Họ nhấn
mạnh rằng mỗi một người vô thần nghiêm
chỉnh phải suy nghĩ chín chắn những ǵ chủ thuyết
vô thần đ̣i hỏi theo logic, thậm chí nếu
tự bản thân họ không thành công trong việc thực
hiện như vậy. Các người vô thần hạng
nhẹ mới thậm chí không thử xem. Họ
đồng ư với các anh chị em họ hàng tuyệt
đối của họ rằng Thiên Chúa không hiện
hữu. Nhưng nơi đâu sự khắt khe logic có
thể đ̣i buộc họ cũng phải nhận
thức rằng không có thiên đường không thời
gian để chỉ định những ǵ tốt
những ǵ không, các ư niệm của họ thay vào đó
thành ẻo lả èo uột. Các người vô thần
mới của chúng ta tiếp tục cam kết không
điều kiện với các giá trị truyền thống
như mọi người khác trong chúng ta. Họ làm như
thế hầu như công khai trong mọi tuyên bố mà
họ nói rằng đức tin là xấu, và rằng v́
lợi ích của các giá trị đích thực, con
người có luân lư phải gạt ra khỏi họ
đức tin đó càng sớm càng tốt!
Tất cả ba người vô thần hạng
nhẹ của chúng ta tuyệt đối chắc chắn
rằng tín điều, lư tưởng, và thực hành
của tôn giáo thiết yếu là điều ác. Quả
thực, một dấu chỉ phân biệt của chủ
thuyết vô thần mới là rằng nó không chừa
chỗ nào cho khả năng của tính mơ hồ luân lư
trong bất cứ thứ ǵ phảng phất mùi vị
đức tin. Không một nhận thức rằng tôn giáo
có thể có ít nữa một đôi khía cạnh cứu
độ. Không một chuyện dông dài nào như thế
được phép. Ḷng ghét bỏ tôn giáo của họ có
thể cảm giác được cho đến nổi các
trang sách của họ h́nh như run rẩy trong tay chúng ta.
Sự làm nhục như vậy, tuy nhiên, chỉ có thể
trỗi sinh từ một nhận thức của việc
bị chôn ngập trong một lănh vực không lay chuyển
của “chính trực” (rightness). Nhiệt t́nh của các
người vô thần mới trong việc làm nhục
đức tin, cách riêng niềm tin vào Thiên Chúa, là cũng kiên
quyết như bất cứ người rao giảng Phúc
âm nào có thể sắp đặt. Để biết với
một tính chắc chắn như vậy rằng tôn giáo là
điều ác, người ta trước hết đă
phải hàng phục con tim và tâm trí của ḿnh một cách
không điều kiện cho những ǵ là điều
thiện. Nhưng bằng cách thực hiện việc hàng
phục này, các nhà phê b́nh của chúng ta phải không cách xa
việc minh họa nhận thức thần học về
đức tin mà tôi đă phác họa ở cuối chương
1.
Các cuốn sách của Dawkins, Harris, và Hitchens không
phải là các luận giải ôn ḥa như những sách
mơn man dè dặt, và thường không hấp dẫn,
từ các phân khoa triết học. Đó là các tác phẩm
của thịnh nộ, và tôi nghi rằng hầu hết các
nhà triết học sẽ bối rối với thể
loại tŕnh bày quá mức của ba người đó. V́ thế
tôi nghi ngờ việc các nhà triết học cũng sẽ
giới thiệu các tác phẩm đó cho sinh viên của chính
họ, cho dẫu các cuốn sách đó có thể hữu
dụng vào việc nghiên cứu trường hợp cho các
lớp suy tư phê phán. Ở điểm nhậy cảm
nhất của họ, điểm biện minh cho các giá trị
nằm đàng sau việc đánh giá luân lư của họ
về tôn giáo, sự liên kết logic rời bỏ
từng người trong các người vô thần mới.
Với các người vô thần hạng
nặng, người ta phải đặt câu hỏi
về chủng loại mới này: Căn bản của
sự chính trực luân lư của quí vị là ǵ? Nói cách khác,
nếu không có nền tảng vĩnh cửu cho các giá
trị, làm cách nào các tiêu chuẩn chặt chẽ của
chính quí vị có thể là ǵ khác hơn là những bịa
đặt trần tục tạm thời, thông
thường, giới hạn thực chất?
Nhưng quí vị lại xem đó như là ràng buộc
tuyệt đối. Và nếu quí vị là người theo
Dawkins tuyên bố rằng Thiên Chúa trong Kinh thánh là
một con quái vật; Harris, rằng Thiên Chúa là điều
ác; Hitchens, rằng Thiên Chúa không vĩ đại. Nhưng
không có vài khả năng cố định về chính
trực, làm sao người ta có thể phân biệt
những ǵ là quỉ quái, là ác, hay là “không vĩ đại”
từ phe đối nghịch? Nhằm đưa ra các phán
đoán về giá trị như vậy, người ta
phải giả định, như các người vô
thần hạng nặng thành thực đủ để
nhận ra, rằng hiện hữu ở đâu đó, trong
một vài thể thức của hiện thân, một lănh
vực của chính trực không mang nợ sự hiện
hữu của nó hoàn toàn vào phát kiến của con
người, sự tuyển chọn Darwin, hay sự xây
dựng xă hội. Nếu chúng ta cho phép các người vô thần
hạng nặng cùng dự vào các thảo luận của
chúng ta, chúng ta có thể rút ra kết luận này: Nếu các
giá trị tuyệt đối hiện hữu, th́ Thiên Chúa
hiện hữu. Nhưng nếu Thiên Chúa không hiện
hữu, th́ các giá trị tuyệt đối cũng không, và
người ta không nên đưa ra các phán đoán luân lư
như thể các giá trị đó hiện hữu.
Niềm tin vào Thiên Chúa hay việc thực hành tôn
giáo, như tôi sẽ nhấn mạnh về sau, không
nhất thiết nhằm cho con người thành các hiện
thân có luân lư cao. Chúng ta có thể đồng ư với các
người vô thần hạng nhẹ của chúng ta về
quan điểm này. Nhưng câu hỏi thực sự, không
phải do tôi mà do các người vô thần hạng
nặng, là: Quí vị có thể biện minh cách hữu lư việc
liên kết không điều kiện của quí vị vào các
giá trị không thời gian mà không hàm ư gợi lên sự
hiện hữu của Thiên Chúa không? Các người vô
thần hạng nặng nói “Không.” Chúng ta sẽ trở
lại vấn đề này ở chương 6.
1Sam Harris, “Rational Mysticism,” http://www.secularhumanism.org/index.php?section=library&page=harris_25_6
(truy cập
ngày 14/10/2007).
2 Logos: Tiếng Hy lạp trong nguyên tác, nghĩa là lư
trí (nd)
3 Sigmund Freud, The Future of an Illusion, James Stratchey
dịch (New York: W W. Norton & Co., 1961), 69
4 Richard Dawkins, “Tanner Lecture on Human Values” tại
Đại học Harvard, 19 và 20/11/2003, trích bởi Science
and Theology News trên mạng, http://www.stnews.org/archives/2004_february/web_x_richard.html
5 Harris (205-207) cố giải thích hạnh phúc là ǵ,
nhưng trong khi bài viết của ông phần lớn
quả quyết và rơ ràng, các ư niệm của ông về
hạnh phúc tuyệt đối mù mịt.
6 Jean-Paul Sartre, The Words (New York: Vintage Books,
1981), 247.
7 Tôi sẽ bàn tiếp vấn đề luân lư và
đức tin tôn giáo trong chương 6.
8 Sisyphus: Một ông vua tham lam trong thần
thoại Hy lạp bị đày xuống địa
ngục để đẩy một tảng đá lên cao
nhưng nửa chừng tảng đá lại rơi
xuống để ông phải đẩy không ngừng (nd)
9 Madman: Một dụ ngôn của Nietzsche trong The
Gay Science (New York: Vintage, 1974) nói về một
người điên thắp đèn giữa ban ngày buổi
sáng đi t́m Thiên Chúa và kết luận là chúng ta đă
giết Thiên Chúa, Thiên Chúa đă chết (nd)
10 Friedrich Nietzsche, The Gay Science, bản Walter
Kaufmann (New York: Vaintage Books, 1974), 181-82.
11 Harris, “Rational Mysticism.”
12 Nietzsche, Gay Science, 181-82.
13 Jean-Paul Sartre, Existentialism Is a Humanism, Carol
Macomber dịch (New Haven, Conn.: Yale University Press, 1970).
14 Xem Schubert Ogden, The Reality of God and Other Essays (
3
Thần
học quan trọng không?
(Does
Theology Matter?)
Khoa học đă trở thành lănh vực xuất
sắc để chứng minh sự thành thực trí
tuệ. Giả vờ biết những ǵ quí vị không
biết là một trách nhiệm lớn trong khoa học; và
thế nhưng, đó chính là cái sine qua non1 của tôn
giáo dựa trên đức tin.
—Sam Harris2
Các nhà vô thần mới lật mặt tôn giáo trong
t́nh trạng xấu xa nhất của nó. Họ không quan tâm
sử dụng một cách xử lư quân b́nh thiết yếu
cho nền học thuật đích thực. Sử dụng
các h́nh thái cực đoan nhất của tính tôn giáo rồ
dại, họ cố gắng thuyết phục
người đọc của họ rằng các tài
liệu đáng ghét đó là tinh túy của đức tin.
Những ǵ phần lớn chúng ta xem là các diễn
đạt tôn giáo đáng chống đối nhất,
cộng lại cho các người vô thần mới thành những ǵ các đức tin
hữu thần là thế đó. Giống như các
người chống đối tôn giáo của họ, các
người vô thần mới cũng đóng cửa rút
cầu cho việc đối thoại cởi mở
với các nhà thần học cũng như các người
chống
Không may thay, các người vô thần mới không
cần chút nào hết liệu các nhà thần học có
đọc sách họ hay không. Thực ra, họ thích không ai
đọc. Họ không viết cho các nhà thần học
nhưng cho đại chúng những người đọc
không được thông tin về thần học. Dù sao,
theo quan điểm của họ, thần học chỉ là
một bào chữa chán ngắt, xoi mói cho sự trống
rỗng và ngu xuẩn của đức tin tôn giáo. Tại
sao lại phí th́ giờ đọc thần học, nói chi
đến việc nghiên cứu hoặc theo học một
khóa thần học? Đă được huấn luyện
để nhận ra những ǵ cấu thành “chứng
cứ” đích thực, ba người chỉ trích thấy
thực khó tin có người nào có thể chú tâm đến
chuyện thần học đó.
Trong mỗi cuốn sách được xem xét, các
nhà thần học được nói đến với
sự mỉa mai độc địa nhất hơn
cả mọi thứ. “Chắc chắn sẽ đến
lúc,” Harris ghi nhận, “chúng ta sẽ nhận ra điều
hiển nhiên: thần học giờ đây chỉ hơn
chút ít một ngành của sự ngu dốt của con
người. Quả thực, nó là sự ngu dốt có cánh”
(173). Dawkins, về phần ông, nghĩ ông đă có chuyên môn
đầy đủ để loại bỏ mọi
thứ thần học đơn giản nhờ vào
việc ông nằm trong lănh vực khoa học.
Các câu hỏi liệu Maria là một trinh nữ,
liệu Giêsu trỗi dậy từ cơi chết, và thậm
chí liệu Thiên Chúa có hiện hữu, giờ đây với
ông chỉ hoàn toàn là các câu hỏi khoa học và xứng
đáng có những câu trả lời hoàn toàn khoa học
(58-59).
Các phương pháp mà một nhà thần học
tốt nên sử dụng “trong biến cố không chắc
chắn rằng chứng cứ liên hệ đă có bao
giờ thành khả dĩ, sẽ thuần túy và hoàn toàn là các
phương pháp khoa học” (59).
CHỦ THUYẾT NGHĨA ĐEN
(Literalism)
Trong khi chuẩn bị luận giải về
chủ thuyết bài hữu thần (a-theism),
người ta trông mong các học giả và kư giả sẽ
thực hành vài t́m ṭi về chủ thuyết hữu
thần (theism), để chắc chắn họ
hiểu xác đáng những ǵ họ từ khước.
Thật khó trở thành một người vô thần
đủ thông tin và nhất quán mà không biết chút ǵ về
thần học, nhưng ngoài nhiều dẫn chiếu châm
chọc, không có dấu chỉ về bất cứ tiếp
xúc nào giữa các người vô thần mới với thần
học, đừng nói đến t́m hiểu nghiên cứu
về chủ đề này. Sự lẫn tránh này có thể
so sánh với những người thuyết tạo
dựng từ khước tiến hóa mà chưa hề theo
học một khóa sinh học. Họ chỉ biết có
điều ǵ đó sai lầm với các tưởng
tượng
Ngu dốt về thần học sẽ làm
đơn giản các cuộc tấn công của các
người vô thần mới chống những
người đối nghịch tôn giáo cũng không có thông
tin tương đương. Nó cho phép các chỉ trích
của họ phù hợp, từng điểm một, với
chủ thuyết cơ bản (fundamentalism) mà nó cố
gắng loại bỏ. Quả thực, trong phạm vi
rộng lớn của chủ thuyết vô thần
đương thời, Dawkins, Harris, và Hitchens là h́nh ảnh
thu nhỏ của chủ thuyết nghĩa đen cực
đoan có tính khoa học gần như cùng một
phương cách mà những người theo chủ
thuyết cơ bản tôn giáo mà họ kết án đại
diện cho chủ thuyết nghĩa đen cực đoan
trong thế giới rộng răi của tư duy Do thái, Kitô,
và Hồi giáo. Sự giống nhau không phải do trùng
hợp. Những người theo chủ thuyết nghĩa
đen cả khoa học và tôn giáo chia sẻ niềm tin
rằng chẳng có ǵ bên dưới bề mặt của
bản văn họ đang đọc—thiên nhiên trong
trường hợp khoa học, Kinh thánh trong trường
hợp tôn giáo. Chủ thuyết khoa học, phiên bản của
cộng đoàn khoa học về chủ thuyết nghĩa
đen, giả định rằng vũ trụ sẽ
trở nên hoàn toàn trong suốt nếu nó được thu
gọn trong ngôn ngữ trung tính của toán học hay các
thể loại khác của mô
h́nh khoa học. Bất cứ linh tính về
một điều ǵ sâu sắc hơn có thể đang
xẩy ra bên dưới bề mặt của thiên nhiên,
như tôn giáo và thần học xác định, là hoàn toàn
hư cấu. Tương tự, các người chủ
thuyết nghĩa đen tôn giáo giả định rằng sự
sâu sắc hoàn toàn của những ǵ đang xẩy ra trên
thế giới thực là để thành chứng cứ cho
người tin thực sự và ư nghĩa bộc trực
của các bản văn thánh. V́ thế chẳng có lư do ǵ
để nh́n vào bên dưới của ư nghĩa theo
nghĩa đen, hoặc nêu câu hỏi về ư nghĩa
của các bản văn đó khi có trường hợp
thay đổi đột ngột từ thời
đại này sang thời đại khác. Cả hai phía tránh
xa thần học.
Nhằm để những người
đọc không có thông tin có ấn tượng rằng ông
ấy đă ít nhất t́m hiểu một ít thần
học, Richard Dawkins để lọt vào tên của
nhiều nhà thần học nổi tiếng đương
thời và thậm chí cung cấp một ít trích dẫn ngắn
(147-50). Những các mẫu văn không có ư nghĩa đó
không đủ để che lấp người theo
thuyết tạo dựng tiêu biểu hơn và tâm trạng
sai niên đại lịch sử mà ông đưa đến
cho việc hiểu Kinh thánh và cũng như thần học
của ông. Phiên bản hàm ư của chính ông về
phương pháp thần học th́ giống y khuôn phiên
bản của “những người tạo dựng khoa học,”
rơ nét trong ṿng thần học về niềm tin của
họ rằng, nếu Kinh thánh được cảm
hứng bởi Thiên Chúa, nó phải là một nguồn
đáng tin cậy của thông tin khoa học cũng như
tâm linh. Sự khác biệt có ư nghĩa duy nhất mà tôi có
thể
nh́n thấy giữa Dawkins và các đối thủ
tạo dựng của ông là rằng Dawkins xem Kinh thánh và
thần học là các nguồn không đáng tin cậy của
thông tin khoa học, trong khi các người tạo dựng
không xem như thế. Chủ thuyết nghĩa đen không
thỏa hiệp của ông không đâu hiển nhiên hơn
trong việc nhấn mạnh đáng kinh ngạc của ông
xuyên suốt Ảo giác về Thiên Chúa rằng ư
niệm về Thiên Chúa phải được xem như là
một giả thiết khoa học, phụ thuộc vào cùng các
tiến tŕnh kiểm chứng như bất cứ giả
thiết “khoa học” nào khác. Ông không nghi ngờ ǵ rằng
giả thiết này sẽ không đứng vững
trước việc điều tra, nhưng quyết
định liệu nó sẽ đứng vững hay không,
không phải là một vấn đề thần học mà
là “một vấn đề khoa học” (48). Tôi c̣n nhiều
điều để nói về Dawkins và về giả
thiết Thiên Chúa trong chương kế tiếp.
Trong việc xem xét Kinh thánh, Hitchens cũng chia
sẻ với các đối thủ tôn giáo cực đoan
của ông giả định rằng nắm bắt
đầy đủ yếu tố của đức tin
Kinh thánh đ̣i buộc rằng các bản văn thánh
phải được hiểu theo nghĩa đen. Lư do khác
nữa, nói ví dụ, ông có thể lập luận cách nghiêm
chỉnh rằng v́ các đối nghịch của các tác
giả Phúc âm về niên đại, chi tiết về
việc đóng đinh Đức Giêsu, và các chủ
đề khác, bốn Phúc âm không thể tuyên bố là
“bảo đảm siêu nhiên” (112). Ông h́nh như không biết
rằng các chuyên viên luận b́nh Kinh thánh và các nhà thần
học đă biết các sai biệt đó kể từ
thời cổ, nhưng họ đă không phải là
những người theo thuyết nghĩa đen
đến thế để diễn dịch sự đối
nghịch của các sự kiện không ư nghĩa đó
như là các đe dọa cho giáo điều về cảm
hứng Kinh thánh. Rối rắm cách riêng cho Hitchens là các
tường thuật thời thơ ấu trong các Phúc âm
Matthêô và Luca. Đa số học giả Kitô giáo ngày nay hân
hoan với các tường thuật không thể phù hợp
nhau trong sự kiện đó về việc sinh ra của
Đức Giêsu, v́ qua chúng hai người viết Phúc âm có
thể giới thiệu các chủ đề thần
học tâm tính đặc biệt mà họ trải dài
suốt phần c̣n lại
của Phúc âm của họ.
Tuy nhiên, Hitchens không thể vượt qua
được làm sao có người có thể khả dĩ
coi chúng cách nghiêm chỉnh như là Lời của Thiên Chúa
nếu chúng khác biệt nhau về sự kiện như
vậy (111-12). V́ thế ông kết luận: “Hoặc
giả các phúc âm là sự thực theo một nghĩa đen
nào đó, hoặc toàn bộ thiết yếu là một
sự lừa đảo và có thể là một điều
không luân lư như thế đó” (120). Như thể nếu
chừng đó chưa đủ làm các người
đọc có học thức nhăn mặt cau mày, bất
cứ dọ dẫm nào Hitchens đang cố gắng gây
ấn tượng cho các học giả đều hoàn toàn
biến mất khi ông nói thoáng qua rằng chính sự
hiện hữu của Đức Giêsu cũng là “rất chi
là nghi vấn” (114). Hitchens cũng phơi bày cho chúng ta
biết rằng “các cuốn sách nền tảng” của
chủ thuyết hữu thần “đều rơ ràng là
truyền thuyết (fables),” và rằng, dưới ánh sáng
nhận thức khoa học ngày nay về nguồn gốc
của vũ trụ và nguồn gốc của các chủng
loại, các cuốn sách nền tảng đó (giả
định cách riêng Sách Sáng thế) và tôn giáo mà nó gợi ra
cảm hứng đều kư thác cho “chuyện bên lề
nếu không là không liên quan” (229)!
Ít nhà thần học ngày nay có thể nhận
phương pháp của Hitchens về việc đánh giá
sự xứng đáng của Kinh thánh theo tính đáng tin
cậy khoa học của nó cách nghiêm chỉnh hơn họ
nhận chủ thuyết tạo dựng khoa học từ
đó Hitchens h́nh như đă rút ra phong thái luận giải
Kinh thánh của chính ông. Sinh viên theo khóa nhập môn về
văn chương Kinh thánh học cách vượt qua
dễ dàng các đối nghịch đó, xem chúng như là
cơ hội để khai phá các tầm mức sâu xa hơn
của các bản văn thánh hoặc như một lời
mời gọi nghiên cứu các quan điểm thần
học khác nhau trong Kinh thánh. Vào lúc họ đă hoàn tất
một khóa cử nhân tốt về văn chương Kinh
thánh, hầu hết các sinh viên Kitô và Do thái giáo sẽ
vượt qua được sự rối rắm ban
đầu về các điều không chính xác lịch
sử, việc đầy tội lỗi của các nhân
vật trong Kinh thánh, và sự thô tháp của một số
trong các h́nh ảnh của Thiên Chúa. Họ có thể đă
vượt qua được ư niệm thơ ngây rằng
cảm hứng Kinh thánh nghĩa là chính tả siêu
nhiên—một điều ǵ Harris chưa khám phá ra
được. Sinh viên có thể đă ḥa giải với ư
niệm rằng mặc khải chẳng có ǵ liên hệ
đến việc truyền thông của thông tin khoa học
và rằng thần học Kinh thánh về nguồn gốc
không đối nghịch với khoa học Darwin. Trong lúc
đó Hitchens vẫn c̣n ngoài cửa lớp học càu nhàu
về tác quyền không phải Môsê (non-Mosaic) của Ngũ
kinh (Pentateuch) (104). Và Harris vẫn c̣n đang phân vân làm sao
một cuốn sách cho là “được viết bởi
Thiên Chúa” (35) hay “có tác giả là Đấng Tạo dựng
vũ trụ” rốt cuộc lại là “tác phẩm của
những người đàn ông đàn bà chân đất
đă nghĩ quả đất là bằng phẳng….” (45)
Vậy sự khác biệt quan trọng giữa người
vô thần mới và người tạo dựng không
phải ở chỗ một bên tuyên bố coi trọng khoa
học c̣n bên kia không. Ít nữa cả hai đều thú
nhận như vậy. Cũng không phải một bên trông
mong Kinh thánh cung cấp thông tin khoa học c̣n bên kia không.
Cả hai giả định văn chương cho là
cảm hứng đó ít nữa làm được chừng
đó. Đúng ra, sự khác biệt có ư nghĩa là rằng
người tạo dựng xem Kinh thánh là nguồn đáng
tin cậy c̣n người vô thần mới th́ không.
Nhưng điểm quan trọng cần ghi nhớ là
rằng người vô thần mới cũng đặt
các đ̣i hỏi theo nghĩa đen vào Kinh thánh y như
những người cơ bản Kitô giáo và các tôn giáo khác.
Chủ thuyết theo nghĩa đen này làm thất
vọng những ai muốn tránh lẫn lộn tôn giáo
với khoa học. Nhưng chẳng ai trong các người
chỉ trích của chúng ta cho phép sự phân biệt rơ
rệt như vậy, và cũng trong chiều hướng
đó họ nằm thoải mái trong phạm vi đồng
hành với những người tạo dựng. Ví dụ,
Harris nhấn mạnh rằng “cũng các đ̣i hỏi chứng
cứ như vậy”—nghĩa là, cũng các tiêu chuẩn khoa
học như vậy—phải được sử
dụng để đo lường t́nh trạng sự thực
của các mệnh đề tôn giáo như bao điều
khác. Ông phân vân tại sao tất cả các người
đọc Kinh thánh dốt nát không đần độn
như ông rằng “một cuốn sách được
viết bởi hiện thân toàn năng” lại thất
bại trong việc trở thành “nguồn phong phú nhất
về nhận thức toán học nhân loại chưa
hề biết tới,” hoặc tại sao Kinh thánh chẳng
có ǵ để nói “về điện, hoặc về DNA,
hoặc về tuổi tác và kích thước thực sự
của vũ trụ” (Thư cho một dân tộc Kitô
giáo, 60-61). Trong ba mươi lăm năm dạy tŕnh
độ cử nhân, tôi chưa bao giờ gặp một
trường hợp nào trong đó, ít nữa sau khi đă
học một khóa thần học, một sinh viên có thể
có khả năng đưa ra một than phiền hài
hước như vậy. Nhưng Harris, giống như các
người tạo dựng ông chối bỏ, và không
giống như các sinh viên được thông tin về
thần học, chẳng muốn dính líu ǵ đến
bản văn cảm hứng mà thất bại trong
việc đưa ra thông tin khoa học hữu dụng và
chính xác.
Năm 1893, ngay cả Giáo hoàng Leo XIII rất
bảo thủ, trong tông thư Providentissimus Deus3,
chỉ thị người Công giáo không bao giờ t́m
kiếm thông tin khoa học trong Kinh thánh. Trên quan điểm
này, Dawkins, Harris, và Hitchens đứng quá xa về phía bên
phải của Giáo hoàng Leo. Họ có thể dễ dàng tránh
được sự vụng về cẩu thả đó nếu
họ quay lại nhiều thế kỷ và ghi nhớ
lời Galileo. Vào thế kỷ thứ 17, người
khổng lồ khoa học và Công giáo sốt sắng này,
trong “Thư gửi Đại Nữ Công tước
Christina” sáng chói, đă chỉ ra rằng các tác giả Kinh
thánh có thể đă không nhằm phát biểu các mệnh
đề chính xác theo khoa học về thế giới
tự nhiên. Nếu điều đó là chủ ư của
họ, sơ sót nhỏ nhoi nhất trong khoa học của
họ có thể làm cho những người đọc thông
minh cũng nghi ngờ về thông điệp tôn
giáo của họ. “Từ đó,” Galileo b́nh
phẩm, “tôi có thể nghĩ đó là điều cẩn
trọng không cho phép ai chiếm quyền các bản văn
Kinh thánh và ép buộc chúng bất cứ theo phương cách
nào để xác nhận bất cứ kết luận
vật chất nào là đúng, trong khi vào một lúc nào đó
trong tương lai, ư nghĩa và các lư do minh chứng hay
cần thiết có thể cho thấy ngược lại.”4
Thế nhưng thậm chí ngày nay các người thiên nhiên
khoa học cũng không kém hơn những người
nghĩa đen Kinh thánh vẫn c̣n diễn dịch các giáo
điều và Kinh thánh tôn giáo như thể chủ đích
của chúng là để giải quyết các rối rắm
khoa học. Trước Galileo nhiều, De Genesi ad literam5 của
Augustine đă khuyên người đọc Sách Sáng thế không
nên băn khoăn với các câu hỏi về sự chính xác
thiên văn, cũng không cố gắng bảo vệ sự
chính xác theo nghĩa đen của các giả định
vũ trụ. Ngược lại, những người
không tin xem ra sẽ loại bỏ các bản văn Kinh thánh
“khi họ dạy dỗ, kể lại, và đưa ra các
vấn đề lợi ích hơn.”6
Dĩ nhiên, với các người vô thần
mới, đơn giản không thể có bất cứ
“điều ǵ lợi ích” hơn. Nếu chân lư Kinh thánh không
thể rút lại thành chân lư khoa học, thế th́ nó không
đủ điều kiện là chân lư trong bất cứ
nghĩa nào. Và cũng cần biết rằng Dawkins, Harris,
và Hitchens không phải là các người duy nhất trong
những người vô thần mới trừng phạt các
tác giả Kinh thánh v́ đă không đưa ra khoa học
của họ cho đúng. Ví dụ, triết gia Daniel Dennett,
đọc Kinh thánh cùng một cấp độ theo
nghĩa đen như những người tạo dựng,
ghi nhận rằng sinh học tiến hóa không thể phù
hợp với niềm tin Kinh thánh. Đối chiếu t́nh
trạng đau buồn của thông tin khoa học trong Kinh
thánh với thông tin của sinh học ngày nay, ông cố
gắng làm cho chúng ta kinh hoàng để thú nhận với
ông rằng “khoa học đă thắng và tôn giáo đă thua,”
và rằng “ư niệm của
Ở đây một lần nữa chỉ v́ ông
chấp nhận phương pháp diễn dịch văn
chương của thuyết tạo dựng mà Dennett có
thể tuyên bố cách toàn thắng cho đến nổi
sinh học tiến hóa đă phơi trần sách Sáng thế
ra chỉ đơn thuần như một hóa thạch.
Nếu các nhà thần học chịu hợp tác
đủ để giải quyết hiện trạng
của “chứng cứ” và thông tin khoa học, các
người vô thần mới gợi ư, lúc đó thần
học có thể đáng được nh́n lại lần
nữa. Như thế đấy, tuy nhiên, vũ trụ big
bang và các khoa học sinh học đă đủ
để thuyết phục Dennett, Hitchens, Harris, và Dawkins
rằng các tiểu luận thần học về các chủ
đề như là tạo dựng siêu nhiên hoặc tác
quyền của Thiên Chúa về sự sống giờ
đây đă lỗi thời. V́ các bản văn cổ và
các diễn dịch thần học hiện đại
thất bại trong việc cải tiến nhận
thức khoa học của chúng ta, chúng ta có thể an toàn
bỏ qua các bản văn đó. Với các người vô
thần mới, do đó, hiển nhiên chính các vấn
đề khoa học có thể mở khóa nội dung sâu
sắc nhất của các bản văn tôn giáo cổ
điển. Thế nhưng một trong các bài học
đầu tiên mà sinh viên thần học phải học là
rằng nếu họ thất bại trong việc hỏi
đúng câu hỏi về bất cứ bản văn cổ
điển nào, tôn giáo hay ǵ khác, họ sẽ lạc toàn
bộ ư nghĩa của nó. Đó là một nguyên lư cơ
bản của việc diễn dịch bản văn nói
chung, và của phương pháp thần học nói riêng.
Đọc Homer chỉ nhằm mục đích học
hỏi thói quen bếp núc ngày xưa có thể nâng cao
kiến thức, nhưng thể loại câu hỏi như
vậy sẽ không dẫn chúng ta đến việc học
hỏi bất cứ bài học nào về cuộc sống
mà The Iliad và The Odyssey8 có thể dạy dỗ
chúng ta. Bất cứ sự khôn ngoan nào trong các tác phẩm
vĩ đại đó sẽ có thể bỏ qua chúng ta.
Cũng vậy, hỏi Côran hay Kinh thánh thông tin cho
chúng ta về những việc chúng ta có thể tự t́m
thấy chỉ cần nhờ vào lư trí hay khoa học có
thể làm chúng ta lăng quên bất cứ sự soi sáng sâu
sắc khả dĩ nào các sách đó có thể cống
hiến. Công việc của thần học là bảo
đảm rằng các câu hỏi của chúng ta với kinh
thánh của bất cứ tôn giáo truyền thống nào
sẽ hướng đến một cách nào đó
để cho phép chính chúng ta bị thách thức và thậm
chí bị lay chuyển ở tầm mức sâu xa nhất
của sự hiện hữu của chúng ta bởi
những ǵ bản văn có để nói. Nhưng một
phương cách để ngăn chặn sự gặp
gỡ như vậy là xử lư bản văn, như các
người vô thần mới, trang bị với chẳng
ǵ cả ngoại trừ sự ṭ ṃ khoa học hoặc,
như chúng ta sẽ thấy về sau, các câu hỏi
đơn giản về luân lư. Các tường thuật
về nguồn gốc trong Kinh thánh nhằm mục đích
đánh thức ḷng biết ơn, khiêm nhượng, tin
tưởng, và hy vọng trong các cộng đoàn mà các
tường thuật đó được viết cho. Các
người tạo dựng sai lầm khi đọc các câu
chuyện về tạo dựng như là khoa học, nhưng
ít nữa họ có thể lấy ra được một
số các thách thức tôn giáo của bản văn không
kể việc luận bàn sai niên đại của chúng.
Nhưng các người vô thần mới thậm chí không
thể làm được chỉ chừng đó. Họ chia
sẻ cách đọc khoa học không hợp thời
với các người tạo dựng, nhưng v́ cũng
điếc trước ư hướng chuyển hóa rơ
rệt của các Kinh thánh, họ hoàn toàn tự làm mất
năng lực như là các người diễn dịch
đức tin Kinh thánh.
Các người vô thần mới, chẳng ai trong
họ cho thấy tính chuyên viên trong lănh vực nghiên cứu
tôn giáo, đă một cách có phương pháp tránh các nhà
thần học và các học giả Kinh thánh như là không
liên quan ǵ đến thể loại hướng dẫn mà
sách của họ nhằm cung cấp. Thay vào đó, họ
đă có được tính chuyên môn của họ về
nghiên cứu tôn giáo bằng giới hạn việc t́m ṭi
của họ gần như hoàn toàn với các người
cấp tiến và phản ứng giáo điều mà họ
cảnh báo chúng ta về những người này. Nhằm
nắm bắt những ǵ thực sự là tôn giáo, các
người vô thần hàm ư, tất cả những ǵ chúng
ta cần tập chú vào là những kẻ cực đoan, diễn
dịch nghĩa đen, hết sức bè phái, quan ṭa dị
giáo, và những tên khủng bố. Tôi ngạc nhiên sao
họ bỏ ra ngoài lịch sử các đức thánh cha,
trong đó người ta có thể t́m thấy một
số ví dụ khiếm nhă nhất về sự xuống
cấp tôn giáo. Các chuyên viên tự học của chúng ta
về tôn giáo, ngược lại với hàng ngàn học
giả khoa bảng và các giáo sĩ học thức mà họ
bỏ qua, đang nói với người đọc của
họ rằng các khía cạnh của đức tin xứng
đáng được bàn đến chỉ là những ǵ
những người cơ bản và tưởng
tượng đă hướng sự chú ư
của chúng ta đến.
Điều này không có nghĩa là các cuốn sách
chúng ta đang xem xét không có điểm giá trị nào về
nhiều lạm dụng do các tôn giáo và các nhà thần
học đỡ đầu. Dĩ nhiên đă có như
vậy, và phần lớn người đọc sẽ
tự ḿnh nhận ra đồng ư với các phán đoán tiêu
cực về tính man di đi kèm tính tôn giáo nhân loại ngay
từ lúc ban đầu. V́ lư do đó, việc kê khai các
điều ác của tôn giáo trong các sách bán chạy nhất
đó có thể có tính thông tin cho những người không
phải là học giả. Nhưng người đọc
có đủ quyền trông mong quân b́nh và công b́nh từ các kư
giả và nhà khoa bảng. Họ không nhận
được điều đó từ Hitchens, Dawkins, và
Harris. Trong một ư nghĩa, điều này không phải
đáng ngạc nhiên v́ các tác giả không đưa tính chuyên
viên học giả vào các chỉ trích của họ, và ai
cũng biết sự ngu dốt về những ǵ người
ta từ khước luôn luôn dẫn đến biếm
họa.
Hậu quả là, v́ công b́nh không quan trọng, các
người chỉ trích của chúng ta dựa phần
lớn vào sự bịp bợm mỹ từ, một
phương cách rất không học giả để
thuyết phục người ta, nhưng một
phương cách nhại lại mọi phương
diện tâm trí cứng cỏi của các chủ thuyết
cơ bản đa dạng mà họ vay mượn. Rất
ít khi, nếu có lần nào, họ mời người
đọc kiểm tra bất cứ thứ ǵ ngoại
trừ phía tồi tệ nhất của đời
sống tôn giáo. Thực tế, cả ba tác giả đi qua
các chỗ vặn vẹo để thuyết phục
người đọc rằng không có phía nào khác hiện
hữu. Không chỗ nào đau đớn hơn để
nh́n ngắm cho bằng trong nỗ lực vụng dại
của Hitchens tách rời thông điệp của Martin Luther
King Jr. ra khỏi thông điệp của các tiên tri và
Đức Giêsu. Nếu người ta thực sự tin
rằng “tôn giáo đầu độc mọi thứ,” lúc
đó thông điệp của King, điều Hitchens thán
phục, phải bị tháo gỡ khỏi Kinh thánh cũng
như lịch sử ghê tởm của tôn giáo và thần
học.
Trong lúc đó, các nhà thần học đă biết
về các điều ác của tôn giáo từ lâu lắm và
với chi tiết đê tiện và chiều sâu nhiều
hơn các người vô thần mới ít thông tin của
chúng ta biết. Họ cũng đă tŕnh bày nhiều phê phán
ấn tượng về tôn giáo hơn các người sau
này đă làm.9 Tuy nhiên, không để bị vượt qua,
các người vô thần mới nghĩ cần phải nói
vài điều tệ hại về môn thần học
(hoặc những ǵ họ gọi là “không phải chủ
đề” [non-subject]) và rồi liệng bỏ đi cùng
với mọi điều khác thuộc về tôn giáo.
Để hoàn toàn coi thường nó, Dawkins, Hitchens, và cách
riêng Harris trước hết phải thuyết phục
người đọc của họ rằng thần
học là tên ṭng phạm đáng chê trách nhất của
sự tàn ác của tôn giáo.
Sao lại thế? Đơn giản v́ bằng
cách dọn chỗ cho đức tin và niềm tin vào Thiên
Chúa, thần học đă tạo ra khoảng không gian
văn hóa và nhận thức để trong đó sự
lạm dụng tôn giáo có thể xẩy ra. Phương cách
hữu hiệu nhất để thế giới loại
bỏ sự cuồng tín tôn giáo do đó là, trước
mọi chuyện, đóng lại mọi ngóc ngách hợp lư
cho đức tin tôn giáo.
Loại bỏ thần học ra khỏi thế
giới sẽ là một bước chính yếu trên con
đường đến một thế giới không c̣n
người cuồng tín. Một chương tŕnh như
vậy có thể so sánh được, dĩ nhiên, với
việc loại bỏ lạm dụng t́nh dục bằng
cách trước hết loại bỏ chính t́nh dục.
Lư do chính của sự khinh miệt của Harris
với thần học là rằng thần học gia là
những người đề cao thiếu trách nhiệm
nhất của những ǵ ông gọi là sự khoan
nhượng phóng túng cho đức tin. Một ví dụ hay,
ví dụ mà các người vô thần mới bỏ ra ngoài
theo chừng mực tôi có thể nói, là văn kiện
của Công đồng Vatican II về tự do tôn giáo.
Nền thần học đă tạo ra việc h́nh thành
văn kiện đó, họ có thể chỉ ra, đề
cao thể loại khoan nhượng cho đức tin là
điều đă làm trỗi sinh biết bao nhiêu bạo
lực tôn giáo gần đây của thế giới.
Đơn giản bằng cách chấp nhận quyền cho
con người đi theo mà không bị trừng phạt
thứ tôn giáo theo họ lựa chọn, và do đó có
một “đức tin,” thần học đă ban cho những
kẻ cực đoan cơ hội giết người nhân
danh các thần chúa của họ. Tuyên bố của công
đồng, do đó, phải được xem chỉ là
một diễn đạt thêm lên của nền thần
học phóng túng, điều phải bị khiển trách
về sự dai dẵng của tính tôn giáo quá mức
độ bất cứ nơi nào.
Các người vô thần mới hiếm khi chú ư
đến sự mỉa mai trong việc không nhân
nhượng sự nhân nhượng tôn giáo (the intolerance of
religious tolerance). Một bên, họ gợi lại các vụ
án dị giáo quá khứ như là chứng cứ của
điều ác của tôn giáo, nhưng bên kia, giờ đây
họ lên án các người ôn ḥa thần học là các
những người tán thành tinh thần khoan nhượng.
Hơn nữa, h́nh như họ không chú ư rằng cùng
một sự khoan nhượng phóng túng đó trong lịch
sử phương Tây hiện đại đă ảnh
hưởng Giáo hội Công giáo thay đổi quan
điểm về tự do tôn giáo cung cấp không gian văn
hóa và tự do diễn đạt nhờ đó chính các
người vô thần mới được phép trút ra các
ư niệm nghĩa đen của chính họ.
Thậm chí kiến thức mơ hồ nhất
của sự phấn đấu đau buồn của nhân
loại đi đến sự khoan nhượng và tự
do tôn giáo có thể làm cho phần lớn con người
ngần ngại trước việc đề cao việc
không khoan nhượng với sự khoan nhượng (the intolerance
of tolerance).
* * *
Khoa học, các người vô thần mới tuyên
bố, giờ đây chứng tỏ rằng thần
học không c̣n quan trọng ǵ nữa. Thế nhưng sự
tôn thờ khoa học của chính họ song hành với các
phiên bản ít co giăn nhất của thần học trong
việc làm cho thế giới thu nhỏ lại hơn nó
thực sự. Chủ thuyết khoa học với khoa
học là những ǵ chủ thuyết nghĩa đen
với đức tin. Đó là một phương cách thu
nhỏ thế giới thế nào để làm cho nó trở
nên điều khiển và vo tṛn bóp méo được.
Đó là một phương cách để loại bỏ
sự lo âu có thể trỗi sinh từ việc gặp
gỡ cởi mở hơn, can đảm hơn, và toàn
thể hơn với huyền nhiệm. Động cơ
chính của chủ thuyết khoa học là sợ mất
quyền kiểm soát. Chúng ta có thể quan sát bản năng
hẹp ḥi hoạt động trong chủ thuyết
nghĩa đen tôn giáo hiểu các bản văn thánh như thể
mục đích của các bản văn đó là để cung
cấp thông tin khoa học hoặc liệt kê các hành vi t́nh
dục phải lẫn tránh. Và chúng ta cũng có thể
thấy nó hoạt động trong thác lũ của sự
co rúm lại mà các người vô thần mới phải cho
qua nhằm lấy tôn giáo ra khỏi tay thần học và
đặt nó vào các bàn tay vững chắc hơn của các
nhà khoa học nơi họ nghĩ nó thực sự
thuộc về. Các co rúm đó gồm có:
Giảm thiểu, hoặc cố gắng giảm
thiểu, toàn bộ dân số tôn giáo độc thần
thành những người theo chủ thuyết nghĩa
đen Kinh thánh, cực đoan giáo điều, trốn tránh
thực tại, xuyên tạc, thủ phạm của nổi
đau khổ nhân loại, và cuồng tín.
Giảm thiểu vai tṛ văn hóa của thần
học thành bảo hiểm có hệ thống cho lạm
dụng tôn giáo.
Giảm thiểu ư nghĩa của đức tin
thành niềm tin không trí tuệ vào bất cứ điều
ǵ không có chứng cứ.
Giảm thiểu ư nghĩa của “chứng
cứ” thành “những ǵ khả dĩ với khoa học.”
Giảm thiểu toàn bộ thực tế thành
những ǵ có thể biết được bằng khoa
học.
Giảm thiểu ư niệm về Thiên Chúa thành
một “giả thiết” (Dawkins 31-73).
Dĩ nhiên, như các đối thủ của
họ, các người vô thần mới tin tưởng
hết sức rằng họ đang sở hữu hoàn toàn
cái chân lư mà họ xem không cần thiết ǵ phải phơi
bày các niềm tin của chính họ cho việc đối
thoại cởi mở. Khi đối với chủ
đề tôn giáo, các người vô thần mới phản
chiếu các đối thủ cực đoan của họ
trong việc giả định rằng họ đang
sở hữu chân lư, hoàn toàn và không thể thay thế. Khác
biệt hoàn toàn với những ai tự cho phép bị
chuyển hóa dần dần bởi việc gặp gỡ
đối thoại quan điểm của những
người khác, các người cực đoan sợ
rằng tṛ chuyện cởi mở cuối cùng sẽ
dẫn họ đến việc làm mềm yếu mô
đất cứng cát của sự chắc chắn trên
đó họ tin rằng họ đang đứng. Ngoài ra, trong
trường hợp của các người vô thần
mới, cái bục giảng có thể không đứng cheo
leo vững chắc trên lư trí thuần túy hay cởi mở
cho chân lư như họ giả sử. Các chương
tiếp theo cung cấp nền tảng xa hơn cho sự
nghi nan đó.
1 Sine qua non: Nguyên văn tiếng Latin, nghĩa là điều
kiện thiết yếu (nd)
2 An Edge Discussion of Beyond Belief: Science,
Religion, Reason, and Survival, Salk Institute,
http://www.edge.org/discourse/bb.html (truy cập
18/10/2007)
3 Providentissimus Deus: Thiên Chúa tuyệt đối
quan pḥng, tông thư của Giáo hoàng Leo XIII ban hành ngày 18/11/1893
nói về việc nghiên cứu Thánh kinh, trong đó
chống phái Duy lư (Rationnalism), lư thuyết tiến hóa
và lư thuyết h́nh thành vũ trụ, và những
người chỉ trích cao cấp hơn, hướng
dẫn cách dạy Kinh thánh trong chủng viện, cách
giải quyết các đối nghịch giữa Kinh thánh và
khoa học vv (nd)
4 Trưng dẫn trong Discoveries and Opinions of
Galileo, Stillman Drake dịch với dẫn nhập và ghi
chú (
5 De Genesi ad literam: Về Sách Sáng thế theo
nghĩa đen, một tác phẩm của Thánh Augustine
(354-430) với các lời khuyên tuyệt vời về cách
diễn dịch Kinh thánh dưới ánh sáng khoa học (nd)
6 Như trên, 187.
7 Daniel Dennett, như được phỏng
vấn trong John Brockman, The Third Culture (New York: Touchstone
Books, 1996), 187.
8 The Iliad và The Odyssey: Hai thiên sử thi dài của
Hy lạp, được cho là của Homer, một nói
về các biến cố lúc gần chấm dứt Cuộc
chiến Trojan, một nói về việc Odysseus lang thang trong
10 năm sau khi thành
9 Một ví dụ hay là Charles Davis, Temptations of Religion
(New York: Harper & Row, 1973).
4
Thiên
Chúa có phải là một giả thiết không?
(Is
God a Hypothesis?)
Người
vô thần, đơn thuần bằng cách tiếp cận
với thực tế, xem ra lạc lỏng cách xấu
hổ với
cuộc
sống đầy tưởng tượng của lân bang
ḿnh.
—Sam
Harris1
Chỉ
những ai cảm thấy … hoàn toàn khách quan nhất với
việc đánh giá thực tế, có quyền
lực
nhất về các tưởng tượng không ư thức
sâu xa.
—Robert
Bellah2
Thành
một người vô thần không phải luôn luôn là dễ
dàng, cách riêng tại Hoa kỳ. Không nghi ngờ ǵ cả,
người vô thần bị kỳ thị không ngay chính, và
mỗi trường hợp của ghét bỏ mà tín hữu
Kitô, Do thái, hoặc Hồi giáo hướng đến họ
chỉ đưa họ sâu thêm vào trong phạm vi chắc
chắn của riêng họ. Cùng với đồng bọn
những người không tin, họ t́m thấy sự
khuyến khích qua lại để tiếp tục cuộc
chiến đấu mất c̣n. Tập hợp của
họ vẫn c̣n thưa thớt, nhưng giờ đây
nhiều và đủ an toàn để cung ứng sự
giảm nhẹ khỏi cảm giác bất ḥa mà nhiều
người vô thần trong quá khứ đă cảm
thấy. Nhu cầu đồng bọn mạnh mẽ
giữa những người không tin cũng như
những người tin, và trang Web, blogs, sách, báo, và hội
nghị cung cấp một hệ thống ngày càng phát
triển để ủng hộ những người vô
thần. Các người vô thần mới vẫn c̣n phóng
đại ảnh hưởng văn hóa của họ,
nhưng sự tiếp nhận phổ thông nồng nhiệt
các sách của họ cho thấy một khu vực đáng
kể những người nghi nan thường che dấu
nỗi nghi nan của họ. Nói chung, khu vực an toàn cho
chủ thuyết chống hữu thần h́nh như đang
được làm ấm dần lên. Trong thế giới
khoa bảng, sự phổ thông của chủ thuyết thiên
nhiên khoa học cung cấp một nơi cư ngụ trí
thức ấm cúng cho những người vô thần
mới và những kẻ nghi nan khác.
Chủ
thuyết thiên nhiên khoa học, mà các giáo điều chính tôi
đă liệt kê ở phần Dẫn nhập, giờ
đây là một quan điểm chung trong những
người trí thức. Owen Flanagan, một triết gia
tại Đại học Duke, thậm chí c̣n đi xa trong việc
nói rằng ơn gọi lư tưởng cho các triết gia
khoa bảng ngày nay là làm cho thế giới thành an toàn
với “chủ thuyết thiên nhiên,” qua đó ông muốn nói
là chủ thuyết vô thần.3 Trong công việc của tôi,
tôi đă gặp vô số triết gia khoa bảng, cũng
như các học giả khác, những người chấp
nhận lư tưởng của Flanagan. Trong hầu hết
các trường hợp như vậy, căn bản trí
tuệ cho chủ thuyết vô thần của họ là tuyên
bố của chủ thuyết thiên nhiên khoa học rằng
chỉ một ḿnh khoa học có thể được tín
nhiệm để đem tâm trí chúng ta tiếp xúc với
thực tế. Những ǵ điều này có nghĩa với
các người vô thần hạng nhẹ của chúng ta là
rằng nếu không có chứng cứ đánh giá
được cách khoa học để ủng hộ niềm
tin vào Thiên Chúa, th́ theo nguyên tắc chủ thuyết vô
thần là đúng. Chắc chắn họ đă nghe câu châm
ngôn rằng vắng bóng chứng cứ về Thiên Chúa th́
không phải là chứng cứ của sự vắng bóng,
nhưng, nếu họ có, họ làm ngơ nó4. Thêm vào
việc thiếu “chứng cứ,” nói chung các người
vô thần mới nhấn mạnh rằng c̣n có nền
tảng luân lư cho việc từ khước niềm tin vào
Thiên Chúa. Các lư do luân lư đó, diễn đạt trong sự
giận dữ của họ về sự xấu xa của
các tôn giáo qua các thời đại, có thể là khía cạnh
hấp dẫn nhất của chủ thuyết vô thần
của họ, nhưng tôi dành việc thảo luận
về luân lư và đức tin cho các chương 6 và 8.
Hiện thời, tôi muốn chỉ tập chú vào vấn
đề “chứng cứ” mà thôi.
GIẢ THIẾT THIÊN CHÚA
(The God Hypothesis)
Chíến
thuật lư luận của các người vô thần
mới là, trước tiên, quyến rủ người
đọc vào sự đồng ư ngấm ngầm rằng
đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa là
một “giả thiết,” một điều hoạt
động với các người tin theo cùng phương
cách như một giả thiết khoa học hoạt
động với các nhà khoa học (Dawkins 31-73).5 Trong khoa học,
một giả thiết là một khung trừu tượng
đem lại tính có thể hiểu cho một nhóm các quan sát
lặp lại được của thí nghiệm. Nhưng
Thiên Chúa có phải là một giả thiết không? Không thoát
được sự chú ư của Dawkins rằng những
người đề xuất thiết kế thông minh (TKTM)
(intelligent design-ID) nhờ vào một cái ǵ đó giống
như giả thiết về Thiên Chúa để giải
thích sự phức tạp sinh học. Những
người ủng hộ TKTM, tất cả đều
hữu thần, nghĩ về thiết kế thông minh
hoạt động như là một giả thiết khoa
học—hoặc chính xác hơn, một lư thuyết khoa
học (scientific theory)—đối nghịch với lư
thuyết tiến hóa (evolutionary theory). Cho dẫu không
phải tất cả những người đề
xuất TKTM đều minh nhiên đồng hóa người
thiết kế thông minh với Thiên Chúa, đă rơ ràng
rằng họ nhờ vào một tác nhân siêu nhiên (supernatural agency)
như thể nó là một giải thích khoa học. Không
đáng ngạc nhiên, Dawkins nắm lấy điều không
chính đáng về thần học đó như là bảo
chứng cho giả định của chính ông rằng ư
niệm về Thiên Chúa hoạt động, hay phải
hoạt động, với tất cả các người
hữu thần như là một giả thiết khoa học
đối nghịch với giả thiết sinh học
tiến hóa. Với Dawkins, trở thành người thiết
kế siêu nhiên là thiết yếu cho chính định
nghĩa về Thiên Chúa (31), v́ thế ông háo hức đi
theo với TKTM trong việc đặt để Thiên Chúa
vào vai tṛ của một giả thiết.
Sự
thực là rằng ư niệm về Thiên Chúa hoạt
động như là bất cứ điều ǵ ngoại
trừ như là một giả thiết khoa học cho
hầu hết các người tin và các nhà thần học,
nhưng điều này không ngăn cản được
Dawkins và các đồng sự của ông. Quả thực,
một yếu tố ch́a khóa của vụ án các
người vô thần mới chống Thiên Chúa là giả
định rằng chủ thuyết tạo dựng và TKTM
đại điện cho quan điểm trí thức cao
cấp và cốt lơi trọng tâm của các truyền
thống hữu thần. Hầu hết các nhà thần
học đương thời từ khước chủ
thuyết tạo dựng và TKTM v́ các lư do thần học,
nhưng các người vô thần mới đă quyết
định, gần như bằng mệnh lệnh
quyền lực (decree), rằng thần học không
được tính đến và phải bị đưa
ra ngoài các cuộc thảo luận của họ về Thiên
Chúa. Đă tránh mọi đụng chạm cụ thể
với thần học, phần thứ hai của lập
luận của các người vô thần mới th́
đơn giản: chỉ ra rằng không có chứng cứ
nào ủng hộ giả thiết về Thiên Chúa.
Một
điệp khúc hoài măi của các người vô thần
mới là như thế này: vấn đề căn bản
về đức tin là v́ nó không dựa trên “chứng
cứ,” hoặc vào trường hợp khá nhất,
chứng cứ không đầy đủ, và do đó
phải bị loại bỏ dưới mọi h́nh thái.
Ngược lại, khoa học có thể chỉ
đến vô số quan sát có thể lặp lại ủng
hộ các giả thiết của chính nó, và trong khi một
nhà khoa học đúng nghĩa sẵn sàng từ bỏ
hoặc điều chỉnh một giả thiết
nếu các thử nghiệm đ̣i buộc phải làm như
vậy, người tin bám víu vào giả thiết Thiên Chúa
của họ bất kể chẳng có một chứng
cứ nào hiện hữu. Cuối cùng, như Hitchens hân hoan
nhắc nhở chúng ta (68-71), khoa học đă chứng
tỏ giả thiết Thiên Chúa là một vi phạm vào dao
cạo của Occam (Occam’s razor). Dao cạo Occam là một
tiên đề (axiom) của khoa học nói rằng quả
thực chúng ta không bao giờ nên dựa vào một giải
thích phức tạp khi chỉ một giải thích
đơn giản đă đủ. Hậu quả là,
nếu khoa học có thể giải thích sự phức
tạp sinh học bằng một phương cách
đơn giản, thế th́ ích lợi ǵ với giáo
điều (phức tạp hơn) về tạo dựng
siêu nhiên? Giả thiết Thiên Chúa là một nỗ lực
giả khoa học (pseudoscientific) để làm những ǵ khoa
học ngày nay có thể tự nó làm hay hơn. Từ đó,
mọi người có lư trí phải loại bỏ giả
định Thiên Chúa và chấp nhận khoa học là
phương cách chắc chắn nhất để
định hướng tư duy và cuộc sống của
họ. (Tôi thảo luận việc sử dụng sai
của Hitchens, cũng như Dawkins, dao cạo Occam trong
chương 7).
Chiến
thuật lập luận hai mang (two-pronged) của Dawkins là
nhằm đưa ra một cái tát trí thức quyết
định cho chủ thuyết hữu thần, và từ
đó thiết lập chủ thuyết vô thần như là
“gần như chắc chắn” (almost certain) (113-59). Tuy nhiên,
Dawkins và các người vô thần mới khác đă làm
mọi sự thành hoàn toàn quá sức đơn giản cho
chính họ. Thoạt kỳ thủy, cũng tiêu biểu
như trong tất cả các bài viết của họ,
nhằm hạ bệ Thiên Chúa, họ trước hết co
rút ư niệm siêu nhiên thành ư niệm của người ban
hành luật (lawgiver), kỹ sư vũ trụ (cosmic
engineer), hoặc người thiết kế thông minh (Dawkins
31). Điều này lập ra các giai đoạn để
cho mọi người thấy tiến hóa theo
Tại
sao thế? Bởi v́ nghĩ đến Thiên Chúa như là
một giả thiết giảm thiểu huyền nhiệm
siêu nhiên vô tận thành một nguyên ủy khoa học
hữu tận, và thờ phượng bất cứ cái
hữu tận nào đều là tin quấy thờ quá
(idolatrous). Khái niệm về giả thiết Thiên Chúa co rút
Thiên Chúa xuống c̣n kích cỡ một mắt xích trong
một dây nhân quả, và việc giảm thiểu này
đưa đến một chủ thuyết vô thần
cấp tiến nhiều hơn ba nhà cung cấp sự không
thần không chúa của chúng ta có thể tự họ pha
chế ra được. Tác phẩm thực sự của
chủ thuyết vô thần đă được hoàn thành
vào thời đại ban đầu bởi các nhà tư duy
Kitô giáo vụng về đă giảm thiểu Thiên Chúa
xuống thành nguyên ủy hữu hiệu của một hệ
thống vật chất.7 Như thế các người vô
thần mới, hạng nhẹ, đă đến hiện
trường mưu sát Thiên Chúa quá sức chậm trễ.
Trên mỗi trang của hiến chương họ, chúng ta
thấy họ đang đấm thùm thụp vào một xác
chết.
Chỉ
trích đức tin hữu thần mà không đoái hoài
đến tác phẩm các nhà thần học như Karl Barth
hoặc Paul Tillich (và nhiều người khác) cũng
giống như cố gắng giải thích thế giới
tự nhiên trong khi bỏ qua không đá động
đến khoa học hiện đại. Trong các chỉ
trích của họ về giả thiết Thiên Chúa, các
người vô thần mới chứng tỏ họ chi có,
nếu họ quả có, sự quen thuộc nông cạn
nhất với bất cứ nhà thần học chính
yếu hay truyền thống thần học nào. Họ
cũng không cảm thấy một chút xấu hổ nào
với sự kiện họ đă chọn lật
đổ một vị thần chúa mà sự hiện
hữu hầu hết các nhà thần học và đại
đa số tín hữu Kitô, Hồi, và Do thái giáo không một
chút hứng thú nào trong việc bào chữa.
Dawkins
có thể trả lời ông bác bỏ mỗi một và
tất cả nhận thức về Thiên Chúa (36), nhưng
rơ ràng ông nghĩ về Thiên Chúa trong một phương cách
cực kỳ hạn chế, quả thực vặn
vẹo, khi ông định nghĩa “Thiên Chúa” như là
một người thiết kế siêu nhiên có tính giả
thiết. H́nh ảnh thoáng qua của Thiên Chúa mà ông nhấp
nháy trong Ảo giác về Thiên Chúa là một tranh
biếm họa đă từ lâu xúc phạm đến
thần học. H́nh như nó đến hoàn toàn từ
việc thăm viếng các trại và trang Web của
những người tạo dựng và người bảo
vệ TKTM. Hơn nữa, khi nhấn mạnh đến
giả thiết Thiên Chúa lệ thuộc vào việc xác
nhận hay phủ nhận chỉ bằng phương pháp
khoa học, Dawkins đă lập nên một vấn đề
chẳng có một chút liên hệ ǵ đến hoặc khoa
học hoặc thần học. Bất cứ thần chúa
nào có thể bị quyết định bởi một cái
ǵ rẻ mạt như là “chứng cứ” theo nhận
thức thô lậu của Harris và Dawkins về từ này
không bao giờ chỉ đạo được sự
thờ phượng của bất cứ ai. Vậy
bằng cách tránh hoàn toàn thần học, chủ thuyết vô
thần mới lại một lần nữa tự nó cho
thấy là không liên quan ngoại trừ với những ai
chia sẻ nhận thức héo úa của nó về Thiên Chúa.
THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?
(Where Is God?)
Nếu
đức tin vào Thiên Chúa là chân thực, thế th́, như
các người vô thần mới chỉ ra cách đúng
đắn, phải có một cái ǵ đó trên thực tế
phù hợp với ư niệm về Thiên Chúa. Nhưng, theo Dawkins,
Harris, và Hitchens, chẳng có một phù hợp nào như
vậy có thể chứng tỏ được một cách
thực nghiệm để hiện hữu. V́ đức
tin làm trỗi sinh đủ mọi thể loại tưởng
tượng, làm sao chúng ta biết được ư niệm
về Thiên Chúa không chỉ là một niềm tin cũng hoang
dại và xa rời thực tế như niềm tin vào bà
tiên răng (tooth fairy8)? Như Harris nhấn mạnh,
nhằm chấp nhận như là sự thực, phải có
một phương cách xác nhận thực tại về
Thiên Chúa độc lập với đức tin (50-79). Cho
rằng khoa học đă không thể t́m ra Thiên Chúa, và
triển vọng có bao giờ nó sẽ t́m được
th́ không sáng sủa, chủ thuyết vô thần là quan
điểm duy nhất c̣n lại.
Nhưng
nếu đức tin vào Thiên Chúa đ̣i buộc sự xác
nhận độc lập của khoa học, vậy th́
đức tin khổng lồ mà các người vô thần
mới của chúng ta đặt vào chính khoa học th́
thế nào? Chính xác, những ǵ các thí nghiệm khoa học
độc lập, chúng ta có thể hỏi, có thể cung
cấp “chứng cứ” cho giả thiết rằng mọi
nhận thức đích thực phải dựa trên mô h́nh
khảo sát khoa học không? Nếu đức tin đ̣i
buộc sự xác nhận độc lập, phương
pháp độc lập (không đức tin) nào để minh
chứng rằng chính đức tin của họ vào lănh
vực nhận thức bao gồm mọi thức
(all-encompassing) của khoa học là hợp lư? Nếu khoa
học tự nó là phương cách duy nhất để
cung cấp cách đánh giá độc lập như vậy,
th́ sự truy lùng tính giá trị chính đáng chỉ
chuyển động tiến tŕnh minh chứng theo
hướng một thoái bộ vô tận.
Hơn
nữa, có nhiều đường lối (channels) khác
hơn là khoa học qua đó chúng ta tất cả
đều kinh qua, nhận thức, và biết thế
giới. Ví dụ, trong tri thức giữa người
với người của tôi, chứng cứ rằng
một ai đó yêu tôi thật khó mà đo lường,
nhưng nó có thể rất đích thực không ǵ hơn
được. Phương cách duy nhất tôi có thể
gặp gỡ chiều sâu chủ thể của
người khác là từ bỏ phương pháp làm thành
khách thể của khoa học. Xử lư tha nhân và tính
chủ thể của người khác như thể ông bà
ấy chỉ là một đối thể (object) trong thiên
nhiên là sai lầm vừa về ư thức vừa về luân
lư. Để tính toán thỏa đáng về chứng cứ
của chiều sâu chủ thể mà tôi gặp gỡ
trước mặt người khác, tôi cần chấp
nhận một tư thế của sự xúc phạm.
Gặp gỡ chiều sâu cá nhân của người khác
thách thức tôi phải để ra ngoài phương pháp
kiểm soát, làm chủ, biến thành khách thể của khoa
học tự nhiên. Cũng thế, trong việc tôi tiếp
xúc với tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao
hoặc với vẻ đẹp thiên nhiên, “chứng
cứ” thẩm mỹ là rằng tôi sẽ mất nó hoàn toàn
trừ phi tôi từ bỏ tư thế làm thành khách
thể, phân tích và cho phép tự tôi thả lỏng theo nó.
Có
phải các người vô thần mới của chúng ta
nghiêm chỉnh tin, do đó, rằng nếu một Thiên Chúa
có tính người của vẻ đẹp vô tận và t́nh
yêu vô biên thực sự hiện hữu, “chứng cứ”
cho sự hiện hữu của Thiên Chúa đó có thể thu
thập được cách rẻ mạt như là chứng
cứ cho một giả thiết khoa học sao? Thậm chí
trong kinh nghiệm con người thường t́nh của
chúng ta, chính các chủ thể riêng tư mà chúng ta quan tâm
nhiều hơn cả, và không một số lượng chuyên
môn khoa học nào có thể cho chúng ta biết họ thực
sự là ai. Có lẽ nào lại khác đi với Thiên Chúa, mà
người tin không kinh qua như là một “Nó” (It) thông
thường mà như là một “Đấng” (Thou) tối
cao? Nếu Thiên Chúa hiện hữu, lúc đó kinh nghiệm
giữa người với người, không phải khách
thể vô tính của khoa học, sẽ là thiết yếu
cho nhận thức về Thiên Chúa đó. Trong cuộc
sống hàng ngày của chúng ta, t́nh yêu thương của
một người khác quan trọng với chúng ta hơn
bất cứ thứ ǵ khác, nhưng thu thập “chứng
cứ” về t́nh yêu đó đ̣i buộc một
bước nhảy của tín nhiệm về phần chúng
ta, một đánh cá làm cho chúng ta thành dễ thương
tổn với thể loại hiện diện đặc
biệt của họ.
T́nh
yêu của người kia đó, hơn nữa, bắt
giữ chúng ta theo một phương cách mà chúng ta không
thể nối kết chút nào nữa với nó nếu chúng
ta cố gắng kiểm soát nó cách trí tuệ. Lần
nữa, có thể nào khác đi trong trường hợp
của bất cứ việc gặp gỡ nào có thể
quan niệm được về con người trần
thế với t́nh yêu vô hạn sao?
V́
Thiên Chúa là quan yếu hơn bất kể thứ ǵ khác cho
những người sùng mộ, làm sao họ có thể
biết Thiên Chúa mà không gây nguy cho chính họ, hoặc mà không
trải qua một thay đổi riêng tư sâu xa
tương tự như, nhưng xúc động mạnh
hơn, những ǵ phải có để biết t́nh yêu
thương của một hiện thân con người khác?
Tất cả mọi truyền thống đức tin quan
trọng đều nhấn mạnh rằng việc
gặp gỡ thực tại tối cao không thể xẩy
ra mà không có một sự chuyển hóa như vậy.
Đời sống của đức tin là một
đời sống trong đó “không có nhận biết mà
không từ bỏ” (there is no knowing without going):9 “trừ phi
anh chị em thay đổi và trở thành như trẻ em,
anh chị em sẽ không bao giờ đi vào vương
quốc của thiên đàng” (Mt. 18, 3). Thậm chí để
hiểu thế giới theo phương cách khoa học, làm
thành khách thể cũng đ̣i buộc một thể
loại rất đặc biệt về huấn luyện,
khổ tu, và chuyển hóa tâm linh. Vậy nếu vũ
trụ được bao phủ bởi một T́nh Yêu vô
tận, liệu sự gặp gỡ với thực
tại tối cao đó có đ̣i buộc điều ǵ ít
hơn là một tư thế tiếp nhận và sẵn sàng
đầu hàng sự chấp nhận đó không? Làm sao các
người vô thần mới nghĩ họ có thể
quyết định câu hỏi về sự hiện
hữu của Thiên Chúa mà không cởi mở chính họ ra
cho sự chuyển hóa cá nhân thiết yếu với ư nghĩa
của đức tin về việc bị nắm bắt
bởi một t́nh yêu thương vô biên? Rơ ràng các
người vô thần mới đang t́m kiếm một
lối tắt và một tiếp cận trực tiếp,
khách thể hóa với những ǵ người tin xem như
không thể đến được tách rời khỏi
việc đầu hàng với đức tin. Không t́m
kiếm được Thiên Chúa hay bất cứ “chứng
cứ” nào về Thiên Chúa bằng phương cách khoa
học hoặc các phương cách thông thường
của nhận thức, họ giờ đây chắc
chắn rằng Thiên Chúa không hiện hữu.
NHU CẦU ĐỨC TIN
(The Need for Faith)
Vào
một điểm nào đó trong việc định giá
trị của mọi tuyên bố hay giả thiết về
chân lư, một bước nhảy của đức tin là thành
tố không thể tránh thoát. Tại nền tảng của
mọi sự t́m kiếm của con người về
nhận thức và chân lư, kể cả t́m kiếm khoa
học, hiện diện một thành phần không thể
hủy diệt được của tín nhiệm (trust).
Nếu quí vị thấy chính quí vị đang nghi ngờ
những ǵ tôi vừa nói, chính chỉ v́, vào ngay lúc này, quí
vị tín nhiệm vào tâm trí của chính quí vị đủ
để diễn đạt mối quan tâm đến xác
nhận của tôi. Quí vị không thể tránh tín nhiệm
vào khả năng trí tuệ của quí vị, thậm chí
khi quí vị đang nghi nan. Hơn nữa, quí vị nêu lên
các câu hỏi quan yếu chỉ v́ quí vị tin rằng
chân lư đáng được t́m kiếm. Đức tin theo
ư nghĩa này, và không phải theo ư nghĩa của
tưởng tượng hoang dại và mơ tưởng,
nằm ở cội nguồn của tôn giáo đích
thực—và khoa học.
Tín
nhiệm là một từ khác theo đó Kinh thánh Kitô giáo
gọi là đức tin, và chỉ một ít tư duy
cần đến để nhận ra rằng mọi t́m
hiểu của mọi hiện thân con người trỗi
sinh từ sự mờ mịt của một thể
loại nào đó của đức tin, hay tín nhiệm, mà
không có chứng cứ khách quan. Đa số chúng ta
đơn giản tin rằng t́m kiếm chân lư là xứng
đáng. Chúng ta không thể chứng minh điều đó v́
thậm chí nỗ lực để làm thế cũng đă
giả định sự tín nhiệm đó. Sự tín
nhiệm cơ bản đó, lúc đó, phóng đi và thúc
đẩy mọi t́m kiếm của con người chân
thực, cả việc t́m kiếm khoa học cũng
thế.
Nhưng
vấn đề của tôi là rằng sự tín nhiệm
cơ bản đó không phải là một kết quả
của bất cứ chế độ thực nghiệm
khoa học nào. Tín nhiệm rằng thế giới tự
nhiên là có thể hiểu được và rằng chân lư
đáng được t́m kiếm là thiết yếu cho khoa
học trước tiên bước được
bước đầu. Chúng ta tự nhiên tín nhiệm
rằng các hành tŕnh khai phá của chúng ta sẽ được
chào đón bởi một lănh vực luôn bành trướng
của tính có thể hiểu được và một
chiều sâu vô tận của chân lư. Sự tín nhiệm
đó cũng nằm ở trung tâm của đức tin tôn
giáo đích thực. Trong khía cạnh đó, ít nữa, khoa
học và đức tin là đồng minh, không phải
địch thù. Một ḷng ưa chuộng bí mật và không
đè nén được sự tín nhiệm bùng lên tự sâu
thẳm bên trong chúng ta, thúc đẩy cả khoa học
cả tôn giáo t́m kiếm nhận thức sâu sắc hơn.
Dĩ nhiên, sự thúc đẩy để tín nhiệm có
lúc bị chi phối cách nào đó dẫn đến lầm
lạc không chỉ trong tôn giáo mà cả trong lănh vực khoa
học.
Nhưng,
trước tiên, chỉ có một niềm tin tưởng
ban sơ có thể dẫn tâm trí con người nhận
lấy cuộc mạo hiểm khai phá vũ trụ—cũng
như huyền nhiệm vô tận.
Tôi
đang nhấn mạnh đến xu hướng không xóa
bỏ được của chúng ta về tín nhiệm v́
hai lư do. Thứ nhất, nó cho thấy rơ ràng nỗ lực
của chủ thuyết vô thần mới để
tẩy sạch đức tin khỏi ư thức con
người là lố bịch và đi đến thất bại.
Ví dụ, Harris đề nghị rằng việc gạt
bỏ mọi đức tin là thiết yếu nếu lư trí
muốn ngự trị tối cao. Nhưng ông không thể
loại bỏ mọi vết tích của đức tin
thậm chí khỏi chính tâm trí ông. Khi ông đảm trách
sự thúc đẩy nhiệt t́nh để lột bỏ
đức tin khỏi thế giới, ông trước
hết phải tin rằng thế giới đích
thực là hữu lư, rằng chân lư là điều ǵ phải
được trân quí và tôn trọng, và rằng chính tâm trí
ông thuộc về sự chính trực như thế có
thể nắm bắt được ư nghĩa và
đưa ra các tuyên bố giá trị về chân lư. Thành
tố tín nhiệm này thường ngấm ngầm và
hiếm khi minh nhiên, nhưng nó là một hiện diện uy
quyền không hơn không kém. Các người vô thần chuyên
gia của chúng ta đă hiển nhiên thất bại trong việc
chú ư đến nó thậm chí khi nó thúc đẩy chính
hoạt động nhận thức của họ.
Thứ
hai, bằng nhận diện sự tín nhiệm triệt
để nêu rơ đời sống nhận thức của
mọi người t́m kiếm và mọi người nhận
biết, chúng ta có thể định ra vị trí đích
thực của thần học trong tương quan với
khoa học. Thần học không phải lả lời
giải đáp cho các câu hỏi khoa học, như các
người vô thần mới muốn nó là thế—v́
điều này có thể làm cho việc họ phá hủy
thần học thành một công việc dễ dàng. Đúng
hơn, thần học đáp ứng với câu hỏi
liệu sự tín nhiệm tự phát nêu rơ mọi hành tŕnh
t́m hiểu, kể cả khoa học, là biện minh
được. Khoa học không thể cung cấp sự
biện minh đó v́ nó đă giả định rằng t́m
kiếm nhận thức và chân lư là xứng đáng. Các
người vô thần mới cũng không thể cung
cấp sự biện giải cần thiết về
sự tín nhiệm của họ v́ họ đă quá
đơn giản cho rằng thực tế là hiểu
biết được và rằng chân lư quả đáng t́m
kiếm.
Vậy
câu hỏi quan trọng thực sự vẫn không có câu
trả lời bởi khoa học và các người vô
thần mới. Harris đặt tín nhiệm to lớn vào
chính quyền lực lư trí của ông, như trích dẫn bên
lề chương sách cho thấy. Ông thực hiện
một hành động ngấm ngầm về đức
tin trong chính sự thông tuệ phê phán của ông. Nhưng ông
không bao giờ cung cấp cho chúng ta lư do đầy
đủ về tại sao ông phải tín nhiệm vào tâm trí
ông để dẫn ông và chúng ta đến chân lư. Nói cách khác,
ông không bao giờ biện giải nổi vênh vang nhận
thức bao la của ông. Ông đơn giản mù quáng tin
tưởng vào khả năng siêu việt của chính tâm
trí ông để t́m chân lư với sự dễ dàng và
chắc chắn mà người bị dẫn dắt sai
lầm bởi đức tin tôn giáo không sở hữu
được. Nhằm trở thành một người
hướng dẫn đáng cho chúng ta c̣n lại tín
nhiệm, ông phải tín nhiệm rằng tâm trí ông có thể
làm cho chúng ta tiếp xúc được với thế
giới thực sự. Nhưng tại sao ông lại phải
tín nhiệm vào tâm trí ông, cách riêng với quan điểm
về thế giới tự nhiên từ đó tâm trí của
ông và của chúng ta được bảo là đă tiến
hóa?
Chính
hệ thống niềm tin của các người vô
thần mới, chủ thuyết thiên nhiên khoa học, theo
logic xói ṃn niềm vững tin nhận thức, thậm chí
nếu nó không cần thiết phải làm thế theo tâm lư.
V́ tâm trí của chúng ta được bảo là đă tiến
hóa dần dần từ một t́nh trạng không tâm trí
của thiên nhiên, tại sao chúng ta phải tín nhiệm vào
cũng các tâm trí đó để đưa chúng ta tiếp
xúc với thực tế? Ở đâu và làm sao chúng có
được một khả năng tinh tế như
vậy, cách riêng cho rằng với sự thấp kém
của nguồn gốc của chúng trong thiên nhiên? Đúng,
khoa học tiến hóa có một giải thích đáng tin cậy
về tại sao tâm trí chúng ta có thể thích ứng,
nhưng điều đó không đủ để biện
minh sự tín nhiệm tự phát chúng ta có trong tâm trí
để đưa chúng ta tiếp xúc với thực
tế hay chân lư. Thực ra, chúng ta phải thay vào đó
bằng không tín nhiệm (distrust) hành động nhận
thức của chúng ta nếu tiến hóa là yếu tố
nhân quả cuối cùng liên quan đến tạo thành tâm
trí. V́ tiến hóa tự nó được hiểu
đến như là một tiến tŕnh không tâm trí (a mindless
process), tại sao các người thiên nhiên khoa học tín
nhiệm nó là hay là đẹp cho một điều ǵ
ngoại trừ thích ứng?
Nhằm
biện giải sự vững tin nhận thức của
chúng ta, một cái ǵ đó thêm vào với tiến hóa phải
xẩy ra trong lúc trỗi sinh dần dần của tâm trí
trong lịch sử thiên nhiên. V́ nếu các tâm trí chúng ta
chẳng là ǵ cả ngoại trừ là kết quả bất
ngờ của một tiến tŕnh tiến hóa không tâm trí,
tại sao chúng ta lại phải tín nhiệm chúng? Một
tường thuật
Vậy
sinh học tiến hóa, ṭa kháng án cuối cùng của
người theo chủ thuyết thiên nhiên khoa học, th́
không đủ. Tâm trí phải là những ǵ hơn là một
máy móc thích ứng nhằm xứng đáng với sự tín
nhiệm của chúng ta. Khoa sinh học, nói cho cùng, đă
chứng minh rằng nhiều thích ứng trong cuộc
sống đơn thuần là những đánh lừa.
Hoặc, như một loại suy đoán tiến hóa khác có
thể tuyên bố, sự trỗi sinh tâm trí con người
trong tiến hóa là kết quả của một loạt chuyện
t́nh cờ. Tường tŕnh này cũng không đủ
để gợi ra niềm tin tưởng. Hơn nữa,
khoa học xă hội đă cho thấy xu hướng thay
đổi của văn hóa và xă hội không đầy
đủ, ít nữa tự chúng, để đánh giá
niềm tin tưởng chúng ta có trong tâm trí chúng ta
để hiểu và biết những ǵ là đúng và
những ǵ không. Theo cách diễn dịch thiên nhiên thuần
túy, không có đủ lư do để tín nhiệm vào tâm trí
chúng ta. Tôi có mọi lư do để tin rằng tâm trí chúng ta
cũng tiến hóa nữa, và tôi hoàn toàn chấp nhận sinh
học tiến hóa. Nhưng tôi cũng tín nhiệm vào tâm trí
của tôi, và khoa học tiến hóa mà thôi không thể
biện giải cho sự tín nhiệm đó.11
THẦN HỌC VÀ SỰ TRUY TẦM CHÂN LƯ
(Theology and the Quest for Truth)
Thần
học có thể cung cấp một câu trả lời
rất hay cho lư do tại sao chúng ta có thể tín nhiệm vào
tâm trí chúng ta.
Chúng
ta có thể tín nhiệm vào chúng v́, trước mọi
tiến tŕnh của t́m hiểu lư trí hay thực nghiệm,
mỗi người trong chúng ta, đơn giản với
tư cách của hiện thân (being) hay hiện hữu
(existing), đă được bao phủ bởi Hiện
thân vô tận (infinite Being), Cứu cánh (Meaning), Chân lư (Truth),
Sự Thiện (Goodness), và Vẻ Đẹp (Beauty). Chúng ta
tỉnh
giấc
chỉ một cách chậm chạp và tối tăm trong môi
trường sâu thẳm và giải thoát không đo
lường được đó và ch́m đắm trong
đó mọi ngày của đời chúng ta. Chúng ta không
thể tập chú đến nó, và chúng ta có thể thậm
chí không chú ư đến nó một chút nào v́, như cá trong
một ḍng sông, chúng ta ch́m ngập sâu thực sâu trong đó.
Nhưng chúng ta có thể tín nhiệm vào khả năng
của chúng ta t́m kiếm được cứu cánh, chân lư,
sự thiện, và vẻ đẹp bởi v́ các
điều đó đă vẫy gọi và bắt đầu
đưa chúng ta đi xa. Đức tin, nói cho cùng, là
sự tán đồng trang trọng và sôi động lời
mời gọi nghiêm trọng này.
Thế
th́, làm sao chúng ta có thể biện minh cho ḷng tin
tưởng nhận thức của chúng ta? Không phải
bằng cách nh́n lại một cách khoa học những ǵ tâm
trí của chúng ta từ đó đă tiến hóa ra,
điều đó có thể giúp thông tin, nhưng chỉ
bằng cách nh́n về đàng trước hướng
đến cứu cánh và chân lư vô tận hiện ra mờ
nhạt khó bắt giữ ở chân trời. Chỉ đơn
giản bằng cách vươn tới sự tràn
đầy của hiện thân, chân lư, sự thiện, và
vẻ đẹp, chúng ta đă nắm bắt
được. Đó là nền tảng chân thực của
ḷng tin tưởng nhận thức của chúng ta, và
đức tin và tín nhiệm cho phép chúng ta trước tiên được
cuốn đến chân trời đó. Khi chúng ta giao phó chúng
ta cho lời mời gọi của hiện thân và chân lư, tâm
trí chúng ta đă được làm cho cao quí bởi sự
tuyệt hảo của mục đích mà các điều
đó chuyển động đến. Khi tâm trí chúng ta được
cuốn hút đến chân lư, các tâm trí đó đă cùng chia
sẻ những ǵ mà chúng đói khát. Đó là những ǵ cho
tâm trí chúng ta niềm vững tin cần thiết để
t́m kiếm chân lư.
Sự
tín nhiệm không chối bỏ được tăng
sức cho việc t́m kiếm nhận thức và chân lư không
bày tỏ ra cho chúng ta trong lănh vực ánh sáng hàng ngày của
đối thể mà các nhà khoa học có thể tập chú
vào được. Sự tín nhiệm này trỗi sinh từ
các ngóc ngách sâu thẳm và dấu kín nhất của ư
thức chúng ta, ở một tầm mức sâu thẳm mà
chúng ta không bao giờ có thể đem vào trong sự tập
chú rơ ràng v́ chính hành động tập chú đó không thể
xẩy ra mà không có sự tín nhiệm đó. Nhưng
thậm chí nếu chúng ta không thể nắm bắt cứu
cánh và chân lư trong một phương cách tuyệt đối
và tận cùng, chúng ta có thể cho phép chúng nắm bắt
chúng ta. Trong khi đầu hàng với cứu cánh và chân lư, chúng
ta đang thực hiện một hành vi tôn giáo thiết
yếu, hành vi mà thậm chí người vô thần cũng
là một người dự phần không ư thức.
Đơn
giản là khoa học không được trang bị
để t́m ra hoặc loại bỏ sự hiện
hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là một
giả thiết. Hơn nữa, thậm chí cho dẫu khoa
học tự nó không thể lấy ra được
bất cứ dấu vết rơ rệt nào về siêu nhiên,
điều này không có nghĩa rằng Thiên Chúa hoàn toàn ở
ngoài tầm của tâm trí. Ở tầm mức ngấm ngầm
thông thường của nhận thức, cả
người vô thần lẫn người hữu thần
dự phần vào một đức tin chung. Cả hai tin rằng
thực tế có thể hiểu được và chân lư
đáng được t́m kiếm. Những ǵ thần
học thêm vào là rằng sự hiện hữu của Thiên
Chúa—nghĩa là, Hiện thân vô tận, Cứu cánh, Chân lư,
Sự Thiện, và Vẻ Đẹp—cung cấp một
biện giải đầy đủ cho niềm tin này,
cũng như một câu trả lời cho câu hỏi
tại sao vũ trụ lại có thể hiểu
được như thế. Chẳng có ǵ khó coi trong
việc bắt đầu tra vấn trí tuệ bằng cách
tuyên xưng ngấm ngầm đức tin. Điều khó
khăn, đúng là không hợp lư, là một nỗ lực che
dấu đức tin này và, cùng lúc, từ khước t́m
kiếm một biện giải thích đáng cho niềm tin
đó.
Thần
học, do đó, không cạnh tranh với khoa học
bằng cách t́m kiếm chứng cứ để ủng
hộ một giả thiết ti tiện về Thiên Chúa.
Ngược lại, thần học—một từ tôi dùng
theo nghĩa của một Barth hay Tillich—chống
đối cách đúng đắn âm mưu của các
người vô thần làm sụp đổ huyền
nhiệm Thiên Chúa vào trong một loại các mệnh
đề có thể cạnh tranh với, và rồi
để thua cuộc, khoa học. Thần học
đơn giản không phải chơi tṛ chơi lố
bịch đó, cũng không phải hạ ḿnh xuống
tới tầm mức ngu xuẩn hàm ư trong các tranh biếm
họa của các người vô thần. Dawkins và các
đồng sự của ông tuyên bố rằng dẫn
chiếu đến Thượng đế là không lư trí,
nhưng những ǵ thực sự không lư trí là sự từ
khước của họ trong việc t́m kiếm một
lời giải thích cuối cùng cho lư do tại sao vũ
trụ là có thể hiểu được, tại sao chân
lư xứng đáng t́m kiếm, và tại sao chúng ta có thể
tín nhiệm vào trí tuệ chúng ta khi chúng vươn tới
nhận thức và chân lư sâu thẳm hơn.
1
Harris, “Atheist Manifesto.”
2
Robert Bellah, Beyond Belief: Essays on Religion in a Post-traditional World
(New York: Harper & Row, 1970), 254.
3
Flanagan, Problem of the Soul, 167-68.
4
“Surely they have heard the maxim that absence of evidence for God is not
evidence of absence, but, if they have, they ignore it.” (nd)
5
Victor Stenger, một nhà vật lư và người đề
xuất ít thù nghịch của “chủ thuyết vô thần
mới,” đă viết một cuốn sách với nhan
đề God: The Failed Hypothesis: How Science Shows That God Does
Not Exist. Như nhan đề nêu rơ ràng, cuốn sách này
thêm chút ít
vào
lời tuyên bố của Dawkins mà tôi đang khảo sát
trong chương này, và chỉ trích của tôi về Dawkins
cũng áp dụng cả cho Stenger nữa.
6
Dennett, Breaking the Spell, 21, 55. Dennett chối bỏ
rằng “sáng sủa” (bright) nghĩa là bề trên (superiority),
nhưng rơ ràng ông hạ thấp quyền lực của ngôn
ngữ.
7 Xem
Michael Buckley, At the Origin of Modern Atheism (New Haven, Conn.: Yale
University Press, 1987).
8
Tooth fairy: Một niềm tin của trẻ em Âu Mỹ
rằng khi các răng sữa rụng, có bà tiên sẽ
đến cất lấy. Cha mẹ thường nói như
vậy để các em bớt đau đớn khi rụng
răng. Người châu Á không có chuyện này (nd)
9
Homes Rolston III, Science and Religion: A Critical Survey (New York:
Random House, 1987), 336.
10
Charles Darwin, thư cho W. Graham, 3 tháng 7, 1881, trong The Life and
Letters of Charles Darwin, Francis Darwin biên tập (New York: Basic
Books, 1959), 285.
11
Để thảo luận rộng răi hơn, xin xem cuốn
sách của tôi Is Nature Enough? Meaning and Truth in the Age of Science
(
5
Tại
sao người ta tin?
(Why
Do People Believe?)
Tôn
giáo đă xài hết biện giải. Nhờ vào kính nh́n xa và
kính hiển vi, nó không c̣n cung
cấp
được một giải thích cho bất cứ
điều ǵ quan trọng nữa.
—Christopher
Hitchens (282)
Nếu
Thiên Chúa không hiện hữu, và thần học là trống
rỗng, phải có một lư do thuần túy tự nhiên cho
việc đại đa số hiện thân con người
là, và đă luôn là, những người tin tôn giáo. Và nếu
đức tin đơn thuần là một hiện
tượng tự nhiên, thế th́ khoa học có nhiệm
vụ cung cấp lời giải thích cuối cùng. Chẳng
ngạc nhiên, các người vô thần mới mong
được lợi lộc trong việc t́m kiếm
một lời giải thích khoa học cho đức tin tôn
giáo. Nếu khoa học có thể khám phá ra một loạt
thuần túy tự nhiên các lư do tại sao người ta tin,
sự khám phá đó, ít nữa trong chừng mực các
người chỉ trích của chúng ta quan tâm, sẽ nói ra
sự thất bại hoàn toàn của thần học. Do
đó, ngày nay, một cách có thể thông cảm
được, họ đă bị ấn tượng
bởi các đề nghị mới mẻ vững tin
rằng lời giải thích cuối cùng về đức
tin, và quả thực mọi thái độ tôn giáo, sẽ
đến không phải từ thần học mà từ sinh
học tiến hóa.
Qua
đức tin, chúng ta nhắc lại, các người vô
thần muốn nói đến “niềm tin không có chứng
cứ” (belief without evidence). “Đức tin là những ǵ
đến từ sự nhẹ dạ,” Sam Harris phát
biểu, “khi nó cuối cùng hoàn thành được vận may
thoát khỏi các kiềm hăm của tŕnh tự trái
đất—các kiềm hăm như là sự có lư trí, mạch
lạc nội tại, lịch thiệp, và ngay thẳng”
(65). Một giải thích thần học có thể tuyên
bố rằng người ta có đức tin v́ tại tâm
khảm hiện thân họ, và không chỉ trong tâm trí họ,
họ đă cho phép tự họ bị nắm bắt
bởi Thiên Chúa. Nhưng Harris sẽ cho rằng một ư
niệm như vậy là phi lư. Richard Dawkins và Daniel Dennett
đồng ư với Harris, đơn giản thêm vào
rằng Charles Darwin đă đưa cho các nghi vấn tôn giáo
đương thời một công cụ mới uy
lực—ư niệm về tuyển chọn tự nhiên (natural selection)—để
trả lời dứt khoát câu hỏi tại sao nhiều
người trong chúng ta sẵn ḷng tự giao phó cho
đức tin. Giải thích thần học không c̣n cần
đến nữa.
Christopher
Hitchens vui vẻ đồng hành với tường
thuật của
Richard
Dawkins và bóng mát triết học Daniel Dennett của ông, tuy
nhiên, tuyên bố đă giải thoát chúng ta dứt khoát
khỏi các tường thuật thần học về
đức tin. Họ nhấn mạnh, với sự
vắng bóng của Thiên Chúa, chỉ có tường thuật
khoa học về đức tin và nhiều diễn
đạt tôn giáo của nó là đáng tin cậy (Dawkins
163-207).2 Nhưng khoa nào trong các khoa học khả dĩ
nắm giữ ch́a khóa về việc đức tin thực
sự là ǵ? Các lư thuyết tâm lư và xă hội học về
tôn giáo có thể có điều ǵ cho họ, theo Dawkins,
nhưng các khoa học đó chỉ cung cấp các giải
thích gần đúng (proximate), không phải tối hậu
(ultimate). Cũng vậy, ức đoán của Michael Shermer
rằng nguồn gốc của đức tin tôn giáo có
thể t́m thấy trong nhu cầu con người về mô
h́nh hay cứu cánh có thể đúng, nhưng vẫn thất
bại trong việc cung cấp một giải thích hoàn toàn
tự nhiên về tôn giáo.3 Cuối cùng các nỗ lực khoe
mẽ gần đây để giải thích các nguyên ủy
của tôn giáo bằng các chuyên ngữ thuần túy khoa
học thần kinh (neuroscientific terms) cũng không đủ
sâu sắc để làm vừa ḷng Dawkins. Chỉ có sinh
học tiến hóa có thể cung cấp một tường
tŕnh tối hậu về tại sao con người có tôn giáo,
hoặc như Robert Hinde nói, tại sao thần chúa tồn
tại (Dawkins 166-72).4
Không
lâu trước đây, phần lớn các người
tiến hóa ngần ngại trong việc nghiên cứu tôn giáo
tỉ mỉ, giả định rằng khoa học không
được trang bị để hiểu thấu các
thế giới huyền nhiệm mà người tôn giáo nói
đến. Nhưng các nhà khoa học tiến hóa gần
đây lấy được thêm nhiều tin tưởng,
và bắt đầu chừng ba bốn chục năm
trước nhiều người trong họ, đáng chú ư
nhất là E. O. Wilson tại Harvard, bắt đầu
giả định rằng tôn giáo, cùng với tất
cả các tuyên ngôn về cuộc sống, phải
được nghiên cứu theo sinh học. Gần đây
nhất, Dawkins đă lư thuyết rằng sinh học
tiến hóa có thể cung cấp một giải thích thông
suốt về tư duy và hành vi tôn giáo (166-72). Ông ấy và
nhiều người tiến hóa khác đề nghị
“thiên nhiên hóa” (“naturalize”) nhận thức của chúng ta
về tôn giáo theo lư thuyết tiến hóa của
Nhằm
giải thích đức tin tôn giáo theo sinh học,
người ta phải thực hiện hai tuyên bố
rộng răi. Thứ nhất, các mô h́nh về hành vi con
người và các hoạt động nhận thức
thường ngày đều là thừa hưởng, cũng
một cách như giải phẩu cơ bản của chúng
ta. Thứ hai, sự thừa hưởng bao gồm các nhóm genes
chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên, genes được trải ra giữa các sinh
vật họ hàng, thế nào để ư niệm về
thích hợp tiến hóa (điều có nghĩa là tính khả
dĩ sinh sản lại) áp dụng ít cho sinh vật cá nhân
hơn là một nhóm rộng lớn hơn các genes chia
sẻ giữa đồng chủng. Ư niệm này
được biết đến như là “sự thích
hợp giới hạn” (inclusive fitness), và đó là nền
tảng cho hầu hết các tường thuật tiến
hóa về tôn giáo.6
Các
nhà tâm lư và nhân chủng học theo
V́
Thiên Chúa không hiện hữu và do đó không thể là cách
giải thích tối hậu của bất cứ
điều ǵ, làm sao chúng ta có thể hiều đức tin
và sự kiên tŕ của nó cách khoa học được?
Nhưng ta không có cách nào khác trừ t́m kiếm một tường
tŕnh tiến hóa. Thói quen tôn giáo đă bắt rễ sâu trong
các động vật có vú con người và phổ quát cho
đến nổi chúng cần một giải thích sâu
sắc hơn là văn hóa. Thế th́, có lẽ, tôn giáo có
thể được giải thích đúng nhất theo chuyên
ngữ tiến hóa như đă đề cao việc
sống c̣n và chuyển hóa genes con người trong tiến
tŕnh tiến hóa của chúng ta. Vậy sự sống c̣n
gene, chẳng phải Thiên Chúa, là cách giải thích tối
hậu về tôn giáo. Nếu các genes của chúng ta phải
đưa đến các thế hệ tương lai, chúng
cần phải chế tạo các cơ quan con người
với chỉ các đặc điểm sao y chúng lại
một cách đáng tin tưởng, và hiển nhiên một
trong các đặc điểm đó đă là sự thu hút
của chủng loại chúng ta đến với ảo
giác Thiên Chúa và các bày đặt khác về đức tin
(Dawkins 164-65).
Lối
giải thích tiến hóa này h́nh như thuyết phục
đối với nhiều nhà tự nhiên khoa học ngày
nay. Tuy nhiên, như Dawkins nhận ra cách đúng đắn,
phương cách chính xác trong đó tôn giáo đề cao
sự sống c̣n không hoàn toàn thẳng đuột như
vậy. Cho dẫu tôn giáo có lúc trực tiếp giúp sự
sống c̣n của cá nhân, nhóm, và di truyền, lúc khác nó không
như thế. Thế nhưng người ta vẫn cứ
c̣n có tôn giáo, thậm chí lúc đức tin thất bại
trong việc trở nên thích ứng. Một số hiện
tượng tôn giáo, ví như độc thân và tử
đạo, không có tính thích ứng. Trong các trường
hợp đó, quan điểm cuộc sống theo
Có
lẽ sự hy sinh vị tha của các cơ hội sinh
sản lại của một sinh vật cá nhân có thể có
tác dụng gia tăng tính sống c̣n của toàn bộ
chủng tộc genes mà người vị tha chia sẻ
với thân thích, nhóm, hoặc chủng loại.
Cách
giải thích này chỉ tạm thời, nhưng Dawkins nghi
ngờ rằng việc chọn lựa ḍng tộc và các
yếu tố khác liên hệ với lư thuyết sống sót
gene là cũng quá đơn giản để tường
tŕnh về đức tin (172-79). Chúng không giải thích
đầy đủ tính tùy tiện và điên rồ
hết sức của biết bao nhiêu tưởng
tượng tôn giáo mà người ta tin tưởng không
một chút chứng cứ. Thế th́ làm sao các người
tiến hóa tường tŕnh về sự kiên định
của thần chúa trong một thời đại khoa
học?
Có
phải cách giải thích tiến hóa về tôn giáo đă
bị sụp đổ hoàn toàn ở điểm này không?
Hiển nhiên nhận ra quả thế, cho dẫu không thú
nhận ra, Dawkins trao nhiệm vụ thiên nhiên hóa tôn giáo
lại cho các chuyên gia khác, một người trong họ là
nhà nhân chủng học Pascal Boyer.7 Tác dụng của
việc bán cái cho Boyer th́ hết sức mỉa mai. Sau khi hứa
hẹn cung cấp một tường tŕnh hoàn toàn theo
thuyết thiên nhiên về đức tin tôn giáo, Dawkins
kết cuộc gần như hoàn toàn tách rời khỏi
Một
hệ thống nhận thức như vậy là khả
năng của các tổ tiên sinh học xa xăm của
chúng ta để nhận ra được các dă thú.8 Các sinh
vật thiếu cơ năng nhận ra dă thú có thể
dễ dàng bị giết chết và ăn thịt, v́
thế chúng có một khả năng thấp về sống
c̣n. Mặt khác, những sinh vật giỏi về nhận
ra dă thú có điều kiện hơn để sống sót
và chuyển các genes của chúng lại cho các tổ tiên con
người gần đây hơn của chúng ta. Nhưng
điều này có ǵ liên quan đến vấn đề tại
sao hấu hết chúng ta vẫn c̣n có tính tôn giáo đến
thế? Câu trả lời của Boyer, được
Dawkins ủng hộ, là rằng bộ năo được
trang bị các modules hay hệ thống cho phép nó khám phá
ra các dă thú không nh́n thấy là một nơi ẩn náu sẵn
sàng cho các ư niệm tôn giáo. Các bộ năo được
thiết kế để khám phá ra các dă thú ẩn nấp
đă có năng lực t́m kiếm chung quanh cho các tác nhân
ẩn nấp đủ mọi thể loại. Chúng ta
đă thừa hưởng một thể loại bộ năo
có thể hấp dẫn và vun trồng dễ dàng các ư
niệm về các tác nhân ẩn nấp lố bịch đó
mà chúng ta gọi là thần chúa hoặc Thiên Chúa. Thậm chí
cho dẫu con người trần thế ngày nay không quan tâm
mấy nữa đến việc nhận ra dă thú, chúng ta cũng
vẫn c̣n mang nặng thiết yếu cùng các bộ năo
như của tổ tiên săn bắn hái lượm
của chúng ta. Có được một hệ thống khám
phá tác nhân đáng mừng làm cho bộ năo của chúng ta thành
các người chủ tương đắc đón
tiếp các ảo giác sống bám của tôn giáo, thậm chí
trong một thời đại khoa học.9
Thế
th́, xin chú ư đến mối liên hệ của đức
tin với tiến hóa giờ đây đă trở nên
lỏng lẽo cho đến nổi toàn bộ kế hoạch
thiên nhiên hóa tôn giáo rơ ràng ở vào một điểm
của biến động. Ở điểm này trong
lập luận của ông ấy, Dawkins đă cho thấy
dấu hiệu nhận ra sinh học tiến hóa không gây
hiệu quả biết chừng mực nào đến
kế hoạch của nhà tự nhiên học về việc
phơi bày và bóp nghẹt sự tuế toái của
đức tin. Có lẽ đó là lư do tại sao ông cũng
nỗ lực bắt bẻ lại, theo cơ sở logic
hơn là khoa học, các lập luận cổ điển
về sự hiện hữu của Thiên Chúa (77-109).
Việc Dawkins thậm chí bận tâm bước một
bước ngoặt vào triết học ủng hộ cho
sự nghi ngờ của tôi rằng, đến một
chừng mực nào đó của nhận thức, ông ấy
nhận ra rằng sinh học
nhiên
của ông về đức tin. Ông nhận ra rằng lư thuyết
sống sót gene của ông không đủ để
tường thuật về tôn giáo, v́ thế ông cũng t́m
đến các phương cách không khoa học để
bắt bẻ niềm tin hữu thần.
Tuy
nhiên, khi Dawkins nh́n lại lần chót sự thất bại
của sinh học trong việc nói lên được
điều ǵ cụ thể về đức tin tôn giáo
thực sự là ǵ, ông ghi nhận rằng genes vẫn có
thể cung cấp tương đồng cho ư niệm
mới mẻ và hết sức tranh căi của ông về “memes.”
Memes là các đơn vị văn hóa trừu
tượng của việc chuyển dịch thông tin mà
Dawkins và Dennett, trong sự cởi mở giải thích tháo
chạy, giờ đây gán cho việc bành trướng “vi
khuẩn” tôn giáo từ bộ năo này đến bộ năo
khác. Vào lúc Dawkins đưa ra việc chuyển dịch
kỳ dị từ theo khoa học qua theo memes, một
chuyển dịch mà kinh ngạc thay Dennett dùng làm nền
tảng cho nhận thức riêng của ông về tôn giáo,
Một
nơi nào đó, tôi đă cung cấp chỉ trích dài hơn
về các tường thuật thiên nhiên hóa của Dawkins và
Dennett về đức tin.11 Nhưng thậm chí thảo
luận ngắn gọn ở đây cũng đủ cho
thấy sự ghét bỏ dữ dội Dawkins tỏ ra
với tôn giáo, trong phân tích cuối cùng, có quá ít liên hệ
đến tiến hóa. Nếu lư thuyết
Vị
thế giận dữ mà Dawkins đối xử với tôn
giáo là dấu chỉ cốt lơi của sự chỉ trích
của ông bị xa ĺa chừng nào khỏi sự đánh giá
thoải mái hơn của các nhà thiên nhiên tiến hóa khác.12
Đa số học giả về tôn giáo nào đă bị thu
hút bởi các giải thích tiến hóa đều không phán
đoán và chua chát với đức tin tôn giáo như Dawkins.
Thực ra, đa số các người vạch trần tôn
giáo đều có phần độ lượng, nếu
không nói là hạ ḿnh, đối với các con người
bè bạn bị hướng dẫn sai để tin vào
Thiên Chúa. Đôi khi họ thậm chí cho phép rằng, nếu
không nhờ các bộ năo con người tổ tiên chế tạo
ra các ảo giác tôn giáo thích ứng, không ai trong chúng ta có
thể hiện diện ở đây. V́ thế, ba
người hoan hô
THẦN HỌC VÀ NGUỒN GỐC CỦA
ĐỨC TIN
(Theology and the Origin of Faith)
Đáp
trả nào nhà thần học có thể làm đối
với các nỗ lực cung cấp một sự vạch
trần theo
Thần
học, không như chủ thuyết khoa học, đánh cá
rằng chúng ta có thể tiếp xúc với chân lư sâu
thẳm nhất chỉ bằng cách để thoải mái ư
nguyện kiểm soát và bằng cách cho phép chính chúng ta
bị nắm bắt bởi một chiều kích sâu thẳm
của thực tế hơn kinh nghiệm hoặc khoa
học thông thường có thể tự nó đạt
được. T́nh trạng của việc cho phép chính
chúng ta bị nắm bắt và mang ra xa bởi chiều kích
sâu thẳm đó ít nhất là một phần của
những ǵ thần học muốn nói về “đức
tin.” Không kể những ǵ kinh tin kính chính thức của
họ tuyên bố, ngay cả những người theo
thuyết thiên nhiên khoa học đă kinh nghiệm về
đức tin như được hiểu trong ư nghĩa
nền tảng này.14 Để chính xác hơn, họ nữa
cũng đă thực hiện sự cúi đầu thờ
phượng giá trị không điều kiện của chân
lư. Tôi không nghi ngờ ǵ Dawkins, Harris, và Hitchens cảm
thấy được trao quyền để công bố
tuyên cáo rơ ràng của họ chỉ v́ họ tin chắc
chắn họ đang phục vụ nguyên ủy cao quí
của việc t́m kiếm chân lư. Họ chắc chắn
đă không chú ư rằng, nhằm phục vụ nguyên ủy đó,
họ đă ngấm ngầm cho phép chính họ bị
cầm giữ, có thể nói thế, bởi t́nh yêu chân lư
của họ, một giá trị không
chối
căi được hoạt động với họ như
là một điều thiện không thời gian, điều
sẽ bền vững hơn họ và hơn sự thành công
ngắn ngủi của chính họ. Giả sử họ
tỏ ra giận dữ với những ǵ tôi vừa nói,
phản ứng hăng hái này cũng vậy chỉ có
thể biện giải được bằng hấp
dẫn của họ một lần nữa với giá
trị của một chân lư sâu thẳm hơn họ có
thể t́m thấy trong các suy tư của chính tôi.
Thật
khó cho bất cứ ai trong chúng ta chú ư rằng chúng ta luôn
luôn bị cuốn hút về chân lư sâu thẳm hơn,
thậm chí nếu chúng ta quyết định chạy
trốn khỏi sức hút hấp dẫn, nhưng cũng
quấy rộn của nó. Nếu quí vị thấy chính quí vị
đang nghi vấn về những ǵ tôi vừa nói, chính v́
quí vị đang tự cho phép ḿnh bị cuốn hút
đến một tầm mức c̣n sâu thẳm hơn
của chân lư. Vậy quí vị chứng minh quan điểm
của tôi. Những ǵ tôi muốn nói về đức tin,
do đó, chính xác là t́nh trạng năng động này cho
phép chính quí vị bị đưa đi đến một
nhận thức và chân lư sâu thẳm hơn những ǵ quí vị
đă hiểu rơ đến lúc này. Con người có
đức tin, do đó, không chỉ v́ đức tin là thích
ứng trong ư nghĩa tiến hóa, không chỉ v́ các hệ
thống bộ năo khám phá dă thú cực kỳ nhậy bén
thừa hưởng từ các tổ tiên tiến hóa xa
xăm của chúng ta, không chỉ v́ họ có nhu cầu
về mô h́nh và cứu cánh, và không chỉ v́ các thùy chẩm
quá sức hoạt động.
Không
chối bỏ rằng bất cứ yếu tố nào trong
các yếu tố đó có thể cũng là lư do,
người ta có thể, một cách biện minh được,
thêm vào rằng con người có đức tin cũng v́
họ bị cuốn hút đến một chiều kích
của sự sâu thẳm. Trong ngôn ngữ thần học,
họ đang bị đề cập đến bởi và
đáp ứng với huyền nhiệm vô tận của
hiện thân, cứu cánh, chân lư, sự thiện, và vẻ
đẹp mà các đức tin hữu thần gọi là
Thiên Chúa. Một tuyên bố như vậy không có một lư
do nào đối kháng với các tường thuật
tiến hóa về tôn giáo. Ngược lại với Dawkins,
đức tin tôn giáo không đối kháng với khoa học
nhiều hơn chính ông ấy đầu hàng với giá
trị của chân lư.
Nói
chung, đức tin là t́nh trạng bị cuốn hút tới
hay bị nắm bắt bởi một điều ǵ
hết sức quan trọng, điều mà Tillich gọi là
“sự quan tâm tối thượng.” Quan tâm tối
thượng của chúng ta có thể được
nhận diện bằng cách hỏi cái ǵ đưa ra ư
nghĩa, cứu cánh, say mê, và can đảm cho cuộc
sống chúng ta. Điều ǵ giữ chúng ta lại trong các
giai đoạn khó khăn, thất bại, tội lỗi,
và việc nhận ra tính có thể hư nát của chúng ta?
Điều ǵ có thể gây ra cho cuộc sống chúng ta tan
ră nếu bất thần thiếu nó? Có phải là một
người khác không? Công việc hay nghề nghiệp? Ḥa
b́nh thế giới? Sự tiến bộ của công
bằng? Thiên Chúa? Hoặc có thể chính là khoa học
hoặc lư trí?15
Sam
Harris xem ra là người duy nhất trong các người vô
thần mới có điều ǵ như là hé mở
được công việc của Tillich, và thậm chí sau
khi làm thế ông đóng sầm lại ngay lập tức.16
Đưa thần học vào tính toán có thể không phục vụ
được mục đích chống đối của
Harris, mục đích đó “nhằm đến đại
đa số người tin, không phải nhằm khu
vực không chê trách của chỉ một người
của Tillich” (65). Thay v́ vật lộn với sự sáng
tỏ thách thức thuộc thần học về
đức tin, Harris nghĩ tốt hơn cho quần chúng
khai sáng không nghe ǵ cả những ǵ thần học có
để nói về chủ đề của chúng ta. Trong
nhận xét của ông về Tillich, ông làm câm nín định
nghĩa của đức tin bằng “niềm tin không
chứng cứ,” cho dẫu ông biết Tillich đă từ
khước định nghĩa này như là dẫn
đến sai lầm và không đáng bào chữa.
Tôi
không chắc làm sao phần lớn người đọc
sẽ phản ứng với chiến lược tu từ
này, nhưng tôi nghĩ nó đáng có nhiều nhận xét.
Trước hết, theo logic, nó xói ṃn tính phổ quát
nhắm đến của việc kết án đức tin
của chủ thuyết vô thần mới. Thậm chí
chỉ một con quạ trắng đủ để cho
thấy không phải tất cả quạ đều
đen, vậy chắc chắn sự hiện hữu của
vô số người tin từ khước định
nghĩa đơn giản hóa của các người vô
thần mới về đức tin đủ để
đưa ra nghi vấn tính áp dụng được
của các chỉ trích của họ vào một khu vực
quan trọng của toàn dân tôn giáo. Thứ hai, số
người đọc quả chú ư đến phần nào
các tiểu luận mới về vô thần sẽ bao
gồm rất ít những ǵ Harris gọi là “người
tin.” Bọn khủng bố và cuồng tín tôn giáo là mục
tiêu ở quá xa ngoài tầm của ba người chẩn
bệnh giận dữ của chúng ta. Cho dẫu các cuốn
sách đang được thảo luận đă nằm
trên bản liệt kê sách bán chạy nhất, số
lượng người đọc sẽ mua và nghiên cứu
chúng cũng chỉ là một phần nhỏ tí xíu của
dân số thế giới. Hơn nữa, một phần
đáng kể các người đọc của họ
đă đồng ư với họ, hoặc là những
người có các nghi nan nghiêm trọng về đức tin
tôn giáo, trong khi các người khác đơn giản
chỉ ṭ ṃ về chuyện nhặng xị đó là ǵ
thế. Dĩ nhiên, Harris và các người khác có thể luôn
luôn trả lời họ đang săn hạ những
người phóng túng và ôn ḥa về tự do khoan
nhượng với tư duy và đức tin. Nhưng khó
mà tin được rằng, thiếu một nền
độc tài vô thần mới, họ mong ước nghiêm
chỉnh thế giới sẽ bị tẩy sạch
khỏi tự do về đức tin.
Nều
họ thực sự nghiêm chỉnh về việc loại
bỏ đức tin hoàn toàn ra khỏi thế giới,
nếu thế, các người vô thần mới nên bắt
đầu vật lộn với các nhà thần học chính
yếu hơn là cố tránh né họ. Để loại
bỏ đức tin, các người vô thần—qua thú
nhận của họ—sẽ không chóng th́ chầy phải
loại bỏ thần học. Thần học, họ tuyên
bố, bằng cách dọn chỗ cho bất cứ
đức tin nào, làm khả dĩ các ảo giác chiếm
ngự tâm trí các tên khủng bố, thế nhưng các
cuốn sách tôi bàn đến nơi đây không đưa ra
một tấn công chính yếu nào vào bất cứ nhà
thần học nổi danh nào. (Việc Dawkins bắn
loạn xạ vào Richard Swinburne th́ quá yếu để
được kể đến). Với tất cả
khoác lác về các điều ác của thần học,
tại sao họ lội b́ bơm chỉ tới mắt cá chân
trong các vũng cạn của ngu dốt về tôn giáo?
Một chiến lược quân sự được suy
nghĩ chính chắn sớm muộn phải đối
đầu với quân địch ở điểm
mạnh nhất, nhưng từng người trong các
người chỉ trích của chúng ta đă tránh né bất
cứ cuộc chạm trán nào như vậy. Không như các
nhà lănh đạo vĩ đại của chiến tranh, các
ông tướng này đă quyết định nhắm
cuộc tấn công của họ hoàn toàn vào các điểm
yếu đuối nhất của thế giới rộng
lớn về đức tin.
Thứ
ba, một cuộc tiếp xúc với một nhà thần
học như Tillich sẽ giúp các người vô thần
hiểu rơ hơn các năng động ngấm ngầm
của chính chủ thuyết vô thần của họ.
Họ sẽ có khả năng nh́n thấy rằng các
chỉ trích của họ về đức tin trỗi sinh
không phải từ tính đối thể khách quan làm
trống rỗng đầu óc con người khỏi
mọi giả định trước khi nghiệm xét.
Nổi đam mê đó của sự chống đối
của họ bùng phát từ ḷng ưa thích sâu xa của
sự tín nhiệm bẩm sinh vào lư trí, một “quan tâm
tối hậu” đă nắm bắt họ và họ đă
đầu hàng nó với một ḷng kính trọng khâm
phục. Trong ư nghĩa này, họ cũng có tính tôn giáo
như bất cứ ai khác, v́ thế họ đă chẳng
cắt đứt dây ràng buộc của họ với
phần c̣n lại của nhân loại một chút nào cả.
Thứ
tư, trong việc họ thờ phượng lư trí và khoa
học, các người vô thần mới đă không
chống nổi những ǵ Tillich hiểu như là sự
cám dỗ chính yếu của mọi đức tin, cám
dỗ về tin quấy thờ quá (idolatry). Đặt lư
trí và khoa học lên ngai như là cách duy nhất đến
với chân lư là một minh họa gần như tuyệt
hảo về bản năng tuyệt đối hóa mà cuối
cùng giết chết tinh thần sống c̣n của việc
t́m hiểu. Chủ thuyết khoa học và duy lư giam hăm tâm
trí con người chẳng ít hơn việc tôn thờ
quấy quá giữ người tin tôn giáo không cho phát
triển mối tương quan giải thoát đến toàn
bộ chiều sâu của hiện thân (the depth of being). Nói
theo thần học, lư trí, nhằm tránh tự giam hăm ḿnh
(selfimprisonment), cần đức tin, không phải theo
nghĩa của Harris mà theo nghĩa của Tillich về
từ này, v́ đức tin là những ǵ giữ cho lư trí
khỏi tuyệt đối hóa chính nó. Bằng khuấy
động chúng ta ở mọi tầm mức của
sự hiện hữu, đức tin giữ biên giới
của ư thức chúng ta cởi mở đến với
sự vô tận. Đức tin nhắc nhở chúng ta
rằng khoa học và lư trí bị giới hạn chừng
nào trong năng lực của chúng để xuyên qua
(penetrate) sự phong phú, vẻ đẹp, và chiều sâu
của hiện thân. Thần chúa hóa khoa học và lư trí,
như chỉ cần một tí nhận thức về
lịch sử cũng có khả năng cho thấy, là phương
cách chắc chắn làm tàn rụi thế giới và làm khô
nhăn linh hồn của chúng ta.17
1
Trappist: Ḍng khổ tu tại
2
Cũng xem Dennett, Breaking the Spell, 3-115.
3
Shermer, How We Believe
4
Robert Hinde, Why Gods Persist: A Scientific Approach to Religion (New
York: Routledge, 1999)
5 E.
O. Wilson, Consilience: The Unity of Knowledge (New York: Knopf, 1998);
Pascal Boyer, Religion Explained: The Evolutionary Origins of Religious
Thought (
6
George C. Williams, Adaptation and Natural Selection: A Critique of Some
Current Evolutionary Thought (Princeton, N.J.: Princeton University Press,
1996); William D. Hamilton, “The Genetical Evolution of Social Behavior,” Journal
of Theoretical
Biology
7 (1964): 1-52;
John Maynard Smith, The Evolution of Sex (New York: Cambridge Univeristy
Press, 1978); Robert L. Trivers, Social Evolution (Menlo Park, Calif.:
Benjamin Cummings, 1985); Richard D. Alexander, Darwinism and Human
Affairs
(Seattle:
University of Washington Press, 1979).
7
Boyer, Religion Explained
8
Như trên, 145
9
Như trên 137-67
10
Thảo luận của Dennett về memes có thể t́m
thấy trong Breaking the Spell. 341-57.
11 Xem
sách của tôi God After Darwin: A Theology of Evolution, in
lần thứ 2 (
12 Tôi
đang nghĩ đến cách riêng nhiều tác phẩm
của Michael Ruse, mà các bài viết là kiểu mẫu của
tính b́nh tĩnh, công bằng, và học giả. Xin xem, ví
dụ, sách của ông ấy
University
Press, 2003).
13 Xem
Loyal Rue, By the Grace of Guile: The Role of Deception in Natural History
and Human Affairs (
14
Giáo điều của chủ thuyết thiên nhiên khoa
học đă được tóm lược trong Dẫn
nhập của sách này. Xem Loyal Rue, By the Grace of Guile: The
Role of Deception in Natural History and Human Affair
15
Cách riêng xin xem Paul Tillich, Dynamics of Faith (New York: Harper
Torchbooks, 1958).
16
Daniel Dennett dẫn chiếu thoáng qua Tillich, nhưng không
trưng bày chứng cứ nào cho thấy hiểu hoặc
nghiên cứu nhà thần học này. Xem Breaking the Spell, 166,
191, 163
17
Về một khai triển sâu sắc hơn quan điểm
thần học này, xin xem sách của tôi Is Nature Enough?
Meaning and Truth in the Age of Science (
6
Chúng
ta có thể trở nên tốt mà không có Thiên Chúa không?
(Can
We Be Good without God?)
Phẩm
hạnh là sản phẩm phụ của tôn giáo—một
sản phẩm không thể tránh khỏi, nhưng không
phải là điểm chính. Mọi thầy dạy tôn giáo
giỏi đă chống lại việc tŕnh bày tôn giáo như
đơn thuần là sự tán đồng các nguyên tắc
phẩm hạnh…. Việc nhấn mạnh vào nguyên tắc
phẩm hạnh đánh dấu triều xuống của
nhiệt t́nh tôn giáo.
—Alfred
North Whitehead1
Đối
lại với tội lỗi th́ không cách nào là đức
hạnh cả…. Không, đối lại với tội
lỗi là đức tin.
—Sǿren
Kierkegaard2
Người
có đức tin đă thường nhấn mạnh
rằng vắng bóng Thiên Chúa, luân lư con người sẽ
vỡ ra thành từng mảnh.
Nếu
có một Thiên Chúa tốt hiện hữu, họ có lư,
điều này đưa cho hành vi luân lư của chúng ta
một nền tảng an toàn và vĩnh cửu. Nhưng
nếu Thiên Chúa không hiện hữu, có phải mọi
chuyện đều được phép không? Tại sao
chúng ta phải cư xử tốt, nói cho cùng, nếu không
có các tiêu chuẩn không thời gian về điều
đúng điều sai? Và không phải hay sao một trong các
chức năng thiết yếu của một thần chúa
là để đưa ra, cho mọi thời mọi nơi,
một bản liệt kê rơ ràng những ǵ là đúng là sai,
để ban hành các nguyên tắc phẩm hạnh mà chúng ta
nên vâng theo không nghi nan, và rồi để ban thưởng
điều thiện và trừng phạt điều ác? Và
không phải hay sao các tôn giáo hiện hữu trước
tiên để đặt kiềm chế luân lư lên con
người, nếu không thế họ sẽ hành
động như thú vật? Hơn nữa, nếu quí
vị chấp nhận tiến hóa của con người,
không phải chính tôn giáo hay sao, cách riêng chủ thuyết
độc thần đạo đức, đă nâng chúng ta
ra khỏi lănh vực thuần túy tự nhiên và cho phép chúng
ta trở nên một chủng loại luân lư riêng biệt?
Cho
dẫu nhiều người tin vào Thiên Chúa sẽ trả
lời khẳng định các câu hỏi này, nói theo
thần học, sự việc không luôn luôn hoàn toàn rơ
rệt như vậy. Sự thực, nhận thức
tương quan giữa luân lư và niềm tin tôn giáo đă luôn
luôn là một trong các nhiệm vụ thách thức của
thần học. Tuy nhiên, như chúng ta đă nhận xét
nhiều lần, các người vô thần mới không quan
tâm đến thần học, thay vào đó ưa chuộng
để nó qua một bên như thể nó không hề
hiện hữu.
Trong
chừng mực chủ đề của chương này
quan tâm, cũng đủ nếu đưa ra hai tuyên cáo
thẳng thắn theo thần học và không nói ǵ thêm:
Thứ nhất, luân lư không đ̣i buộc niềm tin vào
Thiên Chúa. Thứ nh́, con người có thể cư xử
tốt hơn nhiều nếu không có đức tin vào Thiên
Chúa, theo ngôn từ của Christopher Hitchens, “tôn giáo
đầu độc mọi thứ.” Chúng ta giờ đây
hăy xét tỉ mỉ từng điều trong hai tuyên bố
đó và rồi, trong phần thứ ba, đặt câu
hỏi tại sao tôn giáo tuyên bố là tốt đến
thế lại có thể thường thường xấu
đến thế.
LUÂN LƯ CÓ Đ̉I BUỘC NIỀM TIN VÀO THIÊN CHÚA KHÔNG?
(Does Morality Require Belief In God?)
Có
một lư do chiến lược tại sao Richard Dawkins và
các người vô thần mới khác muốn người
đọc nghĩ rằng đức tin vào Thiên Chúa
hoạt động với người tin như là một
sự tán đồng cần thiết các nguyên tắc
phẩm hạnh. Nếu người ta bắt đầu
bằng tiền đề rộng răi này, lúc đó một
phương cách dễ dàng để làm mất giá trị
của chủ thuyết hữu thần là chứng tỏ
rằng luân lư có một cách giải thích thuần túy tự
nhiên. Nếu chúng ta có thể tốt mà không có Thiên Chúa, thế
th́ một ḥn đá chính yếu của cột trụ
đức tin đă bị tháo gỡ, và theo sau là sụp
đổ hoàn toàn. Trong hai chương phơi bày hơn (6
và 7) của cuốn Ảo giác về Thiên Chúa, Dawkins
đă cố hết sức ông có để thuyết
phục người đọc rằng điểm chính
yếu của Kinh thánh phải là, dùng ngôn từ của A.
N. Whitehead, “sự nhấn mạnh vào các nguyên tắc phẩm
hạnh.” Xem ra Dawkins nghĩ rằng đó chính là căn
bản những ǵ Kinh thánh (the Good Book) phải trở thành,
và ông giả định chúng ta c̣n lại cũng nên nghĩ
như thế. Kinh thánh, Dawkins phải đă quyết
định từ lâu, nhằm trở nên thiết yếu là
một tóm lược của “các nguyên tắc để
sống,” hoặc bằng các chỉ thị trực
tiếp, như trong Mười Giới răn, hoặc
bằng cung cấp “các vai tṛ khuôn mẫu” cho hành vi của
chính chúng ta (237-627). Nó đă thất bại trong cả hai
điều, ông lập luận. Hitchens đồng ư với
Dawkins, và chẳng có ǵ để thêm vào, nên tập chú
của tôi ở đây trước tiên nhằm vào
người tiến hóa
Liên
quan đến các chỉ thị về phẩm hạnh,
chính Dawkins, với sự giúp đỡ của nhiều
nơi trong các trang Web ưa thích nhất của ông, có
thể đến được với một loạt
giới răn hay hơn những ǵ Yavê đă cho chúng ta,
gồm cả: “Hưởng đời sống t́nh dục
của quí vị (bao lâu nó không phương hại
đến ai khác) và để các người khác
hưởng cuộc sống t́nh dục của họ
nơi riêng tư bất cứ xu hướng nào của
họ, những chuyện chẳng liên quan ǵ đến quí
vị cả” (263-64).Về vai tṛ khuôn mẫu đạo
đức, Kinh thánh cũng chẳng có vai tṛ nào tốt
để cống hiến, kể từ Thiên Chúa. Thiên Chúa
tỏ ra như “theo cách lư luận được, nhân
vật khó chịu của mọi hư cấu: ghen
tương và tự hào về điều đó;
người bất b́nh thường chế ngự tủn
mủn, không chính trực, không tha thứ; một
người tẩy sạch chủng tộc hận thù, khát
máu; một kẻ vũ phu xấu bụng thất thường
ghét đàn bà, sợ đàn ông, kỳ thị chủng
tộc, giết trẻ con, diệt chủng tộc,
giết con cái, quấy rầy, hoang tưởng tự
đại, ác dâm thống dâm3” (31). Chẳng ngạc nhiên
Abraham, Noe, và Môsê cũng là các nhân vật mờ ám như
thế. Cứ xem xét vai tṛ khuôn mẫu của họ.
Giêsu
là “một cải tiến to lớn,” nhưng chủ
thuyết trọng tâm chủng tộc (ethnocentrism) của
ông vẫn là một tai tiếng, và thái độ chỉ
trích của ông với chính mẹ và anh em ông không phải là
một thái độ đề cao các giá trị gia đ́nh (250).
Hơn nữa, toàn bộ tấn bi kịch Kitô giáo về
cứu độ là ngang ngạnh: “Nếu Thiên Chúa muốn
tha thứ tội lỗi của chúng ta, tại sao chẳng
cứ việc tha đi, mà không phải để chính ông
ấy bị tra tấn và xử tử để
đền đáp—qua đó, vô t́nh, kết án các thế
hệ xa xăm người Do thái là kẻ hành quyết và
khủng bố như là ‘những người giết
Đức Kitô’: có phải cái tội di truyền đó
chuyển giao vào trong tinh khí (semen) nữa không?” (253). Thế
th́, tại sao, có người có thể gọi Kinh thánh là
một cuốn sách tốt được?
V́
thế, trước tiên đă cố gắng thuyết phục
chúng ta rằng điểm chính của tôn giáo kinh thánh là
để cung cấp nhiều mở mang luân lư, và thứ
nh́, đă chứng minh rằng tôn giáo thất bại
thảm hại trong việc làm điều đó, nhiệm
vụ thứ ba và chính yếu của Dawkins là để
chỉ ra rằng sự thực đa số chúng ta không
một chút nào hạ ḿnh xuống thấp đến
thế để xem Kinh thánh là nguồn và là cảm
hứng cho đời sống luân lư của chúng ta. Với
phương cách đó, ông nhằm giải phóng luân lư hoàn
toàn ra khỏi tôn giáo. Sự thực, Dawkins đi lạc
đường cả ba chuyện, khởi đầu
từ tiền đề mở màn của ông. Cho dẫu
nhiều người hữu thần có thể đồng
ư với Dawkins rằng luân lư là điểm chính của tôn giáo
Kinh thánh, nó không phải là thế. Điểm chính là có
đức tin, tín nhiệm, và hy vọng vào Thiên Chúa. Luân lư
là thứ yếu, và nguyên lư nêu rơ đạo đức Kinh
thánh là phẩm hạnh của chúng ta phải h́nh thành theo
các cách khác bằng sự tín nhiệm rằng lời
hứa của Thiên Chúa về sự giải thoát tối
thượng cuối cùng sẽ xẩy ra. Khi chúng ta
thất bại trong tín nhiệm vào một viễn ảnh
hấp dẫn và cao quí của số phận con
người và vũ trụ, chúng ta lúc đó làm cho phẩm hạnh
thành điểm chính của tôn giáo. Kết quả là
giả h́nh, tự cứu thoát, chủ thuyết cầu
toàn, và việc áp đảo sự sống khỏi
những người khác. Các thái độ và hành
động này đă ở dưới sự chỉ trích
gay gắt của các tiên tri, Đức Giêsu, Phaolô, và
hầu hết các nhà thần học Kitô giáo.
V́ ông
đă sai lầm về tuyên bố thứ nhất trong
lập luận của ông, Dawkins cũng không thể bào
chữa các điểm thứ nh́ và thứ ba của ông.
Đă thu lượm được các nhận xét thần
học dữ dội nhất của ông từ những
thứ tương tự như của diễn viên hài
George Carlin, nhà văn trào phúng Douglas Adams, và Tạp chí Nghi
ngờ (The Skeptic Magazine), thảo luận của Dawkins
về luân lư và Kinh thánh là một tŕnh bày hấp dẫn
của sự ngu dốt và châm chọc điên khùng.
Tôi
không thích nói theo phong cách thẳng thừng như vậy
về bất cứ nhà văn nào, nhưng không nói như
thế ở đây sẽ là lăng tránh. Điều đáng
than trách nhất về thảo luận của Dawkins là
rằng nó hoàn toàn bỏ mất cốt lơi luân lư của Do thái
và Kitô giáo, việc nhấn mạnh vào công b́nh và những ǵ
đă được biết đến như là sự
lựa chọn ưa thích của Thiên Chúa cho người
nghèo khó và yếu kém. Để duy tŕ rằng chúng ta
hiểu công b́nh xă hội, quyền công dân, và các phong trào
giải phóng hiện đại và đương thời
mà không dẫn chiếu Amos, Hosea, Isaia, Mica, Giêsu, và các tiên tri
Kinh thánh khác làm cho luận giải của Dawkins về luân
lư và đức tin gần như không xứng đáng
được phẩm b́nh.
Tuy
nhiên, những ǵ đáng được phẩm b́nh là
nỗ lực của Dawkins để giải thích luân lư
như là một hiện tượng tự nhiên thuần
túy. Nếu luân lư không tùy thuộc vào đức tin tôn giáo,
th́ làm sao điều ǵ có thể giải thích nó? Tại sao
chúng ta lại là các hiện thân luân lư? Cho dẫu có các lư
thuyết tâm lư và xă hội học lâu đời hơn, ngày
nay khuôn mặt của Charles Darwin một lần nữa
đứng sẵn sàng để cung cấp lời
giải thích cần thiết. Dawkins xem ra hoàn toàn chắc
chắn rằng tổng hợp sinh học hiện
đại theo khái niệm của
chúng
sẽ sống sót đến các thế hệ tương
lai. Theo phương cách đó, sinh học
Như
chúng ta đă thấy trong chương trước, Dawkins và
nhiều người tiến hóa khác đă kết luận
rằng sự tuyển chọn tự nhiên áp dụng chính
xác hơn vào nhóm genes chia sẻ bởi thành viên của
một chủng loại hơn là bởi các sinh vật cá
thể.4 Sinh học cho thấy rằng chúng ta có luân lư v́
trở nên tốt đă góp phần vào sự sống sót gene
con người. Như thế, không cần các tường
thuật thần học hiện hữu.5 Theo các truyền
thống tôn giáo chính yếu, tính vị tha là cao điểm
của sự hiện hữu luân lư, và t́nh yêu vô ngă cách riêng
thuyết phục người tin về nguồn gốc
siêu nhiên của đạo đức con người.
Nhưng người tiến hóa ngày nay nghĩ họ có thể
dơi lại nguồn gốc của các đức tính cao
cả như vậy đến các xẩy ra di truyền
không chủ đích, t́nh cờ đă đặt
chương tŕnh cho một số trong các tổ tiên của
chúng ta để trở nên cộng tác và vị tha hơn
những người khác. Các nhóm tổ tiên trong đó
nhiều genes về cư xử cộng tác và rộng lượng
được phân phối ra có cơ hội tốt hơn
để sống sót và sinh sản lại hơn những
nhóm không được nhiều. Sống sót gene, không
phải Thiên Chúa, là nguồn tối hậu của bản
năng luân lư của chúng ta.
Tính
vị tha trỗi sinh ít nữa mờ nhạt sớm
sủa trong tiến hóa hơn là trong con người, và
một điều ǵ như là luân lư đă hiện diện
trong sự “cộng tác” hỗ tương có thể quan sát
được, ví dụ trong các đàn kiến. Theo nguyên
lư, “tính vị tha” trong sinh học tiến hóa nghĩa là
đặt tương lai di truyền của chính
người ta vào nguy cơ v́ lợi ích sống sót của nhóm
đông đảo các genes hơn mà người ta chia
sẻ với ḍng họ. Ví dụ, trong các đàn kiến,
các “kiến thợ” sẽ không chuyển tiếp các genes
của chính chúng nó v́ chúng đă vô sinh, nhưng sự hy sinh
bản thân của chúng đóng góp vào sự sống sót
của toàn đàn và từ đó cho sự thích hợp
giới hạn. “Một con kiến hay con ong mật
đơn độc,” Matt Ridley ghi nhận, “yếu
đuối và thất bại như một ngón tay bị
cắt rời. Đặt vào đàn của nó, dẫu
vậy, nó sẽ hữu dụng như một ngón tay cái. Nó
phục vụ lợi ích to lớn hơn của đàn nó,
hy sinh việc sinh sản lại và liều mạng sống
nhân danh đàn.”6
Các ví
dụ loại này về tính vị tha ràng buộc trong
vương quốc loài vật nơi chỉ thuần túy là
sự phát triển tiến hóa tự nhiên. Vậy sự
kiện rằng tính vị tha và tự hy sinh cũng xẩy
ra trong chủng loại con người không đ̣i buộc
một củng cố thần học nhiều hơn
sự cộng tác trong thế giới của côn trùng có tính
xă hội. Nếu kiến không cần Thiên Chúa để làm
trọn bổn phận, sao chúng ta lại cần? Luân lư là
thuần túy tự nhiên, v́ thế thậm chí các lư
tưởng luân lư cao cấp hơn đă không từ trên cao
đi xuống. Người tin tôn giáo ở trong ảo giác
rằng mệnh lệnh luân lư bắt nguồn từ trong tâm
trí của một người ban hành luật siêu nhiên, và
điều này đưa ra các giáo huấn cho chúng ta một
hào quang về quyền lực, nhưng theo quan điểm
của thuyết
Dĩ
nhiên, Dawkins nhận ra rằng đời sống luân lư
phức tạp hơn cách cư xử của súc vật
rất nhiều và rằng các yếu tố văn hóa
cũng quan trọng trong việc h́nh thành đời
sống đạo đức. Thế nhưng, ông vẫn
cứng rắn rằng luân lư cuối cùng là tự nhiên
hơn là siêu nhiên từ nguồn gốc. Ở điểm
này, tuy nhiên, lập luận của ông đột nhiên
vỡ ra từng mảnh.
Cũng
như trong “giải thích” tiến hóa của ông về tôn
giáo, Dawkins bắt đầu bằng hứa hẹn một
lư thuyết thiên nhiên hoàn toàn, nhưng rồi ông tiến hành
đến một điểm nơi sinh học rốt
cuộc cũng không có ǵ nhiều cho đức hạnh con người.
Cuối cùng Dawkins thú nhận—trong một tuyên bố
giảm nhẹ đi khổng lồ—rằng các
người theo thuyết tiến hóa không nên “tuyên bố sai
lầm về giới hạn của tuyển chọn
tự nhiên” (220). Bất ngờ, ông xưng thú rằng
đặc tính con người đă một lần phục
vụ nguyên ủy của sự sống sót gene “đôi khi
bắn sai” (misfire), trong trường hợp đó chúng có
thể không c̣n đề cao sự sống sót của gene
nữa (220). Ví dụ, một đôi bạn thông minh có
thể thực hiện hành động t́nh dục cho
dẫu họ biết rằng, nếu người đàn
bà đang dùng thuốc ngừa thai, việc làm đó sẽ
không dẫn đến sinh sản. Việc họ thi hành
bản năng t́nh dục là một “bắn sai,”
"một sản phẩm phụ,” một “lỗi
lầm.” Với Dawkins, các từ ngữ đó không hàm ư
xấu xa nào v́ có vô số bắn sai hoặc lỗi lầm
“phúc đức” theo thuyết
Tới
điểm này trong lập luận của Dawkins, tuyển
chọn tự nhiên đă trở thành cách giải thích
đức hạnh con người cũng giống như
luật hóa học dính mực lên giấy giải thích
những ǵ tôi đang viết trên trang này. Nhằm
để quí vị đọc trang giấy này, các
“luật” hóa học liên quan đến việc dính liền
mực với giấy phải tiếp tục hoạt
động cách đáng tin cậy và tiên đoán trước
được. Nhưng nội dung thực sự của
những ǵ tôi đang viết không bị chỉ
định hoặc giải thích bởi khoa học hay hóa
học. Cũng vậy, trong việc chuyển dịch các
giá trị luân lư từ thế hệ này sang thế hệ
khác, các “luật” sinh học về thừa hưởng di
truyền đang hoạt động h́nh thành các sinh vật
có khả năng về hành vi luân lư.
Nhưng
nếu Dawkins đúng về việc bắn sai theo thuyết
Chẳng
những Dawkins để chúng ta tiếp tục t́m kiếm
tường thuật tiến hóa về luân lư mà ông đă
hứa, ông c̣n minh họa sự tự đối nghịch
logic mà bất cứ nỗ lực đưa ra một
biện giải khoa học thuần túy về luân lư
cuối cùng cũng dẫn vào trong đó. Các nhận
thức tiến hóa trong câu chuyện làm sao luân lư trỗi
sinh trong lịch sử tự nhiên có thể không sai lầm
đến chừng mực nó có thể, nhưng chúng không
thành công tốt đẹp nếu dùng như cách giải
thích đầy đủ và cuối cùng. Là một
người cho rằng được hướng dẫn
bởi các lư tưởng luân lư cao cả, cao cả hơn
bất cứ thứ ǵ khác ông có thể t́m thấy trong tôn
giáo, Dawkins tự thấy ḿnh ở trong một hoàn cảnh
trong đó việc chính ông lên án luân lư của đức tin
tôn giáo chẳng có một biện giải vững chắc
nào nếu các giá trị hay tiêu chuẩn qua đó ông
đưa ra các phán đoán của ông tự chúng có thể
được giải thích hoàn toàn bằng các chuyên ngữ
tiến hóa. Nói cho cùng, một tiến tŕnh tự nhiên mù
quáng, lănh đạm, và không luân lư, chính là cách Dawkins luôn luôn
biểu thị tiến hóa, khó có thể giải thích
tại sao công b́nh, yêu thương, và việc theo
đuổi chân lư giờ đây ràng buộc đức
hạnh một cách không điều kiện.
Dẫu
thế, có lẽ Dawkins ngấm ngầm nhận ra vấn
đề ở đây và muốn tường tŕnh các cách
đánh giá của riêng ông liên quan đến những ǵ ông
gọi là lỗi lầm, bắn sai, hoặc sản
phẩm phụ theo thuyết
TÔN GIÁO CÓ ĐẦU ĐỘC MỌI THỨ KHÔNG?
(Does Religion Poison Everything?)
“Làm
sao tôn giáo đầu độc mọi thứ” (How Religion
Poisons Everything) là đề phụ của cuốn sách
mới của Christopher Hitchens Thiên Chúa không vĩ
đại (God Is Not Great). Tôn giáo mà tác giả đó và các
người vô thần mới khác nói đến phần
lớn là tôn giáo độc thần (monotheism), niềm tin
nghiêm ngặt của Do thái, Hồi, và Kitô giáo vào một
Thiên Chúa. Các đức tin khác thỉnh thoảng cũng
bị đề cập đến, nhưng chính sự độc
hại của các tôn giáo Thiên Chúa mà các người vô
thần mới đang tấn công. Danh mục các
điều ác vi phạm dưới dù che của các
đức tin hữu thần là một danh sách dài, và các bài
viết của Hitchens, Dawkins, và Harris có thể sử
dụng tốt như một bản xét ḿnh cho những ai
trong chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như là điều
thiện vô tận, t́nh yêu tự hiến, nền tảng
của tự do của chúng ta, tác giả của sự
sống, và vận mệnh tối hậu của chúng ta.
Chẳng có ai nghĩ về Thiên Chúa với ngôn từ
như vậy, và có thể khai sáng để t́m lư do tại
sao.
Rồi
giờ đây, tôi có thể chỉ nói không cách nào chối
bỏ được rằng người ta có thể
rất luân lư mà không tin vào Thiên Chúa. Cũng không có cách nào
chối bỏ được nhiều tôn giáo đă bị
viện dẫn để ủng hộ một số trong
các thể loại không luân lư xấu xa tột mực.
Thế nhưng vấn đề chính, Dawkins nêu lên mà không
trả lời, là làm sao biện giải các giáo huấn luân
lư của chúng ta thế nào mà chúng ta bị chúng ràng buộc
không điều kiện. Ảnh hưởng tu từ mà
cuốn sách phổ biến của Hitchens đă tạo ra
chính yếu là do sự hấp dẫn của nó với chính
cảm quan của người đọc về sự xúc phạm
luân lư. Nhưng bằng tuyên bố rằng tôn giáo
đầu độc mọi thứ, rằng tôn giáo
độc thần kinh thánh là nguyên ủy của các
điều ác không được kể ra, và rằng Thiên
Chúa không vĩ đại, Hitchens nghĩ về chính ông
như đang đứng trên một ngọn núi cao hơn
núi Sinai. Người đọc thận trọng muốn
biết làm sao ông đến được chỗ
chiếm ngự các đỉnh cao đó và chúng ta những
người c̣n lại không thể có được
sức bật để trèo lên nơi đó với ông
ấy.
Các
cuốn sách đă làm cho chúng ta chú ư ở đây thẳng
thắn thét lên sự phản kháng nhiệt t́nh chống
lại các điều ác được rèn luyện nhân danh
tôn giáo độc thần. Nhưng sự quyết liệt
của việc kết án mạnh mẽ như vậy
về điều sai lầm chỉ có thể trỗi sinh
từ một cảm quan an toàn về sự chính trực.
Vậy cái ǵ là nền tảng và nguồn gốc của
cảm quan chính trực của các người vô thần
mới đó? Có phải đơn giản là sự
đồng thuận xă hội, văn hóa, và lịch sử
không? Nếu đúng thế, làm sao chúng ta biết
được sự đồng thuận đó là biện
giải được? Nói cho cùng, chủ thuyết
Quốc xă (Nazism) và chủ thuyết chống người
Do thái Arab (anti-Semitism) cũng rút uy quyền của chúng
từ một sự đồng thuận xă hội.
Hoặc
có phải sự tuyển chọn tự nhiên theo thuyết
Vậy
làm sao người vô thần t́m thấy một biện
giải vững chắc về các giá trị đạo
đức? Vắng mặt Thiên Chúa, như Harris phỏng
đoán, chúng ta có thể rơi lại vào chỉ lư trí mà
thôi để giải thích các điều bó buộc chúng ta
là ǵ và tại sao chúng ta phải lưu ư đến chúng.
Thế nhưng, thậm chí tách rời khỏi sự
thơ ngây lịch sử của một đề nghị
như vậy, sự hữu lư này đơn giản
dẫn chúng ta quay lại một câu hỏi căn bản
hơn: tại sao chúng ta lại phải tín nhiệm vào các
năng lực lư trí của chúng ta? Nếu tâm trí con
người tiến hóa theo sự tuyển chọn
Nếu
có một chút chân lư nào ở nhận thức thần
học về thực tế, mặt khác, nó có thể
biện giải cách tao nhă vừa sự tín nhiệm chúng ta
có trong tâm trí chúng ta vừa cảm quan về sự đúng
đắn đàng sau sự phản kháng luân lư. Chúng ta có
thể tín nhiệm ḷng trông mong nhận thức v́ thậm
chí để hỏi một câu hỏi thích hợp, tâm trí
chúng ta đă phải ch́m đắm trong tính có thể
hiểu được vốn có của thực tế.
Trong một phương cách im lặng, tính có thể
hiểu được đem mạch lạc đến
với thiên nhiên mời gọi sự t́m hiểu của
chúng ta và mở tâm trí chúng ta ra để làm khoa học và
đảm nhận các h́nh thái khác về t́m hiểu. Và chúng
ta có thể tín nhiệm vào sự t́m kiếm của chúng ta
về nhận thức đúng tối hậu bởi v́ tâm
trí chúng ta đă bị bắt giữ bởi sự đúng
đắn vốn có trong sự vật, một sự
đúng đắn mà chúng ta không thể chiếm hữu nó
nhưng nó chiếm hữu chúng ta. Tương tự như
vậy, chúng ta có thể tín nhiệm cảm quan của chúng
ta về sự xúc phạm đến điều ác tối
hậu bởi v́ chúng ta đă bị nắm bắt bởi
một điều thiện mà không phải do tự chúng ta
làm ra, hoặc do genes của chúng ta, nhưng đó là mục
tiêu im lặng và khiêm tốn của tất cả phấn
đấu luân lư của chúng ta. Cứu cánh, Chân lư, và Sự
Thiện là tất cả tên gọi về chân trời
tối hậu và vô tận của Hiện thân (Being) trong
đó tâm trí chúng ta trước hết tỉnh thức và
các mong đợi của chúng ta về sự đúng
đắn bừng nở thành đức hạnh.
Tên mà
thần học đưa cho bối cảnh luôn luôn
hiện tại của tất cả sự hiện
hữu, tư duy, và hành động là “Thiên Chúa.” Và tên
gọi sự đầu hàng đầy tín nhiệm của
chúng ta với huyền nhiệm này được biết
đến như là “đức tin.” Đức tin, như
thần học sử dụng từ này, chẳng phải
là bước nhảy không lư lẽ cũng không phải là
“niềm tin không chứng cứ.” Đó là một chuyển
động mạo hiểm của tín nhiệm mở lư trí
ra đến không gian sống động thích đáng
của nó, nói rơ ra, chiều kích sâu thẳm không thể
cạn của Hiện thân, Cứu cánh, Chân lư, và Sự
Thiện. Đức tin không phải là thù địch
của lư trí mà là biên giới sắc bén của nó.
Đức tin là những ǵ giữ cho lư trí khỏi quay vào
trong chính nó và ngột ngạt trong chính sự khép kín của
nó. Đức tin là những ǵ mở tâm trí chúng ta ra với
chân trời vô tận trong đó lư trí đơn độc
có thể hít thở tự do và trong đó hành động có
thể lấy được phương hướng. Lư
trí đ̣i buộc một thế giới rộng răi hơn
nhiều so với thế giới mà chủ thuyết duy lư
hay chủ thuyết thiên nhiên khoa học đơn thuần
có thể cung cấp được. Không có sự quét
sạch mà đức tin làm ra, lư trí khô héo, và phẩm
hạnh không một lời mời gọi. Đức tin là
những ǵ đưa cho lư trí một tương lai, và cho
luân lư một ư nghĩa.
KHI CÁC TÔN GIÁO NÊN XẤU XA
(When Religions Go Bad)
Văn
chương của người vô thần mới tự nó
cung cấp lời chứng về sự trông mong con
người thông thường rằng đức tin vào
Thiên Chúa lẽ ra không nên xấu xa. Không có cách nào khác
để diễn dịch cú sốc, cảm quan về tai
tiếng, và sự kết án giận dữ mà các
người vô thần trút xuống trên đức tin vào
Thiên Chúa. Trừ phi họ nữa cũng trông mong chủ thuyết
hữu thần làm tốt hơn trong việc biến chúng
ta thành một chủng loại luân lư, họ có thể không
giận dữ đến thế.
Một
trong các khía cạnh nổi bật của chủ thuyết
vô thần mới là sự bác bỏ có tính luân lư cao của
nó các việc làm, chương tŕnh, và chính sách ác độc
thi hành dưới sự bảo trợ của tôn giáo và các
tổ chức của nó. Chỉ trích này cũng quan
trọng để nêu rơ sự giả h́nh làm cho những
người của đức tin không nhận thấy các
điều ác độc của chính các tôn giáo họ. Không
kể sự hẹp ḥi theo tính học giả của
chủ thuyết vô thần mới, tính một chiều, và
nhiều điều phóng đại của nó, nó không
phải hoàn toàn không có sự thực và giá trị. Sự
quan trọng của nó bao gồm trước tiên ở
chỗ nhắc nhở người đọc những ǵ
xẩy ra khi các tôn giáo tự xem ḿnh quá nghiêm chỉnh,
tự đặt ḿnh lên ngai thay thế cho huyền
nhiệm vô tận trong đó chúng lẽ ra kết nạp
chúng ta. Tôn giáo và thần học, trong tất cả sự
nghiệp con người, là hai thứ thiên về tự làm
thành tuyệt đối nhất—nói cách khác, thành tin quấy
thờ quá (idolatry7). Như nhà thần học Paul Tillich nói,
“Ư niệm rằng tâm trí con người là một nơi
sản xuất thường xuyên các điều quấy quá
là một trong các điều sâu thẳm nhất có thể
được nói về tư duy của chúng ta về Thiên
Chúa. Thậm chí thần học chính thống rất thông
thường không là ǵ cả ngoài tôn thờ quấy quá.”8
Các tôn giáo và các nền thần học, do đó, là hấp
dẫn nhất khi chúng đối mặt với, và
diễn đạt tâm thành sự hối hận về,
sự hư hại mà tội lỗi của chúng về
việc tự làm thành tuyệt đối đă rèn đúc
thành. Tin quấy thờ quá là những ǵ làm cho tôn giáo thành
xấu xa.
Thuốc
giải độc cho việc tin quấy thờ quá, tuy
nhiên, không phải là chủ thuyết vô thần mà là
đức tin. Nếu Đấng Tuyệt đối (the
Absolute) bị hạ bệ cách chính thức, như các
người vô thần mới có thể ưa chuộng,
xưởng tạo tin quấy thờ quá được
biết đến như là tâm hồn con người
sẽ không tự động đóng cửa. Thay vào đó
nó sẽ làm việc ngoài giờ để lấp đầy
chỗ trống với một điều ǵ có thể xoay
sở được, kể cả khoa học và lư trí. Khoa
học và lư trí cũng là các phương cách quan trọng cho
chân lư, nhưng chúng có lúc có thể được tôn
thờ sùng mộ cho đến nổi các ánh sáng chói
lọi của chúng làm mù mắt chúng ta vào các vùng sâu thẳm
hơn và tối tăm hơn của thực tế mà
chỉ có thể vươn tới qua các phương cách
không khoa học để nhận biết.9 Đức tin,
như chính Harris có lúc đến gần việc nhận ra,
quả
thực
trỗi sinh từ một khát vọng không bao giờ
thỏa măn, một khát vọng cần được
lấp đầy với một điều ǵ tương
xứng với đam mê về sự vô tận. Harris
cũng đúng khi ghi nhận rằng cái vực không đáy
này ở nơi cốt lơi của hiện thân chúng ta có
thể trở thành bị tắc nghẽn v́ gần như
bất cứ thể loại nội dung nào, kể cả
các tưởng tượng tôn giáo tàn phá nhất hoặc,
theo ngôn từ của Dawkins, ảo giác về Thiên Chúa.
Nhưng điều có thể phản kháng nhất không phải
là rằng không có “chứng cứ” nào cho các hư cấu
đó, như Harris than phiền. Điều đáng phản
kháng nhất—và thậm chí hư cấu sâu sắc hơn
Harris biết đến—là sự giả vờ của chúng
ta rằng nội dung mà chúng ta lấp nghẽn hố sâu của
tâm hồn chúng ta là luôn luôn xứng đáng cho chúng ta thờ
phượng. Và trên quan điểm này, người vô
thần không kém người hữu thần cần phải
xem xét những ǵ đă bắt giữ sự tín nhiệm
của họ và lấp đầy lỗ hổng trong tâm
hồn họ.
1
Alfred North Whitehead, Science and the Modern World (New York: Free
Press, 1967), 191
2
Sǿren Kierkegaard, The Sickness unto Death, Howard V. Hong và Edna
H. Hong dịch (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1983), 82
3
Nguyên văn: God comes off as “arguably the most unpleasant character in
all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving
control-freak; a vindictive, blood-thirsty ethnic cleanser; a misogynistic,
homophobic, racist, infanticidal, genocidal,
filicidal,
pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully” (nd)
4
Cũng xem Matt Ridley, The Origins of Virtue: Human Instincts and the
Evolution of Cooperation (New York: Penguin Books, 1998)
5 Xem
Robert Wright, The Moral Annimal: Evolutionary Psychology and Everyday Life (New
York: Pantheon Books, 1994).
6
Ridley, Origins of Virtue, 12
7
Idolatry: Thường dịch là tôn thờ thần
tượng. Tôi không dịch như vậy để
tránh hiểu lầm đến việc tôn thờ ảnh
tượng của các thần chúa hay Thiên Chúa (nd)
8 Paul
Tillich, A History of Christian Thought (New York: Simon & Schuster,
1969), 264.
9
Về triển khai rộng răi hơn của quan
điểm này, xin xem sách của tôi Is Nature Enough?
7
Thiên
Chúa có tính con người không?
(Is
God Personal?)
Nguồn
chính của các đối kháng ngày nay giữa lănh vực tôn
giáo và khoa học nằm ở quan
niệm
về Thiên Chúa có tính con người.
—Albert
Einstein1
Một
trong các trở ngại chính về niềm tin vào Thiên Chúa, ít
nữa với những người có học khoa học
ngày nay, là rằng Thiên Chúa thường được
nghĩ đến như là có tính con người. Thiên Chúa
có tính con người là một giáo huấn thiết yếu
của Kitô, Do thái, và Hồi giáo. Nhưng không phải
tất cả các tôn giáo truyền thống và các hệ
thống niềm tin đều dễ chịu trong việc
mặc cho thực tế tối hậu bộ áo thấp
kém của cảm giác, chăm sóc, phản ứng, yêu
thương, giận hờn, và vân vân. Theo Charles Darwin và
Albert Einstein, ư niệm về một Thiên Chúa có tính con
người có thể khó nuốt hơn bao giờ. Với
nhiều người theo thuyết tiến hóa, sự tàn
nhẫn ngấm ngầm trong khái niệm của
Vật
lư đă cung cấp sự cơ bản thông tuệ của
tính nghi ngờ khoa học về Thiên Chúa trong phần
lớn giai đoạn hiện đại, nhưng ngày nay
sinh học đă thay chỗ của nó. Tiến hóa đă
trở thành nền tảng khoa học cho chủ thuyết
vô thần mới đại diện bởi Richard Dawkins và
Daniel Dennett. Tất cả những ǵ khác châm ng̣i các lập
luận trí thức của họ chống lại
đức tin đều là thứ yếu. Harris và Hitchens,
về phần họ, đơn giản nhận việc
vạch trần đức tin theo thuyết
Dawkins,
giận dữ hơn Dennett, thêm rằng sinh học
Chính
các quan sát của
Cùng
lúc, ư niệm về một Thiên Chúa đáp ứng cũng
đă bị thách thức qua nhiều thế kỷ bởi
các diễn dịch có tính ảnh hưởng triết
học của vật lư. Việc loại bỏ của
Einstein về một Thiên Chúa có tính con người khó mà là
độc đáo v́ vật lư đă từ lâu có thể
loại trừ “giả thiết” đó. Einstein nói nhiều
về Thiên Chúa, và ông thậm chí c̣n nói về chính ông như
là một người “có tôn giáo.” Nhưng ông chỉ tự
xem là có tôn giáo đến chừng mực ông có một
cảm quan mạnh mẽ về huyền nhiệm vũ
trụ và một niềm tin nhiệt t́nh rằng chúng ta
cần tự cam kết với các giá trị vượt
quá con người. Ví dụ, ông tin chắc rằng ḷng sùng
mộ tôn giáo về chân lư là thiết yếu cho khoa học
tốt, là điều ông muốn nói khi ông nói khoa học
không tôn giáo là què quặt (science without religion is lame). Nhưng
không có cách nào ông đă ủng hộ đức tin hữu
thần. Một ḍng chữ của ông thường
được trích dẫn, “Thiên
Chúa không gieo may rủi với vũ trụ” (God does not play
at dice with the universe), đôi khi dẫn đến giả
định sai lầm rằng Einstein là một người
hữu thần cách nào đó, nhưng qua lời diễn
đạt không may mắn đó ông chỉ đơn
giản nêu lên niềm tin vững chắc của ông
rằng vũ trụ có luật lệ và có thể hiểu
được, dù cách nào chẳng phải đặt
nền tảng trên một Thiên Chúa có tính con người
đầy ḷng thương xót. Nếu luật vật lư là
hoàn toàn ổn định và không có tùy hứng, lúc đó có
thể chẳng có thần chúa nào có thể hành động
hay can thiệp một cách có thể quan niệm
được vào thế giới tự nhiên. Đó là lư do
tại sao, với Einstein, ư niệm về một Thiên Chúa
có tính con người là nguyên ủy chính của các
đối kháng giữa khoa học và tôn giáo.2 Các
người vô thần mới ủng hộ nhiệt t́nh
t́nh cảm này.
Hơn
nữa, đa số hiện thân con người có tính tôn
giáo cách này cách khác, và nhiều người vô thần
hiện nay đồng ư rằng “tâm linh” là lành mạnh.
Thậm chí Sam Harris, người phân vân liệu có ai đă
từng vững tin là một người vô thần như
chính ông, nghĩ rằng “tâm linh” trong phạm vi bối
cảnh một quan điểm chung thuần túy có tính thiên
nhiên là thiết yếu. Một vài người theo
thuyết tự nhiên khoa học cho phép rằng “huyền
nhiệm” về vũ trụ để ngỏ bởi khoa học
là cảm hứng đủ để khơi dậy
một thể loại tôn giáo của ḷng sùng mộ. Quả
thực, Einstein đă tự nghĩ về ông như là một
người có tôn giáo một phần bởi v́ việc
đánh giá cao của ông về “huyền nhiệm” bao trùm
vũ trụ, cách riêng huyền nhiệm về lư do tại
sao vũ trụ lại có thể hiểu được.
Bao lâu các chiều sâu chào đón của huyền nhiệm
động viên nhà khoa học tiếp tục đi trên con
đường khám phá, có thể không có đối kháng nào
của khoa học với tôn giáo thuần túy “thần bí”
(mystical). Nhiều nhà khoa học khác ngày nay cũng tự
nghĩ là có tôn giáo theo ư nghĩa không hữu thần này.
Sự im lặng bí ẩn của vũ trụ đủ
để làm đầy tâm hồn họ, và nó có thêm
lợi ích của việc dễ dàng ḥa giải với
vũ trụ đầy luật lệ, không có tính
người của vật lư.3
Einstein
nghĩ vũ trụ, nhằm trở thành thích hợp
với khoa học, phải trở thành không có tính
người—nghĩa là, dửng dưng với bất
cứ hành vi nào của sự can thiệp bởi một
Thiên Chúa có tính con người. Nếu vũ trụ mở
ra cho các hành động siêu nhiên không tiên đoán
được, các phép lạ, hoặc đáp ứng
với kinh nguyện của chúng ta, điều này sẽ đặt
giới hạn, và thậm chí xói ṃn, uy quyền tiên đoán
của khoa học. Gần đây nhà vật lư nổi
tiếng Steven Weinberg, được Dawkins trích dẫn
đồng ư, đă vọng lại các niềm tin của
Einstein về tính lănh đạm của vũ trụ. Ông
phỏng đoán vật lư có thể mấp máy khám phá
một “lư thuyết cuối cùng” sẽ mở ra các
chiều kích “nền tảng” của vũ trụ. Khi khoa học
vật lư đến tại nền tảng của mọi
hiện thân, ít có cơ hội hiện hữu rằng
dấu chân của một người Bạn siêu nhiên (a divine
Friend) sẽ có thể nh́n thấy được ở
đó.4 Tuy nhiên, Wienberg thất vọng v́ Einstein có ư
nguyện tự cho là một người tôn giáo, và Dawkins có
xu hướng đồng ư với Weinberg trên quan
điểm này. V́ tôn giáo trong văn hóa phương Tây
thường kéo theo niềm tin vào một Thiên Chúa ưa
thích, nó có thể dẫn lầm cho người vô
thần chấp nhận các từ ngữ ví như “Thiên
Chúa” và “tôn giáo.” Thay vào đó, người vô thần khoa
học nên chấp nhận rằng từ “tôn giáo” có ư
nghĩa với đa số người, ít nữa ở
phương Tây—nói rơ ra, niềm tin vào một hiện thân
phân biệt, con người, siêu việt, siêu nhiên,
được giao phó cho với sự thông minh, ư
nguyện, cảm xúc, chủ ư, và đáp ứng. Các
người vô thần cần trở nên bộc trực
hoàn toàn thế nào để không tự làm cho ḿnh xem ra ít
chống đối với tôn giáo hơn họ thực sự
là thế khi họ chối từ sự hiện hữu
của Thiên Chúa.5
Vậy,
theo Weinberg, chúng ta phải chối bỏ chủ thuyết
hữu thần không chỉ v́ các lư do theo thuyết
KHOA HỌC VÀ TÍNH CON NGƯỜI SIÊU NHIÊN
(Science and Divine Personality)
Theo
quan điểm của khoa học vật lư tẩy rửa
tính con người siêu nhiên ra khỏi các tầm mức
“căn bản” của thực tế vũ trụ, và xem xét
việc sinh học gạt bỏ theo thuyết
Trước
tiên, ngược với Dawkins và Weinberg, không phải khoa
học đă hất chỗ tính con người của Thiên
Chúa ra khỏi thiên nhiên. Đúng hơn, chính chủ
thuyết thiên nhiên khoa học đă làm thế. Người
thiên nhiên khoa học tin tưởng—v́ họ không thể
chứng minh—khoa học là phương cách đặc
quyền để gặp gỡ thế giới thực,
rằng chỉ chứng cứ có được cách khoa
học được tính, và rằng chỉ có nhận
thức và kiến thức khoa học có thể
được tín nhiệm. Nhưng v́ thế giới duy
nhất mà khoa học có thể nhận thức
được một cách có phương pháp là một
chuỗi đối thể, khách quan các thuộc tính
định số được, đó cũng chính là
thế giới duy nhất mà người thiên nhiên khoa
học nghiêm ngặt biết đến.
Chủ
thuyết thiên nhiên khoa học lăng quên khía cạnh chủ
thể của thiên nhiên, cách riêng chính kinh nghiệm nội
tại của chúng ta, như là không liên quan đến
nhận thức căn bản về vũ trụ. Harris có
nhiều trang về kinh nghiệm về tính chủ thể
(207-14), nhưng thảo luận của ông chỉ làm
vững chắc quan điểm của ông về một
thế giới trong đó các chủ thể không có hiện
hữu thực sự. Không những chỉ tính chủ
thể dấu kín khỏi việc t́m kiếm khách quan, “nó thực
sự biến mất khi t́m kiếm theo một
phương cách nghiêm ngặt” (214). Sự sợ hăi và ghê
tởm đức tin, ghê tởm “niềm tin không chứng
cứ,” của Harris là nhất quán với xu hướng
của chủ thuyết thiên nhiên khoa học bỏ ra ngoài bất
cứ thứ ǵ có tính chủ thể, thậm chí chính
sự thông minh phê phán của người ta, khỏi
trở thành một thành tố thiết yếu của
thế giới thực tế. Trong hệ thống niềm
tin có tính khoa học của Harris, đức tin có thể
bị bỏ qua bởi v́ nó bị dính vững chắc vào
với thế giới chủ thể, thế giới luôn
luôn che đậy khỏi ánh sáng huy hoàng của khoa học.
Như
tôi nh́n thấy, không có vấn đề ǵ với việc
công cụ phương pháp luận của khoa học
chỉ tập chú duy nhất vào lănh vực có tính
đối thể của hiện thân. Một phần
của phương pháp khoa học là để giới
hạn viễn ảnh và các tuyên bố của nó với
những ǵ “ở ngoài kia” một cách đối thể cho
ai cũng nh́n thấy. Vấn đề là rằng t́nh
trạng nhận thức về việc bị sững
sờ bởi các đối thể “ngoài kia” đă quá
sức trở thành một phần của các cảm quan trí
tuệ hiện đại mà sự cám dỗ nổi lên
để giả định rằng chẳng có ǵ ở
“trong đây” cả. Hoặc, nếu có, đó chính là một
lớp lưa thưa của mặt đáy của những
ǵ chỉ khả dĩ với sự xem xét kỹ
lưỡng có tính đối thể.
Sự
phiến diện phương pháp luận của tính
chủ thể và tính cá thể thích hợp cho nhận
thức khoa học, nhưng một phương pháp
đối thể hoàn toàn để nhận biết có các
hàm ư đạo đức tiêu cực mà các người vô
thần mới bỏ sót khi họ trách cứ đức
tin tôn giáo về hầu hết các điều ác của
thế giới. Nếu mọi thứ thực sự
hoặc xứng đáng được nói đến
đều là đối thể đến được
bằng phương pháp khoa học, th́ thế giới các
chủ thể và con người bắt đầu vuột
khỏi tầm nh́n thấy và cũng như khỏi bản
đồ của thực tế. Nếu cái búa là dụng
cụ duy nhất của quí vị, lúc đó mọi thứ
trông như là đinh; nếu làm thành đối thể là
công cụ nhận thức duy nhất của quí vị, lúc
đó mọi thứ trông như là đối thể.
Kết quả là toàn bộ ư niệm về “tính con
người” trở thành bị lưu đày khỏi lănh
vực của những ǵ các người thiên nhiên khoa
học xem xét cho là thực sự. Việc lưu đày này
bao gồm không chỉ con người trần thế, mà c̣n
tính chủ thể của mọi hiện thân tri giác khác, và
nếu được thi hành nhất quán, kể cả tính
con người của Thiên Chúa nữa.
Việc
làm mất tính con người của vũ trụ bằng
định đề tính đối thể—tuyên bố
rằng mọi thứ thực sự đều thuộc
về lănh vực của đối thể—đă quả
thực được hoàn thành trong tâm trí của các nhà
tư duy “khai sáng” từ trước
Ư NGHĨ CỦA VIỆC GIẢI THÍCH
(The Meaning of Explanation)
Nhận
xét phê phán thứ nh́ của tôi là rằng các người vô
thần mới, theo một xu hướng quen thuộc
với chủ thuyết thiên nhiên khoa học, đă bối
rối về việc giải thích một điều ǵ
đó nghĩa là ǵ. Làm sao vấn đề này liên quan
đến ư niệm về Thiên Chúa có tính con người mà
tôi thảo luận ở phần cuối của
chương này. Giờ đây, tôi muốn ghi nhận rằng
Dawkins và Dennett cho là đúng rằng, nếu sinh học có
thể giải thích luân lư và tôn giáo bằng các từ
ngữ tự nhiên, không có chỗ nào c̣n lại cho giải
thích thần học. Trong Phá vỡ lời nguyền Dennett
hàm ư rằng nếu sinh học
Giả
định này bỏ qua sự thực rằng nhiều
tầng nhận thức hoặc giải thích có thể
hiện hữu. Hầu hết mọi thứ trong kinh
nghiệm của chúng ta, nói cho cùng, đều nói lên tính
số nhiều của các tầm mức giải thích trong
đó nhiều tường tŕnh khác nhau không cạnh tranh
lẫn nhau. Ví dụ, một cách giải thích về trang
sách quí vị đang đọc là rằng một cái máy in
đă đóng dấu mực lên trên giấy trắng. Cách
khác là rằng tác giả nhằm đặt các ư niệm nào
đó qua đó. Vẫn c̣n cách giải thích khác là rằng
một nhà xuất bản đă yêu cầu tác giả
viết một trả lời phê phán chủ thuyết vô
thần mới.
Chú ư
rằng ba tầng đó tất cả đều giải
thích trang sách quí vị đang đọc, nhưng chúng không
cạnh tranh hay đối nghịch lẫn nhau. Chẳng có
nghĩa lư ǵ để lập luận, nói ví dụ,
rằng cái trang quí vị đang đọc có thể
được giải thích bằng máy in hơn là bằng
ư định của tác giả để viết về
điều ǵ. Cũng chẳng có ư nghĩa ǵ để nói
cái trang đó hiện hữu bởi v́ yêu cầu của nhà
xuất bản hơn là bởi v́ tác giả muốn ghi lại
vài ư niệm. Các tầm mức phân biệt rơ rệt
đều không cạnh tranh và phù hợp qua lại với
nhau.
V́
thế chúng ta không cần phải đồng ư với các
người vô thần mới rằng chính v́ tiến hóa,
hoặc bất cứ cách giải thích tự nhiên nào khác,
hơn là bởi cảm hứng siêu nhiên, mà luân lư và tôn giáo
hiện hữu. Chỉ v́ tôn giáo và luân lư có một cách
giải thích tự nhiên, thần kinh, tâm lư học, hoặc
tiến hóa, điều đó không tiếp theo rằng cách
giải thích thần học là hời hợt. Thậm chí
nếu tôn giáo và luân lư đă là thích ứng—nói giả
dụ, trong ư nghĩa tiến hóa của việc giúp cho
sự sống sót của genes con người—thần
học không nhất thiết phải sai lầm khi tuyên
bố đồng thời rằng tôn giáo và luân lư hiện
hữu v́ một lời mời gọi siêu nhiên im lặng
cho từng ư thức con người để vươn
lên vượt qua chính bản thân hướng về
một chân trời vô tận của Cứu cánh, Chân lư,
Sự Thiện, và Vẻ Đẹp. Một cách giải
thích như vậy chẳng một tí ǵ cạnh tranh với
hoặc loại ra ngoài các tường thuật tiến hóa
và khoa học khác về tôn giáo và luân lư. Quí vị chẳng
c̣n phải chọn lựa giữa tiến hóa và cảm
hứng siêu nhiên không khác ǵ quí vị phải chọn
lựa giữa máy in và ư hướng của tác giả khi
giải thích trang sách quí vị đang đọc.
Ngược
lại, người của đức tin sẽ sai lầm
khi tuyên bố rằng tôn giáo và luân lư hiện hữu chỉ
v́ niềm tin siêu nhiên hơn là v́ sự tiến hóa. Trang sách
quí vị đang đọc hiện hữu v́ máy in, v́ ư
hướng của tác giả, và v́ lời yêu cầu của
nhà xuất bản. Trong thang bậc giải thích đó,
nhiều tầm mức đồng hiện hữu mà không
đối nghịch lẫn nhau. Cũng vậy, người
ta có thể duy tŕ cách hợp logic, tất cả cùng lúc,
rằng luân lư và tôn giáo hiện hữu v́ chúng đă thích
ứng theo sinh học, v́ người ta đang đáp
ứng với lời mời gọi siêu nhiên, và v́ một
số con người và cộng đoàn trần thế kinh
qua một “Đấng” có tính con người thần thiêng
(a divine personal “Thou”) nói với họ từ một
chiều kích của sự sâu thẳm trong đó khoa học
không đến được.
Như
các người thiên nhiên khoa học khác, các người vô
thần mới đau đớn v́ một trường
hợp kém cỏi của chủ thuyết một nguồn
duy nhất (monism7). Có nghĩa là, họ giả định
rằng chỉ có một lối giải thích duy nhất
khả dĩ, nói rơ ra, lối giải thích h́nh thành
để t́m kiếm các nguyên ủy vật lư, và chỉ
thế là đủ. Chủ thuyết khoa học đă co
rút quan điểm của họ thành c̣n một điểm
nơi chỉ c̣n lại một khe hở hẹp ḥi
để nh́n qua đó sự phức tạp của
thế giới thực tại.
Khía
cạnh chủ thể, ư hướng, con người
của thực tế vẫn hoàn toàn ngoài tầm nh́n
của nó. Hậu quả là, khi các người vô thần
mới khảo sát các hiện tượng rối tơ ṿ
như tôn giáo và luân lư, họ hoàn toàn thỏa măn nếu
họ cắt giảm cách giải thích của họ
xuống c̣n thuần túy các từ ngữ vật lư hoặc
sinh học. Kết quả là cũng được sáng
tỏ như điều tôi nói với quí vị,
người đọc, rằng nhằm nhận thức
về trang sách này, chỉ đă đủ để
biết nó đến từ một máy in. Nói cho cùng, chẳng
phải dao cạo Occam nói rơ rằng chẳng ích ǵ t́m
kiềm các cách giải thích sâu sắc nếu một cách
đơn giản khả dĩ sao?
Dao
cạo Occam là một trong các công cụ ưa thích của
Hitchens (68-71), nhưng cũng như các cơ chế khác mà ông
h́nh như chỉ mới khám phá ra gần đây (ví như
lư thuyết dự phóng [projection theory] về tôn giáo),
việc ông sử dụng nó đủ kềnh càng
để trở thành hiểm nghèo. Thế th́, tôi tin
rằng đây là một vị trí tốt hơn bất
cứ vị trí nào khác để nhận xét về
phương cách ông và Dawkins sử dụng dao cạo Occam
để chẻ thế giới thành các mảnh nhỏ có
thể xoay sở được. Dao cạo Occam,
đặt tên theo William of Occam, một tu sĩ và triết
gia cuối thời trung cổ, nói rằng nếu có nhiều
cách giải thích cạnh tranh lẫn nhau khả dĩ, chúng
ta nên chọn cách đơn giản nhất. Cũng
được biết đến như là luật
tiện tặn (the law of parsimony), nguyên lư đó khuyên chúng ta
rằng khi chúng ta đang cố gắng chọn lựa
giữa các giả thiết cạnh tranh nhau, chính là một
luật kinh nghiệm tốt (a good rule of thumb) để
chọn giả thiết nào đưa ra ít giả định
nhất, điều h́nh như là một lời khuyên
tốt. Thế th́, Hitchens và Dawkins hỏi, tại sao chúng ta
phải t́m kiếm cách giải thích thần học nếu
một cách giải thích tự nhiên (tiến hóa) về luân
lư và tôn giáo giờ đây đă khả dĩ?
Tất
cả các người vô thần mới đều lư
luận theo cách này. Tuy nhiên, tường thuật tiến
hóa và thần học nằm ở các tầm mức khác nhau
về logic, và từ đó chúng không cạnh tranh lẫn
nhau. Vậy th́ dao cạo Occam không áp dụng.
Nếu,
như Dawkins và Hitchens, quí vị thích xử lư mọi
vấn đề bằng chủ thuyết một nguồn
để giải thích, lúc đó chỉ một vị trí
nguyên ủy là khả dĩ, và trong trường hợp
đó quí vị phải quyết định giữa khoa
học tiến hóa và thần học.
Theo
đó, chủ thuyết vô thần mới khuyên quí vị
chọn cách giải thích tự nhiên hơn là cách giải
thích thần học nếu quí vị muốn nhận
thức đầy đủ luân lư và tôn giáo. Nhưng
điều đó cũng xuẩn ngốc như
được khuyên chọn lựa máy in hơn là ư
hướng của tác giả hoặc yêu cầu của nhà
xuất bản như là cách giải thích cho trang sách quí vị
đang đọc.
Hiển
nhiên nhằm nhận thức trang sách này, quí vị đă
phải giả định có nhiều tầm mức khác
nhau về cách giải thích khả dĩ, nhưng các tầm
mức đó bổ túc hơn là cạnh tranh lẫn nhau.
Cũng thế với tiến hóa và thần học.8
Hitchens
dùng dao cạo Occam để chọn lựa giữa cách
giải thích thần học về tôn giáo và cách giải
thích tự nhiên không được nguyên thủy như
thế của ông rằng tôn giáo là “do người làm ra.”
Ông đơn giản giả định sự hiện
diện của việc tùy chọn bị ép buộc ở
đây. Nhưng sự kiện rằng các yếu tố sinh
học và tâm lư học đă dính líu vào sự bắt
đầu của tôn giáo không loại bỏ khả dĩ
rằng tôn giáo được thức tỉnh bởi
sự hiện diện của Thiên Chúa, một sự
hiện diện mà phương pháp khoa học không quan tâm
đến, nhưng điều đó có thể
được kinh nghiệm trong các phương cách khác
bởi những ai được bố trí thích hợp.
Trong đáp ứng của đức tin với sự
hiện diện và hấp dẫn yêu thương của Thiên
Chúa, hóa chất bộ năo, trí tưởng tượng, tính
sáng tạo, tính thuộc về xă hội, kinh nghiệm quá
khứ của khuôn mặt cha mẹ và các người khác,
cuộc sống t́nh cảm, nhu cầu được yêu
thương, và nhiều dạng thành tố tâm linh của người
tin không bị đẩy ra ngoài nhưng thay vào đó
được khởi động đầy đủ.
Đức
tin hữu thần không thể làm cho ư niệm về
một Thiên Chúa có tính con người thành tùy chọn.
Thực tế cuối cùng, chiều kích sâu thẳm nhất
của hiện thân, không thể ít hơn là có tính con
người nếu nó phải chỉ đạo sự tôn
kính và thờ phượng của chúng ta. Một
điều kiện cần thiết cho việc gặp
gỡ Thiên Chúa của chúng ta là chúng ta đă có sẵn kinh
nghiệm tự nhiên đầy đủ về cuộc
sống tương giao giữa người và
người. Kinh nghiệm về thực tế tối
hậu chỉ như là một cái “Nó” không tính người
(an impersonal “It”) hơn cũng là một “Đấng” có tính
người (a personal “Thou”) sẽ làm cho người tin vào
Thiên Chúa không thỏa măn về tâm linh, xă hội, và tôn giáo.
Theo một ư nghĩa, Thiên Chúa là tối hậu trong Hiện
thân, Cứu cánh, Sự Thiện, và Vẻ Đẹp,
nhưng trừ phi các tuyệt đối không tính
người đó được làm sống động
bởi nhịp đập của tính người
(personality), chúng không thể hấp dẫn hiện thân con
người ở tầm mức sâu thẳm nhất
của sự hiện hữu của chúng ta.
DAWKINS VÀ CÁCH GIẢI THÍCH
(Dawkins and Explanation)
Cuối
cùng, đây cũng là một vị trí tốt để cho
thấy làm sao chủ thuyết một nguồn giải
thích của Dawkins làm lệch đáp ứng của ông
về vấn đề Thiên Chúa và thiết kế trong thiên
nhiên. Câu hỏi lớn với Dawkins cũng chính là câu
hỏi mà người hữu thần thiết kế thông
minh (TKTM) (intelligent design—ID) đang cố gắng trả
lời: làm sao để giải thích sự phức tạp
và đa dạng khó tin trong sinh vật và tế bào sống
động. Với các người chủ trương
TKTM, sự phức tạp của sự sống là quá
phức tạp để gán cho các nguyên ủy tự nhiên
mà thôi. Phải có một “nguyên ủy thông minh” (intelligent
cause), một “trí thông minh bậc thầy” (master intelligence) thực
hiện phép lạ đưa sự phức tạp về
sự sống thành các h́nh thái hiện hữu bên ngoài sự
đơn giản vật lư và hóa học.9 Vậy vấn
đề vừa với Dawkins vừa với các người
chủ trương TKTM hạ xuống c̣n liệu chúng ta
nên chọn các cách giải thích tự nhiên về sự
phức tạp thường t́nh của sự sống thay
cho các cách giải thích thần học, hoặc ngược
lại.
Dawkins,
tin theo nhận thức sai lầm về dao cạo Occam, t́m
thấy câu trả lời thực dễ dàng: chọn
giả thiết đơn giản nhất, giả
thiết đưa ra ít giả định nhất. Đó
sẽ là tường thuật theo thiên nhiên, thuyết
Nhưng
hăy để chúng ta cầu cứu đến sự
tương đồng một lần nữa. Với
những ai không biết đọc chữ, tất cả
những ǵ cần để giải thích sự hiện
hữu của trang sách này là nhận biết rằng
một máy in đă là nguyên ủy của nó. Tại sao làm cho
phức tạp sự trang nhă đơn giản của cách
giải thích đó bằng cách học để đọc
chữ và rồi đưa đến sự kiện
rằng một tác giả đang cố gắng diễn
đạt một ư nghĩa trên trang sách này, và rằng nhà
xuất bản thậm chí có một mục đích rộng
răi hơn trong tâm trí? Quả thực, những ǵ Dawkins
đang đ̣i hỏi là rằng người đọc
của ông chọn lựa cách giải thích cái máy in v́ nó
đơn giản và tiện tặn hơn cách giải thích
tác giả (hay cách giải thích nhà xuất bản). Nhưng
những ǵ Dawkins bỏ qua là rằng đây không phải là
các cách giải thích cạnh tranh và rằng dao cạo Occam
chỉ áp dụng cho các tường thuật cạnh tranh.
Hơn nữa, William of Occam đă nói rằng các giải
thích không nên chồng chất quá mức cần thiết.
Đôi khi cần thiết phải có một đa số các
tầm mức giải thích.
Lư
tưởng của Dawkins về các cách giải thích
khởi đầu với một lệnh truyền không
bảo đảm: Không được có hơn một cách
giải thích! (There shall be no more than one explanatory slot!)10 Lúc
đó, ông cố gắng ép buộc ư niệm về Thiên Chúa
đóng vai tṛ một giả thiết y như các giả
thiết của khoa học. Phương cách đó ông
nghĩ có thể ép buộc thần học cạnh tranh và
rồi bị đánh bại bởi các giải thích theo
Nếu
quí vị là mù chữ và từ đó không thể đọc
được ư nghĩa có thể được diễn
đạt bằng bản in, thật hoàn toàn dễ dàng
để thuyết phục quí vị rằng ư
hướng của tác giả và nhà xuất bản không
phải là một thành tố nguyên ủy trong việc
sản xuất trang sách này. Khi quí vị khảo sát làm sao
mực dính vào giấy, quí vị sẽ không t́m thấy
ở tầm mức đó của sự phân tích một
chứng cứ nào rằng có các tầm mức nền
tảng và tinh tế hơn về ảnh hưởng có
liên hệ đến. Tương tự, nếu một ai
đó mù chữ về tôn giáo hoặc thần học, và
không có một chút khả năng nào để t́m kiếm
các ư nghĩa sâu sắc hơn của thế giới tự
nhiên, thật dễ dàng để từ chối rằng
sự phức tạp của sự sống đ̣i buộc
một điều ǵ hơn là cách giải thích theo
Một
lần nữa ở đây, h́nh như
Để
giữ vững định đề của ông về
chủ thuyết một nguồn giải thích, Dawkins (147)
cũng nêu lên sự phản kháng giả tạo rằng
nếu các nhà thần học sẽ sử dụng Thiên Chúa
như là cách giải thích về tính phức tạp của
sự sống, lúc đó họ sẽ phải tiến
đến bước kế tiếp và giải thích sự
hiện hữu và tính “phức tạp” của Thiên Chúa
(bất cứ “phức tạp” có thể có ư nghĩa
như là một thuộc tính của Thiên Chúa). Dawkins
nhấn mạnh, giả thiết Thiên Chúa đưa ra quá
nhiều giả định ban đầu, cách riêng giả
định rằng đă hiện hữu sẵn một
vị Thiết kế (Designer) thông minh tuyệt mức
phức tạp, có tính con người tên là Thiên Chúa,
người có thể lúc đó tạo dựng ngay lập
tức thiết kế phức tạp trong các tế bào và
sinh vật. Lúc đó, làm sao các nhà thần học có thể
giải thích sự hiện hữu của Thiên Chúa đó
(147)?
Tôi
không đủ chỗ ở đây để phơi bày
tất cả mọi giả định đă trở thành
khởi đầu của câu hỏi này. Chúng ta chỉ nói rằng
Dawkins h́nh như vui ḷng lắng nghe các nhà thần học,
với điều kiện chúng ta trước tiên
đồng ư với ông ấy rằng: (1) Thiên Chúa, nếu
Thiên Chúa hiện hữu, là một trường hợp
của thiết kế phức tạp; và (2) giống
như bất cứ trường hợp nào khác của
thiết kế, sự hiện hữu của Thiên Chúa
đ̣i buộc một cách giải thích, ví như cách
giải thích theo
Dĩ
nhiên, Dawkins tự do muốn định nghĩa các từ
ngữ cách nào cũng được theo ư ông muốn,
nhưng thần học không buộc phải chấp
nhận việc đặc tính hóa của ông về Thiên
Chúa. Thiên Chúa của thần học không phải là một trường
hợp của thiết kế phức tạp trong ư
nghĩa của Dawkins về một hỗn hợp
đặt để lại với nhau từ các thành
tố đơn giản hơn qua tiến tŕnh thời
gian. Đúng hơn, Thiên Chúa là lư do tối hậu để
có khả năng về bất cứ sự phức
tạp nào nếu có. Với Dawkins, nền tảng cuối
cùng của thiết kế phức tạp là tính
đơn giản vật lư cộng thời gian cộng
sự thay đổi dần dần tích lũy thêm, và
khát vọng của ông về một giải thích tối
hậu đi đến một lối tắc nghẽn
trong công thức theo
Những
ǵ Dawkins đ̣i hỏi là rằng thần học
đồng ư từ bỏ nhận thức không thời gian
về Thiên Chúa như là “nền tảng tối hậu
của mọi hiện thân” và thay thế nhận thức
đó bằng một điều trong đó Thiên Chúa—nếu
Thiên Chúa hiện hữu—cần một giải thích cũng
chỉ như mọi trường hợp khác về
thiết kế phức tạp. Nghĩa là, Thiên Chúa sẽ
phải đến trong hiện hữu dần dần
từ một sự đơn giản ban đầu.
Ở đây Dawkins lại một lần nữa đang
giả định rằng chỉ có một cách giải
thích duy nhất khả dĩ, cùng một cách mà các nhà khoa
học làm đầy với các tường thuật
thuần túy vật lư của các kết quả thực
nghiệm. Vậy Thiên Chúa phải chơi theo luật
lệ của Dawkins và trở thành kết quả của
một tiến tŕnh vật lư giả thiết đă có
trước sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không
cần phải nói, thần học không phải chấp
nhận định đề của chủ thuyết
một nguồn giải thích đó.
***
Thảo
luận này có liên quan đến câu hỏi liệu Thiên Chúa
có tính người hay không? Có, v́ nó cho thấy rằng Einstein,
khi ông ngăn Thiên Chúa không cho có tính người, đă
phạm cùng một sai lầm Dawkins vi phạm về
việc định vị nơi nào cho giải thích
thần học trong tương quan với khoa học.
Như hầu hết các nhà thiên nhiên khoa học khác, Einstein sợ
rằng một Thiên Chúa đáp ứng có thể hành
động trên thế giới chỉ bằng cách xâm
phạm vào chuỗi tự nhiên của nguyên ủy và từ
đó khuấy trộn tính đầy luật lệ
của thực tế vật lư. Nhưng sự khôn ngoan, yêu
thương, và đáp ứng có tính người của
Thiên Chúa không cạnh tranh với các nguyên ủy vật lư
hơn là yêu cầu của nhà xuất bản của tôi
về việc viết sách này can thiệp vào luật lệ
hóa học dính chặt mực lên giấy trên trang sách quí
vị đang đọc. Tính chỉ định vật lư,
hoặc tính đầy luật lệ, của các tầm
mức thấp hơn của thang bậc các cách giải thích
không cần phải bị đ́nh chỉ để vũ
trụ chịu ảnh hưởng của một Thiên Chúa
có tính con người.
1
Albert Einstein, Ideas and Opinions (New York: Bonanza Books, 1954), 11.
2
Như trên
3 Ví
dụ, Ursula Goodenough, The Sacred Depths of Nature (New York:
Oxford University Press, 1998); Chet Raymo, Skeptics and True Believers: The
Exhilarating Connection Between Science and Religion (New York: Walker
& Co., 1998).
4
Steven Weinberg, Dreams of a Final Theory: The Search for the Fundamental
Laws of Nature (New York: Pantheon Books, 1992), 245.
5
Như trên, 241-61.
6
Như trên, 256.
7
Monism: Chủ thuyết cho rằng chi có một nguyên lư,
hoặc cho rằng thực tế chỉ có một toàn
bộ cơ quan không có phần phụ thuộc (nd)
8
Ở đây tôi giới thiệu với người
đọc các sách của tôi về tiến hóa và thần
học: God after Darwin và Deeper Than
9
Percival Davis và Dean H. Kenyon, Of Pandas and People: The Central Question
of Biological Origins, in lần thứ 2, (Dallas: Haughton
Publishing Co., 1993).
10 Xem
Ulicia Segerstrale, Defenders of the Truth: The
8
Thần
học Kitô giáo và chủ thuyết vô thần mới
(Christian
Theology and the New Atheism)
Lịch sử Kitô giáo chủ yếu là câu
chuyện về khốn khổ và ngu dốt của loài
người hơn là t́nh yêu đ̣i buộc của nó về
Thiên Chúa.
—Sam Harris (106)
Thực ngu xuẩn khác thường biết
chừng nào khi phải bảo vệ Kitô giáo…. Bảo
vệ điều ǵ đều luôn luôn để mất
ḷng kính trọng nó.
—Sǿren Kierkegaard[1]
Quan điểm của thần học Kitô giáo,
Giáo hoàng Gioan Phaolô viết trong tông thư Fides et Ratio[2],
là để khai phá huyền nhiệm về t́nh yêu
thương tự cho đi hết (self-emptying love) của
Thiên Chúa. “Cam kết cơ bản của thần học là nhận
thức về kenosis[3]
(tự cho đi hết) của Thiên Chúa, một chân lư
vĩ đại và huyền nhiệm với tâm trí con
người, tâm trí nhận ra không thể quan niệm
được rằng đau khổ và cái chết có
thể diễn đạt một t́nh yêu thương
tự cho đi và không t́m kiếm điều ǵ đáp
trả.”[4]
Bản thân không cơ bản về thần học, Gioan
Phaolô diễn đạt nơi đây những ǵ vô số nhà
tư duy Kitô giáo giờ đây đồng ư là thông
điệp cơ bản của đức tin Kitô giáo. Thiên
Chúa mà Kitô hữu trở thành biểu hiện trong
Đức Giêsu Nazareth là t́nh yêu dễ bị xúc phạm,
không bảo vệ, cùng một thứ t́nh yêu mà Kitô hữu tuyên
xưng là môi trường, nền tảng, và vận
mệnh của mọi hiện thân.
Theo lời khuyên của Kierkegaard, tuy nhiên, trong
chương cuối cùng này, tôi không cố gắng bảo
vệ nhận thức Kitô giáo này về Thiên Chúa chống
lại sự tấn công của các người vô thần
mới. Nó không cần sự bảo vệ v́ nó chẳng bao
giờ đến được với luận chiến
của họ. Hơn nữa, nhiều chuyện lạm
dụng vi phạm nhân danh kẻ chuyên quyền tự cho
ḿnh là trung tâm—Dawkins có thể gọi đó là “con quái
vật”—thường được dùng thay cho Thiên Chúa
của Kitô giáo cũng chẳng xứng đáng
được bảo vệ. Về phần sự
hiện hữu của t́nh yêu tự cho đi hết mà Kitô
hữu gọi là Thiên Chúa được quan tâm đến,
chẳng có ǵ trong các sách của Dawkins, Harris, và Hitchens có
thể được gọi là một khiêu khích nghiêm
chỉnh về thần học. Buồn thay, sự sâu
sắc của thần học đă xẩy ra trong các
cuộc tṛ chuyện trước đây giữa các
người vô thần nghiêm chỉnh và các nhà tư duy Kitô
giáo ít có cơ may xẩy ra ở đây. Tôi đang nghĩ
đến làm sao thần học của Paul Tillich
được sâu sắc thêm bởi việc ông tiếp xúc
với các tác phẩm của Friedrich Nietsche và chủ
thuyết hiện sinh vô thần; của Karl Barth với
Ludwig Geuerbach; của Karl Rahner và Rudolf Bultmann với Martin
Heidegger, của Jürgen Moltmann với Ernst Bloch; của Gustavo
Butiérrez với Karl Marx; và của nhiều nhà thần
học đương thời với Jacques Derrida, Jacques
Lacan, và Jürgen Habernas. Ít nữa các người vô thần
trong bản liệt kê này có đủ nhận thức
về thần học để làm cho cuộc tṛ chuyện
hấp dẫn và có lợi. Ngược lại rơ rệt,
tầm mức khả năng suy xét thần học của
các người vô thần mới quá nông cạn và không chính
xác thậm chí để bắt đầu một cuộc
tṛ chuyện như vậy.
Những ǵ có thể xứng đáng sự chú ư
về thần học, tuy nhiên, là chủ thuyết toàn bích
về luân lư (moral perfectionism) đang khơi động
chủ thuyết vô thần mới và làm cho nó thành hấp
dẫn đến thế với một số môn
đồ của nó. Sự phẫn nộ tự tâm hồn
của Sam Harris chống Kitô giáo, như được
diễn đạt qua trích dẫn bên trên, là tiêu biểu cho
sự chỉ trích nặng nề của các người vô
thần mới về các đức tin hữu thần v́
sự thất bại của chúng trong việc làm thành
hiện thực chính các lư tưởng đạo
đức của chúng. Chắc chắn khó cho người
đọc không thiên vị đồng ư rằng các người
sùng mộ các đức tin hữu thần thường
thất bại thảm hại trong việc thực hành
những ǵ họ rao giảng. Trong các tội lỗi to
lớn về quên sót và phận vụ bởi các thành viên,
các tôn giáo Abraham không chối căi được đáng
bị cơn giận dữ chánh đáng của sự chính
trực. Không thiếu vắng sự chính trực với
bộ ba mà chúng ta đă lắng nghe trong các chương
trước.
Việc khiển trách sự lạm dụng và
tầm thường tôn giáo, tuy nhiên, đă là một nguyên
cớ chính trong các tiếng nói tiên tri quấy rầy
lương tâm của các công dân
V́ thế thực là kinh ngạc, không như
nhiều người vô thần nghiêm chỉnh trong quá
khứ, chẳng một ai trong các tác giả chúng ta đă
khảo sát, h́nh như mơ hồ biết đến
truyền thống tiên tri đó, cốt lơi luân lư của Do
thái và Kitô giáo.[5]
Ngược với nhiều va chạm vô thần
trước đây với Kitô giáo, chủ đề công
b́nh xă hội khó có thể nhận ra được là một
vấn đề với Dawkins, Harris, và Hitchens. Dawkins
quả thực đă đưa ra một gật
đầu nhẹ nhàng với một trong các khuôn mặt
tiên tri nhất của thời đại chúng ta, Martin Luther
King Jr. Nhưng ông nhấn mạnh rằng thông điệp
của King là “ngẫu nhiên” (incidental) với Kitô giáo của
ông ấy (271). Hitchens cũng cảm thấy bó buộc
phải đề cập đến King, nhưng tuyên
bố di sản của King “chẳng dính líu ǵ mấy
đến thần học ông rao giảng” (180). Chẳng có
ai trong các người chỉ trích cho thấy dấu
hiệu nào chứng tỏ họ đă đọc “Thư
từ nhà tù
Đức Giêsu không phải là một
người cực đoan về yêu thương hay sao:
“Hăy yêu thương kẻ thù của quí vị, chúc lành cho
những ai chửi rủa quí vị, làm điều
thiện cho những ai ghét quí vị, và cầu nguyện cho
những ai bất chấp lợi dụng quí vị, và
bắt bớ quí vị.” Amos đă không phải là một
người cực đoan về công b́nh hay sao: “Hăy để
công b́nh tuôn đổ xuống như nước nguồn
và công chính như một ḍng suối luôn luôn tuôn chảy.”
Chẳng phải Phaolô là một người cực đoan
về phúc âm Kitô giáo hay sao: “Tôi mang trong thân thể tôi các
dấu chứng của Chúa Giêsu.”[6]
Sự hiểu sai cố t́nh này về King cung
cấp một ví dụ chính yếu về tầm mức
trong đó chủ thuyết vô thần mới sẽ đi
đến trong việc mơ hồ phác họa đức
tin Kinh thánh như là điều ác. Nếu họ đă liên
kết King với truyền thống tiên tri, họ đă
công nhận Kinh thánh với nhiều điều thiện
đạo đức hơn họ nghĩ nó đáng có. Vô
t́nh, trong khi Dawkins vất vả thanh luyện King khỏi
ảnh hưởng lan truyền của Kinh thánh bằng
cách liên hệ ông ấy với Mohandas K. Gandhi—người,
chúng ta đă biết, không phải là Kitô hữu (271)—Hitchens
lại bận rộn không tín nhiệm Gandhi v́ liên kết
thông điệp của ông về việc giải phóng quá
gần gủi với đức tin bất cứ thể
loại nào (184). Cả hai tác giả đều khẳng
định King có thể đă là một người
giải phóng xă hội hữu hiệu hơn nếu ông
ấy đă không bị dính líu đến Kitô
giáo và Kinh thánh của nó.
GIÁO THUYẾT THANH GIÁO
(Puritanism)
Quan tâm đến các vấn đề như công
b́nh xă hội và trách nhiệm môi trường không quan
trọng trong chỉ trích của các người vô thần
mới về Kitô giáo, như các vấn đề đó
đă là quan tâm của các người vô thần khác. Hơn
nữa, cũng chính nhân danh luân lư mà ba người toàn bích
không thần chúa của chúng ta gửi đến các tia
chớp mănh liệt nhất. Sự thực, theo quan
điểm thần học Kitô giáo, những ǵ nổi
bật trên mọi thứ khác trong chủ thuyết vô
thần mới là chủ thuyết thanh giáo nhận thức
và đạo đức của nó. Các người
đề xuất chủ thuyết này tin tưởng
họ đă không bị cản trở đi đến được
chân lư và chính trực đạo đức cho đến nổi
giờ đây họ có thể chia cách hoàn toàn với sự
không tinh khiết trí tuệ và luân lư của các hiện thân
con người què quặt đức tin tính đến
điểm này. Quả thực họ tuyên bố cuối
cùng đă giải thoát tính hợp lẽ và năng lực
bẩm sinh của chúng ta khỏi hàng thế kỷ nô
lệ vào văn chương xưa cũ và sự điên
dại của Thời đại đồ sắt của
các tôn giáo Abraham. Về thông tuệ, chủ thuyết Thanh
giáo vô thần mới mang h́nh thái một chủ thuyết
khoa học không khoan nhượng làm vệ sinh tâm trí chúng ta
bằng cách tẩy sạch bụi bặm về đức
tin.
Về đạo đức, cũng một
nổi ám ảnh thanh giáo đó tự tuyên xưng bằng
một hứa hẹn kiềm hăm luân lư kể từ đây
vào một tính hợp lẽ được tẩy sạch
bằng khoa học khỏi mọi ràng buộc với tôn
giáo.
Lố bịch thay, các người đề cao
chủ thuyết Thanh giáo mới h́nh như chẳng hề
biết rằng chính chương tŕnh toàn bích của họ
đă khó tự thanh luyện khỏi sự lớn mạnh
hoang tưởng hai nguồn[7]
xưa đă có hàng thế kỷ trước Kitô giáo. Các
người vô thần mới không phải là các
người sành điệu đầu tiên đă hứa
hẹn sự cứu độ thuần túy bằng
kiến thức, và sự vắng bóng bất cứ ư
nghĩa nào của nghịch lư, lố bịch, khoan
nhượng, và mơ hồ trong các chỉ dạy của
họ là hiện tượng của cơn cám dỗ con
người kiên tŕ để trở thành bị ám ảnh
bởi sự thuần khiết nhận thức và
đạo đức bằng vào sự thiệt hại
của sắc thái và phức tạp.
Sự ám ảnh này tự nó thoát thai từ
cảm quan về sự tách ĺa đưa ra bởi thần
thoại hai nguồn—có người sẽ cho là “Kiến
thức thần thoại” (Gnostic[8])—không
bao giờ thực sự được thanh lọc trong
tư duy phương Tây. Tôi có thể gợi ư, do đó,
rằng cội rễ văn hóa của sự ghê tởm vô
thần mới với đức tin Kinh thánh nằm không
chỉ trong sự căng thẳng khoa bảng không phê phán
của chủ thuyết khoa học c̣n trong cùng một xu
hướng hai nguồn xưa cũ vẫn tồn tại
cách vô ư thức trong viễn ảnh thanh giáo về thực
tế.[9]
Như nhà triết học vĩ đại Paul Ricoeur đă
cho thấy, viễn ảnh thanh giáo này quay lại với
các thần thoại xưa cũ đă chia cách linh hồn
(và về sau “tâm trí”) hoàn toàn ra khỏi vật chất và tính
có thể xác, một viễn ảnh mà Kitô giáo từ
khước ngay từ ban đầu, nhưng đến
nay hiển nhiên vẫn không hoàn toàn thành công.[10]
Chủ thuyết thanh giáo vô thần mới
được bày tỏ rơ ràng nhất trong việc lên án
luân lư Kinh thánh là thánh đối với người Do thái,
Kitô giáo và Hồi giáo. Các sách được khẳng
định là “thánh” đó, theo các người toàn bích
mới của chúng ta, bị ô nhiễm trong ít nhất
bốn phương cách: thứ nhất, bởi sự
kiện đơn giản của tính cổ xưa của
chúng; thứ nh́, bởi sự thất bại của chúng
trong việc cung cấp kiến thức thực sự
(nghĩa là, khoa học); thứ ba, bởi sự khoan nhượng
của chúng với các nguyên tắc phẩm hạnh và vai tṛ
khuôn mẫu không đáp ứng các tiêu chuẩn của các
người vô thần mới về sự chính trực; và
thứ tư, bởi việc chúng đề cao đức
tin.
Thay v́ tự tách biệt một cách biện
giải khỏi lời kết tội đó, tuy nhiên,
thần học có thể trả lời rằng Kitô giáo có tội
như bị lên án. Tất cả những ǵ tôi muốn nói
thêm là rằng bất cứ nơi đâu lư tưởng
của các người vô thần mới về sự thuần
khiết làm cho họ thấy ô nhiễm, Kitô giáo thấy
hiện thân (embodiment). Vị Thiên Chúa dễ bị xúc
phạm của Kitô giáo không tách biệt khỏi sự
hỗn loạn của các tiến tŕnh tự nhiên và
lịch sử. Thiên Chúa của tôn giáo đó đă nhập
thể (incarnate) không hổ thẹn; mang xác thịt hoàn toàn
trong thế giới; và liên hệ mật thiết với
sự trở thành hiện hữu, tính xưa cổ, sáng
tạo, đau khổ, không chắc chắn, phải
chết, nhược điểm, và hy vọng.
Đáng hổ thẹn theo tâm trí cố
định của các người luận giải vô
thần mới là rằng vị Thiên Chúa của Kinh thánh h́nh
như không đáng tin cậy, ghen tương, giận
hờn, bạo lực, luật pháp, và phán đoán. (Không
được đề cập đến rằng theo
một cách khác, Yavê là chậm giận hờn, khoan dung, yêu
thương, chăm sóc, và tha thứ). Thực là ghê
tởm, cách riêng với Dawkins và Hitchens, rằng đức
tin Kinh thánh là phỏng theo h́nh dạng con người (anthrophomorphic)
đến thế. Đo lường theo tiêu chuẩn thanh
giáo của họ, Đấng Tối cao (the Almighty)
phải ở bên trên các liên hệ thỏa hiệp như
thế về đặc tính con người. Hơn
nữa, nếu Kinh thánh cho là được “viết
bởi Thiên Chúa,” như Harris nói thế, tại sao Tác giả
của nó không gây được ấn tượng đáng
được tôn trọng hơn về thông tuệ, khoa
học, luân lư, và cảm xúc?
Hitchens cũng kinh hoàng v́ Kinh thánh thất bại
sống kịp với h́nh ảnh theo chủ thuyết toàn
bích của ông về sự siêu nhiên lư tưởng cho
đến nổi ông bị ép buộc phải kết
luận rằng, hỡi ơi, tôn giáo là một điều
ǵ do hiện thân con người “chế tạo nên.” Lư do
chính cho việc ông viết Thiên Chúa không vĩ đại xem
ra là để cho chúng ta c̣n lại biết được khám
phá của ông.
NHẬP THỂ
(Incarnation)
Trong chương trước, chúng ta đă
thấy chính ư niệm về một Thiên Chúa có tính con
người như thế, không kể các đặc tính rơ
rệt, là vấn đề với các người vô
thần mới, cũng như là thế với hầu
hết các người thiên nhiên khoa học. Tuy nhiên,
thật khó tưởng tượng làm sao thực tế
về một huyền nhiệm siêu nhiên, nếu quả
thực có hiện hữu điều ǵ như thế, có
thể nắm bắt sự chú ư và ủng hộ của
hiện thân con ngựi có tính người (personal human beings)
nếu nó tự tŕnh bày như là bất cứ điều
ǵ ít hơn là có tính người. H́nh ảnh theo nhân dạng
con người (anthromorphic imagery) làm phật ḷng thể
loại Chủ thuyết Kiến thức thần thoại
(Gnosticism) nhấn mạnh đến sự không liên hệ
hoàn toàn của đức tin với lịch sử, và
của Thiên Chúa với việc liên quan đến thời
gian, địa điểm, và biến cố rơ rệt.
Nhưng với một đức tin nhập thể, Thiên
Chúa không cách biệt với thế giới nhưng thay vào
đó tuyệt đối liên hệ đến nó.[11]
Sự liên hệ này không thể được hiểu rơ
với những người tôn giáo bằng phương
cách của h́nh ảnh không có tính người.
Nếu Thiên Chúa là t́nh yêu tuyệt đối
tự cho đi, như đức tin Kitô giáo tuyên xưng,
không ǵ đáng ngạc nhiên khi t́nh yêu đó sẽ tự bày
tỏ khiêm nhượng và ẩn dấu cho các thành viên
của chủng loại chúng ta trong trang phục hèn kém
của tính người của con người (human
personality). Niềm tin Kitô giáo rằng Thiên Chúa hiện
diện hoàn toàn trong Đức Giêsu Kitô nghĩa là, ít
nhất, sự toàn bích của Thiên Chúa bao gồm không
phải sự tự thanh luyện khỏi tính mơ hồ
về tiến hóa của thiên nhiên hay khỏi tính
đầy tội lỗi của lịch sử con
người, mà bao gồm một sự mật thiết không
ngang bằng với thế giới trong tất cả
mọi phấn đấu và độc ác bất công
của nó. Mục đích của sự mật thiết này là
để nâng cao hay “siêu nhiên hóa” thế giới, nhưng
điểm khởi hành của cuộc phiêu lưu này là
một vũ trụ rất chưa hoàn tất và không toàn
bích. Thần học Kitô giáo chẳng hề bối rối
rằng h́nh tượng phỏng theo h́nh dạng con
người là thiết yếu cho việc tự mặc
khải dần dần của Thiên Chúa. Để tin
với Hitchens rằng tôn giáo do đó là “do con người làm
ra” chi mới là phân nửa câu chuyện. Phân nửa c̣n
lại là rằng chính sự mật thiết của Thiên
Chúa với thế giới gây ra việc con người
trần thế trước hết “chế tạo” một
h́nh ảnh (imagery) có tính người thực sự mặc
khải.
Diễn dịch theo thần học, không chỉ
đức tin Kinh thánh mà cả hành tŕnh tôn giáo dài của
toàn thể chủng loại chúng ta là một chuỗi các
đáp ứng với một lời mời gọi
đến sự mật thiết bởi huyền nhiệm
vô tận của Thiên Chúa.
Nhưng v́ không một h́nh ảnh riêng biệt nào
có thể bao giờ nắm bắt được sự
tràn đầy và sâu thẳm của huyền nhiệm vô biên
khó nắm bắt đó, việc t́m kiếm tôn giáo của
nhân loại, kể cả của Kitô hữu, không bao
giờ có thể kết luận được. Từ
đó nhiều lần sinh ra và chết đi của các nam
nữ thần chúa xuyên suốt các thời đại
đều nhất quán theo logic với sự hiện
diện và lời mời gọi im lặng nhưng
thường xuyên của Đấng Vô biên. Lời mời
gọi siêu nhiên nắm bắt chúng ta hơn là chúng ta
nắm bắt nó, v́ thế chúng ta không thể đưa nó
thành chủ thể cho việc kiểm soát trí tuệ
của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể nói về nó theo
thứ ngôn ngữ không chính xác nhưng phong phú của
biểu tượng (symbols), tương đồng
(analogies), và ẩn dụ (metaphors) có điều kiện
theo văn hóa. Nhưng có lẽ chính việc kiểm
soát trí tuệ mà chúng ta muốn. Nếu quả
thế, trong cơn bực bội của chúng ta rằng
huyền nhiệm siêu nhiên tránh né khỏi sự nhận
hiểu khoa học, chúng ta xem ra diễn dịch tính không
khả dĩ của Thiên Chúa như là một sự
trống rỗng vô biên. Sự rối loạn giữa
sự tràn đầy vô biên và sự trống rỗng vô biên
là một trong các dấu hiệu thiết yếu của
chủ thuyết vô thần.
Tuy nhiên, sự kiện rằng các h́nh ảnh
(icons) tôn giáo đến rồi đi, hoặc rằng
chủ thuyết tượng trưng về Thiên Chúa không
hợp khẩu vị chúng ta, không đủ để
chứng tỏ rằng môi trường tối hậu và
vận mệnh cuối cùng của thế giới là
một sự hư vô vô tận (infinite nothingness). Quả
thực, sự không vừa ḷng tôn giáo luôn măi của chúng ta,
và thậm chí nổi hờn giận thành thực của
chúng ta với tôn giáo như thế, chỉ có thể
xẩy ra nếu ư thức của chúng ta đang ở trong
t́nh trạng nắm bắt một điều ǵ sâu
thẳm và vươn xa hơn. Nếu không phải thế,
lúc đó sẽ không có cơ sở cho các chống
đối của chúng ta với việc dùng h́nh ảnh
(iconoclastic protests). Các linh hồn nhậy cảm trong
mọi giai đoạn của lịch sử tôn giáo sẽ
trở nên chán nản về các phương cách không vừa
ư trong đó các tôn giáo đương thời trưng bày lư
tưởng của chúng. Đôi khi các người vô
thần nghiêm chỉnh có thể trở nên chán nản
về các trưng bày của sự thánh thiện cho
đến nổi họ lên án mọi tôn giáo như là thô
lậu và tục tằn. Nhưng thậm chí các than
phiền có ư hướng tốt đẹp chống “Thiên
Chúa” hay các h́nh ảnh (images) của Thiên Chúa không có một
dính líu nào với chúng trừ phi chính các người
phiền trách tự họ đang đứng trong một
nền tảng sâu thẳm hơn.
KHOAN DUNG VỚI MƠ HỒ
(The Tolerance of Ambiguity)
Quả thực, do đó, các người vô
thần mới đang đ̣i hỏi rằng tôn giáo
hoặc cung cấp các trưng bày toàn bích về Thiên Chúa (phù
hợp với khẩu vị của họ) hoặc bỏ
rơi các h́nh ảnh tất cả, nhưng Kitô giáo khoan dung
với sự mơ hồ và sự không toàn bích trong
phấn đấu của Kinh thánh để tưởng
tượng ra Thiên Chúa. Tại sao? V́ điều thay
thế sẽ tệ hại hơn nhiều, nói rơ ra,
một Đấng Tuyệt đối (an Absolute) duy tŕ miên
viễn bên trên các phấn đấu của thế
giới trong một sự xa cách huy hoàng khỏi hy vọng,
thảm họa, buồn rầu, và phấn đấu
của những con người trần thế yếu
đuối và câu chuyện rộng lớn hơn về
tiến hóa vũ trụ và sinh học. Một Thiên Chúa tách
rời xa cách như vậy có thể sẽ là một suy
tư chính xác về lư tưởng luân lư của các
người vô thần mới, nhưng sẽ không phải
là Thiên Chúa của đức tin Kitô giáo. Sự thực, theo
quan điểm của truyền thống tiên tri Kinh thánh,
Vị Thiên Chúa thanh giáo của sự xa cách huy hoàng sẽ là
một “vai tṛ kiểu mẫu” không luân lư cho con
người.
Bản mô tả công việc (job description[12])
của các người vô thần mới về một
thần chúa lư tưởng đ̣i hỏi một sự Toàn
bích (Perfection) được thanh luyện không chỉ
khỏi sự tục tằn của sự hiện hữu
bộ tộc mà c̣n khỏi sự lây nhiễm bởi
sự hiện hữu con người như vậy. Thiên
Chúa Kitô giáo không hội đủ điều kiện.
Trực giác của Kitô giáo là rằng Thiên Chúa nhập
thể, rằng Đấng Tạo dựng chấp
nhận thế giới hoàn toàn trong mọi sự không toàn
bích của nó, thậm chí đến điểm trở
thành một đứa trẻ, ăn với người
tội lỗi, và kinh qua cái chết trên thập giá. Lời
khuyên của thần học Kitô giáo với người
đọc các đoạn trong Kinh thánh nơi Thiên Chúa h́nh
như không hoàn toàn theo tiêu chuẩn luân lư là luôn luôn diễn
dịch mọi điều trong Kinh thánh dưới ánh sáng
của các chủ đề chi phối về hy vọng,
giải thoát, nhập thể, và t́nh yêu thương tự
cho đi hết của Thiên Chúa. Ngay khi chúng ta để các
chủ đề chính đó thoát khỏi tầm mắt,
chúng ta sẽ đi đến chỗ hiểu các
đoạn đó với sự cách biệt nghĩa đen,
như Dawkins làm khi ông đến chỗ có được chân
dung về một Thiên Chúa quái vật của Cựu
Ước. Đọc các đoạn nào đó trong Kinh
thánh, kể cả Kinh thánh Kitô giáo, có thể là một kinh
nghiệm hiểm nghèo và hoang mang nếu người ta
trước tiên không có một vài cảm quan về các
chủ đề bao trùm của Kinh thánh. Theo quan
điểm thần học Kitô giáo, có lẽ điều
quan trọng nhất trong các điều đó là cảm quan
về tự do, điều cùng với chủ đề
với lời hứa và sự trung thành của Thiên Chúa ràng
buộc hầu hết các sách của Kinh thánh vào trong
một liên kết không được các người vô
thần mới nhận ra. Chính trong sự giải thoát
họ khỏi chế độ nô lệ và diệt
chủng, dân tộc Hebrew t́m thấy cơ sở kinh
nghiệm của sự biểu tượng hóa của
họ về Thiên Chúa như là Đấng Giải thoát,
thế nhưng việc liên kết gần gủi của
Thiên Chúa với sự giải thoát, một khía cạnh
định nghĩa của các truyền thống Abraham,
không được đề cập đến nơi nào
cả, chưa nói đến chuyện thảo luận
nghiêm chỉnh trong các cuốn sách chúng ta đă khảo sát.[13]
Một trong các ích lợi to lớn của
việc theo học một khóa tŕnh độ đại
học về văn chương Kinh thánh, hoặc trở thành
một phần tử của một nhóm nghiên cứu Kinh
thánh được thông tin bởi tŕnh độ học
thuật theo kịp thời đại, là rằng
người ta có thể học cách đọc các bản
văn Kinh thánh một cách nào đó để một
chủ đề chính yếu, ví dụ giải thoát,
vẫn trong sáng trong bối cảnh thậm chí trong khi chúng
ta đang đọc các đoạn có thể h́nh như khó
chịu về luân lư khi đọc cách biệt. Ví dụ,
Hitchens không thể vượt qua được câu
chuyện lệnh truyền của Thiên Chúa để Abraham
giết chết con trai ông ấy. “Không có điều ǵ làm
nhẹ nhàng ư nghĩa rành rành của câu chuyện hăi hùng
đó,” Hitchens nói theo luân lư (206). Nhưng chính là lối
đọc thẳng đuột của Hitchens về
mọi điều trong Kinh thánh dẫn ông và các đồng
bạn theo chủ thuyết nghĩa đen của ông
bỏ qua chủ đề của đức tin không
điều kiện vào một Thiên Chúa giải thoát nổi
bật trong câu chuyện về Abraham và Isaac, cũng như
nhiều tường thuật Kinh thánh khác. V́ Hitchens đă
từ khước đức tin mọi thể loại,
giá trị duy nhất Kinh thánh có thể khả dĩ có
đối với ông là các dạy dỗ luân lư. Một khi các
chủ đề hoa mỹ về lời hứa, trung tín,
và giải thoát đă trắng trợn ra khỏi các trang sách
Kinh thánh, như chúng là thế trong trường hợp
đọc hiểu “thẳng tuột” công khai của Hitchens
các bản văn cách biệt, lúc đó câu chuyện về Abraham
và Isaac trở thành chẳng là ǵ ngoại trừ một
nghiên cứu trường hợp cư xử tệ
hại.
Tương tự, Dawkins thấy xúc phạm luân
lư thậm chí với Mười Giới răn và việc
Kinh thánh cấm đoán thần tượng (237-48). Nhấn
mạnh rằng “Kinh thánh không phải là loại sách quí
vị nên đưa cho con em quí vị để h́nh thành
luân lư của chúng” (247), ông thất bại trong việc nhận
ra rằng việc cấm đoán thờ thần
tượng trong Mười Giới răn và các Tiên tri có
thể đọc hiểu như là một diễn
đạt của chủ đề nền tảng của
Kinh thánh về giải thoát—rằng chúng ta không cần
phải trói buộc cuộc sống của chúng ta vào
với các điều quá nhỏ nhoi với chúng ta. Việc
ông nhạo báng Mười Giới răn hoàn toàn bỏ
mất bối cảnh giao ước và hướng về
giải thoát (covenantal and liberationoriented).
Một khi các chủ đề đó đă bị
gột rửa ra khỏi luận giải của ông,
chẳng có ǵ c̣n lại ngoại trừ các tùy tiện các
con phải và không được (thou shalts and shalt nots).
Nhưng điều này tốt thôi với Dawkins v́ ông
muốn người đọc của ông cùng với ông
giảm thiểu Kinh thánh xuống chỉ c̣n là giáo dục
luân lư. Hy vọng của ông là rằng, một khi
người đọc bị chia trí để làm thành cùng
một giả định như vậy, họ sẽ
đồng ư với ông rằng Kinh thánh chỉ là một sự
thất bại như vậy trong việc hoàn thành những
ǵ ông nghĩ là mục đích quan trọng nhất chính là
làm cho tất cả chúng ta c̣n lại lăng quên nó hoàn toàn.
Theo một quan điểm thần học Kitô
giáo, tuy nhiên, điểm chính của Kinh thánh không phải là
luân lư dù cách nào, nhưng rằng chúng ta không bao giờ
được mất tín nhiệm rằng cuộc sống
của chúng ta, lịch sử nhân loại, và chính vũ
trụ đều là thành phần của một vở
kịch đầy ư nghĩa nghiêm trọng của giải
thoát và lời hứa về sự hoàn thành tối hậu.
Hơn nữa, cảm quan rằng cuộc sống chúng ta có
một ư nghĩa, và rằng cuộc sống là đáng
sống trong một tinh thần tín nhiệm, cung cấp
năng lượng và phương hướng cho khát
vọng luân lư nếu không như vậy có thể thiếu
đi.
Theo sự khôn ngoan tôn giáo tích lũy của
chủng loại chúng ta, không một tín nhiệm cơ
bản rằng toàn bộ hiện thân, kể cả chính
vũ trụ, có một ư nghĩa, nước ngọt
đạo đức của chúng ta cuối cùng sẽ khô
cạn v́ thiếu chất nuôi dưỡng.
Thế nhưng chủ thuyết vô thần
mới đang làm mọi sự nó có thể để
thuyết phục chúng ta rằng vũ trụ là không quan điểm
và rằng đến lúc cuối cùng cuộc sống
của chúng ta cũng nhằm vào hư không như
vậy—không phải là sự sắp đặt thuận
lợi nhất cho việc nở rộ năng lực
của chúng ta vào điều thiện.
Các người vô thần mới, người ta
có thể chắc chắn, sẽ tiếp tục nhấn
mạnh rằng Kinh thánh không phải là về ư nghĩa
nhưng là về luân lư, như thể hai điều đó
tách biệt nhau. Nhưng v́ thần học Kitô giáo t́m ư
nghĩa trước khi nó h́nh thành luân lư của nó, nó không
tuyên bố rằng mọi điều trong Kinh thánh là
xứng đáng như nhau, nói theo luân lư, dù cách nào. Trên
thực hành, đa phần tuyên xưng Kitô giáo đă cho phép
một cách đọc hiểu tùy chọn (selective reading).
Một cách thành thực, Kinh thánh gồm cả các bản
văn man dă mà không ai thấy nâng cao đạo đức.
Thực tế, đời sống phụng vụ của
các giáo hội đă b́nh thường bỏ qua các câu
của Thánh vịnh và các tác phẩm khác cầu xin Thiên Chúa
nghiền nát kẻ thù của chúng ta, nói ví dụ.
Hơn nữa, thậm chí sự kiện rằng
các văn bản nào đó qua ḍng thời gian trở thành
không liên hệ hoặc gây khó chịu cho khẩu vị
đạo đức đương thời của chúng
ta đều hoàn toàn nhất quán với đặc tính
nhập thể của đức tin Kinh thánh. Thay v́ nằm
dí trong nơi trú ẩn Plato bên trên sự kinh hoàng của
lịch sử, vị Thiên Chúa của Kitô giáo trở thành
nhập thân vào các biến cố phụ thuộc vào
lịch sử và văn hóa. Không nghi ngờ ǵ, một Thiên
Chúa mà nhân dạng đan chéo với các thời đại
và địa điểm nhất định, cũng
như với đau khổ và chết chóc, đă luôn luôn là
khó nuốt, thậm chí với nhiều Kitô hữu.
Nhiều người trong những người
đương thời của Đức Giêsu đă
chấn động v́ Người ḥa đồng dễ
dàng với những người kém danh tiếng, và v́
thế họ thắc mắc làm sao Người có thể
đến từ Thiên Chúa. Thế nhưng, trong tinh thần
của một Thiên Chúa chấp nhận mơ hồ, Kitô
giáo quyết định tương đối sớm
sủa trong lịch sử của nó, cho dẫu không
phải không với chống đối, để bao
gồm trong toàn bộ Kinh thánh các bản văn mà Dawkins và Hitchens
nhận thấy đáng coi thường. Cả hai nhà luân lư
đó có thể vui hưởng t́nh đồng bạn
của Marcion, một người lạc giáo đă bị
giáo hội Kitô giáo sơ khởi từ khước v́ giáo
huấn rằng vị Thiên Chúa của Kinh thánh Hebrew có
thể không chắc là vị Thiên Chúa của Đức
Giêsu Kitô.
Giả thuyết không nói ra đằng sau sự
khinh thị của Hitchens và Dawkins về phương cách
Kinh thánh tạo thành h́nh ảnh Thiên Chúa là rằng nó vi
phạm các tiêu chuẩn ngấm ngầm của họ
về sự thuần khiết luân lư và tôn giáo.
Nhưng chủ thuyết lư tưởng này nêu lên
câu hỏi làm sao các người vô thần mới tự
họ đến được chính cảm quan
được tinh luyện của họ về sự
thiện và sự ác. Harris cố đến cứu. Ông tuyên
bố rằng cảm quan của chúng ta về điều
đúng điều sai đến bằng phương cách
của một “trực giác” trực tiếp không đả
động đến bởi sự hiện hữu
của thời gian và lịch sử. “Sự kiện
rằng chúng ta phải dựa vào một số trực giác
nào đó để trả lời các câu hỏi đạo
đức,” ông viết, “ít nữa không gợi ư rằng có
một điều ǵ đó không cụ thể, mơ
hồ, hoặc phụ thuộc vào văn hóa về chân lư
đạo đức” (184). Cũng như ông đến
được kiến thức đích thực bằng
phương cách khoa học được khử khỏi
trùng đức tin, người vô thần mới này có
thể được chuyên chở đến lănh vực
sự thiện thuần túy bằng khả năng trực
giác cọ sạch khỏi lịch sử và thậm chí
hiện thực. Thế th́, làm sao Kitô giáo có thể, với
vai tṛ kiểu mẫu u buồn của nó về một Thiên
Chúa đem ḷng yêu mến vật chất (matter), thời
gian, lịch sử, hiện thực, và người tội
lỗi, hy vọng có bao giờ theo kịp một tiêu
chuẩn như vậy về sự thuần khiết?
Tôi phải ghi nhận rằng thần học Kitô
giáo xuyên suốt nhiều thế kỷ chia sẻ phần
lớn sự chê trách về sự kiện rằng các lư
tưởng thanh giáo của các người vô thần
mới đă trở nên nằm sẵn trong nền văn
hóa phụ thần bí (mythic subculture) của nền văn
hóa thông tuệ và phổ thông phương Tây. Sự
thực, nhiều người hai nguồn vẫn c̣n
tồn tại trong hàng ngũ những người tin Kitô
giáo cũng như hàng ngũ những người vô
thần, nhưng lư tưởng hai nguồn đă luôn luôn
hiện hữu căng thẳng với các nền tảng
Kinh thánh của Kitô giáo. Trong nhiều trăm năm vừa
qua, thần học Kitô giáo đă dần dần lấy
lại, cho dẫu không phải không có trở lực,
niềm tin nguyên thủy và phiêu lưu hơn của nó rằng
Thiên Chúa không thể t́m kiếm tách riêng khỏi thế
giới vật chất, hiện thân con người, và các
mơ hồ của hiện
hữu lịch sử. Từ đó, thật hoàn
toàn hấp dẫn hơn khi các người vô thần
mới giờ đây đang đưa Kitô giáo vào khảo
sát bằng cách t́m kiếm sự ủng hộ của cùng
các chủ đề bảo thủ, thanh giáo, hai nguồn mà
Kitô giáo đă từng phấn đấu tự ḿnh tách
rời khỏi đó trong hàng thế kỷ. Cuộc
chiến đấu của họ với Kitô giáo ngày nay là
chương cuối cùng nhất trong sự phấn
đấu gần như miên viễn giữa hai lư
tưởng tôn giáo xưa cũ: thanh giáo và nhập thể.
Trong chừng mực họ muốn tránh thoát và thậm chí
loại bỏ thần học, cuộc cỡi ngựa
đấu kiếm đương thời của các
người vô thần mới với đức tin Kitô giáo
là thành phần của một vấn đề thần
học lâu dài, nôi bộ, và không thể tránh thoát.
Theo phần lớn các nhà thần học
đương thời nhất, trong bất cứ
trường hợp nào, chúng ta không thể hy vọng
gặp gỡ Thiên Chúa bằng cách tránh né mọi thời
gian rơ rệt, địa điểm nhất định,
và kinh nghiệm thực sự. Thiên Chúa không phải là
một giả thiết có thể trừu tượng
khỏi sự vướng mắc với các ngẫu nhiên
của lịch sử tự nhiên và con người. Mục
đích của Dawkins để quyết định vấn
đề Thiên Chúa theo khoa học bằng cách biến Thiên
Chúa thành một giả thiết là một diễn
đạt về chủ thuyết thanh giáo nhận thức
cũng trắng trợn như các nỗ lực kiến
thức thần thoại xưa cũ để đạt
đến kiến thức thuần túy về Thiên Chúa
bằng cách trước tiên từ chối việc nhập
thể. Nhưng Thiên Chúa Kitô giáo nhập thể cách sâu
thẳm không thể gặp gỡ được trong không
gian nhận thức thanh luyện theo hai nguồn
khép chặt khỏi các biến cố, h́nh
ảnh, biểu tượng, và ẩn dụ cụ thể
trỗi sinh từ các kinh nghiệm ngẫu nhiên về
văn hóa, địa lư, và lịch sử của những
con người thực sự. Những người thanh
giáo, không kể là tôn giáo, khoa học, hay luân lư, bối
rối rằng những ǵ là tuyệt đối toàn bích có
thể trở thành bị ô nhiễm bởi tính ngẫu
nhiên và có thể hư nát.
Nhưng đó chính đích thực là thể
loại toàn bích mà vị Thiên Chúa tự làm cho trống
rỗng của đức tin Kitô giáo tŕnh bày.
Với Hitchens và Harris, sự kiện rằng
đức tin đi kèm với các h́nh ảnh về Thiên Chúa
nếu có, làm cho Kitô giáo không chút giá trị theo thông tuệ.
Sự không khoan nhượng thanh giáo này về bất
cứ Thiên Chúa nào mà thực tế trở nên nổi danh qua
h́nh ảnh, chuyển sang việc đọc hiểu Kinh
thánh của họ. Trong một biểu lộ khác
thường về sự điều độ nhận
thức, đạo đức, và biện giải, Hitchens
và Harris diễn dịch một đa dạng rộng răi
của văn thể và thể loại Kinh thánh như là
chứng cứ của học thuật không thể chấp
nhận được về Thiên Chúa. Tôi đă đề
cập đến nỗi sửng sốt của Harris
rằng nếu Kinh thánh được Thiên Chúa viết, nó
phải có khoa học và toán học của nó ngay hàng
thẳng lối. Với Hitchens, sự sai biệt giữa
các tường thuật về sự sinh ra và đóng
đinh của Đức Giêsu trong các Phúc âm đă
đủ để hạ bệ giáo điều về
cảm hứng Kinh thánh. Làm sao một thần chúa toàn
năng khả dĩ là ngọn đèn hướng dẫn
đàng sau các cẩu thả của bản văn đó,
chưa nói đến vũ trụ học sai lầm? Tôi
thành thực ngạc nhiên rằng các thông dịch viên chuyên gia
của chúng ta đă quên đánh đ̣n Luca và Matthêô v́ đă
đạo văn Maccô và Phúc âm nguồn được
biết đến như là Q. Tại sao Thiên Chúa
được cho phép đi qua mà không có cước chú?
Tại sao không có tính thông thái hoàn toàn nếu Kinh thánh là
một cuốn sách cảm hứng? Tôi có thể tiếp
tục tiếp tục, nhưng tôi giả định
đă nói được điều muốn nói.
TIẾN HÓA VÀ THẦN HỌC KITÔ GIÁO
(Evolution and Christian Theology)
Giả thuyết thanh giáo dẫn Dawkins đến
việc từ khước Kitô giáo trên nền tảng luân
lư cũng tạo sơ sở cho niềm tin của ông
rằng Thiên Chúa của Kitô giáo cũng phải bị
từ khước trên nền tảng khoa học nữa.
Bức tranh của
Thế th́, từ đó, quan điểm thanh giáo
về luân lư tiêu biểu cho chủ thuyết vô thần
mới nhận thấy song hành với mô h́nh chủ
thuyết toàn bích về tạo dựng siêu nhiên trong đó
Thiên Chúa phải đă tạo dựng thế giới trong
một t́nh trạng hoàn tất và cuối cùng một
lần trọn vẹn ngay từ lúc khởi đầu.
Hoặc giả vị Thiên Chúa của Kinh thánh phải là một
vai tṛ kiểu mẫu toàn bích và là một kỹ sư toàn
bích, hoặc không như vậy vị Thiên Chúa đó không
được Dawkins cho phép hiện hữu một chút nào.
Nhưng với đức tin Kitô giáo, chủng
loại của Dawkins về chủ thuyết toàn bích,
vừa luân lư vừa vũ trụ, là một ngơ cụt.
Nếu vũ trụ được hoàn tất ngay lập
tức, từ đó nó sẽ đi về đâu? Có lẽ,
lúc đó, có một lư do thần học đúng rằng một
Thiên Chúa muốn vũ trụ có một tương lai
mở rộng sẽ đi với sự không toàn bích và
mơ hồ. Nếu quí vị không thích một thế
giới trong đó cả các tên ôm bom tự sát cả các
điều kỳ quái tiến hóa không được phép
hiện hữu, một thực nghiệm tâm trí tốt là
thử tưởng tượng điều ǵ có vẻ
sẽ hiện hữu trong vũ trụ được
thiết kế toàn bích đó được lư tưởng
hóa bởi các người vô thần mới và các
người theo chủ thuyết tạo dựng tổ tiên
họ. Để theo đúng với chủ thuyết theo
nghĩa đen Kinh thánh của họ, vũ trụ mà
họ muốn sẽ phải đă được hoàn
tất đến độ toàn bích vào ngay ngày đầu tiên
của việc tạo dựng. Một hành động tiên
khởi hoàn tất ngay lập tức của sự khéo tay
siêu nhiên có thể bảo đảm sẽ không có đau
khổ, không điều ác, và không nhu cầu về tạo
dựng để tiến hóa thành một điều ǵ khác
qua các giai đoạn dài mênh mông của thời gian. Trong các
chỉ dẫn của họ cho một Thiên Chúa đích
đáng phải hành động cách nào, các người vô
thần mới đ̣i hỏi rằng hoặc giả
thế giới được hoàn tất một lần
duy nhất ngay từ lúc khởi đầu, hoặc nếu
không như vậy sẽ không có vai tṛ nào cho Thiên Chúa đóng
giữ cả. Một Thiên Chúa có thể chấp nhận
được theo luân lư sẽ làm cho mọi sự hoàn toàn
đúng ngay từ ngày đầu tiên. Vũ trụ phải
là phản ánh không chê trách, không thay đổi của vị
kỹ sư siêu nhiên đó. Sẽ không có đau khổ
lớn dần, không chết chóc, không các tên khủng bố.
Cũng sẽ chẳng có vấn đề
thần học thiên nhiên (theodicy[15]),
v́ sẽ chẳng có điều ác để giao ḥa với
sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Cũng chẳng có, dĩ nhiên, bất cứ
sự sống nào, tự do nào, tương lai nào, mạo
hiểm nào, chuyện về vũ trụ vĩ đại nào,
lối mở ra nào đến các chân trời vô tận
trước mắt. Cũng chẳng có cơ hội nào cho
từng người trong chúng ta phát triển bản
chất và thực hành đức hạnh.Vấn đề
với lư tưởng ảo thuật của các
người vô thần mới về tạo dựng—lư
tưởng của họ h́nh như một lần nữa
đă vay mượn từ những người tạo
dựng và người hữu thần TKTM—là rằng
tạo dựng sẽ chẳng nơi nào để đi
đến. Bị khóa chặt miên viễn trong sự toàn
bích huy hoàng, vũ trụ sẽ không dành khoảng trống nào
cho sự không quyết định, tai biến, hoặc
tự do. Mọi chi tiết cuối cùng sẽ bị
đông cứng trong một vị trí tiền định ngay
từ khởi đầu; hiện thân con người, nếu
người ta có thể tưởng tượng chúng
hiện hữu được, sẽ là các con rối hay các
pho tượng.
Chỉ có một vũ trụ vẫn chưa hoàn
tất—như vũ trụ mà địa chất học,
vũ trụ học, và sinh học đang phát hiện cho chúng
ta qua hơn hai thế kỷ vừa qua—có thể cung
cấp khung cảnh cho tự do và sáng kiến con
người. Dĩ nhiên, nói rằng vũ trụ “chưa
hoàn tất” có nghĩa hàm ư rằng nó không toàn bích, mơ
hồ, và mở ra cho các kết quả tai ương
cũng như kỳ diệu. Thậm chí sự kiện
rằng chính tự các tôn giáo cũng không toàn bích đến
thế, và đôi khi là điều ác kinh hoàng, là hoàn toàn
nhất quán với sự kiện rằng chúng nữa
cũng là thành phần của một vũ trụ chưa
hoàn tất. Quan trọng là phải đối mặt
với các điều ác liên quan đến các đức
tin tôn giáo, và trên cốt lơi đó, các người vô thần
mới đă đúng khi chỉ chúng ra. Đồng thời,
dẫu thế, khó mà tưởng tượng làm sao một
Đấng Tạo dựng thực sự yêu tự do,
đa dạng, và đổi mới có thể đă từng
trói buộc vội vàng mọi thứ vào trong một ṿng
tṛn khép kín và tĩnh lặng của tính đồng nhất
vĩnh cửu. Một vũ trụ toàn bích từ
đầu sẽ là đă chết.
Mặt mờ tối của bất cứ vũ
trụ nào chưa hoàn tất, và từ đó không toàn bích, là
mơ hồ và điều ác, kể các thuốc độc
trong các tôn giáo của chúng ta. Cách thông cảm
được, chúng ta mong đợi một thế
giới không có điều ác và như thế là thích đáng
để hy vọng một sự hoàn thành cuối cùng
của cuộc sống chúng ta và của toàn thể vũ
trụ. Hy vọng của Kitô giáo là về một vũ
trụ trong đó điều ác sẽ bị chinh phục
và nước mắt tất cả sẽ được
lau khô. Một hy vọng như vậy, bằng sắp
đặt ra khả dĩ về một tương lai
mới, là một khích lệ to lớn cho hành động
luân lư. Nhưng chúng ta cần hết sức cẩn thận
về những ǵ chúng ta đ̣i hỏi trong chừng mức
t́nh trạng quá khứ và hiện tại của vũ
trụ quan tâm. Một thiết kế toàn bích từ ban
đầu, là những ǵ Dawkins đ̣i hỏi—không phải
vậy ông đă không khinh thường sự thất
bại của Thiên Chúa như là một kỹ sư—sẽ
nghĩa là điểm chấm dứt của tiến hóa
thậm chí ngay trước khi nó bắt đầu. Và
chủ thuyết toàn bích, vừa luân lư vừa khoa học,
sẽ có nghĩa là điểm chấm dứt của hy
vọng. Chủ thuyết toàn bích là phương cách
chắc chắn để đóng lại tương lai và
ngăn cản thế giới và cuộc sống chúng ta có
bao giờ trở
nên được đổi mới.
Như là nền tảng tối hậu của
đổi mới, tự do, và hy vọng, Thiên Chúa Kitô giáo
cống hiến cho toàn thể vũ trụ cũng như
chính chúng ta cơ hội để tiếp tục giải
thoát khỏi t́nh trạng không sự sống của
thiết kế toàn bích. Tiến hóa, do đó, có thể
được hiểu, ở tầm mức thần
học, như là câu chuyện về sự trỗi sinh
dần dần của thế giới ra khỏi sự
hỗn loạn và đơn điệu ban đầu, và
về sự t́m kiếm mạo hiểm của nó
đến các cách thế trau chuốt mănh liệt hơn
của hiện thân. Thiên Chúa của tiến hóa khiêm
nhượng mời gọi các tạo vật dự
phần vào sự tạo dựng tiếp diễn của
vũ trụ. Lời mời gọi ân sủng đó
để chia sẻ sự tạo dựng vũ trụ là
nhất quán với niềm tin Kitô giáo rằng nền
tảng tối thượng của vũ trụ và của
chính sự sống của chúng ta là ḷng độ
lượng yêu thương, dễ bị xúc phạm, không
bào chữa, và tự làm trống rỗng của Thiên Chúa.
[1] Sǿren
Kierkegaard, “The Sickness unto Death,” trong Fear and Trembling and the
Sickness unto Death, Walter Lowrie dịch (Garden City, N.Y.: Doubleday
Anchor Books, 1954), 218.
[2] Fides et Ratio: Đức tin và lư trí, tông
thư ban hành ngày 14/9/1998 của GH Gioan Phaolô II, về tương
quan giữa đức tin và lư trí: “Đức tin mà không có
lư trí dẫn đến mê tín. Lư trí mà không có đức tin
dẫn đến chủ thuyết hư vô và chủ thuyết
tương đối.”
(nd)
[3] Kenosis:
Quan điểm thần học Kitô giáo về sự tự
hạ ḿnh nhập thể của Ngôi Hai (nd)
[4] Giáo
hoàng Gioan Phaolô II, Fides et Ratio, tông thư, 14/9/1998; http://www.ewtn.com/library/ENCYC/JP2FIDES.HTM (truy cập 14/10/2007).
[5] Ở
đây tôi đề nghị của Daniel Maguire, The Moral
Core of Judaism and Christianity: Reclaiming the Revolution (Minneapolis:
Fortress Press, 1993).
[6] Trên
mạng http://almaz.com/nobel/peace/MLK-jail.html
[7] Dualistic,
dualism: Thường được dịch là nhị
nguyên, chủ nghĩa nhị nguyên, đơn giản là hai
nguồn (nd)
[8] 8 Gnostic:
Thuộc về chủ thuyết kiến thức thần
thoại (Gnosticism) cho rằng biết được các
điều tâm linh, khởi đầu từ thần
thoại Hy lạp, các tôn giáo cũ, và cuối cùng
đến Kitô giáo (nd)
[9] Chủ
thuyết khoa học thực sự cũng là đứa con
của thần thoại học hai nguồn, nhưng tôi
không thể triển khai vấn đề ở đây.
[10] Ủng
hộ cho gợi ư của tôi cách riêng đến từ Paul
Ricoeur, The Symbolism of Evil, Emerson Buchanan dịch (Boston:
Beacon Press, 1969).
[11] Xem
Charles Hartshorne, The Divine Relativity (New Haven, Conn.: Yale
University Press, 1948); và Schubert Ogden, The Reality of God and Other
Essays (New York: Harper & Row, 1977), 1-70.
[12] Job
description: Tác giả dùng một từ của doanh
nghiệp. Job description (mô tả công việc) để mô
tả các công việc chính yếu của một chức
vị (nd)
[13] Khi tôi
sử dụng cách diễn đạt “các chủ để
chi phối” ở đây, tôi muốn nói “chi phối” từ
quan điểm của vô số nhà thần học Kitô giáo
mà các người vô thần mới hoàn toàn bỏ qua. Dĩ
nhiên, không phải mọi nhà thần học hoặc học
giả kinh thánh đều nhấn mạnh đến
giải thoát, lời hứa, hy vọng, Ngôi Hai làm
người (kenosis), và nhập thể theo phương cách
tôi đề cập ở đây. Nhưng ở đây tôi
theo, nói ví dụ, cách xử lư của Jürgen Moltmann,
người không thể chia cách các ư niệm về lời
hứa, giải thoát, và hy vọng khỏi ư niệm Kinh
thánh về Thiên Chúa. Xem sách của ông ấy The Spirit of
Life: A Universal Affirmation, Margaret Kohl dịch (Minneapolis:
Fortress Press, 1992).
[14] Richard
Dawkins, The Blind Watchmaker (New York: W. W. Norton & Co., 1986);
và River out of Eden (New York: Basic Books, 1995).
[15] Theodicy:
Hệ thống thần học thiên nhiên biện minh cho công
b́nh siêu nhiên bằng cách cho điều ác được
cùng hiện hữu (nd)
(Dịch xong ngày 11 tháng 9, 2008—Kỷ niệm 7
năm ngày Hoa kỳ bị khủng bố tấn công ngày 11
tháng 9, 2001)
http://cuucshuehn.net/index.php?language=vi&nv=news&op=Giao-Hoi-Cong-giao/eBook-Thien-Chua-va-Chu-Thuyet-Vo-Than-Moi-John-F-Haught-4773