NĂM MƯOI NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN

LOAN TIN MỪNG CHO D̉NG HỌ


 

 

IMPRIMATUR

LỜI GIỚI THIỆU

 

TỦ SÁCH NƯỚC MẶN

 


MỘT VÀI KINH NGHIỆM LOAN TIN MỪNG QUA CON ĐƯỜNG ĐẠO HIẾU

 

Tin mừng đă đến trên quê hương này 480 năm. Một số nhà truyền giáo thuở đầu đă nh́n truyền thống Đạo Hiếu của phương Đông như một cánh cửa rộng mở để đưa mọi người và mọi gia tộc về với Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất (x. Ep 3,15).

Thế nhưng rồi cánh cửa đă khép lại. Sau nhiều tranh luận của các nhà truyền giáo, Ṭa Thánh đă quyết định rằng người tín hữu Công giáo phương Đông chỉ được bày tỏ tâm t́nh thiêng liêng đối với  Ông Bà Tổ Tiên theo phụng vụ Rôma, và phải ngưng những biểu lộ bên ngoài theo truyền thống văn hóa địa phương. Suốt hơn 200 năm, người Công giáo đành mang tiếng "theo Đạo là bỏ Ông bỏ Bà" để giữ một đức tin tinh tuyền, chưa kể sự ngộ nhận ấy c̣n góp phần khiến cơn bách hại thêm khốc liệt.

Năm 1964, Toà Thánh áp dụng cho người Công Giáo Việt Nam huấn thị Plane Compertum est đă đề ra cho Giáo hội tại Trung Hoa năm 1938, chấp thuận cho người tín hữu Á Đông được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đă ra thông cáo chính thức về việc áp dụng huấn thị của Toà Thánh.

Cho tới nay sự giải tỏa đă được gần 50 năm, người Công giáo Việt Nam đă ṃ mẫm từng bước để hội nhập lại vào một truyền thống bị gián đoạn đă quá lâu đời. Nhiều luận văn của sinh viên Công giáo và nhiều sách báo đề cập vấn đề này cũng như nhiều sáng kiến thực hành đă giúp hóa giải được phần nào ngộ nhận nói trên.

Nhân dịp sắp đến kỷ niệm 50 năm việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, tôi cũng muốn được đóng góp cho anh chị em đồng đạo một kinh nghiệm kiếm t́m và một số minh họa, mong phần nào gợi hứng để các bạn trẻ Công giáo dấn thân cho mối liên kết ḍng họ bên nội và bên ngoại của chính ḿnh. Sau nữa, tôi cũng mong được chia sẻ với đồng bào ngoài Công giáo những nỗi khó khăn và những xác tín sâu xa của người Công giáo trên đường về với nguồn cội. Chắc hẳn những chia sẻ chân thành cũng ôm theo nhiều vụng về, đôi khi thái quá hoặc bất cập, mong được mọi người rộng lượng cảm thông và góp ư.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là vị thánh gắn liền với giấc mơ Loan báo Tin mừng cho người Việt, và cũng là vị thánh được nâng niu giữa t́nh gia đ́nh và t́nh gia tộc. Xin kư thác cho Chị loạt bài này như một phương án mới, một con đường giản dị để đến với anh chị em lương dân và đưa họ đến với Chúa, không c̣n phải là con đường lẻ loi của từng người hay từng gia đ́nh nhưng là một con đường hành động tập thể: con đường ḍng họ, họ Nguyễn cho họ Nguyễn, họ Lê cho họ Lê, họ Trần cho họ Trần, họ nào truyền giáo cho họ nấy.

Một số đoạn trích lại từ quyển "Về Với Cội Nguồn", Nxb PĐ 2012. Độc giả nào muốn, có thể xem toàn văn quyển sách tại:

http://gpquinhon.org/qn/news/nuoc-man/Ve-voi-coi-nguon-633/#.UhHDl9IvnqE

Mọi góp ư xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com.

Kính chúc quư độc giả và gia đ́nh luôn an vui hạnh phúc trong Chúa.

Lm Trăng Thập Tự Vơ Tá Khánh

 


.1
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

01
VẤN ĐỀ THỜ CÚNG ÔNG BÀ TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI VIỆT
NAM

 

Tự bản thân, Đạo Hiếu rất gần với Đạo Chúa. Đang khi một số tôn giáo Á Đông tin luân hồi, cho rằng con người chết rồi đầu thai hóa kiếp thành loài này loài khác th́ Đạo Hiếu dạy rằng linh hồn Ông Bà Tổ Tiên bất tử, linh hiển và gần gũi con cháu. Đạo Hiếu và Đạo Chúa có chung một niềm tin linh hồn bất tử, tiếc thay, đă gặp một sự hiểu lầm suốt mấy thế kỷ.

Hoàn cảnh thế kỷ XVII đă khiến một số nhà truyền giáo ngộ nhận, cho rằng việc thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo, trong đó tổ tiên được coi như những vị thần. Ngộ nhận này một phần là do chưa nghiên cứu cặn kẽ:

- Nhiều vị tưởng rằng khi cúng lễ gia tiên, gia chủ phải đọc những lời thần bí rất tỉ mỉ. Thật ra, gia chủ không tụng kinh (đọc lớn một công thức) cũng không niệm kinh (đọc thầm) mà chỉ nói với tổ tiên của ḿnh như một đứa con nói với người cha hiện đang c̣n sống, trong ngôn ngữ thông thường.

- Nhiều vị tưởng chữ "lễ" trong lễ gia tiên có cái ư nghĩa nguyên thủy của nó là "các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo". Thật ra, chính Đức Khổng Tử đă giải thích chữ "lễ" theo một nghĩa khác. Theo ngài, các "lễ" hoặc các nghi thức chỉ là phương tiện cho người quân tử dùng để xử kỷ tiếp vật trong mỗi t́nh huống cuộc sống. Chúng nêu rơ cách ứng xử người ta phải có trong nhà, ngoài phố, ở triều đ́nh, ở các lễ hội; chúng bộc lộ ra bên ngoài những t́nh cảm bên trong mà người ta cảm thấy trong t́nh huống này hoặc t́nh huống nọ. Vậy, các nghi thức chỉ là những quy phạm của phép xă giao, các quy tắc phép lịch sự mà mục đích gần nhất là giáo hóa con người. Đó là những quy luật của "lễ phép xă hội", như chính Khổng Tử nói, khiến ngày qua ngày người ta đến gần điều thiện và tránh xa điều ác mà không ngờ. Nghi thức khi cúng gia tiên cũng mang ư nghĩa ấy, chỉ là những lễ phép bày tỏ ḷng kính trọng quư mến đối với tổ tiên ḿnh.

- Lư do mạnh nhất đẩy Giáo Hội đến chỗ chấp nhận theo một thái độ ngờ vực đối với sự thờ cúng tổ tiên, chính là v́ một số người tin rằng vong hồn của những người chết ở trong các bài vị, và người ta ghi rơ "đây là nơi ở của hồn (ông A, bà B)", cách riêng là ở trong tấm lụa đặt trước bài vị, được gọi là "hồn bạch", thường là tấm lụa đă phủ trên khuôn mặt người hấp hối và được cho là hồn đă nhập vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai lạc của một số người. Theo những tin tưởng chính thống của người Hoa cũng như người Việt, sau khi chết, con người được coi như đă vĩnh viễn rời bỏ cơi đời này để an nghỉ ở cơi "suối vàng". Tại các từ đường, người ta chỉ giữ lại bài vị của năm đời, c̣n các bài vị của những thế hệ xưa được đem chôn. Nếu thật người ta tin bài vị là nơi hồn nương tựa th́ sẽ không chôn như thế, v́ không c̣n bài vị, những hồn ấy sẽ ở đâu? Vả lại, ngày nay, các gia đ́nh dễ dàng thay thế các bài vị bằng những bức chân dung, cho thấy họ không nghĩ rằng linh hồn các bậc tổ tiên ở trong các bài vị. Nếu hồn không ở trong các bài vị th́ vai tṛ của các bài vị ấy là ǵ? Dưới con mắt của người Hoa cũng như là người Việt, ít ra là của các nhà nho, các bài vị chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc nhở người sống tưởng nhớ những người đă khuất.

02
MỘT SỐ THỰC HÀNH GÂY ÁI NGẠI

Có những nhà truyền giáo cho rằng việc thờ cúng Ông Bà là một tôn giáo nhưng lại có những nhà truyền giáo khác khẳng định rằng người Việt không bao giờ xem tổ tiên của họ là "những vị thần", cũng không bao giờ xem cha mẹ họ là "những vị thần tương lai" (Chỉ một số nhỏ tiền hiền ở các địa phương được các triều vua phong thần làm "thành hoàng" của làng xă, với cái nh́n tương tự như các thánh bổn mạng trong Kitô giáo chứ không phải là những vị thần đúng nghĩa). Đă đành là có bàn thờ dành cho Tổ tiên và Tổ tiên là đối tượng của một sự phụng tự nhưng phụng tự này chẳng là ǵ khác hơn một phụng tự tưởng nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó có thể kết luận ngay rằng sự thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của từ này (Chúng ta vẫn thường được nghe trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo đạo nào cả."). Hơn nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này, người xưa (cụ thể như Đức Khổng Tử) nhắm thiết lập những mối liên hệ xác thực giữa những người sống và những người chết, củng cố sự liên đới giữa các thế hệ và phát huy kỷ luật xă hội, tức là chỉ v́ những mục tiêu xă hội và chính trị chứ không hề có ư tưởng tôn giáo nào.

Ta cứ giả thiết như việc thờ cúng này bắt đầu có ư nghĩa từ khi có loài người, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai chữ "thờ" ấy. Con cháu thờ ông bà, thế hệ sau thờ thế hệ trước. C̣n người đầu tiên của loài người thờ ai? Dĩ nhiên họ chỉ thờ Thiên Chúa. Hai chữ thờ đó khác nhau trời vực. Thờ Thiên Chúa là tâm t́nh của thụ tạo lệ thuộc Tạo Hoá, tùng phục Ngài một cách tuyệt đối và yêu mến Ngài với trọn t́nh con. C̣n thờ tổ tiên là tưởng nhớ người xưa và cố gắng không làm ô danh người xưa.

Thế nhưng trong thực tế, đối với nhiều người, các nghi lễ dành cho tổ tiên cũng dần dần mang thêm một ư nghĩa tôn giáo. Người ta đi đến chỗ thờ tổ tiên như thần thánh, và có khi dành cho tổ tiên một tâm t́nh thờ phượng tuyệt đối như thờ phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể nào đi đôi với giáo lư Kitô giáo. Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ bất cứ thụ tạo nào như Thiên Chúa được.

Nghi lễ thờ cúng ông bà ở các thế kỷ trước quả thật có bị lây nhiễm một số tin tưởng sai lạc đáng ngại. Chẳng hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của cúng. Người ta sợ rằng không cúng tế th́ hồn người chết sẽ đói khát, không đốt vàng mă th́ hồn người chết không có tiền tiêu. Những tin tưởng sai lạc như thế cũng không thể đi đôi với giáo lư Kitô giáo.

Ngoài ra c̣n có những mê tín khác.

Các nhà truyền giáo đă tranh luận hết sức nghiêm túc qua nhiều năm, một bên cho rằng những sai lạc trên đây có thể điều chỉnh được, một bên cho là khó ḷng thay đổi được năo trạng của dân chúng. Cuối cùng, để bảo đảm cho niềm tin của tín hữu được tinh ṛng, Giáo Hội đă quyết định rằng người Công Giáo chỉ được tôn kính tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo h́nh thức cổ truyền địa phương. Giáo Hội biết đây là một chọn lựa phải trả giá đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền giáo. Trước khi có quyết định ấy, số người hưởng ứng Đạo Chúa tại Việt Nam càng lúc càng đông, cả đến trong triều đ́nh vua Lê cũng có nhiều người theo Đạo. Việc cấm thờ cúng tổ tiên theo lối cũ đă khiến người ta tẩy chay tôn giáo mới, thậm chí đă thành một trong những lư do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn và chiến dịch Văn Thân. Đă hẳn việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ nhận nhưng dù sao nó cũng cho thấy đức tin Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt đến mức nào.

03
QUAN ĐIỂM MỚI CỦA T̉A THÁNH

Măi đến thế kỷ 20, khi Đạo Hiếu không c̣n bị ngộ nhận là một tôn giáo và những tin tưởng sai lạc cũng không c̣n phải là chuyện chung của quảng đại quần chúng, năm 1964, Toà Thánh đă chấp thuận cho người Công Giáo Việt Nam được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đă ra thông cáo chính thức về vấn đề này.

Sau phần đầu nhắc lại mấy nguyên tắc về thái độ của Giáo Hội đối với nền văn hoá và truyền thống của dân tộc, bản thông cáo nói đến thể thức áp dụng Huấn thị "Plane compertum est" đă được Toà Thánh đă đề ra cho Giáo hội tại Trung Hoa ngày 08-12-1939. Nguyên văn thông cáo:

Thông cáo 
của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam 
về việc tôn kính tổ tiên

Ngày 20-10-1964, Ṭa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đă chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.

Để hiểu rơ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:

I. Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc

1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên h́nh ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của ḿnh, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công tŕnh đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).

2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng v́ bản tính nhân loại, dù c̣n mang dấu vết sự sa ngă của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng v́ vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đă từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đă thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đă nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của ḿnh, sau khi đă tu chỉnh cả tinh thần và h́nh thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).

3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rơ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lănh đạm để mặc ai muốn hay không muốn t́m xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lư của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều ǵ vốn là chân lư và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lư và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm ḥa với muôn vật.

Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ư cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lư thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lư hằng soi sáng mọi người. V́ thế, Giáo Hội khuyên giục con cái ḿnh tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lư và những giá trị xă hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)

Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đă giải thích lư do của quyết định Ṭa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đă cho công bố thông cáo này.

II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est

1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay v́ sự tiếp xúc với bên ngoài và v́ tâm t́nh, tập quán đă thay đổi nhiều, nên chỉ c̣n là những phương cách biểu lộ ḷng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xă giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà c̣n mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.

V́ thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ư nghĩa thế tục rơ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, ḷng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, h́nh, dựng tượng, nghiêng ḿnh bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) th́ được thi hành và tham dự cách chủ động.

2) Trái lại, v́ có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lư ḿnh dạy.

V́ thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lư Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ ḷng phục tùng và sự lệ thuộc của ḿnh đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rơ rệt (như đốt vàng mă), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự... th́ giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đă ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).

3) Đối với những việc mà không rơ là thế tục hay tôn giáo, th́ phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm t́nh tự nhiên, th́ được coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, th́ có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, th́ phải giải thích chủ ư của ḿnh một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.

Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ư riêng ḿnh, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Ṭa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.

Yêu cầu quư cha phổ biến rộng răi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.

Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965

Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492

§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.

§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài v́ trách nhiệm dân sự hoặc v́ danh tiếng, bởi có lư do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đă được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi. 


QUYẾT NGHỊ VỀ
LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN

Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:

“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xă giao để tỏ ḷng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).

1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đ́nh, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều ǵ mê tín dị đoan, như hồn bạch.

2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đ́nh theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những ǵ là dị đoan mê tín, như đốt vàng mă, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ư nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, v́ đó là nghi lễ tỏ ḷng biết ơn, hiếu kính tŕnh diện với Ông Bà.

5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ ḷng cung kính người đă khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng ḿnh trước thi hài người quá cố.

6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đ́nh làng, để tỏ ḷng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đă có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.

Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, v́ chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

                     Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974

                     Kư tên:

- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế

- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho

- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long

- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ

- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang

- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột

- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn


.2
ĐÁP ÁN SAU 50 NĂM

01
TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA

 

Lắm người, không những ngoài Công giáo cả không ít tín hữu Công giáo hiểu quan điểm mới của Giáo hội Công giáo cách quá đơn giản, tưởng rằng qua việc cho phép tái lập bàn thờ gia tiên, cúng giỗ và nhang đèn,... Giáo hội cũng chấp nhận luôn cả những tiểu tiết của dị đoan mê tín. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần xác định ngay từ đầu để tránh ngộ nhận.

Quan điểm mới của Giáo hội Công giáo, được khẳng định vào năm 1964-1965, dựa trên bước tiến tích cực về phong hóa, "những tin tưởng sai lạc kia cũng không c̣n phải là chuyện chung của quảng đại quần chúng", tuy nhiên sang đầu thế kỷ 21, diễn biến thực tế lại rất đáng lo ngại, người tín hữu Công giáo cần biết nhận định và chọn lựa sáng suốt.

Những năm 1930, cuộc vận động của các tác giả Tự Lực Văn Đoàn trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay cũng như qua các tiểu thuyết của họ, đă giúp thay đổi được năo trạng quần chúng, phá đổ được nhiều tệ đoan xă hội, cách riêng là những mê tín về phong thủy, phương hướng, ngày giờ, đồng bóng. Tiếc thay, vài chục năm trở lại đây, do chạy theo lợi nhuận du lịch, các nơi đă đua nhau phục hồi các lễ hội dân gian cách thiếu chọn lọc, mở đường cho nạn mê tín lại lan tràn cách tệ hại.

Mở Google, gơ "mê tín", ta gặp hằng ngàn bài lên tiếng về một tệ nạn mới của xă hội: cầu cơ, xin keo, xin xăm, coi ngày giờ, xem hướng, đốt vàng mă, ông địa, thần tài... Người ta dựng nên cả những văn pḥng, những trung tâm nghiên cứu khoa học về cơi âm, để hiện đại hóa và hợp pháp hóa việc buôn thần bán thánh. Có cả những bậc trí thức không vững lập trường, hoặc v́ ham lợi, ham danh, đua đ̣i hoặc v́ ham vui đă chạy theo những sự mê tín đáng tiếc. Truyền thông đại chúng đă có nhiều đợt lên tiếng vạch trần những chuyện vớ vẩn ấy. Những người nhờ một nhà ngoại cảm t́m mộ rồi kiểm tra chéo bằng một nhà ngoại cảm khác đều gặp kết quả trớ trêu dở khóc dở cười. Những anh chị em ngoài Kitô giáo giữ vững lương tri đều nhất quyết không t́m thông tin về quá khứ từ bất cứ h́nh thức đồng cốt nào, v́ họ thấy trước sẽ lâm vào t́nh trạng khó xử: tin cũng không được mà chẳng tin cũng không được.

Do thiếu ánh sáng mặc khải, người ta không biết rằng kẻ thù của loài người là ma quỷ luôn xúi giục mọi người mê theo của cải vật chất. Ma quỷ đầy ghen tương, nó đă đánh mất hạnh phúc đời đời nên quyết không để cho con người hưởng được hạnh phúc ấy. Mọi hoạt động của nó đều nhằm lôi kéo con người ĺa xa nguồn cội là Thiên Chúa và đánh mất hạnh phúc đích thật trong Ngài. Nó quá rơ không ǵ có thể mê hoặc ḷng người cho bằng lợi (x. Mt 6.19-21.25-34; 19,23-26) và danh (x. Lc 14,7-11; Ga 5,44). Bài học quanh ta sờ sờ trước mắt, biết bao người v́ chút tư lợi và hư danh mà bán rẻ lương tâm, quên mất quyền lợi của quốc gia dân tộc, biết bao kẻ giàu lên một chút là cậy của khinh người, coi thường cả trời đất, biết bao gia đ́nh tan ră v́ tiền bạc, biết bao tổ chức tốt lành bỗng chốc một sáng một chiều ḷng người ly tán chỉ v́ tiền bạc của cải...

02
TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA (2)

 

Như thế, trong cái nh́n của người Công giáo, đàng sau những biểu hiện xă hội c̣n có cả một thế lực vô h́nh là quỷ dữ lừa dối (x. Ga 8,44). Là những thụ tạo vô h́nh, nó lừa gạt những kẻ nhẹ dạ dễ như bỡn. Nó mặc lốt thần ánh sáng (x. 2Cr 11,14), lợi dụng đục nước thả câu, nó cung cấp những kết quả "thần diệu" khiến người ta tin theo nườm nượp. Kinh nghiệm cho thấy, không riêng lănh vực này mà trong mọi lănh vực, kẻ thù của loài người là ma quỷ biến báo đủ cách, dùng đủ thứ mánh lới chỉ cốt để giành giật linh hồn mọi người khỏi t́nh thương nhân hậu và đ̣i hỏi của Thiên Chúa Tạo Hóa là Cha Chung giàu ḷng thương xót. Chính nó đă từ chối t́nh thương Thiên Chúa và đánh mất hạnh phúc đời đời cho nên ghen tị không muốn để con người được hưởng hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Mục đích cuối cùng của nó là lừa gạt để con người tự đánh mất hạnh phúc đời đời.

Đây là điều hết sức quan trọng, can hệ đến hạnh phúc đời đời của chính ḿnh. Người tín hữu cần đề cao cảnh giác để khỏi bị cuốn vào những thực hành đi ngược với đức tin chân chính và để khỏi làm cho người ngoài một lần nữa hiểu lầm quan điểm của Giáo hội Chúa. Người Công giáo tôn trọng những chọn lựa của các anh chị em ngoài Công giáo, nhưng tôn trọng không đồng nghĩa với tán thành... Không nên có những phê b́nh kết án gay gắt nhưng cũng không dễ dăi hùa theo. Cần khẳng định rằng không phải hễ cứ có một số người có học chạy theo là mê tín trở thành chuyện đáng tin.

Người Công giáo cần nhớ lại Giáo hội Việt Nam đă phải trả giá đắt như thế nào để giữ vững đức tin cho tín hữu, thà bị hiểu lầm rằng theo đạo là bỏ ông bỏ bà c̣n hơn là để cho tín hữu rơi vào lầm lạc mê tín.

Cần nhớ rằng ma quỷ có bề dày kinh nghiệm bằng lịch sử loài người và đang thực hiện một công cuộc xuyên lịch sử: đạp đổ ḷng tin vào Thiên Chúa. Để dạy người ta tin vơ thờ quấy thay v́ tin thờ Thiên Chúa, nó tùy cơ ứng biến, tận dụng mọi cách thế, mọi cơ hội và hoàn cảnh, chỉ cốt sao lung lạc được đức tin người đời, dẫn dụ họ tin bất cứ cái ǵ cũng được, miễn là đừng tin vào Thiên Chúa chân thật. Ở một thời mà đêm về thôn quê ch́m trong tăm tối, nó hiện h́nh quấy phá theo một kế hoạch có sẵn, gây sợ hăi để khiến người ta dần dần h́nh thành những tin tưởng lệch lạc có hệ thống. Khi nông thôn được điện khí hóa, nó nhảy vào phim ảnh, TV, video. Đến thời kỹ thuật số nó "phục vụ" trong điện thoại di động và internet. Ở mọi thời, nó t́m mọi cách khiến người ta tham lam, si mê, thù hận...

Sau bao nhiêu năm chiến tranh, thiên hạ có nhu cầu t́m mộ thân nhân, nó mau mắn phục vụ bằng cách khoác áo hồn người chết, giả dạng tổ tiên hiện về mách bảo, vv.. Nó xúi giục người ta phá thai rồi lại mượn danh oan hồn những thai nhi bị sát hại để gây âu lo, tuyệt vọng.

Ma quỷ lộng giả thành chân, dùng thủ thuật pha trộn 50% điều sai với 50% điều đúng, có khi 90% đúng chỉ cần 10% sai cũng đủ dần dần dẫn người ta vào sai lạc.

Với những chạy theo chuyện gọi hồn người chết, nó cung cấp những chi tiết gây tin tưởng: Giọng nói y hệt - lịch sự và thân thiện. Thế nhưng, đă là quỷ th́ chuyện nói giống giọng người này người nọ hoặc cung cấp những chi tiết ngoạn mục về vị trí thi hài người đă chết c̣n dễ hơn trẻ con chơi game. Để thu hút ḷng tin của người lành, nó c̣n đóng vai những bậc tiền hiền hoặc danh nhân lịch sử rất lịch sự, thân thiện và đầy nhân ái. Thậm chí, nó c̣n giả dạng Cha Trời giáng cơ dạy bảo những điều có vẻ lành thánh khiến thiên hạ bị lừa.

Muốn dựng lại quá khứ, ta cần kiên nhẫn t́m ṭi các chứng liệu bằng văn bản, bi kư và các bút tích khác, cần đầu tư cho các bạn trẻ học chuyên sâu về Hán Nôm và lịch sử, tuyệt đối không chạy theo những chuyện vu vơ nhảm nhí. Người tín hữu Chúa thà chấp nhận vất vả và kiên tŕ để biết đúng sự thật hơn là chạy theo những cách giải quyết dễ dăi để rơi vào những giả dối lầm lạc do ma quỷ lừa gạt. Bởi v́, chỉ có sự thật mới đem lại tự do, b́nh an và hiệp nhất.

03
CHUNG MỐI ĐỒNG CẢM

Sau khi đưa lên mạng bài số 16 trong loạt bài “50 năm thờ cúng Tổ Tiên – loan Tin mừng cho ḍng họ”, tôi nhận được bài viết của tác giả Mạc Tường tựa đề “Như gấm thêm hoa”, trùng khít với những điều tôi đang viết. Xin được giới thiệu cùng quí độc giả.

NHƯ GẤM THÊM HOA

Thấm thoát đã gần nửa thế kỷ từ ngày Ṭa Thánh chấp thuận cho giáo dân Việt Nam được thờ cúng ông bà, tổ tiên theo cung cách cổ truyền, miễn là đừng thực hiện những hành vi mang tính dị đoan. Giáo Hội Công giáo Việt Nam cũng đã cổ võ khuyến khích thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên theo tinh thần trên. Riêng Giáo Phận Quy Nhơn, gần đây các bài giáo huấn số 32 và 34 của lịch phụng vụ năm C được rao đọc trước các thánh lễ Chúa Nhật đã nhấn mạnh tính quan trọng và cấp thiết trong việc thiết lập bàn thờ gia tiên, thực hiện các nghi thức lễ bái, nhất là những dịp giỗ, chạp, lễ tết, để nhờ đó có thể sớm xóa tan được thành kiến “theo đạo bỏ ông bà”.

Sau gần nửa thế kỷ, được khuyến khích hòa nhập với cộng đồng dân tộc, hầu xóa sạch những hiểu lầm và hàn gắn những khoảng cách không đáng có giữa người Công giáo và anh chị em lương dân, thử hỏi chúng ta đã hòa nhập đến đâu?

Thật đau lòng và đáng lo ngại! Hiện nay, trong các gia đ́nh Công giáo, một số đă có bàn thờ gia tiên, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bàn thờ được bài trí một cách đàng hoàng, nghiêm cẩn như ở các gia đình lương dân?

Bước vào nhà người Công giáo, trên bàn thờ Chúa cũng như trên bàn thờ gia tiên, thật khó mà tìm thấy một cặp nến màu đỏ như ở các gia đình lương dân. Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải dùng nến trắng trong khi nến đỏ đã được dùng rất lâu ở Việt Nam trước khi có những cây nến màu trắng lạ mắt có nguồn gốc từ Châu Âu?

Trong những dịp lễ lớn chúng ta dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ gia tiên những thức ăn, thức uống, bánh mứt, rượu bia, nước ngọt… Nhưng liệu chúng ta có quen với việc dâng lên một mâm cơm cúng như anh chị em lương dân quen làm không?

Khi trong gia đình Công giáo có tang sự, chúng ta thường rước đoàn kèn Tây (“rất tốn kém và thổi những bản nhạc đời vô tội vạ”, như một Cha sở đã  nói). Chúng ta có đủ can đảm rước một đoàn nhạc bát âm, với những nhạc cụ dân tộc (chỉ diễn những bản nhạc thuộc về tang lễ) như anh chị em lương dân thường làm không? Còn bao nhiêu điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, thực ra lại là hố sâu ngăn cách, khó bề gần gũi giữa người Công giáo và anh chị em lương dân.

Nếu chúng ta không quyết liệt về nguồn, không triệt để canh tân, loại bỏ những cách biệt, thiết nghĩ việc xóa định kiến “theo đạo bỏ ông bà” chắc chắn còn xa, xa vời lắm!

Mong rằng tất cả nọi người Công giáo Việt Nam ý thức được tầm quan trọng và cơ hội mà Hội Thánh đã trao cho chúng ta. Không lý gì chỉ vì màu của cây nến; không lý gì chỉ vì chút ngại ngần trước mâm cơm cúng; không lý gì chỉ vì không quen với dàn nhạc bát âm, và chỉ v́ những tiểu tiết tương tự mà công việc truyền giáo cứ phải măi măi bị ngáng trở!

Những hố sâu, rào cản cần được dỡ bỏ, san bằng để mọi người Việt Nam dễ cảm nhận Đạo Công giáo phù hợp với tấm ḷng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam. Được như thế, trong một viễn cảnh không xa ta có thể thấy hình ảnh các thợ gặt rộn rã với những bó lúa vàng trĩu nặng trên tay trên khắp cánh đồng truyền giáo Việt Nam bao la bát ngát. Và ngày ấy Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ “như gấm thêm hoa”.

MẠC TƯỜNG

04
QUYỂN GIA LỄ CÔNG GIÁO HAY KINH NGUYỆN GIA Đ̀NH

 

Thông cáo 1965 kết thúc: “Yêu cầu quư cha phổ biến rộng răi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài Công giáo. Các vị phụ trách Công giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.

Nói chung, các cha đều có tŕnh bày trên ṭa giảng, cả trong những dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị hôn nhân. Cũng có những người muốn thúc đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc tiến nhanh nhưng h́nh như không mấy ai hưởng ứng. Bài viết của anh Mạc Tường tiêu biểu cho nỗi âu lo thao thức của những người quan tâm tới việc khai mở con đường loan Tin mừng qua việc thờ cúng Tổ Tiên. Phải nói rằng, sau 50 năm, nếu để khai báo thành quả, hầu như chúng ta chưa làm được ǵ mấy. Lắm người bảo việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est” cách nửa vời càng dễ gây phản tác dụng v́ dễ khiến người lương nghĩ rằng người Công giáo không thật ḷng trong việc này.

Sau những năm tích cực nhập cuộc tôi nghĩ sự tŕ trệ có hai lư do. Ngoài lư do tự nhiên là thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể, hẳn c̣n có một lư do siêu nhiên khá bất ngờ là linh tính đức tin của người tín hữu chưa cho phép họ mạnh dạn tiến xa. Ở chia sẻ sau, tôi sẽ nói tới lư do siêu nhiên, c̣n ở đây xin tŕnh bày lư do tự nhiên.

Thật ra, cho tới nay chưa có tài liệu hướng dẫn thực hành chính thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai bản thông cáo 1965 và 1974. Nhiều giáo dân muốn áp dụng nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ, không rơ phải làm ǵ trong thực tế.

Đi t́m hiểu cách thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm nhận ra rằng các truyền thống đạo hiếu được duy tŕ và phổ cập đồng bộ trong dân chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn của một quyển sách mỏng tên là “Thọ Mai gia lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng có lẽ quyển Thọ Mai thịnh hành nhất và có ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho việc áp dụng thông cáo của Hội Đồng Giám Mục đi sâu vào tận các gia đ́nh, cũng cần có một quyển “Gia lễ Công giáo” với những chỉ dẫn cặn kẽ.

QUYỂN GIA LỄ CÔNG GIÁO HAY KINH NGUYỆN GIA Đ̀NH

Đang khi tôi suy nghĩ t́m cách thực hiện th́ Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Ḥa, giám mục Nha Trang, sau khi dự Thượng hội đồng Giám mục về gia đ́nh, đă giao cho tôi dịch tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi dịch xong và tŕnh cho ngài th́ ngài bảo làm một sưu tập những kinh theo tinh thần mới để dùng cho các gia đ́nh. Yêu cầu ấy của ngài cho tôi hiểu ra rằng quyển “Gia lễ Công giáo” không ǵ khác hơn là một quyển “Kinh nguyện Gia đ́nh”, với những đầy đủ các chỉ dẫn cần thiết cho các gia đ́nh, trong đó có những chỉ dẫn về tang lễ, kỵ giỗ và việc thờ cúng Ông Bà. Tôi đúc kết một bản thảo, đem in lụa dùng thử rồi sửa đi sửa lại. Khoảng năm 1986 th́ có được ấn bản mới. Đức Cha Phaolô duyệt qua và cho phép dùng. Sau đó cuối năm 1997 ngài cho imprimatur và Ṭa Giám mục Nha Trang đă chính thức xin phép xuất bản và in lại nhiều lần.

Quyển sách gồm hai phần. Phần đầu là sưu tập một số các kinh cũ, kinh mới, bài hát, thánh vịnh, lời nguyện. Phần hai là những chương tŕnh giờ kinh khác nhau trong gia đ́nh. Trong đó, mục thứ năm là “Những dịp đặc biệt trong gia đ́nh”, với những hướng dẫn về cúng lễ gia tiên, dọn tất niên, tưởng nhớ gia tiên dịp tết nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên, lễ bổn mạng một người trong gia đ́nh, giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật, nghi thức lễ cưới ở gia đ́nh, giáp năm ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà. Mục thứ sáu là chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho người hấp hối. Mục thứ bảy là “Cầu nguyện cho tín hữu đă qua đời”, với những hướng dẫn về viếng thi hài, canh thức cầu nguyện tại tang gia, nhập quan, động quan và di quan, trước khi hạ huyệt, nghi thức hoả táng và nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đ́nh. Mỗi mục nhỏ ấy đều gồm những chỉ dẫn thực hành (giống như các “lời bảo” ngày xưa) và những kinh hoặc bài hát thích hợp (lấy ở phần đầu của quyển sách). Xin nêu mục nhỏ thứ nhất làm minh họa.

CÚNG LỄ GIA TIÊN (phiên bản 1986)

Thiên Chúa đă tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết các bậc tiền nhân nào đă thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người công giáo không làm một sự thờ phượng ở ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ đó mà thêm ḷng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi t́nh phụ tử trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.

Người Việt Nam có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đ́nh có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm t́nh ấy bằng việc cúng lễ. Người tín hữu công giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nh́n chính xác, phù hợp với đức tin Kitô giáo.

Mỗi gia đ́nh nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đă có bàn thờ th́ nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh.

H́nh thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm, mỗi tối, mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng cầu nguyện một phút.

Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không hợp t́nh hợp lư. Về h́nh thức, chỉ cốt sao biểu lộ được tấm ḷng và giúp các cháu nhỏ học được ḷng biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.

Khi cúng lễ, cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin công giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ ḷng biết ơn kính nhớ mà thôi.

Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đ́nh chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt th́ vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.

Chương tŕnh đơn giản như sau:

1. Thắp hương đèn trên bàn thờ

2. Dấu thánh giá

3. Kinh Lạy Cha

4. Tạ ơn Chúa:

Xướng: Ta hăy tạ ơn Thiên Chúa đă đưa các bậc tổ tiên ta về với Ngài.

Đáp:

A. Chúa trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên

Và nhớ măi lời xưa giao ước

B. Chúa đă thề với tổ phụ Ab-ra-ham

Rằng sẽ giải phóng ta khỏi địch thù

5. Cầu cho các tín hữu đă qua đời:

X. Ta hăy cầu nguyện cho các linh hồn ở luyện ngục

Đ.

A. Chúng con cậy v́ Danh Chúa nhân từ

Cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

B. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

6. Lời nguyện với tổ tiên (do vị chủ lễ đọc):

Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, cùng các bác, các chú, thím, cô d́, cậu mợ và mọi anh chị em đă qua đời.

Hôm nay nhân ngày ... (nhân ngày đầu năm, cuối năm, hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ ḷng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được b́nh an mạnh khoẻ, được hoà thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ư Thiên Chúa muốn ...

(Vị chủ lễ vái 4 vái. Những người hiện diện tuần tự tiến lên vái mỗi người 4 vái và cầu nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát một bài tạ ơn để kết thúc).

XIN GÓP Ư

Đó là mục thứ 18 trong phần II của quyển “Kinh Nguyện Gia Đ́nh” và cũng là mở đầu cho phần “Gia lễ Công giáo”. Có thể một số độc giả đă từng sử dụng quyển sách và biết phần hướng dẫn ở các mục khác tương tự. Quư độc giả nào chưa biết quyển sách, xin tải xuống từ địa chỉ:

http://gpquinhon.org/qn/download/tu-duc/Kinh-nguyen-gia-dinh/

Đóng góp của tôi trong quyển sách chỉ mới là một cố gắng cá nhân. Tôi đă cố gắng bám sát những trường hợp có thật và đa dạng để xây dựng các lời chỉ dẫn cho đúng thực tế. Dù vậy, c̣n rất nhiều thiếu sót.

Đă hơn 25 năm. Cả những bài hát trong đó đă nhiều bài bị đào thải. Nay chuẩn bị mừng 50 năm áp dụng huấn thị Plane compertum est, Ban Mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đang duyệt lại toàn bộ để phát hành với tựa đề mới là SÁCH GIA LỄ CÔNG GIÁO.


05
50 NĂM LINH TÍNH ĐỨC TIN – NGHI THỨC CÚNG GIỖ

 

Xin được tŕnh bày lư do thứ hai, lư do siêu nhiên, khiến  việc áp dụng huấn thị Plane compertum est trong 50 năm qua tiến rất chậm. Suy cho kỹ, chúng ta sẽ phải cảm tạ Thiên Chúa vô cùng v́ sự an bài kỳ diệu Ngài đă làm cho Giáo hội tại Việt Nam trong lănh vực này, nơi cuộc tranh luận 1610-1742 xưa kia cũng như nơi sự tŕ trệ 50 năm qua. Măi đến hôm nay, cả những linh mục đă đọc kỹ hai thông cáo 1965 và 1974 vẫn thấy ngập ngừng liệu có nên khuyến khích giáo dân bày đồ cúng lên bàn thờ với các thức ăn như xôi, chè, thịt, cá. Sự ngập ngừng ấy không phải không có lư do. Vậy đâu là trở ngại và đâu là cách giải quyết?

Sau hơn 20 năm tích cực nhập cuộc, nghe ngóng, xem xét, suy tư và sáng tạo thể nghiệm, tôi nhận ra rằng nơi sự dè dặt ấy có ơn của Chúa Thánh Thần rất rơ. Sự dè dặt ấy có thể nói là một minh họa sống động hiếm hoi cho trường hợp thứ ba của ơn vô ngộ là cảm thức đức tin của Dân Chúa mà cha Phi Khanh Vương Đ́nh Khởi gọi dịch rất chính xác là “linh tính đức tin” của các tín hữu (x. Sách Giáo Lư của Hội Thánh Công Giáo, số 889). Mặc dù hai thông cáo 1965 và 1974 mở rộng cửa, cả các linh mục lẫn giáo dân đều cảm thấy có cái ǵ đó chưa ổn. Người ta linh cảm rằng ở đây, giữa ư nghĩa dấu chỉ tượng trưng và những ngộ nhận dẫn đến mê tín, ranh giới thật mong manh. Đang khi có những tác giả mới như Khải Chính Phạm Kim Thư (Nguyên tắc cúng, khấn, vái và lạy – dactrung.net) diễn giải các chi tiết một cách trong sáng, gần gũi với cách nh́n của Giáo hội Công giáo th́ các sách nghi lễ hiện hành kết thúc các văn tế với lời mời tiền nhân về “phối hưởng” các lễ phẩm (ví dụ trong quyển “Tập Văn tế mẫu Cúng Gia Tiên”, Thái Vy biên soạn, Nxb Thanh Hóa,2007). Các bài văn tế hiện dùng thường dịch lại sát các bản văn xưa và cũng mang ư nghĩa mời người xưa về hưởng các lễ phẩm. Nói tắt, vẫn c̣n một tỉ lệ lớn bà con lương dân nghĩ rằng Ông Bà Tổ Tiên về hưởng của cúng.

Có nh́n vào thực tế ấy, ta mới hiểu được tính nghiêm túc của cuộc tranh luận kéo dài cả 130 năm từ sau cái chết của cha Matthieu Ricci (1610) và của huấn thị Ex quo singulari. Thực tế ấy cũng giúp chúng ta thông cảm với lập trường dứt khoát và cứng rắn của anh em Tin lành trong vấn đề “ăn của cúng”.

Những chi tiết văn hóa khi hội nhập vào cuộc sống người Kitô hữu phải được mặc lấy một ư nghĩa mới, nhưng đó là ư nghĩa nào? Ở đây, không thể xuề x̣a hay nhập nhằng thỏa hiệp.

Thông cáo 1965 nói: “nếu cần, th́ phải giải thích chủ ư của ḿnh một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời”, và thông cáo 1974 nói nếu “sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…”. Thật ra đó là việc vượt quá khả năng người giáo dân b́nh thường. Ngay cả khi họ vẫn nắm vững và biết cách giải thích, khung cảnh thực tế của sự việc thường rất tế nhị, những giải thích như thế sẽ thiếu tự nhiên, lắm khi c̣n vô t́nh gây những căng thẳng không đáng có.

Để giúp vượt khỏi những ngập ngừng dè dặt kia cũng như những trường hợp khó xử này, cần có một quyển gia lễ hướng dẫn cặn kẽ cho việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, để qua đó cả người giáo lẫn người lương đều có thể hiểu cách dễ dàng là Giáo hội muốn dạy ǵ. Phiên bản “Kinh nguyện gia đ́nh” 1986 của chúng tôi cũng chỉ mới nêu một số đề xuất mang tính ḍ dẫm. Sau hơn 25 năm thể nghiệm, chúng tôi thấy vấn đề khá rơ. Với phiên bản “Sách Gia lễ Công giáo” sắp ấn hành, chúng tôi xin được mạnh dạn đề xuất một bản văn “nghi thức cúng giỗ” như sau. Rất mong được độc giả bốn phương, Công giáo cũng như ngoài Công giáo, góp ư hoàn chỉnh. Xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com

NGHI THỨC CÚNG GIỖ

Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đă giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin ơn giải thoát cho những người đang cần được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn. Đối với những người mới qua đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu hồn, c̣n đối với những người đă qua đời rất lâu năm, ta có thể chú trọng hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa nhân từ đă thứ tha và giải thoát. Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thế giới lệ thuộc không gian và thời gian, c̣n tiền nhân đă khuất đang thuộc về một thế giới vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ư niệm “rồi” và “chưa” theo cách ta quen suy nghĩ ở đời này đem áp dụng cho thế giới đời sau không khỏi có phần khập khiễng. Nói đến đời sau là ta đang chạm đến những mầu nhiệm vượt khỏi mọi ư niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ rằng ngay cả những vị đă chết mà không chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đă có cách cứu vớt họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.

Cũng đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi c̣n sống, họ đă yêu thương cầu nguyện cho ta, th́ khi đă về với Chúa, họ c̣n yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ c̣n hữu hiệu hơn.

Bữa ăn giỗ là để phát huy t́nh cảm gia đ́nh và gia tộc, lắm khi là để giúp vượt qua những bất ḥa bất thuận trong cuộc sống, để ai nấy lại thấy ấm t́nh hiệp thông và hiệp nhất. Do đó, từ chương tŕnh đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong t́nh hiệp nhất thân mật. Nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách th́ nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi người trong gia tộc.

Trên bàn thờ, có thể dùng nến hồng (ngụ ư xin Chúa ban phúc lành cho mọi người có mặt và vắng mặt) hoặc nến trắng (ngụ ư nói lên ḷng tin, cậy và yêu mến Chúa). Cũng có thể dọn mâm cơm trước bàn thờ theo truyền thống dân tộc. Về nghi thức cầu nguyện, có thể theo một trong ba h́nh thức sau đây.

A. H́nh thức thứ nhất:

- Gia chủ nói đôi lời tuyên bố lư do: giỗ ai, mấy năm, vài nét về người đă khuất (nếu là giỗ chung th́ nói chung về những tiền bối liên hệ) và mời mọi người cầu nguyện

- Gia chủ ghi dấu thánh giá, xướng kinh Lạy Cha,

- Có thể đọc vài câu Lời Chúa

- Hát một bài

- Lời nguyện trên của cúng:

 “Lạy Cha, xin chúc lành cho những của ăn Cha đă rộng ḷng ban cho chúng con mà chúng con dùng để bày tỏ niềm hiệp thông thân thương và quư mến đối với người thân yêu đă khuất. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.”

- Lời nguyện lễ giỗ:

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đă thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đă qua đời đang cần tới ḷng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

(Có thể thêm: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ ḷng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đă sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.)

X. Chúng con cậy v́ Danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi.

Đ. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

B. H́nh thức thứ hai

Chủ sự tuyên bố lư do rồi nguyện kinh trước bữa ăn hoặc hát một bài xin Chúa chúc lành rồi mời mọi người dùng bữa.

 

C. H́nh thức thứ ba

Nếu cử hành nghi thức cúng giỗ theo truyền thống dân tộc th́ thực hiện theo thứ tự sau đây

1. CHUẨN BỊ ĐỒ CÚNG

Sau khi dọn thức ăn, mọi người tề tựu nghiêm trang, chủ lễ cầu nguyện trên của cúng.

2. LỜI NGUYỆN TRÊN CỦA CÚNG

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

Lạy Cha là Chúa Trời Đất, là Cội Nguồn duy nhất và là Hạnh Phúc đích thật của muôn loài. Chúng con cảm tạ Cha đă ban những lương thực này để nuôi sống chúng con như đă nuôi sống những người đi trước chúng con. Giờ đây những người đă khuất không c̣n cần đến những lương thực này nữa nhưng trước khi chúng con cùng nhau dùng bữa tưởng nhớ (người thân của chúng con/họ/các ngài),  chúng con muốn bày tỏ niềm kính trọng, mến thương và hiệp thông qua dấu hiệu thân thương của bữa ăn. Nhờ đó, chúng con cảm thấy người đă khuất vẫn hết sức gần gũi với chúng con. Nếu (người thân của chúng con/họ/các ngài) c̣n vướng mắc những lỗi lầm thiếu sót, cúi xin Cha thương sớm hoàn tất cuộc thanh tẩy để (người thân của chúng con/họ/các ngài) sớm được hưởng Tiệc vui đời đời. Cúi xin Cha cũng thương cho tất cả chúng con đây một ngày kia được chung hưởng niềm vui Nước Trời với Cha và với những người thân yêu đă đi trước chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Con Cha, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thở muôn đời. Amen.

(Nếu có sẵn nước thánh, chủ lễ nói những lời sau đây trước khi rảy:

- Thưa anh chị em, chúng ta cảm ta Chúa đă ban bí tích Thánh Tẩy để tái sinh chúng ta làm con cái Chúa. Nước thánh chúng ta dùng đây là nước tự nhiên nhưng chúng ta đă xin Chúa chúc lành để thành dấu hiệu nhắc chúng ta nhớ đến ơn làm con cái Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Có những người chưa được lănh nhận bí tích Thánh Tẩy bằng nước, nhưng ḷng đă hướng về Chúa và đă cố gắng sống ngay chính theo lương tâm, th́ cũng được Thiên Chúa thanh tẩy trong máu Chúa Kitô. Với nước thánh này rảy trên của cúng, chúng ta cảm tạ Chúa đă cho tiền nhân được làm người và hơn nữa, c̣n được làm con cái Thiên Chúa và được chung phần hạnh phúc đời đời với Chúa.

(chủ sự rảy nước thánh trên của cúng) 

Mọi người cùng đọc chung Kinh Lạy Cha.

 

3. VĂN KHẤN

(Văn khấn đọc trước bàn thờ, nên viết ra giấy thật rơ ràng, bỏ những chữ thừa, để khi đọc không lẫn lộn, mất nghiêm túc)

VĂN KHẤN VỚI MỘT NGƯỜI ĐĂ KHUẤT TRONG NGÀY GIỖ RIÊNG

Ông (Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) kính mến (hay thân mến),

Hôm nay là ngày giỗ (đầy năm) của Ông (Bà/Cha/ Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/ Mợ/Anh/Chị/Em). Tất cả chúng con (chúng tôi) quy tụ về đây để tưởng nhớ.

Chúng con (chúng tôi) không quên được h́nh ảnh của (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/ Cô/D́/Cậu/Mợ/Anh/Chị hoặc Em). Dù nay c̣n phải buồn sầu xa cách v́ sự chết, nhưng mai kia chúng ta sẽ lại sum vầy bên nhau trong cơi ḷng của Thiên Chúa T́nh Yêu. Là con cái Chúa, chúng ta biết rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi và thời lưu ngụ dưới trần chấm dứt là để nhường chỗ cho hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Chúng con (chúng tôi) họp nhau cầu xin Thiên Chúa là Cha, nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, sớm hoàn tất những thanh luyện cần thiết cho (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) và đưa về hưởng phúc muôn đời. Chúng con (chúng tôi) cũng xin (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/Anh/Chị/Em) nhớ đến chúng con (chúng tôi), chuyển cầu cho chúng con (chúng tôi) trước nhan Chúa để chúng con (chúng tôi) được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và măi măi. Amen.

VĂN KHẤN VỚI TỔ TIÊN TRONG NGÀY GIỖ CHUNG (GIỖ TẾ HIỆP)

Hôm nay là ngày … tháng… năm… Tất cả chúng con cùng quy tụ nơi đây để tưởng nhớ toàn thể tiên nhân trong Gia tộc, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, các Bác, các Chú, Thím, Cô, D́, Cậu, Mợ và các Anh Chị Em đă hoàn tất hành tŕnh dương thế trước chúng con.

Thiên Chúa Toàn Năng là Cha Trên Trời, là Cội Nguồn duy nhất, là Đấng Tạo Hóa đă thương tạo dựng nên tất cả, cho sống trên cơi đời này rồi lại  thương gọi về cho hưởng phúc đời đời với Ngài.

Chúng ta yếu hèn tội lỗi, nhưng Chúa Cha giàu ḷng thương xót đă cho Con Ngài là Chúa Kitô đến hy sinh, chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá mà cứu chuộc và ban ơn tha thứ; nhờ đó, chúng ta được thoát ách sự chết và được sống luôn măi cho Thiên Chúa là Cha.

Hôm nay chúng con họp nhau cùng cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân ấy. Chúng con cầu xin cho tất cả những ai đang cần ơn giải thoát, sớm được Thiên Chúa hoàn tất những thanh luyện cần thiết và đưa về hưởng phúc muôn đời.

Chúng con cũng xin các bậc tiền nhân nhớ đến chúng con, chuyển cầu cho chúng con trước nhan Chúa để chúng con được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và măi măi. Amen.

Sau phần văn khấn, chủ sự đọc lời nguyện lễ giỗ và lời nguyện báo hiếu:

Chúng ta dâng lời cầu nguyện.

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đă thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đă qua đời đang cần tới ḷng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ ḷng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đă sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Để kết thúc phần nghi thức, chủ sự xướng cho mọi người đáp như sau:

- X: Chúng con cậy v́ Danh Chúa nhân từ, xin cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

 - Đ: Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

4. NIỆM HƯƠNG

Từng người đến khấn và vái trước bàn thờ gia tiên và bàn thờ của vị được tưởng nhớ trong ngày giỗ.

Cầm hương trong tay và khấn thầm hoặc nói lớn rồi thinh lặng, lâu hay mau tùy ư tùy ḷng, rồi cắm hương lên các bàn thờ. Sau đó có thể vái, lạy hoặc phủ phục, rồi lui xuống, nhường chỗ cho người khác.

Ghi chú về việc niệm hương:

Theo tập tục Việt Nam, với người sống, ta lạy hai lạy và vái hai vái; với người đă khuất c̣n quàn tại nhà, cũng kể là c̣n sống nên ta lạy hai lạy và vái hai vái (khi phúng điếu người ở vai vế thấp hơn ḿnh, người ta chỉ vái chứ không lạy). Từ sau khi hạ huyệt, mới kể là đă chết, th́ lạy bốn lạy và vái bốn vái. Trong lễ giỗ, ta tưởng nhớ người đă khuất nên cũng lạy bốn lạy và vái bốn vái. Những con số hai và bốn ấy chỉ có ư nghĩa tương đối theo nguyên lư âm dương. Là người Công giáo, ta có thể làm theo tập tục ấy, mà cũng có thể vái ba vái trong tâm t́nh cầu nguyện với Thiên Chúa Ba Ngôi cho người đă khuất.


06
TÂM TƯ NGƯỜI NĂM MƯƠI NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN
 

 

Dấn thân t́m cách đem Tin mừng của Chúa đến cho người đồng tộc, tôi được biết một đại biểu nọ được Ban Chấp hành Ḍng họ Tỉnh giao trách nhiệm chuẩn bị Đại hội Ḍng họ tại địa bàn huyện. Ông vận động rất nhiệt t́nh nhưng lắm người nghi ngại không tham gia. Ông dẫn chứng rằng đây là một sinh hoạt đang được đồng tộc cả nước quan tâm, cả những người Công giáo cũng đang nhập cuộc. Một người phản bác:

- Coi chừng lại bị mấy anh Công giáo “phỉnh” theo đạo.

Câu nói đặc thù rất phổ biến và khá tiêu biểu. H́nh như anh chị em người lương dị ứng, xem việc tin theo Chúa như một việc tệ hại cần đề pḥng!

Sự kiện ấy dễ hiểu. Thử h́nh dung xem, một kẻ ác ư nào đó dùng tin nhắn điện thoại phát đi liên tục những điều vu khống bịa đặt về bạn một cách có hệ thống và bạn không thể thanh minh biện hộ ǵ cả. Mà dù muốn thanh minh biện hộ cũng chẳng biết những điều bôi nhọ ấy đă phát tán tới tận những ai. Có thể càng thanh minh, chuyện càng gây chú ư ầm ĩ, bạn đành thinh lặng. Chỉ sau một tháng thôi, cả thôn cả xă xầm x́ đủ điều về bạn. Bạn chẳng bị thân bại danh liệt th́ cũng thấy mặc cảm đủ điều. Đàng này những chuyện bịa đặt bôi nhọ Đạo Chúa kéo dài từ cuối thế kỷ XIX đến nay với đủ thứ thêu dệt truyền miệng thật hấp dẫn, thậm chí c̣n diễn thành tiểu thuyết và phim ảnh. Dân chúng chỉ được nghe măi một chiều, “mưa dầm thấm lâu”, họ sẽ nghĩ ǵ về Đạo Chúa? Tôi đề nghị tổ chức ngày truyền thống từng ḍng họ và mời anh chị em lương dân tới chính là để họ có thể thấy tận mắt mọi sự ngược hẳn điều họ đă hiểu lầm từ tấm bé.

Không kể những sách báo phim ảnh bài xích Kitô giáo đă gây ấn tượng lệch lạc sâu đậm trong tâm trí người dân, việc truyền giáo ào ạt và hời hợt cuối thập niên 1950 đầu 1960 có thể đă khiến quần chúng như bị chích vác-xanh “pḥng dịch”, đẩy lùi sự xâm nhập của hạt men Kitô giáo. Cả việc dạy giáo lư dự ṭng vội vă chiếu lệ nhiều nơi hiện nay cũng đang gây nên tác dụng hiểu lầm ấy.

Rất nhiều người tẩy chay, từ chối không cầm đến sách vở và băng đĩa Công giáo. Ư thức t́nh trạng ấy, tôi không phân phát sách vở Công giáo hàng loạt. Chỉ một số người đă có t́nh thân hoặc cảm t́nh rồi, tôi mới tặng sách. Ngoài ra, chỉ những ai xin, tôi mới tặng. Nếu thấy họ có vẻ muốn đọc, tôi gợi ư để họ xin rồi mới tặng. Chính Chúa Giêsu đă ân cần dặn môn sinh phải dè dặt, đừng tạo cớ cho người ta giày đạp “của thánh” và “ngọc quư” (x. Mt 7,6).

Tuy nhiên, tôi lại cũng có một ghi nhận khác. Đang khi từ chối sách vở và băng đĩa Công giáo th́ người ta lại trân trọng tấm ḷng. Có thể lúc đầu họ ngập ngừng, nhưng sau khi đă trắc nghiệm và thấy rơ sự chân thành của ta, họ rất quư mến. Người ta quư mến v́ thấy tôi không chăm chăm nói chuyện Đạo, chỉ nói chuyện họ hàng. Tuy nhiên, khi được mời thắp hương th́ tôi cho họ thấy ḷng tin Kitô giáo của tôi. Tôi ghi dấu thánh giá chậm và rơ, rồi cầu nguyện lớn tiếng. Tôi nguyện kinh Lạy Cha và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, xin Ngài ban ơn lành cho bà con đồng tộc tại địa phương. Sau đó, tôi dâng lời cầu nguyện với các bậc Tổ tiên đồng tộc tại từ đường, xin các vị bầu cử trước nhan Thiên Chúa Tạo Hóa cho con cháu được mọi điều may lành.

Ở một số trường hợp, sau khi tôi cầu nguyện như thế, người ta đă nêu những câu hỏi và tôi trả lời. Đúng là tôi không tuyên truyền về đạo nhưng chỉ trả lời thắc mắc của họ.

Cũng có một cơ hội thường gặp khác mà tôi có thể dựa theo để nói lên quan điểm Kitô giáo cách hồn nhiên. Đó là khi người ta than phiền về t́nh cảnh suy đồi đạo lư, với những bản tin cụ thể, lặp lại từ báo, từ đài… Tôi chia sẻ với họ rằng đây chính là lư do khiến tôi dấn thân cho trào lưu nối kết ḍng họ. Là linh mục, tôi xác tín rằng cần phải kết hợp mọi lời kêu gọi thành một bản hợp ca. Có nhiều cơ quan đoàn thể lên tiếng, các gia tộc lên tiếng và chức sắc các tôn giáo lên tiếng. Dù tất cả đều lên tiếng cùng một lúc nhưng không có sự đồng thuận và hỗ trợ lẫn nhau th́ sẽ không tạo được kết quả. Chẳng khác nào nhiều người đơn ca cùng một lúc, mà mỗi người hát một bài riêng hay một kiểu riêng, th́ tất cả chỉ tạo nên một tạp âm gây khó chịu cho người nghe. Có thể số người hát ít hơn nhưng phối hợp hài ḥa với nhau th́ sẽ tạo được âm hưởng tốt, thông điệp sẽ mạnh mẽ hơn.

Để phát triển xă hội, Singapore bắt đầu từ giáo dục và Bộ Giáo dục Singapore yêu cầu mỗi học sinh phải theo một trong năm tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Tựa như phong trào Hướng Đạo quốc tế, đạt được kết quả giáo dục cao là nhờ luôn đ̣i hỏi mỗi đoàn viên đều phải thực hành một tôn giáo. Nam Hàn cũng đang làm điều tương tự. Họ đă phát triển nhờ dân chúng có ḷng tin tôn giáo sâu sắc: Phật giáo, Tin lành, Công giáo. Để mọi người dân đều tích cực xây dựng quê hương đất nước, Nam Hàn không những phát huy tinh thần dân tộc qua Thái Cực Đạo mà c̣n hỗ trợ các tôn giáo đóng góp hữu hiệu vào công cuộc giáo dục.

Việt Nam không có Thái Cực Đạo nhưng có tinh thần uống nước nhớ nguồn, đồng tộc yêu thương đùm bọc, biết nhắc bảo nhau, và đồng thời cũng có tôn giáo. Trước thảm trạng nền đạo đức đang lao nhanh xuống vực thẳm, muốn phục hồi lại ḷng tốt, muốn tái tạo lại lương tâm, chỉ riêng ḍng tộc hay chỉ riêng tôn giáo thôi không đủ. Cần kết hợp cả hai.

Những lư do thời cuộc khiến nhiều người ngại nói đến hai chữ truyền giáo, nhưng theo tôi, đă đến lúc cần mạnh dạn nêu rơ sự cần thiết của yếu tố tôn giáo trong việc giáo dục lương tâm cho người dân, cách riêng là các bạn trẻ.

Với những tâm tư ấy, tôi viết loạt bài chia sẻ này không riêng cho các linh mục và anh chị em đồng đạo nhưng chung cho hết mọi người Việt Nam đang tha thiết với việc phục hưng tấm ḷng cho đồng bào, cách riêng là cho lớp trẻ. Ước ǵ mọi người Công giáo đều nhập cuộc t́m hiểu lại Đạo Hiếu cách nghiêm túc và ước ǵ mọi anh chị em ngoài Kitô giáo hăy một lần cầm lấy Kinh Thánh, đọc và nghiền ngẫm, để hiểu rơ và xác tín rằng cả đôi bên đang cùng bước chung một đường.

 


07
NGỎ LỜI VỚI BẠN ĐỌC NGOÀI KITÔ GIÁO

 

Có thể bạn, người đang đọc những bài này, là một người ngoài Kitô giáo. Nếu thế, tôi xin được gửi đến bạn một lời chào chúc đặc biệt. Thân ái cầu chúc bạn sớm nhận ra t́nh Cha của Thiên Chúa. Tôi không giấu giếm rằng tôi đang khao khát và nôn nóng muốn chia sẻ với bạn niềm hạnh phúc chúng tôi đang có, niềm hạnh phúc được làm con Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao, Chí Thánh, Nhân Hiền và Hằng Sống.

Tôi đang chia sẻ với bạn một Tin mừng, một niềm vui. Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang làm công tác truyền giáo th́ cũng chẳng sao. Bởi lẽ truyền bá một tôn giáo tốt lành th́ chẳng có ǵ xấu xa. Lắm người làm như thể khi chúng tôi bảo nhau truyền giáo là chúng tôi đang âm mưu làm một chuyện ǵ đen tối, bậy bạ, chẳng khác nào đang lén lút rủ nhau phạm những tội ác ǵ quái gở! Ô không, bạn thấy đó, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ với mọi người một thông tin quan trọng và hữu ích: Đó là, tất cả chúng ta đều có chung một người Cha là Thiên Chúa Tạo Hóa, chẳng phải v́ chúng ta xứng đáng ǵ để được làm con Ngài, nhưng chính Ngài đă yêu thương chúng ta đến nỗi đă tặng ban người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta, đến làm Anh Cả của nhân loại, cho tất cả chúng ta thành em của Người Anh Cả ấy và thành con cái của Cha trên trời.

Có thể những Kitô hữu bạn gặp là chúng tôi đây c̣n có rất nhiều khuyết điểm, nhiều điều đáng trách, không xứng danh là con cái Thiên Chúa. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn cố gắng đổi mới chính ḿnh và, trong nỗ lực ấy, chúng tôi chân thành chia sẻ với bạn về Đấng là Cha chung của chúng ta.

Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đă xuống thế làm người để những ai tin vào Ngài th́ sẽ nhờ Ngài mà được trở nên con cái Thiên Chúa. Những ai nghĩ rằng đó là chuyện đùa, sẽ không bao giờ biết được sự thật. C̣n những ai nhận biết được sự thật này, sẽ vô cùng hạnh phúc. Có những người cảm thấy sung sướng được làm con một thủ trưởng, một thủ tướng, một vị vua... Nỗi sung sướng ấy làm sao sánh được với hạnh phúc của bạn khi nhận ra ḿnh là con của Thiên Chúa... Nếu tới đây bạn vẫn chưa nhận ra điều ấy th́ bạn nên dành vài phút thật thinh lặng, gạt bỏ hết mọi suy nghĩ và âu lo, rồi khẽ thưa với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa Tạo Hóa, nếu quả thật Ngài là Cha của con, xin hăy tỏ cho con biết điều đó”. Mỗi tối, hăy dành dăm phút thinh lặng để ngỏ lời như thế, rồi bạn sẽ thấy... Đừng sợ mất dăm phút để đổi lấy một cuộc đời, hơn nữa, đổi lấy cả một cuộc sống đời đời…

Khi đi t́m những cội nguồn nhân loại, người ta quư từng trang viết chắp vá, từng chi tiết nhặt nhạnh đây kia, từng dấu vết mờ nhạt của người xưa. Quyển sách nói về cội nguồn chung của nhân loại, là bộ Kinh Thánh, h́nh thành từ thế kỷ XIII trước Công nguyên đến cuối thế kỷ I của Công nguyên, cho đến nay vẫn c̣n nguyên vẹn nội dung thuở ban đầu. Bạn hăy thử đọc một lần để nhận ra sự thật kỳ diệu về cả nhân loại và về chính ḿnh... Tại sao không?

Nhiều trường hợp con cháu không biết tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp vị thủy tổ có ghi trong gia phả, hoặc v́ do kiêng cữ hay là do tôn trọng không dám nhắc đến, hoặc v́ lười lĩnh không bao giờ chịu mở gia phả. Bộ gia phả của gia tộc là thế mà bộ sách viết về Thiên Chúa cũng thế. Nếu ta không bao giờ đọc đến th́ cũng chẳng thể nào biết được Thiên Chúa là ai và Ngài đă làm ǵ cho ta.

Toàn bộ Kinh Thánh được tóm tắt nơi câu chuyện Người Cha nhân hậu ở sách Tin Mừng theo Thánh Luca 15,11-32: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đă chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đăng, phung phí tài sản của ḿnh... Thế nhưng rồi giữa đau thương buồn tủi, anh ta nhận ra lỗi của ḿnh và đă quay về với Cha.”

Một khi bạn đă nhận ra ḿnh là con của Trời Cao, bạn hăy thưa chuyện với Cha theo lời kinh mà chính Chúa Giêsu Kitô là Con Duy Nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha đă dạy:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”

Được làm con cái Trời Cao là ước mơ sâu thẳm tận đáy ḷng mọi người và là điều đă được Con Một của Trời Cao là Chúa Cứu Thế Giêsu đến loan báo và thực hiện cho nhân loại. Thế nhưng có người không dám tin v́ vinh dự ấy đ̣i hỏi họ phải sống một cuộc sống mới. Cũng có người tin nửa vời, chỉ mang danh nghĩa con cái Thiên Chúa mà không thực sự sống như thế. Nhận biết t́nh Cha của Thiên Chúa là một ơn lớn của Chúa ban, do đó, ta cần tha thiết xin Chúa ban cho ta ơn ấy.

Được biết Thiên Chúa là Cha, bạn sẽ sung sướng nhận ra rằng người Cha ấy ôm ấp trong ḷng Ngài cả bản thân bạn và Tổ tiên bạn. Bạn trả lời cho tôi xem, mỗi khi nghĩ đến Ông Bà Tổ Tiên, bạn h́nh dung thấy họ ở đâu? Ở với Nguồn Cội nào? Nơi họ ở tối tăm hay rực sáng? Nếu rực sáng th́ ánh sáng ấy do đâu?

Phần tôi, nhờ được Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, tôi biết chắc chắn không sợ sai lầm chút nào, tôi biết rất rơ rằng: “Họ sẽ được nh́n thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ. Sẽ không c̣n đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, v́ Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Khải huyền 22,4-5). Mỗi lần gặp thử thách trên đường phục vụ, tôi mau chóng t́m lại được b́nh an khi nhớ đến Chúa và tất cả những người đă đi trước tôi đang ở trong Chúa và đang đợi chờ tôi nơi nhà đời đời của Thiên Chúa. Tôi nghĩ đến chị Hai tôi, các em dâu tôi, Cha tôi, các Chú Thím, Cậu Mợ, Cô D́, những Linh mục đàn anh và các Bạn hữu... đă hoàn tất cuộc đời và đang được no thỏa, mỗi người một vẻ, trong nhà Cha Chung trên trời. Tôi thấy tràn ngập mến thương và mong sớm tới ngày đoàn tụ với tất cả. Trong tôi như có một nỗi giằng co êm dịu, một đàng mong sớm về Nhà Cha là quê hương đích thật, một đàng lại khao khát được măi măi hiến dâng cuộc sống để đem biết bao anh chị em chưa nhận biết Thiên Chúa về với T́nh Cha muôn thuở.

Mời bạn tiếp tục đọc các bài chia sẻ của tôi. Không riêng tôi, nhiều người đang nghĩ đến bạn và đang nguyện xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành cho bạn và gia đ́nh. Cầu chúc bạn ngày càng nhận ra ḿnh là con của Trời Cao và sống thật xứng với danh nghĩa ấy.

 


.3
TRONG
CHÚA GIÊSU KITÔ

01
NHỮNG CỘI NGUỒN ẢO

 

Tuần Thánh năm 2010, tôi được đi thăm huyện đảo Lư Sơn. Những bia mộ ở đây có một nét đặc biệt. Tất cả các mộ họ Vơ dù thuộc nhánh nào cũng bắt đầu bằng ba chữ “Thái Nguyên Quận”. Họ Nguyễn là “Trần Lưu Quận”, họ Bùi là “Hà Đông Quận”, họ Trần là “Vĩnh Xuyên Quận”, họ Trương là “Thanh Hà Quận”, họ Dương là “Hoàng Nông Quận”, họ Lê là “Kinh Triệu Quận” và họ Phạm là “Cao B́nh Quận”. Phần đông cư dân trên đảo cho rằng đó là tên những châu quận trên đất liền mà các ḍng họ này phát xuất. Tôi rất ngạc nhiên v́ một vài địa danh rất lạ, mới được nghe lần đầu, và v́ không có thời nào trong lịch sử đất nước đă được trực tiếp chia thành quận thay v́ tỉnh. Khi đến thăm chùa Từ Quang ở An Hải, tôi nêu câu hỏi và thầy Thích Hành Hỷ đă cho một câu trả lời khá thỏa đáng. Theo thầy, việc ghi châu quận như thế chỉ áp dụng cho người chết chứ không cho người sống. Tập tục này được ghi trong quyển Lịch Vạn Niên. Một phụ lục của quyển này liệt kê 510 ḍng họ, mỗi ḍng họ có kèm theo tên một châu quận và một số ḍng họ có chung châu quận. Người ta h́nh dung địa lư cơi âm có nhiều châu quận khác nhau, khi sống người ta có thể trôi dạt bất cứ đâu trên trái đất, nhưng khi chết th́ ai về châu quận nấy. Như thế, ba chữ “Thái Nguyên Quận” trên bia mộ người họ Vơ không phải là địa chỉ xuất phát nhưng là địa chỉ đến.

Tôi đă có dịp đến thăm cụ Vũ Hiệp tại tư gia ở đường Lư Tự Trọng, quận I. Là một nhà nghiên cứu nổi tiếng về gia phả và các ḍng họ Việt Nam. Theo cụ, gốc gác 510 ḍng họ trước khi được xem như bản đồ địa lư cơi âm, th́ đă là tư liệu địa lư nhân văn có thật tại Trung Quốc. Cụ cũng đồng thời lưu ư rằng việc gán ghép các ḍng họ Việt Nam vào những nguồn gốc ấy của Trung Quốc là chuyện cần xét lại. Trước thời Bắc thuộc, tên gọi của người Việt giản dị như của đồng bào các sắc tộc ít người hiện nay, thường gồm một từ để chỉ nam hay nữ và một từ chỉ là tên gọi. Ngay cả nơi tên hai bà Trưng th́ chữ Trưng không phải là tên một ḍng họ (ngoài hai bà, ta không gặp một nhân vật nào khác có chữ Trưng đi trước tên gọi) mà chỉ là tên của làng Chưng, một làng sống bằng nghề chưng kén, kéo tơ, dệt lụa. Kén nhất được gọi là kén Trắc, kén hạng hai được gọi là kén Nh́ hay khén Nhị. Như thế, Trưng Trắc có nghĩa là cô Nhất ở làng Chưng và Trưng Nhị là cô Nhị ở làng Chưng.

Theo ông Vũ Hiệp, do nhu cầu quản lư nhân khẩu để đô hộ, người Tàu đă bắt người Việt phải đi vào một hệ thống ḍng họ. Do những điều kiện cụ thể từng nơi, từng thời điểm, người dân ở một khu vực nào đó được ghép vào một số ḍng họ nhất định nào đó. Sự kiện này cũng đă xảy ra đối với một số cộng đồng sắc tộc ít người, chẳng hạn nơi thông tin sau đây trên trang Văn Hóa Học:

“Các dân tộc ở miền núi Quảng Ngăi vốn có tên mà không có họ, v́ thế không có thuật ngữ riêng để chỉ ḍng họ. Mỗi người có tên gọi riêng và kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới tính…

Vào thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, để dễ theo dơi hộ tịch, hộ khẩu và số đinh trong các làng nóc miền núi Quảng Ngăi, các dân tộc miền núi trong tỉnh đều được đặt họ Đinh (theo họ cha), tức có nghĩa là thằng, đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ cha mà ghi trong hộ tịch, hộ khẩu, hoặc kê khai đi học là họ Đinh (8).

Năm 1969, khi Bác Hồ mất, hầu hết người Cor ở Trà Bồng đổi sang họ Hồ. Số đông người Hrê ở Ba Tơ lấy họ Phạm (họ của đồng chí Phạm Văn Đồng), phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn Hà, Minh Long, đồng bào Ca Dong ở Sơn Tây vẫn c̣n giữ họ Đinh.”

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-to-chuc-doi-song-tap-the/2284-quan-he-gia-dinh-lang-xom-cua-nguoi-quang-ngai.html

Trường hợp họ Vũ Vơ lúc đầu cũng thế. Bàn về ông Vũ Hồn (804-853), người được coi là thủy tổ họ Vũ-Vơ tại Việt Nam, cụ Vũ Hiệp nêu một nhận xét lư thú rằng cả gia phả, tộc phả và thần phả đều không nói Vũ Hồn có một người con nào. Tác giả Tiến sĩ Vũ Huy Thuận, trong bài “Giới thiệu sách cổ văn hoá làng Mộ Trạch” (http://hovuvovietnam.com/ Gioi-thieu-sach-co-van-hoa-lang-Mo-Trach) cũng có viết: “Ngọc phả làng Mộ Trạch kể lại rằng: Cụ Vũ Hồn (804-853) sau khi từ quan (843-844) đă đến nơi đây lập trang trại đặt tên là “Khả Mộ trang”... Khi cụ mất (853), dân Khả Mộ trang lập miếu thờ cụ như vị sáng lập thôn Khả Mộ (đến triều Trần 1226 được đổi tên là Mộ Trạch). Để tưởng nhớ công lao của cụ, dân trong làng đều mang họ của cụ. Họ Vũ. Cũng từ đó, Cụ không chỉ được thờ như vị thành hoàng làng, mà c̣n được coi là thủy tổ họ Vũ Mộ Trạch.”

Gần đây người ta phát hiện ra đền thờ hai nhân vật họ Vũ sống nhiều thế kỷ trước ông Vũ Hồn: đền thờ bà Vũ Thị Thục, nữ tướng của Hai Bà Trưng và đền thờ nhà giáo Vũ Thê Lang, được cho là của thời Hùng Vương. Dù vậy ông Vũ Hồn vẫn được đa số người họ Vũ-Vơ ngày nay dành cho danh hiệu thủy tổ họ Vũ-Vơ ở Việt Nam, và theo tôi, điều ấy chính đáng, bởi một lẽ duy nhất là đại chúng đương thời đă v́ cảm mến ông mà cải sang họ Vũ-Vơ, coi ông như tổ phụ.

Có những người gốc họ Vơ nhưng nhiều thế hệ qua đă mang một họ khác. Lại cũng có những người mang họ Vơ nhưng thật ra là từ một ḍng họ khác cải sang. Việc khám phá ra chuyện cải họ có thể khiến nhiều người bị hụt hẫng. Khi hoàn thành bài viết về họ Vơ tỉnh Phú Yên, trong đó có thông tin về một nhánh họ Vơ ở xă Ḥa Thắng trước kia là họ Lê, tôi gởi cho một người con gái nhánh này xem. Cô hồi âm cho tôi như sau:

Chào bác ! Con đă đọc bài viết về họ Vơ mà bác đă trải qua không ít công sức để truy t́m về cội nguồn của ḍng họ Vơ. Con thật sự bất ngờ về một sự thật mà lâu nay con thuộc thế hệ trẻ nên không biết được, đó là con thuộc về nguồn gốc họ Lê chứ không phải họ Vơ. Điều này làm con có một chút ngậm ngùi.

Trong ư nghĩ của con lại đặt ra một dấu hỏi.

Quá khứ của lịch sử là một sự bí ẩn chưa có sự khẳng định nhất định. Ví như trước thời ông Cao tổ của con thuộc về ḍng họ Lê, vậy các đời trước hơn nữa liệu các cụ cao tổ thuộc về họ ǵ ? và những biến đổi của nó như thế nào ? điều này làm con phân vân. Nhưng rồi con suy nghĩ rằng dù con mang ḍng họ nào th́ con vẫn biết ơn các cụ tổ đă sáng lập ra các ḍng họ để con cháu ngày nay được mang tên ḍng họ của các cụ lưu truyền lại. Và điều này đă làm con cảm thấy vui bác à, con mong rằng sau này con sẽ có nhiều cơ hội được hiểu về nguồn gốc đích thực của các cụ tổ mà hiện đang là một dấu hỏi rất lớn trong suy nghĩ của con bác ạ!.

Vơ Thị Kim Đoan                 (sđt: 0988-234-828)

Nữ độc giả của tôi là một Phật tử ăn chay trường, nên sớm nhận ra ngay mọi sự đều vô thường và tương đối. Tôi muốn nói thêm với cô rằng, khi phải giấu họ Lê, ông Cao của cô đă chọn họ Vơ chứ không phải một họ nào khác, hẳn là do ông cảm kích ḷng tốt của một vài người họ Vơ nào đó. Tương tự, nếu có người họ Vơ nào đó phải thay tên đổi họ và đă chọn họ Lê chứ không phải họ khác, th́ chắc hẳn v́ ông thấy người họ Lê đáng mến. Nếu các vị tổ phụ nhân loại hướng ḷng ta đến vị Cha Chung trên trời th́ những thực tế về quan hệ họ hàng máu mủ dẫn ta đến cảm nghiệm anh em bốn biển một nhà. Điều thứ hai này bắt nguồn từ điều thứ nhất: Mọi người trên thế giới không thể là anh em với nhau nếu không có chung một người Cha.

Chúng ta đọc thấy trên nhiều bia mộ cụm từ sau đây: “Mộ thủy tổ họ…”, “Mộ cao tổ họ…”. Vị nằm ở đó được coi là “thủy tổ” nhưng người ta không biết tên, mặc dù có khi chỉ là người sống cuối thế kỷ XIX. Gia tộc phía nội tôi cũng nằm trong trường hợp này, vị tổ khuyết danh sống vào giữa thế kỷ XIX. Việc truy t́m thủy tổ một ḍng họ quả là chuyện mịt mờ vô vọng nhưng cũng có cái hay là đánh thức nơi mọi người mối bận tâm đi t́m nguồn cội đích thực và cuối cùng của nhân loại là chính Thiên Chúa Tạo Hóa.

Hiểu như thế, ta sẽ tiến tới một thái độ trung dung về vấn đề gia phả. Một đàng, ta tâm đắc với lời Thánh Phaolô dạy ở đầu thư thứ nhất gửi cho Timôthê: “Đừng chú ư đến những chuyện hoang đường và những gia phả dài ḍng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết” (1Tm 1,4). Một đàng, v́ ích lợi giáo dục, ta sẽ cổ vơ đồng tộc và đồng đạo xây dựng lại bản gia phả giới hạn với những bậc Tổ Tiên hiện c̣n biết được, bởi lẽ đây là một công việc mang tính sư phạm, có tiềm năng đóng góp vào sự phục hồi tấm “ḷng lành”, cơi ḷng hướng thiện cho thế hệ trẻ giữa ḍng cuồng lưu của sự suy đồi đạo lư.

Trong bài tiếp sau về “tâm tư của người loan Tin mừng cho người cùng ḍng họ”, tôi sẽ chia sẻ thêm về điều ấy.

 

02
GIA PHẢ, CH̀A KHÓA MỞ L̉NG ANH EM

 

Ngày truyền thống đồng tộc Công giáo mở ra một cánh cửa giao lưu, để ta có thể mời anh chị em đồng tộc người lương đến với mái từ đường của trăm họ. T́nh thân cần được tiếp nối qua sự thăm viếng. Giáo xứ nào cũng có những nhóm thăm viếng các bệnh nhân, người neo đơn hoặc già cả. Giờ đây, sẽ thêm một đối tượng nữa là những gia đ́nh có thiện cảm với Đạo Chúa qua việc tham dự ngày truyền thống đồng tộc tại nhà thờ Công giáo. Mỗi lần đi ngang nhà, ta nhớ ghé thăm.

Câu chuyện có thể không bao giờ cạn là chuyện chia sẻ những thông tin về gia phả. Sau chiến tranh hầu hết chứng từ bị mai một, việc dựng lại gia phả riêng từng cụm từng nhóm lắm khi hết sức khó, khiến nhiều người nản ḷng bỏ cuộc. Việc t́m ṭi liên hệ nói kết giữa những nhánh đă đứt đoạn hằng thế kỷ và đă trôi dạt tới những địa phương khác nhau, mặc dù lư thú, càng là chuyện chẳng có mấy hy vọng. 

Xưa gia phả ḍng họ thường được bảo quản trong một hộp sơn son thếp vàng đặt trên bàn thờ của từ đường. Hằng năm vào dịp tế đầu xuân (xuân thủ) hoặc dịp giỗ chung của gia tộc, người ta thỉnh gia phả xuống và ghi tên những người đă khuất trong năm qua. Việc chép gia phả gắn liền với ngày giỗ chung, cho nên khi việc cúng giỗ đứt đoạn, gia phả cũng đứt đoạn.

Bên cạnh những khó khăn v́ chiến tranh ly loạn, c̣n có một khó khăn đến từ tấm ḷng thành kính của con cháu đối với tổ tiên. Ngay cả khi ở từ đường vẫn c̣n gia phả ghi rơ tên vị thủy tổ, phần đông trong gia tộc vẫn không biết vị thủy tổ tên ǵ, chỉ v́ các thế hệ con cháu hết sức kính trọng tên của tổ tiên, có thể v́ sợ “phạm húy”, không bao giờ nhắc tới. Đàng khác, gia phả được ghi bằng Hán Nôm, con cháu có mở ra cũng không đọc được.

Ṭa Thánh đă giải tỏa lệnh cấm về việc thờ cúng Tổ Tiên từ nửa thế kỷ, nhưng măi đến nay, thành kiến "theo Đạo bỏ ông bỏ bà" vẫn chưa được gột sạch. Để hóa giải những hiểu lầm đă quá ăn sâu, thiết tưởng người tín hữu Công giáo cần nhập cuộc vào nỗ lực t́m nguồn cội của ḍng họ ḿnh. Mất gia phả là thảm trạng chung cả cho người lương lẫn người giáo. Bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc, nay ít gia tộc c̣n giữ được gia phả lâu đời. Do thời thế đổi thay, nhiều bi kư, bút tích và sử liệu đă thành tro bụi, những chứng cứ t́m được thật hiếm hoi, không đủ rọi sáng những khoảng tối và những tồn nghi lịch sử. Người ta đành hài ḷng với những suy diễn và phỏng đoán. Chẳng ai nỡ trách ai.

Một giải đáp chung hiện đang được các gia tộc cố gắng làm xong sớm, là chuyển các bản gia phả bằng Hán Nôm sang chữ quốc ngữ. Càng ngày số người thông thạo Hán Nôm càng hết sức hiếm hoi, việc chuyển dịch các gia phả sang quốc ngữ càng trở thành một việc khẩn cấp. Đó là những đề tài mà những ai quan tâm tới cội nguồn có thể nói măi không hết.

Một phương tiện khác là hỏi han chia sẻ qua điện thoại. Nếu ta có ḷng với người đồng tộc, th́ sẽ sớm có hàng chục và hàng trăm số điện thoại. Nếu máy có 2 sim, ta cho những số điện thoại này vào một sim. Nếu chỉ có một sim, nên lưu rơ cả họ và tên để máy sẽ tự động xếp những người đồng tộc vào một chuỗi. Khi liên hệ đồng tộc vượt ranh giới làng xă, cũng cần ghi thêm vài chi tiết sau tên của mỗi người, để khi họ gọi đến, ta nhận ra ngay đó là ai.

 

03
GIA PHẢ CHÚA GIÊSU KITÔ

Câu chuyện về gia phả có thể giúp bạn nhập đề vào Tin mừng của Chúa rất sớm, bởi lẽ câu đầu tiên của bộ Tin mừng bàn về gia phả: “Sách gia phả của Đức Giêsu Kitô…”

Tùy lúc, câu chuyện về gia phả có thể là thông tin vắn tắt qua điện thoại, hoặc chia sẻ tại bàn ăn, mạn đàm bên tách cà phê.

Bản gia phả Mátthêu giúp ta tŕnh bày thật hồn nhiên phần lịch sử ơn cứu rỗi từ ông Abraham tới Chúa Giêsu, với 42 đời, được Thánh Matthêu tỉ mỉ ghi chú là 3 lần 14, tức là 6 lần 7 đời, và gián tiếp nói rằng chỉ một ḿnh Chúa Giêsu là bộ bảy thứ bảy, là đỉnh cao và là sự toàn bích…

Người nghe sẽ rất lư thú khi được biết bản gia phả thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, ghi trong sách Luca, phăn ngược lên đến tận Ađam: “Ađam bởi Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Cội Nguồn của mọi cội nguồn.

Điều ấy đem lại an ủi cho những người gốc họ này nhưng nhiều thế hệ qua đă mang một họ khác. Người ta không c̣n bị hụt hẫng v́ chuyện cải họ. Dù có chuyện cải họ hoặc dù chỉ phục hồi gia phả được một số đời ít ỏi, th́ ta vẫn biết chắc chắn rằng có một Thiên Chúa duy nhất là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha chung hết mọi người. Bốn bể là anh em v́ tất cả đều là con cái của cùng một Cha trên trời.

Về điểm này, có một chi tiết cần lưu ư. Hiện đang nở rộ trào lưu nói về Cha Trời của những người ḥa đồng tôn giáo. Ngôn từ có vẻ giống nhau nhưng sự thật hoàn toàn khác. Nơi mạc khải Kitô giáo, ta được biết Thiên Chúa là Cha chính là nhờ được Con một Ngài là Đức Giêsu Kitô đến tỏ cho biết (Ga 1,18). Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha chính là nhờ Đức Giêsu Kitô ban Thánh Thần để Thánh Thần thốt lên trong ḷng ta: “Abba!”, thân thiết như em bé: “Ba ơi, Bố ơi!”. Thiên Chúa Cha nơi Kitô giáo không lẻ loi một ḿnh nhưng hiệp nhất với Con Ngài và Thánh Thần Ngài thành Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi.

Lần giở Kinh Thánh, ta sẽ thấy lư thú về chuyện gia phả. Đang khi những bản gia phả nhân loại chưa được 200 năm hầu hết đều đă tan vào hư vô th́ những bản gia phả cổ trong bộ Kinh Thánh đă hơn 3000 năm qua vẫn được bảo tŕ. Nơi quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế Kư, bản gia phả ở 11 chương đầu mang tính dă sử. Từ chương 12 trở đi, câu chuyện bắt đầu với một người đồng thời với các vua Hùng đầu tiên của ta là ông Abraham. Ta chỉ biết về các Hùng Vương ở con số 18 vị vua, mấy ai biết được tên 18 vị vua ấy. Lạc Long Quân, Âu Cơ, Lục Tộc, Hùng Vương Thứ Sáu, Tiết Liêu, Hùng Vương Thứ Mười Tám, Mỵ Nương, Sơn Tinh, Thủy Tinh… Tất cả những truyền thuyết ấy lăng đăng mơ hồ… được kể lại theo truyền khẩu vỏn vẹn trong dăm trang. Đang khi đó, ông Abraham đă trở thành một gia tộc rồi một dân tộc, với những trang gia phả chính xác. Chỉ bốn thế hệ đầu tiên của lịch sử ơn cứu rỗi đă lấp đầy gần bốn mươi chương của sách Sáng Thế Kư, từ chương 12 đến chương 50. Nhờ đâu mà những trang gia phả ấy và cả bộ sách Kinh Thánh dày cộm được bảo tồn không suy suyễn qua thời gian đằng đẵng?

Một sự kiện khác cũng dễ khiến người nghe phải suy nghĩ: Người ta thường trân trọng những nguồn cội biết được cách bấp bênh qua những trang phả liệu mù mờ, đang khi ấy nguồn cội đầu tiên mà Kinh Thánh giới thiệu vẫn sờ sờ nơi cuộc sống thường nhật th́ người ta lại thản nhiên gạt bỏ.

04
THIÊN CHÚA CHA MẠC KHẢI QUA KINH THÁNH

Những người rao giảng về Cha Trời bảo rằng Cha Trời giáng cơ dạy người ta ghi lại những bài giáo lư. Sách Koran của Hồi giáo cũng bảo rằng Đấng Allah đọc cho Tiên tri Mahômét viết lại những lời Ngài dạy. Đang khi đó, Kinh Thánh của Do Thái giáo và Kitô giáo th́ khác. Đây là câu chuyện về một gia đ́nh, một gia tộc rồi một dân tộc và cả nhân loại. Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử rồi sau đó mới cho người viết lại lịch sử ấy để giúp mọi người hiểu Ngài yêu thương nhân loại và yêu thương mỗi người tới mức nào.

Từ câu chuyện gia phả, ta nên sớm giới thiệu cho người ta quyển Kinh thánh, cả Cựu ước và Tân ước, đồng thời tóm tắt cho họ nội dung Kinh Thánh sau đây để họ có thể đọc Kinh thánh với tâm trạng hồn nhiên của một người đi t́m sự thật.

Thiên Chúa đầy t́nh yêu thương đă tạo nên mọi loài mọi vật để chúng chia sẻ sự tốt lành của Ngài. Cách riêng, Thiên Chúa đặc biệt yêu thương con người. Ngài đă tạo nên họ giống h́nh ảnh Ngài, ban cho họ có khả năng nhận biết và yêu mến Ngài, đồng thời đặt họ làm chủ mọi thụ tạo trên trái đất để họ cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Ngài.

Tiếc thay, con người không vâng phục Thiên Chúa. Con người muốn đi t́m một thứ hạnh phúc ngoài Thiên Chúa. Hậu quả là t́nh nghĩa với Thiên Chúa bị cắt đứt, con người phải xa ĺa Thiên Chúa, bị đau khổ, phân rẽ, và cuối cùng là phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa đầy yêu thương vẫn không bỏ mặc con người trong nỗi tuyệt vọng. Ngài hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để cứu vớt con người.

Để thực hiện lời đă hứa, Thiên Chúa đă chọn cụ Abraham để qua ông, Ngài gầy dựng một dân tộc là dân Israel, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Qua Môsê, Thiên Chúa đă cứu dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, trong biến cố Vượt qua và Xuất hành, cũng qua Môsê, Thiên Chúa c̣n ban cho dân Israel Giao ước và Lề luật để họ trở thành dân riêng của Ngài. Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa dạy dỗ họ đón nhận Đấng Cứu Thế.

Khi tới giờ đă định, Thiên Chúa đă cho Đấng Cứu Thế ra đời. Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, chính là Con Một của Thiên Chúa đă trở thành con người để làm cho ta trở thành con Thiên Chúa. Ngài đă đến sống giữa chúng ta để cho ta biết t́nh thương của Chúa Cha và để dẫn đưa chúng ta về cùng Chúa Cha trong một gia đ́nh là gia đ́nh con cái Thiên Chúa, tức Hội Thánh. Ngài đă chết để hoà giải ta với Thiên Chúa, và đă sống lại để ban cho ta sự sống mới làm con Thiên Chúa.

Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha và Chúa Giêsu đă gửi Chúa Thánh Thần đến, để hướng dẫn Hội Thánh tiếp tục công việc của Chúa Giêsu, mà đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người bằng lời rao giảng và việc cử hành các bí tích. Chúa Thánh Thần ở với ta, làm cho ta được kết hợp nên một với Chúa Giêsu. Ngài soi sáng và thúc đẩy ta sống mến Chúa yêu người như Chúa Giêsu dạy, để ta xứng đáng là con cái Cha trên trời, theo như chương tŕnh yêu thương mà Thiên Chúa đă dành cho ta.

Cùng với mọi người trong Hội Thánh, ta góp phần hoàn tất lịch sử, đợi ngày Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang của Ngài và của những người được cứu chuộc. Ngày ấy Chúa Giêsu sẽ tiếp thu mọi sự, biến đổi thành vũ trụ mới mà dâng lên Thiên Chúa Cha.

Qua ba giai đoạn mặc khải, dần dần ta được biết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng nhờ Thiên Chúa mặc khải, ta biết Ba Ngôi khác nhau ấy hợp nhất thành một Thiên Chúa mà thôi. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Kinh Thánh không phải là một quyển sách giáo khoa nêu nguyên tắc rồi hướng dẫn áp dụng thực hành. Nó là quyển sách ghi lại công tŕnh t́nh thương của Thiên Chúa, qua một lịch sử chưa hoàn thành nhưng đă có đoạn kết. Nó được h́nh thành từ cuối thế kỷ 13 trước Công nguyên và kết thúc đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, do hằng trăm ng̣i bút thuộc những tŕnh độ và thời đại khác nhau họp lại, mà đọc xong lại thấy từ đầu tới cuối hết sức thống nhất, chẳng khác nào một tác phẩm do cùng một người phác thảo và thực hiện, do cùng một người đề ra ư chính, các phần đoạn của thân bài rồi viết từ nhập đề đến kết luận.

Điều đó cho thấy Kinh Thánh được thực hiện do một tác giả thần linh vượt trên toàn bộ lịch sử. Tác giả đích thật ấy là chính Thiên Chúa, c̣n tất cả những người đă cống hiến tài năng chấp bút diễn tả chỉ là những dụng cụ.

Một khi đă quen, bạn sẽ từ câu chuyện đang nói để chuyển sang Kinh Thánh rồi lại từ Kinh Thánh chuyển sang cuộc kiếm t́m của bạn và người đồng tộc.

05
ĐẠO HIẾU TRONG LỜI NGUYỆN PHỤNG VỤ

Trong lịch sử, việc thờ cúng tổ tiên theo truyền thống Việt Nam không chỉ gây hao tốn giấy mực tranh căi giữa các nhà truyền giáo, nhưng c̣n kéo theo một thực tế bi hùng. Nhiều người ngoài Công Giáo thà mất Nước Trời hơn là bỏ ông bỏ bà, như câu thơ tha thiết của nhà yêu nước Nguyễn Đ́nh Chiểu:

Thà đui giữ lấy đạo nhà,

C̣n hơn có mắt ông cha không thờ.

Đang khi đó người Công Giáo th́ chọn lựa ngược lại. Có đến trên 130.000 Kitô hữu đă chấp nhận chết v́ dành cho đạo hiếu đối với Cha Cả trên trời sự ưu tiên vượt trên đạo hiếu đối với tổ tiên dưới đất.

Phía trên bàn thờ gia tiên của nhiều gia đ́nh Công Giáo có trưng bày ảnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Thật rất ư nghĩa khi gắn liền Đạo Hiếu với các vị tổ phụ trong đức tin. Ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 24-11, nằm trong tháng các đẳng linh hồn nhưng h́nh như không nói được ǵ với người Việt Nam về Đạo Hiếu.

Trước kia, khi các vị Tử Đạo Việt Nam chưa được tuyên phong hiển thánh, chỉ có một lời nguyện cho nội bộ Giáo Hội Việt Nam, vỏn vẹn ba ḍng nhưng hết sức sâu sắc về Đạo Hiếu. Trong dịp phong thánh, khi viết bộ lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, người ta đă vất bỏ một viên ngọc mà không ngờ. Thiết tưởng tổng cộng các lời ca, lời nguyện, kinh tiền tụng và toàn bộ các giờ kinh phụng vụ của ngày lễ 24-11 vẫn không nói được nhiều hơn lời nguyện ngắn của ngày lễ 1-9 trước đây. Lời nguyện bị lăng quên ấy như sau:

"Lạy Chúa, Chúa đă làm cho xuất hiện trên toàn cơi Việt Nam rất nhiều chứng nhân anh dũng cho Chúa: V́ lời các đấng ấy bầu cử, xin Chúa thương ban cho mọi dân tộc nhận biết chỉ có Chúa là Cha thật và phụng sự Chúa với hết t́nh con thảo." (Lời nguyện số 1)

Chỉ vài ḍng ngắn ngủi đủ ghi lại cả một lịch sử bi hùng và lư do sâu xa nhất cho việc tuyên xưng đức tin của người Công Giáo Việt Nam. Nó là một lời nguyện hết sức đại đồng chứ không mang tính cục bộ như lời nguyện hiện hành trong sách lễ Rôma tiếng Việt: "Lạy Chúa, Chúa đă ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên măi đến cùng." (NXB 1992, trang 736 - Lời nguyện số 2).

Không hiểu tại sao lời nguyện ấy lại khác với lời nguyện trong sách lễ Rôma tiếng Anh và tiếng Ư, có thể dịch như sau: "Lạy Thiên Chúa là nguồn gốc mọi t́nh phụ tử, Cha đă giữ cho Thánh Anrê và các đồng bạn tử đạo được trung thành với thập giá của Con Cha đến đổ máu đào. Nhờ lời các ngài chuyển cầu, xin cho chúng con biết tỏa chiếu t́nh yêu Cha giữa anh chị em chúng con để chúng con đáng được gọi và thực sự là con cái Cha." (Lời nguyện số 3)

Đang khi tưởng nhớ các vị tuẫn đạo Việt Nam, Giáo Hội cầu nguyện cho mọi dân tộc nhận biết Thiên Chúa tuyệt đối là Cha thật duy nhất của mọi người và là nguồn gốc mọi t́nh phụ tử trên trời dưới đất. Lời nguyện số 1 trên đây vừa đầy ắp kỷ niệm về Đạo Hiếu, vừa vạch ra được một linh hạnh cho người Việt và cả một trách nhiệm rất lớn với hai chiều kích: Phải sống thật tuyệt vời cả về đạo hiếu trần gian lẫn đạo hiếu trên trời, để giúp cho cả đồng bào người Việt lẫn các dân tộc trên thế giới nhận biết t́nh cha của Thiên Chúa. Ước ǵ hạt ngọc quư báu ấy sớm được đem lại vào phụng vụ, ít ra là cho giờ Kinh Chiều I.

Tới đây cũng xin nhắc đến một đóng góp khác rất đáng trân trọng đă bị quên mất, cần được phục hồi. Nơi các Kinh nguyện Thánh Thể (Kinh tạ ơn) trong bản dịch Sách Lễ Rôma 1992 có hai điểm khác hẳn bản dịch trước đó:

- Khi thưa với Ngôi Cha, mọi chữ "Domine" đều được chuyển thành "Cha" thay v́ dịch sát chữ là "Chúa".

-  Ở lời nguyện cầu cho kẻ chết của các Kinh nguyện Thánh Thể 1, 2 và 3 đều có thêm mệnh đề: "Đặc biệt xin Cha nhớ đến các bậc Tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đă ĺa cơi thế".

Đó là hai đóng góp của linh mục đoàn Giáo phận Kontum được Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN lúc ấy tiếp nhận. Nay trong bản dịch (xxxxx) đóng góp thứ hai vẫn c̣n được duy tŕ, c̣n đóng góp thứ nhất bị quên mất. Thiết tưởng đây là một đóng góp hết sức ư nghĩa, có tác dụng lớn trong việc loan báo Tin mừng và xây dựng  ḷng đạo cho Dân Chúa.

 

06
ĐÀO TẠO NGƯỜI CHỨNG TRẺ

Chúa dạy hăy đi khắp thế giới loan báo Tin mừng. Do đó, việc loan Tin mừng không khép kín lại với một nhóm người cùng Ḍng họ, nhưng nhóm người ấy chỉ đóng vai một nhúm men giúp cả khối bột dậy men. Gạch nối để Tin mừng lan từ họ này sang họ khác là những người con dâu và con rể, những người có quan hệ thông gia.

Các gia đ́nh cũng như cộng đoàn giáo xứ cần quan tâm đào tạo cho con em ḿnh có một đức tin đầy bản lănh, thấm đều mọi mặt cuộc sống, để khi họ lên đường về nhà chồng hoặc nhà vợ, họ thực sự là những chứng nhân của Hội Thánh Chúa. Nhiều cha mẹ người lương thích cho con cái lập gia đ́nh với người Công giáo bởi họ thấy đa số người Công giáo chung thủy trong hôn nhân. Thế nhưng đă có một số trường hợp rất đáng tiếc, chính bên người Công giáo gốc thiếu thiện chí, khiến hôn nhân tan vỡ. Những trường hợp đau ḷng ấy đ̣i hỏi chúng ta phải nghiêm túc kiểm điểm lại việc giáo dục đào tạo của chúng ta. Cần giúp bạn trẻ đi sâu vào cầu nguyện để có được đức tin, đức cậy và đức mến nồng nàn mănh liệt, nhờ đó, dù phải qua đau thương thử thách tới đâu vẫn quyết một ḷng trung thành với Luật Chúa dạy và làm chứng cho Chúa.

Thực tế của quá khứ cho thấy rất đông những người theo Đạo để lập gia đ́nh có một đức tin không sâu và không bền, khiến nhiều phụ huynh Công giáo ái ngại khi thấy con em ḿnh thương người ngoài Công giáo. Tuy nhiên không thiếu những trường hợp những người trở lại trong dịp kết hôn lại có một đời sống đức tin c̣n mẫu mực hơn nhiều người Công giáo đạo ḍng. Sự khác biệt thật ra là do cách đào tạo và chăm sóc. Thành kiến xem thường ơn đức tin của người trở lại nhân dịp kết hôn, có thể khiến người ta dạy giáo lư cách sơ sài vội vă cho xong chuyện. Nhiều bậc phụ huynh cố ngăn cản t́nh duyên của con cái ḿnh, cho tới lúc không ngăn cản được nữa, nhượng bộ cho con cái th́ thời giờ học giáo lư không c̣n nhiều. Thêm vào đó, chuyện tin ngày giờ tốt xấu, kiêng kị tuổi tác nhiều khi cũng khiến người ta tiến hành hôn nhân vội vă, không kịp học giáo lư cho thật sâu.

Chúng ta cần nh́n vấn đề dưới ánh sáng đức tin. Nếu  một sợi tóc trên đầu ta rơi xuống không ngoài ư Chúa th́ sự kiện ánh sáng Tin mừng đến với rất đông bạn trẻ qua con đường hôn nhân không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là những nén bạc quư báu Chúa đang trao cho Giáo hội ở thời đại này, mọi thành phần Dân Chúa đều cần biết trân trọng góp phần sinh lợi, không để một nén bạc nào bị vùi lấp oan uổng.

Các bậc làm cha mẹ cần biết tin cậy vào t́nh thương Thiên Chúa, trân trọng ơn đức tin Chúa đang ban cho người con dâu hay con rể của ḿnh và tôn trọng sự chọn lựa của con cái, để ứng xử sát thực tế hơn. Một khi thấy con cái đă quyết, cha mẹ cần sớm chấp thuận và hướng dẫn cho việc học giáo lư được tươm tất và đức tin kịp thấm sâu và nẩy nở.

Các vị dạy giáo lư cần vững tin vào ơn Chúa, dù thời gian rất ngắn cũng đừng vội vă. Hăy bước những bước đầu thật chính xác và chắc chắn. Hăy mở đầu bằng việc giúp học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha, và cứ như thế cho tới lúc họ thực sự cảm nghiệm rằng Cha đang ở trong họ, đang ủ ấp họ và đang dẫn dắt họ trên mọi bước đường. Đức tin đến từ sự gặp gỡ Thiên Chúa cách thân t́nh và đầy yêu mến, chứ không đến do sự nhồi nhét một mớ hiểu biết. Những hiểu biết giáo lư rất quan trọng và cần thiết, nhưng ta đừng vội. Một khi học viên bắt đầu nếm cảm được Chúa, chính họ sẽ kiếm t́m và chỉ một khám phá nhỏ họ nhận được dưới ánh sáng của Chúa đủ khiến họ miệt mài trên đường theo Chúa. Các vị hăy sớm trao Kinh Thánh vào tay học viên và giúp họ khám phá từng chút một bằng sự suy nghĩ, cầu nguyện và đổi mới đời sống theo Lời Chúa. Cũng hăy mạnh dạn khuyến khích học viên chia sẻ ơn họ đang nhận được với đồng bạn trong lớp giáo lư và cả với những người chưa tin. Một đức tin được chia sẻ sẽ tựa như lửa, cháy lan và cháy bùng lên.

Một thiếu sót lớn của cộng đồng Công giáo Việt Nam là hiện chúng ta không có những sách vở cần có cho các dự ṭng và tân ṭng. Sách vở Công giáo Việt Nam ngày nay phát triển hỗn độn, đang khi có những thứ thừa mứa th́ sách cho trẻ em và sách cho những người muốn t́m hiểu Đạo Chúa lại quá thiếu. Cả Kinh Thánh, chúng ta có những bản dịch tốt, những sách in rất trang trọng, nhưng t́m một quyển Tin mừng theo Thánh Luca in rời để trao cho dự ṭng th́ không có.  Chúng ta đă có bản Tân Ước loại chữ lớn, ước ǵ sẽ có cả 11 chương đầu Sáng thế kư, in rời, với những chú dẫn thích hợp với người muốn t́m hiểu.

Tệ hơn nữa, khi các bạn trẻ muốn mua một quyển sách thích hợp để tặng cho bạn trai hoặc bạn gái của họ, th́ không biết t́m ở đâu. Giáo hội Phật giáo có một tổ in ấn và phát hành thuộc thành hội TPHCM và từ đó sách vở Phật giáo lan tỏa đến mọi miền đất nước. Giáo hội Cao Đài cũng có một hệ thống phát hành tương tự. Phải chi Giáo hội Công giáo Việt Nam có một cơ sở tổng phát hành, rồi mỗi Giáo hạt có một bộ phận cung ứng sách cho các giáo xứ trong Hạt, các bạn trẻ sẽ dễ dàng trao tặng cho bạn bè của họ những băng đĩa và sách vở giới thiệu Tin mừng với h́nh thức thích hợp với tuổi trẻ. Họ có thể thành tông đồ cho những người bạn chưa tin, rồi những người bạn này khi đă được ơn đức tin, lại thành chứng nhân giữa gia đ́nh và gia tộc của ḿnh. Đây là trách nhiệm của các hội doanh trí tại các giáo phận. Điều Dân Chúa đang mong chờ nơi các hội doanh trí có lẽ không chỉ là đóng góp xây thêm nhà thờ nhưng là sự suy tư, động năo và tích cực góp phần thiết thực để đào tạo cho Giáo hội những chứng nhân trẻ giàu tâm huyết và khả năng, mà trước mắt là cung ứng dồi dào thức ăn tinh thần cho họ. Nếu quư vị băn khoăn t́m một dự án tông đồ mang tính trí thức, tôi nghĩ dự án ưu tiên nhất cần được chọn là xây dựng cho Giáo phận của quư vị một hệ thống phát hành sách.

Tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất trong việc đào tạo người chứng trẻ thuộc về các mục tử. Khi một cha sở giành lấy cho ḿnh việc chăm sóc những tín hữu mới, chắc hẳn ngài sẽ có hàng ngàn sáng kiến. Năm 1990 khi được gặp Đức Cha Phaolô Maria Phạm Đ́nh Tụng tại Bắc Ninh, rồi mấy năm sau được thăm ngài tại Ṭa Tổng giám mục Hà Nội, tôi rất cảm kích v́ chính ngài đích thân lo cho các dự ṭng trí thức. Tôi cũng gặp được một bản sao y hệt nơi người kế vị ngài là Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Cả hai vị đều là bản sao của nhóm 12 Giám mục thuở ban đầu, và hơn nữa, bản sao của chính Chúa Kitô, Đấng đă thức thâu đêm để trao đổi với một người trí thức là Nicôđêmô. Rồi cả khi đă mỏi mệt v́ đường xa, ngồi bệt bên bờ giếng, Ngài không ngại dành bận tâm cho một phụ nữ đến lấy nước ở đó. Điều an ủi là cả hai đều đă trở thành những chứng nhân cho Ngài…

07
DẠY GIÁO LƯ THEO KINH LẠY CHA

Tiếp tục đề tài đào tạo những người chứng trẻ trên đường loan Tin mừng cho Ḍng họ, tôi xin lưu ư quư giảng viên giáo lư thêm một chút về việc dùng sách giáo lư, để học viên thấy rơ ḿnh đang được đón nhận một Tin mừng tươi mới và diễm phúc, thay v́ xem việc học giáo lư như một gánh nặng bất đắc dĩ.

Ngày nay khoa sư phạm giáo lư dự ṭng đă đúc kết được những lược đồ khác nhau cho tiến tŕnh dạy/học giáo lư dự ṭng: lược đồ kinh Tin kính, lược đồ Lịch sử cứu rỗi, lược đồ Phụng vụ, lược đồ Tin mừng. Đó là những kinh nghiệm thuận lợi cho việc đào tạo đức tin. Đang khi ấy, các bản hỏi đáp, cũng gọi là sách bổn (sách phần, sách thiên) hay sách giáo lư xưa nay thường chia nội dung giáo lư thành bốn phần: tín lư, luân lư, bí tích và cầu nguyện. “Bản hỏi thưa Giáo lư Hội Thánh Công Giáo” do Ủy ban Giáo lư Đức Tin thực hiện năm 2013 cũng thế. Cấu trúc ấy dễ khiến người ta hiểu lầm rằng dạy/học giáo lư cũng giống như dạy/học những kiến thức. Việc chia thành bốn phần rất thuận lợi để dùng sau khi học xong giáo lư, để ghi nhớ những điều đă học theo một hệ thống có thứ tự lớp lang, nhưng nó không được sắp xếp theo những bước phát sinh và nẩy nở của đức tin. Muốn giúp đức tin nẩy nở và lớn lên cách thuận tự nhiên, nên tŕnh bày theo những giáo tŕnh biên soạn cho các dự ṭng, không nên dạy tuần tự từng câu theo sách hỏi đáp. Nói cách khác, nên tŕnh bày theo từng bài trong sách dự ṭng rồi cuối bài cho ghi nhớ bằng các câu tương ứng trong sách giáo lư hỏi đáp.

Bốn sách Tin mừng là bốn quyển giáo lư đầu tiên của Hội Thánh cho thấy rơ việc dạy giáo lư không phải là truyền đạt kiến thức nhưng phải là đào tạo cho người tín hữu mới có được một đức tin sâu xa.

Với bối cảnh văn hóa nặng tính Đạo Hiếu tại Việt Nam, thiết tưởng lược đồ của sách Tin mừng Luca, cũng có thể gọi là lược đồ Kinh Lạy Cha, dễ giúp người tín hữu mới tiếp cận và đào sâu giáo lư Đạo Chúa cách hồn nhiên, và sau đó dễ chia sẻ lại với anh chị em và bà con trong ḍng họ. Thật vậy, Tin mừng Luca khởi đầu với khung cảnh gia đ́nh và gia tộc (x. Lc 1,5.36.39-45.57-66), với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Tối Cao (x. Lc 1,35), Đấng đến để lo việc của Chúa Cha và ở lại trong nhà Cha (x. Lc 2,49), Đấng thuộc về đại gia đ́nh nhân loại, gia phả Ngài phăn ngược lên đến tận cội nguồn đầu tiên (x. Lc 3,23-38), Ngài luôn sống đẹp ḷng Cha, Ngài nêu rơ bước tiến từ quan hệ huyết thống đến quan hệ Nước Trời (x. Lc 8,19-21; 9,57-61; 12,51-53),  Ngài dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha (x. Lc 11,1-4),  dạy ta tin tưởng vào t́nh Cha quan pḥng của Thiên Chúa (x. Lc 12,22-32). Nổi bật nhất là câu chuyện về t́nh Cha (x. Lc 15,11-32) và tâm t́nh của Chúa Giêsu trên thập giá phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha (x. Lc 23,46).

Dạy giáo lư theo Kinh Lạy Cha có nghĩa là mời gọi học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha ngay từ khi mới tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Ngài, như con nhỏ thưa chuyện cùng Cha ḿnh, với hết t́nh con thảo. Phần tín lư là câu chuyện t́nh thương của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, dành cho chúng ta. Câu chuyện này được kể chủ yếu với Tin mừng theo Thánh Luca và bổ sung bằng các sách khác: Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn (Lc 10,21), Chúa Cha và Chúa Con (Lc 10, 22), T́nh Cha quan pḥng (Lc 12,22-32), giàu ḷng thương xót và tha thứ (Lc 15,12-32). Ngài là Cha Đức Giêsu Kitô (Lc 21,41-44), đă trao Vương quốc cho Con ḿnh (Lc 22,28-30), Đấng luôn làm theo ư Cha (Lc 22,41-44), phó thác mọi sự trong tay Cha (Lc 23,46) và là Đấng đă làm cho Đức Giêsu từ cơi chết sống lại (Lc 24,46) và ban Thánh Thần cho môn đệ (Lc 24,48). Chúa Giêsu Kitô đă chết và sống lại để quy tụ Gia đ́nh con cái Thiên Chúa là Hội Thánh.

Đời sống luân lư tập trung vào nghĩa vụ của người con Thiên Chúa, với điều răn lớn nhất là mến Chúa yêu người (Lc 10,25-28), và “hăy có ḷng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 7,36). Một khi biết được có Đấng Tuyệt Đối đang âu yếm dơi nh́n ta mọi nơi mọi lúc, th́ dù không được ai ở đời này khen thưởng hay nh́n nhận, ta vẫn luôn sống xứng đáng là con cái của Ngài. Với sự quảng đại ấy, dần dần người ta sẽ được ơn nhận biết rằng "vị Thiên Chúa ấy đă yêu thế gian đến nỗi đă ban tặng Con Một Ngài để tất cả những ai tin vào Người Con ấy th́ không bị hư mất nhưng được sống đời đời" (Tin mừng theo Thánh Gioan 3,16). Chính Người Con ấy đă đến trần gian để dạy ta biết làm con cái trong gia đ́nh trần thế và làm con của Trời Cao. Từ chỗ là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Ngài đă trở nên "Con của người", "Con của nhân loại" và cũng là người con hiếu thảo trong một gia đ́nh (x. Luca 2,51) để ban cho nhân loại Tinh Thần của ơn nghĩa tử, tức là Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng dạy cho mỗi người biết sống như con thảo của Cha trên trời. Bốn biển chỉ có thể là anh em một nhà khi cùng nh́n nhận một Người Cha duy nhất, quy tụ quanh một Người Con duy nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha, là Đức Giêsu Kitô, được Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy măi đến muôn đời (x. Thư Hípri 13,8).

Các bí tích là những nhịp sống của người con Thiên Chúa, từ khi được tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Lc 3,16) cho tới ngày trở về với Thiên Chúa.

Trong chương tŕnh Giáo lư Dự ṭng, sau khi nói về mạc khải, nên tŕnh bày ngay bài học về Đạo Hiếu và việc thờ cúng Ông Bà theo quan điểm Công giáo, để hóa giải thắc mắc về điểm này ngay từ đầu, trước khi đi vào toàn bộ mạc khải.

08
ĐÀO SÂU LINH ĐẠO LÀM CON THẢO

Như đă nói, dạy giáo lư không chỉ là truyền đạt những hiểu biết về Thiên Chúa và chương tŕnh t́nh thương của Ngài, nhưng là dẫn vào một nếp sống mới, dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, tức là sống theo linh đạo của người làm con Thiên Chúa. Nói một cách giản dị, đó là sống theo Kinh Lạy Cha.

Ngày nay ở Việt Nam dường như sự phục hưng tinh thần gia tộc, với việc xây dựng từ đường, tôn tạo mồ mả cha ông đi đôi với sự phát triển những tin tưởng về phong thủy. Ngoài việc xem phương hướng, coi ngày giờ, người ta c̣n dùng những đồ vật trấn phong thủy như la kinh, la bàn, đá phong thủy đồ thị, đồng tiền cổ của các đời vua, xương thú vật, cẩm thạch, đá thạch anh, bùa chú, châu sa thần sa… Các cửa hàng phong thủy lớn nhỏ mọc lên nhan nhản ở các thành phố, với những món hàng giá lên đến vài chục triệu đồng, cũng có những món hàng cao cấp lên đến tiền tỉ. Nhưng phần lớn các món hàng phổ thông được bán với giá vài trăm ngàn đồng tới vài chục triệu đồng là bán chạy nhất và nhiều người ưa chuộng hơn cả. Trước đây việc phát huy Tây học, cuộc vận động của Tự Lực Văn Đoàn và các tác giả cùng thời cũng như ảnh hưởng Kitô giáo qua môi trường giáo dục đă đẩy lùi các tin tưởng và thực hành phong thủy, nhưng vài chục năm trở lại đây người ta lại đua nhau chạy theo phong thủy, mong nhờ đó mà ḿnh và con cháu làm ăn phát đạt.

Thách đố lớn trong việc loan Tin mừng cho người cùng Ḍng họ, là nêu lên được tính lừa dối của quan niệm phong thủy. Chính các con cái Chúa phải bước đi vững vàng trong tinh thần siêu thoát và giúp các tín hữu mới bước đi như thế, thoát khỏi năo trạng ham mê tiền bạc vật chất. Muốn vậy, cần giúp họ xác tín và sống mănh liệt các ư lực của Kinh Lạy Cha.

Kinh Lạy Cha giúp người tín hữu thoát ra khỏi chính ḿnh. Những ư nguyện nơi phần thứ nhất của kinh này dạy ta đặt mục đích đời ḿnh nơi Thiên Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Ư nguyện của phần thứ hai nhắc ta sống phó thác vào t́nh thương quan pḥng của Thiên Chúa. Chính trên những cơ sở ấy mà ta có thể sống yêu thương, hiệp thông, tha thứ và quên ḿnh v́ ích chung (x. Mt 6,25-34).

Để chữa lành bệnh dịch bạo lực và gian dối đang lan tràn hiện nay, cần phải giúp mọi người nhận ra ḿnh là con cái của Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao và là anh em của mọi người. Nếu không biết đến vị Cha Chung đầy nhân ái của muôn loài, Đấng thấu suốt cơi ḷng và ân thưởng cả những điều quảng đại bé nhỏ nhất (x. Mt 10,41-42) th́ quả là khó mà quảng đại quên ḿnh v́ ích chung. Ích chung đ̣i phải quên lợi riêng, cho nên ai cũng ngại. Nhờ nhận biết ḿnh là con Thiên Chúa, người tín hữu sẽ quả cảm sống tinh thần v́ ích chung, bắt đầu từ chính ḿnh. Chính tinh thần v́ ích chung sẽ giúp ta dám sống công bằng và chân thật, là những giá trị đang trở nên hiếm hoi giữa một xă hội đang quay cuồng chạy theo vật chất.

Muốn xây dựng một thế hệ hào hùng, thượng vơ và quả cảm quên ḿnh v́ đồng loại, trước hết cần dạy cho họ biết hiếu thảo với Cha Cả trên trời, Đấng đang liên lỉ ngỏ lời với con cái ḿnh cách thầm lặng nơi lương tâm họ. Việc giáo dục này chúng ta có thể thực hiện được bằng cách cố gắng thêm một chút để sống trọn lư tưởng hiệp thông của Tin mừng và chia sẻ với các tín hữu mới lư tưởng chính chúng ta đang sống. Đây là vấn đề và thách đố đặt ra không phải cho những người đồng tộc nhưng là cho cộng đồng tín hữu Công giáo, ở b́nh diện giáo xứ cũng như giáo phận. Với kinh nghiệm bản thân về giáo hội Việt Nam, tôi nghĩ rằng đó là điều có thể làm được.

Tôi đă giữ được một kỷ niệm rất êm đềm và thánh thiện về Đà Lạt, là đă được sống tại đó trong thời gian giáo phận này được chuyển ḿnh triệt để nhờ mọi người cùng nhau suy tư, cầu nguyện và tập sống theo khôn mẫu Giáo đoàn Giêrusalem tiên khởi. Hiệp thông, quả là Nước Trời giữa trần gian, dĩ nhiên là đang c̣n bất toàn với bao đấu tranh cần thiết. Tiếp đó, cuối năm 1990, được về Bắc Ninh và Phát Diệm, rồi những năm sau đó được trải qua một vài tuần chầu lượt tại Giáo phận Vinh, tôi được nh́n thấy thêm một phiên bản thực hành, không cần lư thuyết.

Về sau, tôi c̣n được nh́n thấy sự thể hiện t́nh hiệp thông tuyệt vời tại đơn vị hàng xóm: Giáo phận Kontum. Tại những nơi tôi có dịp sống và làm việc như Nha Trang, Sài G̣n, cũng như tại Giáo phân mẹ Qui Nhơn, tôi vẫn luôn được đầy an ủi do t́nh hiệp thông của bề Trên cũng như của anh em chung quanh. Tuy nhiên, cung cách thể hiện của cộng đoàn Công giáo tại Kontum, như tôi được nghe và được thấy, quả là một bảo chứng để khẳng định rằng lư tưởng hiệp thông trong Công vụ Tông đồ là điều khả thi ngay ở thời đại này và theo cách của thời đại này. Tôi chỉ được thấy Đức Cha Paul Seitz một vài lần. Tôi chỉ được gặp gỡ nói chuyện với Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc và Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung một vài lần, c̣n Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh và anh em linh mục Kontum th́ nhiều lần hơn. Điều khiến tôi xúc động là qua đó khuôn mẫu của các vị Thừa Sai nghèo, quên ḿnh cho Tin mừng và cho Dân chúng vẫn c̣n được “sao y bản chánh” cho đến nay. Hiệp thông và hiệp nhất, quả là sức hút và chất men của Nước Trời.

09
HƯỚNG TỚI THẾ HỆ TRẺ

Loan Tin mừng qua con đường ḍng họ không chỉ là chuyện có tính giai đoạn nhân kỷ niệm 50 năm huấn thị “Plane compertum est”. Lệnh truyền của Chúa là loan báo Tin mừng đến tận cùng thế giới, từ thế hệ này qua thế hệ khác cho tới ngày Chúa lại đến. Như thế, vai tṛ các thế hệ trẻ rất quan trọng.

Nơi phong trào t́m nguồn cội của người lương cũng như người giáo, thoạt đầu, chỉ những người về hưu mới quan tâm. Nay giới phụ huynh trẻ 35-45 tuổi bắt đầu nhập cuộc nhiều. Những người trẻ hơn thường ít bận tâm hơn. Do đó, cần nỗ lực đào tạo ư thức cội nguồn cho thế hệ trẻ.

Trước t́nh cảnh sự học sa sút, năm 1990, chúng tôi đă thiết lập việc khuyến học trong phạm vi gia tộc, lấy ngày giỗ ông nội làm "ngày truyền thống gia tộc" đồng thời cử hành ngày này theo dương lịch cho các bạn trẻ dễ nhớ.

Một số phụ huynh trẻ thấy chương tŕnh khuyến học khá hữu ích, tích cực theo đuổi và việc phát thưởng nhân "ngày gia tộc" vẫn tiếp tục cho tới ngày nay. Trong ngày này chúng tôi ưu tiên quy tụ các cháu nhỏ, không mời người ngoài, chỉ tập trung lo xây dựng trong nội bộ. Giá trị vật chất của các phần thưởng không đáng kể nhưng vẫn là một cái ǵ háo hức đối với các cháu mẫu giáo và các lớp nhỏ. Ngày gia tộc cũng lôi cuốn với các học sinh lớn nhờ đó là dịp để các cháu đi chơi. Do chúng tôi không có từ đường, ngày này được tổ chức lưu động tại bất cứ gia đ́nh nào đăng cai tổ chức. Cả những gia đ́nh trẻ và cả những cháu ngoại cũng được quyền đăng cai tổ chức. Nhà nào lo giỗ năm sau sẽ rước di ảnh Ông Bà về lo hương khói trong một năm. Bù lại trong năm mọi người được nhắc nhở cầu nguyện cho gia đ́nh ấy. Như thế chúng tôi có một từ đường lưu động hằng năm, đi theo di ảnh Ông Bà. Các gia đ́nh trong ḍng tộc chúng tôi ở tại ba tỉnh miền Trung và cả ở Sài G̣n, hằng năm các cháu đều có dịp quy tụ ở những địa phương khác nhau. Hơn nữa, dù tổ chức ở đâu, ngoài thánh lễ, buổi phát thưởng và bữa ăn gia tộc, c̣n có chương tŕnh dă ngoại hoặc du lịch tham quan. Thêm vào đó, v́ không có ruộng hương hỏa hoặc một nguồn lợi tức nào để chi dùng cho việc gia tộc, chúng tôi xây dựng quỹ hương hoa bằng sự quyên góp hằng năm, ngay trong ngày gia tộc. Một phần được giữ lại cho quỹ học bổng, một phần được giao cho gia đ́nh đăng kư tổ chức ngày gia tộc năm sau.

Trong cuộc họp mặt đầu tiên về gia phả ḍng họ năm 1996 tại hội trường Viện Sử Học Hà Nội, nhiều đại biểu cũng tỏ ra đồng cảm với điều tôi chia sẻ. Tôi lưu ư mọi người rằng t́m lại quá khứ là để phục vụ tương lai. Trong thâm tâm những người nhiệt thành với nguồn cội, ai cũng biết rằng công việc của ḿnh trước hết là nhằm ích lợi tinh thần cho con cháu. Xu thế suy thoái đạo lư trên thế giới thật đáng lo ngại: Phim ảnh bạo lực và t́nh dục cộng với bao nhiêu tệ nạn khác của văn minh hưởng thụ sẽ càng lúc càng phá hỏng những nền móng của đạo đức cá nhân, gia đ́nh và xă hội. Việc dựng lại gia phả, nêu cao t́nh gia đ́nh và gia tộc là một phương thế có thể góp phần hữu hiệu vào việc giáo dục đạo lư cho con cháu. Từ góc nh́n của một linh mục, tôi thấy ngày nay muốn chấn hưng đạo đức cho lớp trẻ, chỉ riêng nỗ lực của gia tộc hoặc của tôn giáo thôi không đủ, cần có sự hợp tác của cả đôi bên. Chính v́ thế mà tôi tham gia nghiên cứu về gia phả ḍng họ. Dù chưa thu thập được đầy đủ các chi tiết cần thiết, dù c̣n bất toàn và đầy hạn chế, bản gia phả vẫn là một phương tiện có tác dụng rất lớn trong việc đào tạo ḷng biết ơn tiền nhân, gây ư thức tự trọng và tạo tinh thần cầu tiến.

Gia tộc chúng tôi cũng t́m cách để biến gia phả thành một phương tiện thu hút sự chú ư của các cháu nhỏ và đào tạo t́nh gia tộc cho các cháu. Xưa tại Việt Nam, chỉ những người đă khuất mới được ghi vào gia phả. Nay chúng tôi ghi vào gia phả cả những cháu nhỏ mới sinh. Hiện chúng tôi đang thí nghiệm phiên bản CD của gia phả, đă thực hiện cách nay năm năm. CD này sẽ cập nhật năm năm một lần, có h́nh từng gia đ́nh và từng cháu, các cháu có thể bấm t́m như trên một website. Qua thử nghiệm, các cháu nhỏ tỏ ra rất thích thú khám phá nhiều điều về ḍng họ, gia tộc và họ hàng trên màn ảnh vi tính. Chúng tôi cũng mong t́m người thiết kế một tṛ chơi điện tử về gia phả và ḍng họ để đưa vào CD này cho các cháu nhỏ thêm hào hứng.

Việc đào tạo ư thức về Đạo Hiếu c̣n được thực hiện qua việc hành hương về nguồn cội. Năm 2005, kỷ niệm 50 năm cuộc di cư, chúng tôi đă đưa các cháu về cử hành ngày gia tộc tại gốc tổ Hà Tĩnh. Một vài vị cao niên, một số phụ huynh trẻ và một linh mục trong gia tộc dẫn đầu đoàn hành hương về phát thưởng tại một gia đ́nh ngoài ấy, dâng lễ tại nhà thờ xứ và thắp hương niệm tổ tại từ đương bên làng lương.

 

Nhà giáo Vơ Tá Tương đang diễn giải cho các bạn trẻ hành hương 2005 hiểu những nếp xưa


 

 

.4
LOAN TIN MỪNG
CHO D̉NG HỌ

 

01
PHONG TRÀO LIÊN KẾT D̉NG HỌ

 

Cuộc kỷ niệm 50 năm huấn thị Plane compertum est là dịp để người Công giáo Việt Nam ḥa nhịp với trào lưu chung khắp nơi. Sau ngày đất nước thống nhất, biết bao người lặn lội t́m lại tông tích người thân, bà con họ hàng và t́m lại gia phả. Đầu những năm 1990, nhiều ban liên lạc ḍng họ ra đời và các cuộc gặp gỡ ngày càng nở rộ. Thoạt đầu là những nhóm liên lạc ở các thành phố lớn. Mấy năm sau những ban liên lạc địa phương đă nối kết với nhau thành ban liên lạc cả nước, rồi tiến đến thành lập Hội Đồng Ḍng Họ cả nước. Ngày càng nhiều những đại hội toàn quốc của các ḍng họ, có ḍng họ c̣n phát hành cả thẻ hội viên...

Cùng lúc, trước t́nh cảnh việc học sa sút, nhiều gia tộc đă tổ chức việc khuyến học cho con em; nhiều từ đường được tôn tạo hoặc xây mới; nhiều tác phẩm nghiên cứu riêng về từng ḍng họ được ấn hành. Những sự kiện từ dưới lên đă cộng hưởng với các ban liên lạc hoặc Hội đồng Ḍng tộc từ trên xuống, tạo nên một luồng văn hóa lôi cuốn cả sự chú ư của tổ chức UNESCO.

Vào Google và gơ: "gia phả - ḍng họ - nguồn cội", chỉ trong 6 trang, ta đă đọc thấy 18 trang web riêng của các ḍng họ:

trinhtoc.com,hovuvovietnam.com,donghoninh.wordpress.com,nguyendac.com,hophamlangnhuong.com,hodinhvietnam.com,hothaicamlo.info,hodangbinhnghi.com,hodovietnam.vn,hohoanghuynhvietnam.vn,hopham.org,mactoc.com,hokhuatvietnam.org,hothan.org,danggia.org,hotvietnam.org,dangtocvietnam.com,trandang.net

Ngoài những trang web riêng các ḍng họ, có những trang web chuyên đề nghiên cứu về gia phả hoặc lo dịch vụ làm gia phả: www.giaphavietnam.com, www.phahe.vn,vanhoadongho.vn, ...

Ta có thể gơ t́m "nguồn gốc họ ..." và dễ dàng t́m được thông tin của cả những họ ít gặp như họ Tŕnh, họ Lữ, họ Lại, họ Thân, họ Kiều...

Gơ "ban liên lạc (các) ḍng họ" hoặc "đại hội ḍng họ...", ta c̣n khám phá ra rằng việc liên kết các họ tộc không dừng lại trên các phương tiện thông tin mà c̣n đi vào hoạt động thực tế khá rầm rộ.

Phong trào liên kết ḍng họ phát triển hết sức nhanh. Mở trang mạng một ḍng họ nào đó và bấm vào “kết nối” hoặc “liên kết”, ta sẽ thấy mỗi ḍng họ không phải chỉ có một website… Đọc thử một số thông tin, ta sẽ thấy chỉ dăm tháng sau đại hội ḍng họ cấp tỉnh một nơi nào đó, các đại hội cấp thành phố, huyện và thị xă đă nối đuôi theo.

Phong trào có một ưu điểm là vượt trên ranh giới địa phương, không phân biệt lương giáo. Nếu người Công giáo biết quan tâm nhập cuộc th́ đây là cơ hội rất tốt để ḥa đồng với bà con cùng ḍng họ.

Phong trào này thúc đẩy người ta t́m dựng lại gia phả, lập lại từ đường, tổ chức lại các ngày giỗ chung (ở miền Trung gọi là "tế hiệp"). Một số bà con ở thôn quê cảm thấy an tâm v́ giờ đây đă có một chỗ dựa, đă được thuộc về một tổ chức sinh hoạt văn hóa, vừa mang tính huyết tộc, vừa mang tính tâm linh. Cũng có thể v́ thế họ thấy không cần phải có một tôn giáo... Đây cũng là điểm đáng cho các giới chức Công giáo suy nghĩ khi theo đuổi ước mơ chia sẻ Tin mừng với đồng bào.

Số nhà thờ ḍng họ tân tạo ngày càng nhiều (“nhà thờ” là một kiến trúc biệt lập, dành riêng cho việc thờ phụng, phân biệt với “từ đường” là gian thờ trong nhà vị trưởng tộc, thường có tính cách hạn hẹp trong ṿng ba hay bốn đời). Trên địa bàn tỉnh B́nh Định, từ đầu năm đến giữa tháng 10-2013, chỉ riêng ḍng họ Vơ đă có thêm ba nhà thờ mới, hai do bà con góp sức chung công, một do những người khá giả trong gia tộc… Cùng lúc, có những nhóm đồng tộc nghèo và ít người, không sao làm nổi nhà thờ riêng. Có lẽ chính cái nghèo ấy đang biến họ thành đối tượng của ḷng thương xót Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, v́ Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Chính Thiên Chúa là Cha nhân ái đang dành cho họ một mái nhà chung, nhà thờ hay từ đường trăm họ, nơi Ngài quy tụ dân nghèo của Ngài.

Trào lưu văn hóa tâm linh này c̣n song đôi với sự bùng phát những tin tưởng về phong thủy, dễ khiến người lương thêm khép ḷng lại với Tin mừng. Ngược lại, nó cũng ôm theo cả những mâu thuẫn, khiến người ta lúng túng. Nếu người Công giáo biết dấn thân nhập cuộc kịp thời th́ đây lại có thể thành một cơ hội mới của Tin mừng, cơ hội để truyền giảng cho mọi người nhận ra chỉ có một Thiên Chúa là Cha Chung, là Nguồn Cội đích thật duy nhất.

 

02
CƠ HỘI CHIA SẺ L̉NG TIN

 

Ngày truyền thống từng ḍng tộc tại mỗi giáo xứ sẽ tạo cơ hội để tập thể đồng tộc Công giáo t́m hiểu ḷng tin và mối chân t́nh của tập thể đồng tộc ngoài Công giáo đối với Tổ tiên, và cũng là cơ hội để chia sẻ ḷng tin với họ. Những cố gắng cá nhân dễ rơi vào mỏi mệt, nhưng khi biến thành ư chí tập thể, sẽ trở nên bền bỉ lâu dài. Giữa một xă hội nhiều sức ép, việc từng người tiếp nhận đức tin lắm ngại ngùng, khi đức tin được những người thân cùng chia sẻ, sẽ đầy sức mạnh.

 Nếu tại giáo xứ, ḍng họ nào cũng cử hành một ngày truyền thống ḍng họ ḿnh, người Công giáo sẽ có nhiều cơ hội để gặp gỡ các đồng tộc ngoài Công giáo và giúp họ gần gũi với giáo lư Đạo Chúa. Đó cũng là cách thiết thực để đền ơn đáp nghĩa Tổ Tiên.

Thật vậy, tổ phụ các ḍng họ tại Việt Nam, tổ phụ Abraham hay tổ phụ Giacóp của người Do Thái, hoặc bất cứ tổ phụ nhân loại nào khác cũng chỉ là những h́nh ảnh giúp con cháu hướng về nguồn cội cuối cùng là chính Thiên Chúa Tạo Hóa, là Cha chung tất cả mọi người.

Ḷng tin của người Công giáo và của anh chị em lương dân nhiều điểm thoạt nh́n có vẻ giống nhau nhưng thực ra vẫn khác biệt rất tinh vi. Ví dụ niềm tin rằng tổ tiên từ bao đời vẫn đang anh linh phù hộ cho con cháu. Người Công giáo hiểu sự phù hộ này theo nghĩa Tổ Tiên chuyển cầu cho con cháu trước Ṭa Thiên Chúa.  Mỗi ngày ta đón nhận biết bao ơn lành Thiên Chúa, từ cơm ăn, nước uống, khí thở, ánh sáng mặt trời cho đến sức khỏe, trí khôn, t́nh yêu và tự do; cả tiền bạc vật chất cũng là ơn lành của chính Thiên Chúa Tạo Hóa; Ngài ban tất cả cho ta làm phương tiện để đáp lại t́nh thương của Ngài mà sống cho nên người như Ngài muốn. Tổ tiên xưa ăn ngay ở lành là nhờ ơn Chúa và nay đang linh hiển hộ phù con cháu cũng là nhờ ơn Chúa. Thử nghĩ xem, mai kia chúng ta chết đi và mốt nọ cháu con ta thắp hương khẩn cầu chúng ta phù hộ, chúng ta sẽ lấy quyền phép nào và lấy từ kho tàng nào để trợ giúp chúng, nếu không phải là lúc ấy chính chúng ta sẽ chuyển cầu cho chúng trước mặt Cha trên trời để Ngài ban ơn phúc cho chúng? Người ta quên rằng chính Thiên Chúa Tạo Hóa đă xét xử và thưởng phạt mọi thế hệ tổ tiên. Chỉ những tổ tiên nào đang được hưởng phúc với Thiên Chúa th́ mới có khả năng chuyển cầu cho con cháu trước thánh nhan Ngài.

Do mê tín, người ta thêu dệt h́nh ảnh một thế giới vô h́nh theo mẫu thế giới hữu h́nh: mỗi ḍng họ có châu quận riêng, chết rồi ai về châu quận nấy. Quyển Lịch Vạn Niên bên Tàu liệt kê 510 châu quận ở thế giới bên kia, chỉ gồm toàn những địa danh bên Tàu, vậy th́ người Lào, người Campuchia, người Úc, người Phi, người Mỹ chết rồi đi đâu? Ngay cả người Tàu, chết rồi sẽ về châu quận của cha hay của mẹ? Rồi những người đă cải từ họ này sang họ khác, sẽ đi về đâu? Những chuyện ấy chẳng khác nào câu hỏi lẩm cẩm của nhóm Sađốc xưa về chuyện dựng vợ gả chồng bên kia thế giới (x. Mt 22,23-33).

Quỷ dữ hết sức tinh quái. Xưa nó đă dám dùng lời Kinh Thánh để t́m cách dẫn dụ Chúa Giêsu rời xa ư muốn của Thiên Chúa Cha (x. Mt 4,6). Nay nó cũng dùng đủ các chiêu bài hết sức tốt lành để dẫn dụ người ta chối bỏ Thiên Chúa là Cha Chung. Trên đường làm công tác nối kết Ḍng họ, tôi được biết không ít những chuyện đau buồn khá giống nhau. Có những nơi hầu hết bà con đồng tộc đều tập trung sum họp trong ngày tế hiệp nhưng riêng một nhóm nào đó, dù có liên hệ gia phả rất rơ và rất gần, vẫn không chịu về. V́ một lư do nào đó, ba bốn đời trước đây, người đứng đầu nhánh ấy đă tự tách ra, chẳng những không c̣n về tế hiệp mà c̣n lưu truyền cho con cháu những lư giải thiếu trung thực, đáng buồn, vẽ nên h́nh ảnh không đẹp về gốc tổ. Ở một chừng mực nào đó, khi chỉ quan tâm tới những bậc Tổ tiên mươi đời trở lại đây mà lăng quên Nguồn Cội đích thật và đời đời, người ta cũng đang theo đuổi một sự chia cắt đáng buồn như thế. 

Trực giác về sự "quy tiên" (chết là về với tổ tiên nguồn cội) sẽ rực sáng lên khi người ta nhận biết Đấng Tối Cao là cội nguồn cuối cùng, duy nhất và đích thực, đồng thời cũng là đích điểm cuối cùng mọi loài phải vươn tới. Mọi thế hệ tổ tiên đều đă, và mọi thế hệ con cháu đều sẽ trở về với nguồn cội cao nhất, từ đó loài người đă phát xuất ra (x. Ga 13,3). Chỉ một ḿnh nguồn cội ấy, chỉ một ḿnh Thiên Chúa Chí Thánh, mới đáng cho ta yêu kính hết dạ hết ḷng và nhiệt thành phụng sự đến hy sinh mạng sống. Mọi thụ tạo, cá nhân cũng như tập thể, đều có thể khiến những kẻ dấn thân phụng sự nó bị vỡ mộng, chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới hoàn toàn trung tín, không để cho kẻ tin thờ Ngài phải thất vọng bao giờ.

Những hạn chế về gia phả sẽ giúp ta vượt khỏi tầm mức bé nhỏ cục bộ để vươn tới t́nh huynh đệ đại đồng... Những hạn chế trên đường về nguồn cội sẽ thức tỉnh ta hướng về cội nguồn cuối cùng và đích thật.

 

03
NHÂN H̉A – ĐỊA LỢI - THIÊN THỜI

 

Tới đây, tôi xin phép được chia sẻ một vài kinh nghiệm rất riêng, để anh chọ em đồng đạo có thêm chất liệu cụ thể, tiện đối chiếu, suy tư và t́m kiếm trong lănh vực ḍng họ.

Ngày đất nước thống nhất, tôi được 28 tuổi. Việc thống nhất tạo thuận lợi cho việc đoàn tụ nhiều gia đ́nh và gia tộc. Tôi quan tâm t́m sao chép lại bản gia phả đă được cụ trưởng tộc phiên âm sang chữ Quốc ngữ và cất giữ, th́ được biết đă bị mối mọt ăn hư mất. Tôi tiếc ngẩn ngơ và mong sớm có ngày được về quê để đến kính viếng từ đường của Ḍng họ nằm ở làng ngoài Công giáo gần bên và xin tham khảo bản gia phả. Trong lúc chờ đợi, tôi vào thư viện t́m đọc và sao chụp những trang sách có nói về họ Vơ và lịch sử họ Vơ... Đọc được một số sách và bài có nói về nguồn gốc ḍng họ Vơ ở Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương cũng như ở Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tôi càng háo hức sớm có dịp về Bắc t́m kiếm. Măi mùa thu 1990, mộng mới thành.

Cha Giuse Lê Viết Phục, Ḍng Chúa Cứu Thế, lúc ấy đă 70 tuổi, là một người cha và một người anh tôi hằng ngưỡng mộ. Biết được ước nguyện của tôi, ngài đă mời tôi theo ngài hành hương Giáo hội phía Bắc trong ṿng 3 tuần. Ngài hứa đưa tôi thăm hầu hết các Ṭa giám mục phía Bắc và đặc biệt sẽ đưa tôi về làng quê An Nhiên và về gốc tổ Mộ Trạch. Quả là một món quà hết sức bất ngờ.

Sáng ngày 11-09-1990, chúng tôi về tới làng quê nơi tôi sinh trưởng là An Nhiên. Xế chiều tôi t́m đến thăm cụ tộc trưởng họ Vơ huyện Thạch Hà (tỉnh Hà Tĩnh) ở làng bên để thắp hương bái tổ. Sau ngót ba trăm năm xa cách về mặt tinh thần, tôi phập phồng không biết sẽ nói năng làm sao. Thế nhưng tôi đă được cụ tộc trưởng và con trai cụ là một nhà giáo dang rộng ṿng tay đón nhận. Nhà giáo này nhanh nhẹn thu xếp mọi sự để chiều hôm sau tôi dâng thánh lễ cầu b́nh an cho ḍng họ tại sân nhà cụ tộc trưởng.

Cuối thế kỷ 17, cụ tổ đời thứ sáu của họ Vơ ở Thạch Hà là Hiển Dương Hầu Vơ Tá Cảnh được ơn tin Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô và dọn nhà sang sinh sống tại làng Công giáo, cách khoảng một cây số đường chim bay. Người em trai út của ông là Cường Lộc Hầu Vơ Tá Trọng đă đưa vai cáng đáng việc từ đường, nhờ đó mà việc tế tự truyền thống vẫn kéo dài măi đến nay.

Cuộc chia tay để lại vết thương khó lành trong tâm khảm. Con đường từ thị xă Hà Tĩnh xuống cảng Hộ Độ gần như là ranh giới chia đôi, những làng Công giáo ở phía Bắc và những làng lương dân ở phía Nam. Những hoàn cảnh lịch sử đă khiến hai bên trở thành xa lạ với nhau, rất ít khi giao thiệp. Thế mà chiều ngày 12-9-1990, khi tôi cử hành thánh lễ tại sân nhà cụ tộc trưởng Vơ Tá Quê, th́ có đến gần một trăm người cả lương lẫn giáo cùng tham dự. Chưa đầy hai ngày ở quê nhà, tôi được Thiên Chúa cho thấy bức tường vô h́nh đă sụp đổ.

Sau thánh lễ, tất cả cùng ngồi lại ăn bánh ngọt chia sẻ tâm t́nh. Tôi đă dự tính về xin tham chiếu gia phả nhưng tôi không c̣n kịp hỏi han ǵ đến chuyện ấy v́ có một cái ǵ ở trên vừa ập xuống c̣n lớn lao hơn nhiều. Nhà giáo Vơ Tá Tương cảm tác một bài đường luật bát cú ghi nhớ cuộc "sum họp". Bài thơ ấy đă mở màn cho cuộc xướng họa "sum họp". Đất nước thống nhất là địa lợi, ḷng người cùng khắc khoải t́m kiếm như nhau là nhân ḥa; và hơn thế nữa, c̣n có cả thiên thời. Vâng, nhờ ơn Chúa, đúng một tuần sau hôm dâng lễ ở từ đường, tôi t́m được ngôi mộ ông nội của vị tổ thế kỷ thứ IX mà cha tôi và các chú tôi thường nhắc đến, trên cánh đồng huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Trong cùng một buổi chiều ấy, hết sức bất ngờ, tôi c̣n t́m được cả những trang gia phả hơn 800 năm trước tại nhà một vị trưởng lăo có tên là Thiên Hựu – Trời xếp đặt. Tôi gửi các bài họa của tôi cùng với h́nh chụp ngôi mộ và bản đồ chỉ đường  đến đó. Những chi tiết ấy đă tạo thêm cảm hứng cho nhiều người. Có đến gần 40 bài họa của nhiều anh em các nhánh họ Vơ khác nhau tại Hà Tĩnh, Nghệ An và cả Hà Nội. Những bài thơ này được chép tay, đánh máy, photocopy, phát tán không riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh mà c̣n lan đến một số tỉnh thành phía Bắc và phía Nam, góp phần làm dậy nên sức sống cho t́nh đồng tộc...

Kinh nghiệm ở đây, từ chuyện xướng họa thơ Đường giữa những người luống tuổi, tôi muốn gợi ư với các bạn trẻ sử dụng những phương tiện truyền thông ngày nay vào việc xây dựng t́nh đồng tộc và loan báo Tin mừng: email, chat, nhắn tin, nhạc chờ, blogs, facebook...

Chuyện thiên thời đối với tôi c̣n có nghĩa là những ơn lạ, lặp đi lặp lại nhiều lần trên hành tŕnh t́m về nguồn cội, giúp tôi t́m ra được cả những manh mối nối liền được một số nhóm bị đứt đoạn về gia phả suốt mấy trăm năm qua, như tôi đă kể lại ở cuối quyển Về Với Cội Nguồn. Tôi có cảm tưởng những ơn ấy là những tín hiệu siêu nhiên muốn nhắn nhủ rằng việc nối kết ḍng họ đang được Thiên Chúa chúc lành như một nẻo đường hồn nhiên của Tin mừng.

04
MƯỜI BÀI TÂM CA MÙA BÁO HIẾU

Tôi đă đề xuất ngày truyền thống các ḍng họ để dễ gặp gỡ anh chị em lương dân và giúp họ hiểu giáo lư đạo Chúa. Điều ấy chỉ thiết thực với những ai ở gần nhà thờ, những người ở xa xôi thật khó. Như tại giáo phận Qui Nhơn chúng tôi, tỉ lệ người Công giáo chỉ chiếm 1,8% dân số, khắp ba tỉnh chỉ có hơn 50 ngôi nhà thờ, cả những người Công giáo lắm khi cũng sống rất xa nhà thờ. Vậy th́ phải làm sao đây?

Những ai trong quư độc giả thường đi xe đ̣, hẳn đă có lần được tặng sách báo và băng đĩa Phật giáo. Tôi đă nhiều lần thấy người ta tặng sách và đă hai lần nhận sách. Một lần có vẻ t́nh cờ, người ngồi bên cạnh tôi đọc một quyển sách song ngữ của Ḥa thượng Tịnh Không, tôi hỏi chuyện và người ấy tặng luôn quyển sách. Lần kia là một phụ nữ mặc áo lam, đem theo một giỏ xách đầy những đĩa CD và những cuốn sách mỏng. Bà lớn tiếng giới thiệu và tặng cho bất cứ ai muốn nhận. Tôi xin hai đĩa, một có tựa đề “Tại sao phải tu theo Đạo Phật” và một có nội dung bảo vệ sự sống.

Mỗi lần dạy giáo lư, tôi thường đi in bài ở quầy photocopy của một thiếu nữ khuyết tật rất vui vẻ và quảng đại. Thỉnh thoảng, khi nội dung bài giáo lư dễ đọc, tôi tặng cho cô một bản. Có lần thấy trên bàn một chồng sách mỏng hướng dẫn cách tụng kinh niệm Phật trong các dịp cúng giỗ, tôi hỏi thăm th́ được cô tặng luôn một bản. Thật bất ngờ, tên người “ấn tống” ghi ở cuối, không ai khác hơn là chính cô ấy. “Ấn tống” là thuật ngữ chuyên môn có nghĩa là đóng góp để in sách Phật giáo và phát hành miễn phí.

Nhân một mùa Vu Lan, nhận được một CD thuyết pháp về “báo hiếu”, tôi đă tặng đáp lễ một CD mười bài “cầu cho cha mẹ” của nhạc sĩ Phanxicô Nguyễn Đ́nh Diễn. Phản hồi tích cực từ người bạn Phật tử ấy khiến tôi nghĩ đến việc phát hành rộng răi CD của anh Diễn. Mười bài ca đă khiến nhiều phụ huynh rơi lệ và đă giúp nhiều bạn trẻ quyết sống tốt lành để đáp đền nghĩa mẹ t́nh cha, tự nó sẽ có sức lan tỏa vượt khỏi hàng rào các giáo xứ. Tôi trao đổi với một cha phó ở miền quê, anh đề nghị nên chèn vào giữa các bài hát một vài lời ngắn về Đạo Hiếu theo quan điểm Công giáo. Tôi viết năm lời giới thiệu chèn vào CD và tặng thử. Một số giáo dân lại đề nghị phải cho thêm h́nh, để người ta vừa nghe nhạc vừa xem h́nh ảnh.

Quả là một gợi ư hết sức hay. Một CD mười bài hát cầu cho cha mẹ, có lời dẫn về Đạo Hiếu, lại kèm thêm cả h́nh ảnh người Công giáo đang thắp hương cúng lễ gia tiên, sẽ len lỏi vào mọi ngơ ngách để nói cho người lương hiểu giáo lư Công giáo về Đạo Hiếu. Tôi gọi cho nhạc sĩ Phanxicô. Anh đồng ư cho tôi thực hiện. Lúc ấy trên mạng Dũng Lạc đă có mấy bài được anh Xuân Minh làm thành slideshow. Tôi liên lạc với anh Minh và anh nhận lời làm thêm mấy bài. Một nhiếp ảnh gia ở giáo xứ Tân Phước, Sài G̣n, là anh Phong nhận làm giúp những bài c̣n lại. Sau bốn tháng, tôi đă có được DVD mong đợi với tựa đề: “Tâm ca mùa báo hiếu”. Cả bà con người giáo và người lương đều rất thích.

Hy vọng trong dịp kỷ niệm 50 năm áp dụng huấn thị về Tôn kính Tổ Tiên, nhạc sĩ Phanxicô sẽ chính thức xin lại giấy phép xuất bản đĩa nhạc này để phát hành rộng răi trong mọi thành phần lương, giáo.

Ước ǵ sẽ có đông đảo anh chị em giúp ấn tống hoặc mua tặng cho bà con lương dân nhân dịp đám giỗ, đám tang, đám cưới, mùa Vu lan, Giáng sinh hoặc Tết Nguyên đán. Nếu các linh mục và cả giáo dân không có dịp gặp gỡ những người ở xa để hóa giải thành kiến “theo Đạo bỏ Ông bỏ Bà” th́ DVD Tâm Ca Mùa Báo Hiếu sẽ làm thay. Khi mỗi gia đ́nh Công giáo đều quan tâm mua DVD này tặng cho những gia đ́nh lương dân ḿnh quen rồi chú tâm cầu nguyện cho họ th́ có thể nói chương tŕnh mỗi gia đ́nh một tiểu tổ truyền giáo đă khởi sự cách nhẹ nhàng.

05
ĂN GIỖ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI ĐĂ KHUẤT

Kỵ giỗ khiến bà con lương dân chạm phải một bí ẩn: Một đàng trực giác thấy người thân chưa siêu thoát, c̣n phải được thanh luyện (đến hết đời thứ năm), một đàng lại thấy có thể xin họ độ tŕ? Làm sao họ có thể độ tŕ được ai khi họ chưa siêu thoát….

Trước những khó khăn gây lúng túng, sự nhập cuộc của người Công giáo có thể góp thêm hơi ấm. Hơn nữa, với giáo lư minh bạch của Đạo Chúa, họ c̣n có thể đem lại ánh sáng và b́nh an giúp bà con đồng tộc vượt khỏi một số khó khăn bế tắc.

Tháng Mười Một, tháng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn và cũng là tháng kính nhớ Tổ Tiên. Người Công giáo vẫn tự hào ḿnh nhớ đến Tổ tiên không chỉ trong ngày giỗ hay ngày mùng hai Tết mà suốt tháng Mười Một, và cả trong thánh lễ hằng ngày của bất cứ tháng nào. Rơ là người Công giáo không bỏ ông bỏ bà tí nào!

Tuy nhiên ta cần lưu ư để không giản lược khái niệm "kính nhớ Tổ tiên" vào việc "cầu hồn". Theo mục từ "Giỗ" trong từ điển Vi.Wikipedia, ngày giỗ thường (từ năm thứ ba trở đi) được duy tŕ đến hết năm đời, sau năm đời th́ được siêu thoát, không cần "giỗ" riêng nữa. Ngày "giỗ" có liên quan với việc "cầu hồn" tuy nhiên nó lại vượt xa hơn việc cầu hồn. Xin lược trích:

"Trong thờ cúng tổ tiên, có 3 ngày giỗ: Giỗ Đầu, Giỗ Hết, Giỗ Thường.

Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường, là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn c̣n bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong ḷng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém ǵ so với ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước.

Giỗ Hết gọi là Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong ḷng những người c̣n sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém ǵ Giỗ Đầu.

Sau ngày lễ này hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta sẽ chọn ngày tốt để Trừ phục (c̣n gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang, người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đ́nh đám và người vợ mới có thể đi bước nữa (nếu chồng ḿnh mất). Đây là một buổi lễ vô cùng quan trọng, v́ nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và vong linh của người đă mất.

Giỗ Thường c̣n gọi là ngày Cát Kỵ, là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc như ngày đưa ma nữa, không c̣n cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp cho con cháu người quá cố sum họp để tưởng nhớ người đă khuất, không c̣n mời khách rộng răi như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường.

Ngày giỗ thường được duy tŕ đến hết năm đời. Đến sau năm đời, vong linh người quá cố được siêu thoát, nên không cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu c̣n nhớ đến tổ tiên và người đă khuất, thể hiện ḷng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết phải quá đắt đỏ, linh đ́nh hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc th́ cũng đă giữ được đạo hiếu với tổ tiên.

Ngày này, khách đến ăn giỗ không c̣n quá đau buồn như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường trước, có thể mặc trang phục b́nh thường."

Giỗ là dịp để ta chia sẻ cái nh́n về đời sau theo quan điểm Kitô giáo.

Một số người lành thánh được Ṭa Thánh tuyên phong hiển thánh hoặc chân phước, c̣n ở các trường hợp khác ta không thể vơ đoán về t́nh trạng của người đă khuất. Với đức tin khiêm nhường và ḷng yêu mến dành cho người quá cố, ta kéo dài việc cầu xin cho họ sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.

Ta phải nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa nhưng không được v́ thế mà quên mất lượng từ bi thương xót không bến bờ của Thiên Chúa, quên mất rằng người gian phi nọ chỉ thưa với Chúa một lời bày tỏ đức tin th́ ngay hôm ấy đă được ở với Chúa trên thiên đàng. Đức trông cậy dạy ta phải lạc quan tin tưởng vào t́nh thương tha thứ và thanh tẩy của Chúa.

06
ĐẾN VỚI LƯƠNG DÂN

Hiện nay có nhiều gia đ́nh và gia tộc Công giáo đang cố gắng tiếp tục triển khai một bản gia phả c̣n may mắn giữ được hoặc đang gom góp tư liệu để dựng lại gia phả. Đó là sáng kiến quư và là một khởi đầu tốt. Với viễn tượng loan báo Tin mừng, việc này không nên dừng lại trong nội bộ những gia đ́nh đă theo Chúa nhưng cần quyết tâm mở rộng tới anh chị em ngoài Công giáo. Nhiều trường hợp đôi bên c̣n giữ được liên hệ qua việc giỗ chạp. Anh chị em lương dân thường khá kỹ lưỡng trong việc lưu truyền gia phả. Ta có thể nhờ đó mà t́m lại được thông tin về những thế hệ xưa.

Việc mời nhau trong dịp giỗ chạp nay đă b́nh thường. Những ngày truyền thống từng gia tộc tại các nhà thờ Công giáo là dịp để mời anh chị em đồng tộc bước tới nhà Chúa, và cũng là dịp để họ đáp lễ bằng cách mời ta đến thăm từ đường của họ trong các dịp giỗ. Đức Thánh Cha Phanxicô thật chí lư khi nhấn mạnh đến viếng thăm và gặp gỡ.  Chính sự gặp gỡ sẽ hóa giải những hiểu lầm.

Ở quê tôi, trước kia hai làng lương và giáo rất ít qua lại, thậm chí c̣n tránh mặt nhau. Thế nhưng sau thánh lễ cử hành tại từ đường bên làng lương tháng 9-1990, người dân hai bên dần dần trở nên thân thiện. Ngày giỗ Thanh Minh, khi được mời đến dự, bà con đồng tộc Công giáo đem theo hương đèn, hoa quả (Thật ra chỉ mấy năm đầu khi mới tái lập quan hệ mới cần mời, về sau, việc về thắp hương và đóng góp trong ngày giỗ không phải đợi ai mời nhưng là một bổn phận).

. Khi tôn tạo từ đường, anh chị em Công giáo cũng đóng góp tiền bạc. Bù lại, khi giáo xứ xây dựng nhà thờ mới, anh chị em lương dân quan tâm thăm hỏi, đóng góp. Ngày khánh thành nhà thờ xứ, có một đoàn bên làng lương đến mừng. Một gia đ́nh ở đó c̣n công đức cả hệ thống âm thanh và đèn cao áp cho nhà thờ mới.

Sự gặp gỡ cảm thông giúp thay đổi cái nh́n. Bài ca tế Thanh Minh trước kia nhận định rằng “Đức Hiển Dương vốn ḍng trưởng chánh, việc từ đường vắng tạnh khói hương”, nay đă đổi thành: “Hiển Dương Hầu ở ngôi cháu trưởng, đổi sang đường tín ngưỡng Kitô”. Thay vào sự phiền trách là  sự ghi nhận khách quan, có phần trân trọng. Có thể nói theo Đạo Chúa không c̣n là bỏ Ông bỏ Bà.

Sự có qua có lại này ngày càng thắm thiết. Bản thân tôi là linh mục cũng cố gắng để khắc sâu mối thân t́nh. Mỗi lần có dịp về thăm quê, tôi đều dành thời giờ thăm vị Tộc trưởng và người bạn tâm giao là nhà giáo Vơ Tá Tương. Tôi đến thắp hương ở từ đường và khi có điều kiện, tôi dâng thánh lễ ở đó. Dù xa xôi ngàn dặm, hàng năm đến giỗ Thanh Minh, vị tộc trưởng đều gọi điện mời tôi. Một vài lần tôi đă vượt khó khăn để về dự. Một số lần khác, tôi đă gọi điện về xin cha xứ hiện diện thay tôi. Cha Phêrô Nguyễn Đại, khi là chính xứ An Nhiên, đă hai lần đến thắp hương tại từ đường Hà Hoàng và được mời phát biểu trước hàng mấy ngàn người về dự đại tế.

Sự nhập cuộc của các linh mục được anh chị em người lương quư chuộng cách riêng. V́ thế, mỗi khi bắt liên lạc được với một ḍng họ nào, tôi đều cố gắng giới thiệu một cha thuôc ḍng họ ấy. Tại Lư Sơn, cha Phạm Đức Thanh DCCT đă cùng tôi đến thắp hương ở từ đường họ Phạm; tại Qui Nhơn, cha Văn Ngọc Anh đă cùng tôi đến thăm nhà cụ trưởng lăo họ Văn đang hoàn thiện bản gia phả ḍng họ.

Đă có những linh mục ghi nhớ ngày giỗ ḍng họ ḿnh và tích cực đến hiệp thông, thắp hương. Tại Hải Dương, hằng năm tới ngày lễ hội họ Vũ, Đức Giám mục Hải Pḥng Giuse Vũ Văn Thiên vẫn có lẵng hoa gửi về. Trong năm 2012, có lần ngài đă cùng với 18 anh em linh mục mang họ Vũ về tổ đường này dâng thánh lễ đồng tế.

Đức Giám Mục Hải Pḥng dâng lễ tại nhà khách ḍng họ Vũ Vơ ở Mộ Trạch.

Với những người đă tham dự ngày truyền thống ḍng họ tại nhà thờ giáo xứ, ta nên quan tâm lui tới thăm viếng. Mỗi giáo xứ thường có sẵn những nhóm anh chị em lo thăm viếng, cụ thể là các anh chị Legio Mariae, vẫn thường thăm người neo đơn, bệnh tật, vv…  ta nên liên kết nhờ họ cùng đi thăm để việc thăm viếng được nhịp nhàng đều đặn hơn. Những người cao niên thường nghĩ nhiều về đời sau, và cũng không c̣n vướng mắc xă hội, ta nên mạnh dạn chia sẻ về đức tin và cầu xin Chúa mở ḷng cho họ. Ngày giờ của họ càng lúc càng ngắn ngủi, cần được ta quan tâm giúp hoàn tất cuộc đời đúng như Chúa mong chờ cho họ. Khi một vị lăo thành tin nhận Chúa, con cháu người ấy sẽ dễ hướng ḷng về Chúa hơn.

Cần lưu ư rằng việc loan Tin mừng của anh em Tin Lành kết quả nhiều là nhờ họ thăm viếng nhiều. Có một đôi bạn từ Trung Quốc theo học một Đại học Công giáo tại Mỹ để nghiên cứu về Kitô giáo. Khi ra trường, họ bày tỏ nỗi ngạc nhiên:

- Tại trường Đại Học này, có rất nhiều linh mục, tu sĩ và nữ tu Công giáo, nhưng hơn ba năm ở đây không có bất cứ một ai đến thăm chúng tôi, ngược lại mỗi ngày Thứ Sáu đều luôn có người Tin Lành đến nói về Kinh Thánh cho chúng tôi nghe.

Có lẽ câu nói ấy phải khiến chúng ta tự vấn nhiều trước anh em và trước nhan Chúa.

 

07
KHÓ KHĂN V̀ GIÁN ĐOẠN PHẢ LIỆU - NHỮNG ĐƯỜNG DẪN CO DĂN

 

Khi mở rộng ṿng giao lưu tới anh chị em đồng tộc ngoài Công giáo, ta sẽ thấy khó khăn trong việc phục hồi gia phả là chuyện chung của các gia tộc hiện nay, không riêng ǵ lương hay giáo.

Bản gia phả chi tộc chúng tôi đă được chuyển dịch sang chữ Quốc ngữ khoảng năm 1950. Tiếc thay nó đă bị mối mọt phá hủy. Sự kiện ấy giúp tôi đồng cảm với những nhóm mất hẳn gia phả, do chiến tranh, nghèo đói, không được đi học...

Hiện nay ở huyện quê nhà của tôi có nhiều gia đ́nh Công giáo mang cùng họ và cùng chữ lót với gia tộc chúng tôi, chưa kể nhiều gia đ́nh cùng họ nhưng khác chữ lót, cũng bị mất gia phả như chúng tôi. Mỗi nhóm chỉ có thể quy tụ quanh những vị tổ gần đây hiện c̣n biết được nhưng khó mà xác định liên hệ thế thứ giữa vị tổ nhóm ḿnh với những vị tổ các nhóm khác. Về mặt tâm t́nh đồng tộc, họ không ngần ngại nhận ḿnh phát xuất từ cùng một vị trưởng tộc đă theo Công giáo cách nay khoảng 300 năm, là Hiển Dương Hầu Vơ Tá Cảnh, nhưng do thiếu phả liệu nên không sao nối kết thành một hệ thống chung.

Từ đó, tôi đề ra khái niệm "đường dẫn co dăn", có nghĩa là những gia đ́nh nào muốn đều có thể tiếp tục viết bản gia phả của chính ḿnh, bằng cách nối một đường dẫn co dăn từ tổ Vơ Tá Cảnh đến vị tổ cao nhất mà gia đ́nh ấy hiện c̣n biết được. Ví dụ nơi gia phả phía cha tôi, đường dẫn ấy sẽ nối từ tổ Vơ Tá Cảnh cho đến tổ Vơ Tá Dinh (tôi là cháu đời thứ năm), c̣n phía họ Vơ của các cậu tôi và mẹ tôi đường dẫn sẽ nối thẳng từ tổ Vơ Tá Cảnh đến tổ ngoại tôi là cụ Luca (tôi là cháu đời thứ tư).

Khi tôi mới nêu giải pháp này vào năm 1997, nhiều người c̣n ngần ngại. Thế nhưng, dịp tế Thanh Minh 2010, hầu hết các nhánh họ Vơ tại giáo xứ quê tôi đều đă có mặt tại từ đường đại tôn (do bà con người lương đảm nhiệm) ở Hà Hoàng.

Nếu mỗi gia đ́nh hiện nay đều có thể tự ḿnh nối một đường dẫn co dăn như thế để tiếp tục viết gia phả, th́ ai có thẩm quyền thừa nhận rằng gia đ́nh ấy đúng là người trong họ? Theo tinh thần anh em về họp mặt trong những năm qua, sẽ không ai đặt vấn đề thừa nhận, ngược lại ai nấy đều vui mừng mỗi khi có thêm những anh em đồng cảm cả trong tâm t́nh đối với tổ tiên và tâm t́nh đối với hậu thế. Nói cách khác, bên cạnh những nỗ lực t́m ghi lại quá khứ, hiện c̣n có một xu thế coi trọng một gia phả tinh thần ít ra cũng ngang hàng với một gia phả bằng chữ viết.

Thật vậy, nếu phục hồi được những chứng liệu về một chuỗi liên hệ huyết thống đầy đủ và xác thực th́ quư biết bao. Thế nhưng có lẽ đó không phải là mục đích duy nhất của việc thực hiện gia phả và, đàng khác, nhiều khi đó là điều không thể làm được. Ta liên kết là để thêm t́nh thêm nghĩa, chứ chẳng có ǵ để gọi là quyền lợi hay bổn phận. Nếu cứ khăng khăng phải t́m cho được chứng liệu liền mạch, chắc hẳn sẽ đến lúc người ta đành phải chia tay v́ không thể nào c̣n giữ được những chứng liệu như thế.

Ngày nay, ai cũng hiểu rằng chuyện một mẹ trăm con chỉ là huyền thoại chứ không phải là gia phả thật. Công dụng của câu chuyện là tạo cơ sở để bất cứ gia đ́nh nào cũng có quyền nối chính ḿnh vào cội nguồn Âu Lạc.

Đường dẫn co dăn là chuyện b́nh thường trong gia phả học Kinh Thánh. Tại Trung Đông, xă hội du mục hơn 3000 năm trước đây đ̣i các bộ lạc phải nương vào nhau để sinh tồn. Các bộ lạc yếu t́m liên kết với các bộ lạc mạnh. Người ta thường khẳng định liên hệ giữa hai bộ lạc bằng một đường dây gia phả nào đó. Nghiên cứu kỹ, người ta khám phá ra rằng nhiều bản gia phả có phần nhập đề rất giả tạo, mối dây liên kết các bộ lạc trong thời điểm viết gia phả rất lỏng lẻo. Dù vậy, mối dây ấy cần thiết để biện minh cho sự liên kết và để tạo cho thành viên đôi bên cái tâm lư "máu loăng c̣n hơn nước lă" và thật sự quan tâm đến nhau.

Vấn đề trước mắt của chúng ta là với những mảnh vụn gia phả c̣n may mắn giữ được, làm sao để t́m ra những mối liên hệ thân t́nh giữa các nhánh cùng ḍng họ? Và hơn nữa, làm sao có thể nối kết khi người ta chẳng c̣n một mảnh vụn nào? Trong thực tế, tại những thôn xă có từ đường một ḍng họ nào đó, ngay bên cạnh từ đường có thể vẫn có những gia đ́nh đồng tộc đă gián đoạn liên lạc không biết từ bao giờ, lại cũng có những gia đ́nh đồng tộc từ đâu khác mới đến được vài ba đời... Có nơi người phụ trách từ đường đă chủ động đến thăm và mời những gia đ́nh lẻ loi như thế cùng đến dự tế hiệp, v́ dù nhiều hay ít, cách này hay cách khác, vẫn có một liên hệ đồng tộc.

Nếu giấy trắng mực đen c̣n đó và chỉ một số ít gia đ́nh nối được tên ḿnh vào chuỗi gia phả th́ số ít này dễ gặp nguy cơ kiêu hănh, tự hào ḿnh là “của thật”, những anh em khác là “của giả”. Nay cái giấy trắng mực đen kia thành cát bụi, mọi người đều lạc mối như nhau th́ cũng đều có thể tự nối với gốc tổ một cách b́nh đẳng và đồng thời cũng là một cách khiêm nhường, theo t́nh chứ không theo lư.

Những liên hệ có tính tương đối như thế sẽ giúp người trong cuộc tự hỏi tại sao không đi xa hơn, nối tiếp những đường dẫn co dăn cho tới con người đầu tiên của lịch sử, cho tới nguyên tổ Ađam để gặp được Cội Nguồn tuyệt đối là Cha Cả trên trời?

Như thế ta có thể t́m được ở đây thêm một minh họa cho học thuyết của các vị Tiến sĩ Hội thánh thuộc Ḍng Cát Minh về sự thanh tẩy chủ động và sự thanh tẩy thụ động. Ông Abraham đă tự nguyện ĺa bỏ quê cha đất tổ, lên đường theo tiếng Chúa gọi và gặp được Thiên Chúa là Cội Nguồn và Đích Điểm. Ông tự nguyện thanh tẩy khỏi những vấn vương trần thế. C̣n chúng ta, dù tha thiết với những cội nguồn nhân loại đến mấy cũng không sao t́m lại được; Thiên Chúa đă dùng ngoại cảnh, cắt đứt chúng ta với những cội nguồn ấy, rồi khi ta đang hụt hẫng bơ vơ th́ Ngài lại soi sáng cho ta nhận biết Ngài là Cội Nguồn đích thật. Chính Thiên Chúa thanh tẩy và tước đoạt. Nếu ta thuận t́nh chiều theo sự dẫn dắt ấy của Ngài, Ngài sẽ đích thân đưa ta về với Ngài. Nhu thế, cả thái độ tự nguyện lẫn thái độ thuận t́nh đều giúp nhận được đức tin.

08
MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ KINH NGHIỆM SINH HOẠT LIÊN KẾT D̉NG HỌ

Năm 2009, cụ Vơ Huề ghé thăm tôi. Cụ là hậu duệ của tiền hiền Vơ Lực, mộ hiện ở nghĩa trang giáo xứ Phú Hữu, huyện Tây Sơn, tỉnh B́nh Định. Tôi chia sẻ với cụ về sinh hoạt liên kết họ Vơ hiện nay ở khắp trong nước và hải ngoại. Cụ thấy ngay đó là một nỗ lực rất tích cực có thể góp phần giáo dục hữu hiệu cho lớp trẻ. Do đó, cụ đă năng nổ liên lạc và vận động để có được cuộc họp mặt một số bà con Công giáo họ Vơ vào dịp sinh nhật Tổ Vơ Hồn, ngày mùng 8 tết Canh Dần, 2010.

Cuộc họp mặt đă đề cử ra một ban liên lạc họ Vơ Công giáo tỉnh B́nh Định, chuẩn bị cho những cuộc họp mặt về sau. Thế rồi chúng tôi đă có ngày Vơ Tộc Công Giáo B́nh Định lần thứ hai, vào mùng 8 tết Tân Măo, 2011 và lần thứ ba vào mùng 8 tết Nhâm Th́n, 2012.

Trong cuộc sinh hoạt lần thứ hai, trước các đại biểu cả người giáo và người lương, ông Trưởng ban Liên lạc Vơ tộc Công giáo tỉnh B́nh Định đă nêu lên những mục tiêu rất thiết thực của việc liên kết ḍng họ:

- Mục tiêu thứ nhất là để động viên nhau sống tốt, không làm ô danh tổ tiên. Đây là điều quan trọng và cần thiết trong hoàn cảnh giáo dục đầy khó khăn ngày nay.

- Mục tiêu thứ hai là để nhắc nhau xây dựng t́nh gia đ́nh và gia tộc thật ấm cúng đậm đà. Đây cũng là điều rất quan trọng. Do ảnh hưởng văn minh tiêu thụ, chạy theo tiền bạc, nhiều gia đ́nh dễ tan vỡ. Cùng với lời dạy và sự nâng đỡ tinh thần của Hội Thánh, chính các gia tộc phải tích cực nhắc nhở nhau và giúp nhau vượt qua khó khăn để bảo đảm hạnh phúc gia đ́nh.

- Mục tiêu thứ ba là để gia tăng t́nh thân ái với các anh chị em đồng tộc trong cũng như ngoài Hội Thánh Chúa, để từ chỗ chu toàn đạo hiếu dưới đất với tổ tiên, chúng ta sống trọn đạo hiếu thảo với Cha Cả trên trời là Cha chung của hết mọi người. Trước kia, người Công giáo bị gián đoạn việc thờ cúng Ông Bà theo cách cổ truyền, suốt hơn 200 năm, khiến nhiều người lương hiểu lầm rằng theo Đạo là bỏ ông bỏ bà. Nay những khó khăn đă qua, Giáo Hội đă cho phép người Công giáo Việt Nam lập lại việc thờ cúng cổ truyền, ta cần giao lưu gặp gỡ để giải tỏa sự ngộ nhận đáng tiếc.

Theo hướng ấy, chúng tôi đề xuất những điểm sau đây để chúng ta cùng trao đổi cho sáng rơ thêm.

1. Trong năm nay, cố gắng giới thiệu sinh hoạt của chúng ta tới bà con đồng tộc trong giáo xứ. Cụ thể là mượn sổ của giáo xứ, lọc ra một danh sách các gia đ́nh Vơ tộc.

2. Gặp riêng từng người, kể về sinh hoạt của chúng ta hôm nay và cùng thảo luận hướng tới tương lai.

3. Xin photocopy tờ hướng dẫn làm gia phả và phát cho các gia đ́nh. Qua chiến tranh, gia phả hầu hết bị thất lạc và gián đoạn. Mỗi gia đ́nh nên chủ động xây dựng lại gia phả, sớm ngày nào hay ngày đó, v́ càng để lâu, các bô lăo qua đi, ta sẽ không biết hỏi ai.

4. Anh chị em Vơ tộc cùng giáo xứ nên xin cha sở một thánh lễ cầu cho kẻ sống và kẻ chết trong Vơ tộc địa phương ḿnh, rủ nhau đi thật đông.

5. Sau thánh lễ ấy, có thể gặp gỡ sinh hoạt và bầu ra một ban đại diện. Ban đại diện nên chọn người trẻ, có uy tín nhờ khả năng và tư cách đạo đức.

6. Chú ư mời gọi lớp trẻ tham gia sinh hoạt Vơ tộc tại giáo xứ cũng như liên xứ. Chính lớp trẻ sẽ là tương lai của ḍng họ.

7. Có nhiều chị em con gái và con dâu họ Vơ rất nhiệt t́nh với sinh hoạt ḍng họ. Xin đặc biệt lưu tâm và mời những người ấy giúp việc chung của ḍng họ.

8. Gặp gỡ người phụ trách từ đường Vơ tộc tại địa bàn giáo xứ, tại xă hoặc huyện ḿnh, không phân biệt lương hay giáo, để xin sao chụp gia phả, phiên dịch và tham khảo để t́m nguồn cội.

Tại mỗi giáo xứ, hằng năm nên có một ngày sinh hoạt, tốt nhất là vào ngày lễ một vị thánh trong ḍng họ. Nên mời tất cả các gia đ́nh đồng tộc trên địa bàn giáo xứ, cùng con dâu và con rể. Nên mời cả bà con đồng tộc ngoài Công giáo cùng tham gia, đồng thời cũng nên tích cực nhận lời mời tham gia các sinh hoạt đồng tộc của các anh chị em ngoài Công giáo.

Nội dung chính là thánh lễ và giờ gặp gỡ trước hoặc sau thánh lễ.

Nhiều làng có hương ước, nhiều nhánh tộc họ có tộc ước. Các quy ước thành văn có cái hay của nó nhưng cũng có lắm điều phức tạp. Sinh hoạt của chúng ta chỉ giản dị là động viên ḷng hiếu thảo và hiếu học, v́ thế nên tránh viết thành nội qui với những điều lệ rắc rối. Cần giữ cho sinh hoạt luôn mang tính tự do, không ràng buộc.

Chỉ cần đề cử một ban liên lạc để tổ chức và nhắc anh chị em tham gia. Ban liên lạc làm việc với tinh thần tự nguyện, vô vụ lợi.

Không nên gây quỹ. Mỗi lần sinh hoạt sẽ xin bà con đóng góp tùy hảo tâm. Nếu bị hụt th́ xin thêm cho đủ, nếu dư th́ ban liên lạc sẽ quyết định sử dụng vào việc ǵ có ư nghĩa nhất, trong thời gian sớm nhất, không giữ lại.

PHỤ LỤC
CÁCH KHỞI THẢO GIA PHẢ

 

Đời 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 3

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 4

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 5

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 6

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đời 7

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BẢN HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG GIA PHẢ
Bước đầu

Xin lưu ư:

Bản hướng dẫn này giúp bạn thực hiện phần chính yếu trong gia phả của bạn, tức là phần trực hệ (cha, ông nội, ông cố, ông can,…). Sau khi có kinh nghiệm, bạn sẽ bổ sung các phần bàng hệ (chú, bác…)

Nếu bạn muốn lập gia phả phía mẹ bạn, th́ phải làm một bản khác (mẹ, ông ngoại, ông cố ngoại, ông can ngoại…).

Các bước thực hiện:

1. Ghi các tổ phụ (nam giới) hàng dọc từ cha của bạn trở lên, cho tới vị trên cùng mà bạn biết được. Nếu vị này có những anh chị em mà bạn biết tên tuổi, c̣n thân phụ của các vị bạn không rơ họ tên, bạn sẽ gọi vị tổ cao nhất này là vị tổ khuyết danh.

2. Ghi tên vị tổ cao nhất (hoặc vị “khuyết danh”) đă t́m thấy vào ô đậm ở hàng “đời 1”. Bạn không c̣n biết vị này có anh em hay không, cho nên trước tên của vị này không ghi số thứ tự nhánh. Hàng “đời 1” chỉ có một ô là v́ thế.

3. Các vị tổ đời thứ hai trở đi, mỗi vị có mấy anh em trai th́ đời ấy có mấy nhánh. Bạn ghi tên các anh chị của vị tổ vào các ô bên trái, các em trai và em gái của vị ấy vào các ô bên phải, theo thứ tự. Sau đó bạn đánh số thứ tự các nhánh vào trước tên những người nam.

4. Tên phu nhân các vị tổ sẽ bổ sung sau.

5. Bạn vạch những mũi tên từ mỗi vị tổ đến các người con của họ, rồi xóa những ô trống.

6. Phần gia phả của các nhánh khác ở mỗi đời sẽ bổ sung sau. Tốt nhất, bạn giao phần của mỗi nhánh cho người phụ trách nhánh đó, rồi cuối cùng sẽ tổng kết lại.

7. Bạn trao đổi với những người có kinh nghiệm trong vùng để tiến hành những bước tiếp theo.

8. Tại các nhà sách, có một số bản mẫu sổ gia phả – Khi đă có số liệu, bạn có thể tham khảo những sách ấy để tŕnh bày theo cách nào bạn thấy tiện nhất.

 

09

DƯỚI MÁI TỪ ĐƯỜNG CỦA TRĂM HỌ

 

Loạt bài này khá dài, những ai không có giờ, chỉ cần đọc bài này và một vài bài kế tiếp. Những ai muốn nhặt nhạnh thêm kinh nghiệm có thể đọc tiếp những điều Chúa đă cho tác giả trải nghiệm hơn 20 năm qua, giúp hiểu ư nghĩa một trào lưu văn hóa và vận hội nó đang đem lại cho sứ vụ loan Tin mừng của Giáo hội.

Việc thực hành rất đơn giản, bất cứ giáo xứ hay giáo họ nào cũng làm được.

Sau tết Quư Tỵ 2013 vừa qua tại giáo xứ Song Mỹ thuộc giáo phận Nha Trang, một số bạn trẻ họ Vơ đă có sáng kiến xin cha sở một thánh lễ cầu nguyện cho những người cùng họ c̣n sống và đă qua đời. Với bức tâm thư trang trọng gửi đến mọi gia đ́nh họ Vơ trong giáo xứ, đă có trên 100 người đến dự lễ. Sau thánh lễ hơn 50 người đă ở lại gặp nhau tại hội trường giáo xứ. Họ chia sẻ tâm t́nh thật chan ḥa rồi thảo luận sôi nổi và đi đến bốn quyết định: Thứ nhất, đề cử ra một ban liên lạc họ Vơ Công giáo của giáo xứ; thứ hai, mỗi lần có người họ Vơ trên địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ tặng một ṿng hoa phúng điếu ghi ḍng chữ: "Ban Liên lạc họ Vơ Công giáo giáo xứ Song Mỹ thành kính phân ưu"; thứ ba: anh chị em đồng tộc Công giáo sẽ nhắc nhau sống tốt hơn để khỏi phụ ḷng bà con đồng tộc ngoài Công giáo; Thứ tư: Từ đây về sau, mỗi năm tới ngày này, đều xin lễ như thế và mỗi gia đ́nh họ Vơ Công giáo sẽ mời một gia đ́nh họ Vơ người lương đến dự thánh lễ. Có thể lắm người được mời sẽ không đến nhưng nhiều người khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia đ́nh con cái Chúa, sẽ hiểu cách người Công giáo tôn kính và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.

Điều nhóm anh chị em ấy đă làm, thiết tưởng bất cứ nhóm đồng tộc nào tại mỗi giáo xứ, dù đông người hay ít người, cũng đều có thể làm được. Sau bao năm ly loạn, khi ḥa b́nh lập lại, đa số người ḿnh, lương cũng như giáo, hiện không c̣n gia phả, không c̣n từ đường, lắm khi không c̣n nhớ ngày giỗ của ḍng họ ḿnh. Thế nhưng khi ta nhận biết Thiên Chúa là Cha, Ngài đă cho lại chúng ta tất cả và c̣n hơn thế nhiều. Không c̣n gia phả, nhưng chúng ta biết rơ ḿnh là anh em con một Cha trên trời. Không c̣n từ đường nhưng chúng ta lại có chung một nhà Chúa là từ đường của muôn dân, bởi lẽ hai chữ từ đường trong tiếng Hán dịch sang tiếng Việt không ǵ khác hơn là nhà thờ. Có thể không c̣n nhớ ngày giỗ của ḍng họ nhưng chúng ta có ngày lễ của những vị thánh tử đạo cùng ḍng họ. Trong số các thánh tử đạo người Việt, có 28 vị ta không rơ thuộc họ nào; c̣n 69 vị khác thuộc về 17 ḍng họ: họ Bùi (2), họ Đặng (1), họ Đinh (3), họ Đỗ (3), họ Đoàn (3), họ Hà (2), họ Hồ (1), họ Hoàng/Huỳnh (1), họ Lê (7), họ Nguyễn (24), họ Phạm (5), họ Phan (3), họ Tạ (1), họ Tống (1), họ Trần (4), họ Trương (2), họ Vũ/Vơ (6).

Thử h́nh dung xem, mỗi năm trong mái ấm từ đường của trăm họ tại giáo xứ liên tiếp có ngày giỗ Công giáo của họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Phan, họ Trần, vv… và các bà con đồng tộc người lương cùng đến dự. Rồi tới ngày tế hiệp của họ, họ lại mời các đồng tộc Công giáo và cả vị thủ từ của từ đường muôn dân là cha xứ đến dự. Ḍng họ là con đường thật hồn nhiên để ta đến với anh em và đưa anh em đến với Chúa. Ta có những cơ hội tốt nhất để giải thích cho bà con lương dân hiểu giáo lư của Hội Thánh Công giáo về Đạo Hiếu và việc thờ cúng Tổ Tiên để giúp họ nhận biết và thờ phượng Cội Nguồn muôn đời muôn thuở là Cha trên trời.

Từ năm này sang năm khác, sự giao lưu gặp gỡ lương giáo sẽ ngày càng thêm dày và thêm thân t́nh. Chắc hẳn sau năm, bảy năm, không ít người sẽ nhờ đó mà nhận được ơn đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu.

Với hy vọng ấy, tôi tha thiết mời quư độc giả, mỗi người hăy gặp gỡ những người Công giáo cùng ḍng họ trong giáo xứ, trao đổi và thảo luận xem sẽ bắt đầu công việc như thế nào. Họ nào loan Tin mừng cho họ nấy: Rủ nhau sống tốt, hẹn nhau trong một thánh lễ truyền thống hằng năm, và mời bà con đồng tộc người lương cùng đến dự.

Dĩ nhiên việc gieo trồng không kém phần vất vả nhưng rồi mùa gặt đến, giọng hân hoan, mặt rạng rỡ, ta sẽ ôm những bó lúa trĩu nặng trên tay mà trở về trong tiếng hát tạ ơn v́ những bà con cùng ḍng họ với ḿnh và cả nhiều anh chị em khác đă trở nên con cái Chúa. Cúi xin Chúa chúc lành cho những ước mơ đang lớn dậy trong ḷng chúng ta.

10
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO NGƯỜI VIỆT XẾP THEO D̉NG HỌ

 

Ở bài chia sẻ 05, chúng tôi đă nêu gợi ư chủ yếu cho việc truyền giáo qua con đường ḍng họ. Theo đó, mỗi ḍng họ trong giáo xứ có thể tổ chức một ngày truyền thống cho ḍng họ ḿnh. Nếu trong ḍng họ có những vị thánh, có thể lấy ngày lễ kính của một vị làm ngày truyền thống. Nếu thiếu vị thánh đồng tộc, có thể chọn bất cứ vị thánh nào tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài làm bổn mạng.

Trong danh sách các thánh người Việt dưới đây,

- 69 vị thuộc 17 ḍng họ: Bùi (2), Đặng (1), Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn (3), Hà (2), Hồ (1), Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn (24), Phạm (5), Phan (3), Tạ (1), Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Vơ (6);

- 29 vị không rơ ḍng họ.

 

 

Tên thánh

Họ và

Tên

Thành phần

Lễ kính

Nicôlas

Bùi Đức

Thể

Binh sĩ

 12.06

Đaminh

Bùi Văn

Úy

Thày giảng TOP

 19.12

Giuse

Đặng Đ́nh

Viên

Linh Mục

21.08

Đaminh

Đinh

Đạt

Binh sĩ

18.07

Gioan B.

Đinh Văn

Thanh

Thày giảng

 28.04

Tôma

Đinh Viết

Dụ

Linh Mục OP

 26.11

Vinh Sơn

Đỗ

Yến

Linh Mục OP

30.06

Giacôbê

Đỗ Mai

Năm

Linh Mục

12.08

Phanxicô

Đỗ Văn

Chiểu

Thày giảng

26.06

Phêrô

Đoàn Công

Quư

Linh Mục

 31.07

Gioan

Đoàn Trinh

Hoan

Linh Mục

26.05

Phêrô

Đoàn Văn

Vân

Thày giảng

25.05

Đaminh

Hà Trọng

Mậu

Linh Mục OP

05.11

Phanxicô X.

Hà Trọng

Mậu

Thày giảng TOP

 19.12

Micae

Hồ Đ́nh

Hy

Quan Thái bộc

22.05

Giuse

Hoàng Lương

Cảnh

Trùm họ TOP

 05.09

Phêrô

Tùy

Linh Mục

11.10

Phaolô

Lê Bảo

Tịnh

Linh Mục

06.04

Giuse

Lê Đăng

Thị

Cai đội

24.10

Anê

Lê Thị (Bà Đê)

Thành

Giáo dân

 12.07

Matthêô

Lê Văn

Gẫm

Thuong gia

11.05

Phaolô

Lê Văn

Lộc

Linh Mục

13.02

Emmanuel

Lê Văn

Phụng

Trùm họ

31.07

Antôn

Nguyễn

Đích

Binh sĩ

 12.08

Phaolô

Nguyễn

Ngân

Linh Mục

08.11

Phêrô

Nguyễn Bá

Tuần

Linh Mục

15.07

Giuse

Nguyễn Đ́nh

Nghi

Linh Mục

 08.11

Giuse

Nguyễn Đ́nh

Uyển

Thày giảng TOP

04.07

Giuse

Nguyễn Duy

Khang

Thày giảng TOP

06.12

Antôn

Nguyễn Hữu

Quỳnh

Binh sĩ

10.07

Micae

Nguyễn Huy

Mỹ

Lư trưởng

 12.08

Phêrô

Nguyễn Khắc

Tự

Thày giảng.

 10.07

Anrê

Nguyễn Kim

Thông

Trùm họ

 15.07

Vinh Sơn

Nguyễn Thế

Điểm

Linh Mục

 24.11

Tôma

Nguyễn Văn

Đệ

Thợ may

19.12

Đaminh

Nguyễn Văn

Hạnh

Linh Mục OP

 01.08

Phêrô

Nguyễn Văn

Hiếu

Thày giảng

 28,04

Laurensô

Nguyễn Văn

Hưởng

Linh Mục

27.04

Giuse

Nguyễn Văn

Lựu

Trùm họ

02.05

Phêrô

Nguyễn Văn

Lựu

Linh Mục

07.04

Augustinô

Nguyễn Văn

Mới

Nông dân TOP

 19.12

Phaolô

Nguyễn Văn

Mỹ

Thày giảng

 18.12

Matthêô

Nguyễn Văn

Phụng

Binh sĩ

 26.05

Emmanuel

Nguyễn Văn

Triệu

Linh Mục

17.09

Phêrô

Nguyễn Văn

Tự

Linh Mục OP

05.09

Stephanô

Nguyễn Văn

Vinh

Nông dân TOP

 19.12

Đaminh

Nguyễn Văn

Xuyên

Linh Mục OP

26.11

Vinh-sơn

Phạm Hiếu

Liêm

Linh Mục OP

 07.11

Phaolô

Phạm Khắc

Khoan

Linh Mục

28.04

Đaminh

Phạm Trọng

Khảm

Quan án TOP

13.01

Giuse

Phạm Trọng

Tả

Chánh Tổng

 13.01

Luca

Phạm Trọng

Th́n

Chánh Tổng

 13.01

Simon

Phan Đức

Ḥa

Y sĩ

12.12

Philiphê

Phan Văn

Minh

Linh Mục

03.07

Augustinô

Phan Viết

Huy

Binh sĩ

12.06

Martinô

Tạ Đức

Thịnh

Linh Mục

 08.11

Phaolô

Tống Viết

Bường

Quan thị vệ

23.10

Anrê

Trần An

Dũng Lạc

Linh Mục

21.12

Tôma

Trần Văn

Thiện

Chủng sinh

 21.09

Anrê

Trần Văn

Trông

Binh sĩ

28.11

Phanxicô

Trần Văn

Trung

Cai đội.

06.10

Phêrô

Trương Văn

Đường

Thày giảng

18.12

Phêrô

Trương Văn

Thi

Linh Mục

 21.12

Luca

Vũ Bá

Loan

Linh Mục

05.06

Phêrô

Vũ Đăng

Khoa

Linh Mục

 24.11

Đaminh

Vũ Đ́nh

Tước

Linh Mục OP

02.04

Phaolô

Vũ Văn

Đổng

Thủ bạ

03.06

Bênadô

Vũ Văn

Duệ

Linh Mục

01.08

Phêrô

Vũ Văn

Truật

Thày giảng.

 18.12

 

29 vị không rơ ḍng họ

Tên thánh

Họ và

Tên

Thành phần

Lễ kính

Anrê

 

Tường

Nông gia

 16.06

Anrê

 

Phú Yên

Thày Giảng

26.07

Đaminh

 

Mạo

Nông gia

16.06

Đaminh

 

Nguyên

Chánh truong

 16.06

Đaminh

 

Nhi

Nông gia

 16.06

Đaminh

 

Trạch

Linh Mục OP

18.09

Đaminh

 

Cẩm

Linh Mục TOP

11.03

Đaminh

 

Ninh

Nông dân

02.06

Đaminh

 

Huyên

Ngư phủ

 05.06

Đaminh

 

Toại

Ngư phủ

 05.06

Gioan

 

Đạt

Linh Mục

28.10

Gioan Baotixita

 

Cỏn

Lư trưởng

 08.11

Giuse

 

Tuân

Linh Mục OP

30.04

Giuse

 

Hiển

Linh Mục

09.05

Giuse

 

Túc

Giáo dân

01.06

Giuse

 

Tuấn

Giáo dân

07.06

Laurensô

 

Ngôn

Nông dân

 22.05

Martinô

 

Thọ

Viên thuế

 08.11

Phanxicô Xavie

 

Cẩn

Thày giảng

20.11

Phaolô

 

Hạnh

Giáo dân

28.05

Phêrô

 

Đa

Thư Mục

17.06

Phêrô

 

Khanh

Linh Mục

 12.07

Phêrô

 

Dũng

Ngư phủ

 06.06

Phêrô

 

Thuấn

Ngư phủ

 06.06

Tôma

 

Toán

Thày giảng TOP

27.06

Tôma

 

Khuông

Linh Mục TOP

30.01

Vinh-sơn

 

Tương

Chánh Tổng

 16.06

Vinh-sơn

 

Dương

Giáo dân

06.06

 

11
ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG CÁC THÁNH

 

Hằng năm, tới ngày kỷ niệm các vị Tử đạo, tại quê hương của từng vị vẫn có lễ hội của Giáo xứ và Giáo phận. Theo hướng loan Tin mừng cho đồng tộc, ngoài thánh lễ, rước kiệu, nên có thêm những sinh hoạt dành cho người cùng ḍng họ với vị Thánh. Với sinh hoạt này, ngày kính vị Tử đạo sẽ sớm thành lễ hội của Ḍng họ và có khả năng lôi cuốn người đồng tộc, giáo cũng như lương. Tại những nơi ở xa quê hương vị Thánh, nếu bà con đồng tộc có điều kiện cũng nên xây dựng tượng đài hoặc đền thánh. Những nơi này cũng sẽ có thể thành những điểm hành hương cho Ḍng họ.

Ngày về viếng đền thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Nghệ An, đứng trước tượng ngài, tôi chợt có cái ao ước gặp gỡ hậu duệ của ngài đang sống quanh đó. Khi biên soạn quyển Về Với Cội Nguồn, tới phần các vị thánh đồng tộc, tôi nghĩ cần cung cấp cho độc giả những thông tin cần thiết để có thể thực hiện những cuộc hành hương lư thú, vừa về thăm quê hương các thánh vừa giao lưu gặp gỡ với hậu duệ các ngài. Rất may, tôi đă gặp được sự giúp đỡ nhiệt thành của ông bà Phanxicô Xaviê Phạm Vũ Hiệp, Hà Nội (sđt: 0949-084-494). Hai vị đă đích thân hành hương đến quê quán sáu vị thánh họ Vũ-Vơ, kính viếng các đền thánh, chụp h́nh và đích thân liên lạc với hậu duệ các vị thánh để có được những số liệu chính xác và sống động. Tôi xin được ghi lại ở đây như một gợi hứng. Ước mong rằng hậu duệ các vị thánh thuộc những ḍng họ khác cũng cung cấp cho chúng tôi những thông tin tương tự để, khi có điều kiện, chúng tôi có thể phổ biến lại cho đồng tộc của các ngài ở khắp nơi.

 

ĐƯỜNG VỀ QUẦN PHƯƠNG – QUÊ HƯƠNG THÁNH BÊNAĐÔ VŨ VĂN DUỆ

Đền Thánh kính thánh tử v́ đạo Bênađô Vũ Văn Duệ tọa lạc tại làng Quần Phương, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Bùi Chu, cách Hà nội khoảng 150 km. Yên Định là một thỊ trẤn nhỏ, đẹp, rất gọn gàng, đặc biệt đường quê ngơ xóm rất sạch. Ở đây gần biển nên không khí ấm áp, trong lành dễ chiụ. Người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp. Bánh nhăn là đặc sản địa phương rất ngon và thơm. Quần Phương là giáo xứ toàn ṭng công giáo. Nhà thờ chính xứ ở giữa thị trấn. Giáo xứ này là một trong ba giáo điểm (Quần Phương Đông Cường, Trà Lũ Phú Nhai và Ninh Cường) trên quê hương Việt Nam được đón nhận Tin Mừng sớm nhất, từ năm 1533. Đền Thánh Bênađô nằm sau nhà thờ xứ, cách khoảng 200m, trong một khuôn viên rộng ước khoảng 2000 mét vuông. Ngoài tượng đài Cha Thánh rất lớn dựng ở bên ngoài, bên trong ngôi nhà thờ rất cổ kính, khá bề thế đẹp, rất trang trọng và tôn nghiêm c̣n có bàn thờ Cha Thánh. Phía trước tượng đài và cũng là trước đền thờ Cha Thánh c̣n có một ngôi nhà 15m x 8m, cao chừng 5m, mái cong rất cổ, lợp ngói ta vừa được tu sửa, quét mầu ghi sáng rất ấn tượng.            

Chi tộc họ Vũ ở Quần Phương khá đông và hiện c̣n giữ được gia phả lập ngày 15-11-1785. Cha Thánh Bênađô là chi thứ hai, con cụ cố Vũ Hữu Quán. Trưởng tộc hậu duệ hiện nay của Cha Thánh là Ông Vũ Hữu Ninh, 70 tuổi (năm 2010 - sđt: 0350-377-5017). Ông cùng Ông Vũ Văn Đốc, 61 tuổi, trông nom đền Cha Thánh (sđt: 0350-377-5577; 0169-980-188).

Hằng năm, Giáo xứ Quần Phương và hậu duệ Cha Thánh tổ chức giỗ ngài vào ngày 1-8 dương lịch và giỗ chi tộc họ Vũ ở Đông Cường – Quần Anh vào ngày 15-11 âm lịch.

 

ĐƯỜNG VỀ LÊ XÁ – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHAOLÔ VŨ VĂN ĐỔNG

Thánh tử v́ đạo Phaolô Vũ Văn Đổng là người làng Lê Xá. Vị thánh này có người con trưởng làm linh mục tên là Dương nên thường gọi theo tên con là Thánh Dương..

Về mặt xă hội, Lê Xá xưa kia cùng với thôn Cao Xá và thôn Bạn Lễ thuộc xă Vực Đường. Vào thời Hậu Lê, để tiện bề cai trị, vua chia xă Vực Đường thành 3 xă có tên là: Lê Xá, Cao Xá và Bạn Lễ.

Về mặt tôn giáo, trước khi vua tách xă, Vực Đường là một họ đạo thuộc xứ Cao Xá (nên hiểu Cao Xá này là tên của một xứ đạo thuộc Hưng Yên, chứ không phải là thôn Cao Xá như mới nói ở trên). Giáo dân của họ Vực Đường hầu hết sống ở thôn Lê Xá, nên sau khi tách xă, họ đạo Vực Đường nằm gọn trong xă Lê Xá, c̣n lại hai xă kia chủ yếu là người lương. V́ thế nói giáo họ Vực Đường hay giáo họ Lê Xá cũng là một. Vào năm 1915, giáo xứ Cao xá được tách ra thành hai giáo xứ: Cao Xá và Đan Chàng. Lúc đó, họ đạo Lê Xá (Vực Đường) thuộc vào xứ Đan Chàng. Năm 1947, họ đạo Lê Xá được nâng lên là giáo xứ Lê Xá, và kể từ đây tên gọi họ đạo Vực Đường biến mất.

Năm 1954, hầu như toàn bộ giáo xứ Lê Xá di cư vào Nam. Sau đó có những gia đ́nh gốc Lê Xá từ các vùng xung quanh quay về lại. Theo niên giám 2004, hiện nay Lê Xá là một giáo xứ nhỏ, chỉ có 201 tín hữu, thuộc xă Vũ Xá, huyện Kim Động (xưa là huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên, thuộc giáo phận Thái B́nh – do cha xứ Ngọc Đồng quản nhiệm.

Đường về Lê Xá: Từ thành phố Phủ Lư, đi khoảng 10km về phía bắc sẽ tới thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, vào đường đi Hưng Yên và đi khoảng 8 km tới cầu Yên Lệnh , qua cầu là ngă tư Yên Lệnh, rẽ trái , đi khoảng 7 km, qua cả TP Hưng Yên tới giữa trung tâm thị trấn huyện Kim Động gặp ngă ba cây xăng, rẽ phải (về xă Vũ Xá và Giáo xứ Lê Xá) đi khoảng 5 km, nh́n bên trái sẽ thấy nhà thờ Giáo xứ Lê Xá. Nếu đi xe buưt từ Hà Nội th́ đón xe buưt số 209 (Giáp Bát - Hưng Yên).

Khuôn viên Nhà thờ Giáo xứ không rộng lắm. Nhà thờ trước kia lợp ngói. Cột, dầm và kèo đều được làm bằng gỗ tốt, chạm trổ công phu và mỹ thuật, nhưng qua bao biến cố lịch sử, và không được coi sóc nhiều nên đă xuống cấp trầm trọng và đă được tu sửa 2004, lợp tôn. Người chăm sóc nhà thờ hiện nay là ông Vũ Văn Cường, sđt: 0321-3826-452).

Di cư vào Nam, phần đông giáo dân Lê Xá đến định cư tại Lạc An, tỉnh B́nh Dương, lập thành họ đạo Lê Xá thuộc giáo xứ Mỹ Vân (Lạc An), giáo phận Phú Cường. Trên đường từ Hố Nai về Sài G̣n, đến giáo xứ Hà Nội, theo đường Phát Triển, đi 12 km sẽ đến nhà nguyện họ Lê Xa tại ấp 1, xă Lạc An, huyện Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương. Cuối nhà nguyện giáo họ có tượng đài Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng. Hằng năm, lễ mừng trọng thể được tổ chức cả ngoài Bắc và trong Nam vào ngày 03-6, quy tụ bà con đồng hương khắp nơi về tham dự mừng kính vị tử đạo này.

Hậu duệ Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng:

Ô. Tôma Vũ Đức Tín, hiện ở Xuyên Mộc, sđt: 0643-877-663; 01627-101-314.

Ô. Tôma Vũ Trọng Tế, ở giáo xứ Thánh Tâm, Hố Nai, sđt: 0613-885-590.

Lm Tôma Vũ Khắc Minh, ở giáo phận Kontum, sđt: 01679-984-138, 059-3864-399.

 

ĐƯỜNG VỀ THUẬN NGHĨA – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ ĐĂNG KHOA

Đền Thánh Khoa: Từ Hà Nội vào, qua khỏi km 405 gặp cầu Giát (thuộc thị trấn Cầu Giát), đi thêm khoảng 500 mét, gặp đường rẽ bê tông phía tây, ranh giới giữa khối phố 7 và khối phố 8, đó đường vào nhà thờ giáo xứ Thuận Nghĩa. Đền Thánh Khoa ở sát cạnh nhà thờ. Đền thờ Thánh Khoa hiện nay được xây cất năm 1992. Hai bên đền thờ là hai khu đất nhỏ, nơi lưu giữ hài cốt và chôn cất các linh mục đă phục vụ giáo xứ. Giữa cổng và Đền Thánh Khoa là những hàng ghế để bà con giáo dân kính viếng Ngài 

Lễ giỗ ngày 24-11 hằng năm tại Thuận Nghĩa được tổ chức rất trọng thể, rước và diễu hành đi rất xa vài ba cây số. Tại miền Nam: lễ giỗ được luân phiên tổ chức tại các xứ có đông người gốc Thuận Nghĩa; cứ mười năm một lần bà con xa xứ lại quy tụ về quê hương Thuận Nghĩa một lần (năm 2010 là lần thứ hai).

Ông Vũ Đ́nh Ḥe, hậu duệ Cha Thánh năm nay 54 tuổi, hiện đang chăm sóc đền Thánh Khoa. sđt: 038-3770318; 01655403308. Cũng có thể liên hệ với ông Vũ Văn Sâm, sđt: 01638-687-376.

Từ Thuận Nghĩa phát xuất rất đông linh mục và tu sĩ nam nữ. Trong hàng hậu duệ của Thánh Khoa có Lm Vũ Văn Trí, phó xứ Hiệp Đức, giáo phận Phan Thiết, sđt: 0933-163-556; cha Nguyễn Duy Lam ofm (họ ngoại), sđt: 0937-893-885.

 

ĐƯỜNG VỀ CHUÔN TRUNG VÀ BÚT QUAI – QUÊ HƯƠNG THÁNH LUCA VŨ BÁ LOAN

Thánh Luca Vũ Bá Loan sinh tại giáo họ Bút Quai, giáo xứ Bút Đông và an táng tại thôn Chuôn Trung xă Chuyên Mỹ – Phú xuyên – Hà nội (Hà Tây cũ). Tại đây có Đền và Nhà Thờ kính ngài.

 Từ Hà Nội theo Quốc lộ số 1 xuôi về phía nam, tới km 38 hoặc 40, (có ba lối) rẽ phải vào đường liên huyện, đi khoảng 6 km là tới đền Cha Thánh Luca.

Chuyên Mỹ là một xă nông nghiệp trù phú, nhộn nhịp v́ có nghề làm đồ gỗ giả cổ, chạm khảm lâu đời, rất uy tín. Dân toàn ṭng công giáo, mộ đạo và rất tôn kính Thánh Luca Vũ Bá Loan. Kẻ Chuôn gồm ba thôn Thượng, Trung và Hạ cùng nằm ven sông Nhuệ. Trước khi Cha Luca chết, cả ba thôn đều đ̣i xin xác cha về an táng. Cha đồng ư để cho Chuôn Trung lo. Họ chở xác Cha từ Cầu Giấy về trên sông Nhuệ phải đi qua Chuôn Thượng. Đoán biết giáo dân Chuôn Thượng sẽ giữ di hài cha lại để chôn, họ tổ chức đi hai thuyền. Con thuyền trống dong cờ mở mang áo quan nhưng bên trong không có di hài Cha Thánh đi trước, bị giữ lại ở Chuôn Thượng. C̣n con thuyền nhỏ lặng lẽ đi sau đă đưa di hài Cha Luca về tới Chuôn Trung an toàn. Chuôn Trung ở giữa nên cả hai thôn Thượng và Hạ đều có thể đến mộ, không xa.

Đền và Nhà thờ kính thánh Luca Vũ Bá Loan ở Chuôn Trung rất đẹp. Bàn thờ bằng gỗ quư, được chạm trổ và gắn ngọc trai hồng, trang trọng và mỹ thuật. Sau nhà thờ, trên tháp cao có tượng vị thánh tử đạo nh́n về hướng ngôi Đền kính ngài. Đền được dựng giữa một hồ nước đường kính khoảng 60m, với cây cầu nối xinh xắn. Đền xây h́nh lục giác, hai tầng mái cong, ở mỗi cạnh được mở bằng 04 cánh cửa gỗ. Tượng Thánh Luca Vũ Bá Loan được tạc bằng đá quư.

 Sinh quán cha thánh Luca Vũ Bá Loan là thôn Bút Quai – Duy Tiên – Hà Nam (thuộc Giáo xứ Bút Đông), cách Chuôn Trung 20 km về phía tây nam. Ta trở lại Quốc lộ 1A, đi tiếp về phía nam, đến thị trấn Đồng Văn, lên cầu vượt, rẽ trái vào đường sang Hưng Yên, khoảng 4km đến chợ Lương (chợ mở bên vệ đường) qua cầu Lương, là Giáo họ Bút Quai, nhà thờ cách đó khoảng 800m.

Theo bà con ở Bút Quai, con cháu trực hệ Thánh Luca Vũ Bá Loan nay không c̣n ai ở làng, chỉ vài người bà con họ ngoại rất xa của Cha Thánh như vợ ông Trần văn Chiến, người đang coi sóc Nhà Thờ và Đền Thánh ở đây. Ông đă 77 tuổi (2011 - sđt: 01696281890).

Bút Quai là một giáo họ nghèo. Đền Thờ Cha Thánh vừa được xây xong tháng 6-2010 do giáo dân tại đây, giáo dân Chuôn Trung, khách hành hương, và một số linh mục có liên hệ xa gần cùng góp sức xây dựng. Hàng năm, giáo họ Bút Quai cũng như giáo dân Chuôn Trung cùng làm lễ giỗ Thánh Luca Vũ Bá Loan vào ngày 5-6 dương lịch.

 ĐƯỜNG VỀ TRUNG LAO – QUÊ HƯƠNG THÁNH ĐA MINH VŨ Đ̀NH TƯỚC

Từ Hà Nội muốn về Trung Lao, ta theo Quốc lộ 1, xuôi nam, qua Phủ Lư, tới Nam Định, đi vào trung tâm thành phố, lên cầu Đ̣ Quan, và từ Cầu này đến thị trấn Cổ Lễ khoảng 20 km. Khi đến gần giữa thị trấn có một cây cầu nhỏ bên phải, rộng và dài chừng vài ba mét gọi là cầu Điên Biên. Qua cầu này, là vào phố Trung Đông – Trung Lao. Sau khoảng 1 km tới cây cầu thứ tư kể từ cầu Điên Biên, rẽ trái là đền Cha Thánh Đa Minh Vũ Đ́nh Tước. Đứng ở trên cầu hay trên đường cũng nhin thấy được rất rơ.

Trung Lao là một giáo xứ lớn, có trên 8000 tín hữu với 10 Họ Đạo và 18 Xóm Giáo (trong đó có xóm Tây Phong là nơi Thánh Tước Chào Đời và có xây Nhà Nguyện kính Ngài). Nhà thờ xứ bằng gỗ, Bàn thờ sơn son thiếp vàng cổ nhất Địa phận Bùi Chu, khởi công xây dựng cách đây 123 năm (1888-2011) ngày nay vẫn c̣n trơ gan cùng tuế nguyệt. Ngày 1.1.2010 Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đă về xứ đạo nâng Nhà thờ Lên Đền Thánh với Tước Hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa. tại toà vàng trong Thánh Đuờng có Tương Thánh Tước bằng gỗ qúy to cao 2m50 được thực hiện cách nay cả 100 năm, Đế tượng có hộp dựng xương của Ngài. Ngoài ra trong khuôn viên khu vực nhà thờ c̣n có Đài Tưởng niệm với tượng Thánh Tước đúc bằng đồng, uy nghi đứng bên cạnh Nhà Truyền thống của Giáo Xứ. Tại Trung Lao có rất đông người họ Vũ, rất mộ đạo và cũng rất sùng kính các Thánh tử đạo, trong đó có Thánh Đa Minh Vũ Đ́nh Tước. Người đang coi sóc đền Thánh Tước là ông Vũ Đ́nh Hàm (sđt: 0165232176), Theo ông Hàm, ở Trung Lao hiện có hơn 200 người theo đuổi ơn gọi tại các chủng viện và ḍng tu trên toàn quốc.

Hằng năm, bà con Trung Lao tổ chức lễ giỗ Cha Thánh Đa Minh vào ngày 19/6 dương lịch, tổ chức rất trang trọng. Khách hành hương và khách mời rất đông. Đây là ngày lễ đông vui nhất trong năm ở Trung Lao.

Trung Lao là một giáo xứ sầm uất, nhôn nhịp và trù phú. Đa số dân làm nông, một số người đóng đồ gỗ, khắc và chạm khảm tinh vi. Tại quê nhà cũng như khi đi làm ăn xa, giáo dân Trung Lao sống có tổ chức, đoàn kết, biết chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.

C̣n về ḍng tộc của Cha Thánh Đa Minh tại Trung Lao hiện có các ông Vinh Sơn Vũ Đ́nh Sơn và Vinh Sơn Vũ Đ́nh Sản, sđt: 01697149155. Cha Giuse Vũ Thanh Cảnh - Chính xứ Nam Định. TP Nam Định, sđt: 090 326 3902.

Muốn t́m hiểu rơ hơn, xin mời vào trang Giới trẻ Đồng Hương Trung Lao: http://gioitretrunglao.webnode.com.


ĐƯỜNG VỀ HÀ THẠCH – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ TRUẬT

Thầy giảng Phêrô Vũ Truật là vị Thánh tử đạo duy nhất của Giáo phận Hưng Hóa, quê tại giáo xứ Hà Thạch. Giáo phận Hưng hóa nằm phần lớn ở trung du, miền núi Bắc bộ đất đỏ. Giáo xứ Hà Thạch thuộc góc đông nam Thị xă Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; sát đường tỉnh lộ 320, ven bờ sông Hồng. Hiện tại giáo xứ này có đền kính thánh Phêrô Vũ Truật. Tượng đài và đền thánh tọa lạc trên một khu đất rộng. Đền thánh được khởi công xây dựng ngày 18-12-1997, do linh mục Phêrô Phùng Văn Tôn, và được Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng cắt băng khánh thành, dâng lễ làm phép đền và tượng, ngày 18-12-1998.

Hậu duệ của Thầy Thánh Phêrô Vũ Truật hiện c̣n hai chi. Chi gần nhất là Ô Giuse Vũ Hữu Dụng, sinh năm 1947 (sđt: 0121-3714-358). Ông là hậu duệ 6 đời của Thầy Thánh Truật. C̣n 01 chi nữa ở cách Đền Thánh 6km, v́ lư do kinh tế nên chi này đă bỏ họ Vũ sang họ Nguyễn nhưng vẫn tụ họp ngày giỗ Thầy Thánh Truật vào 18-12 hàng năm. Trước kia bà con ở đây c̣n giữ được ảnh chân dung Thánh Truật, có hai ḍng chữ nho chạy dọc hai bên. Hiện nay bà con đồng hương Hà Thạch, trong nước và hải ngoại, một số nơi c̣n giữ được di ảnh.
.5
GỠ BỎ
MỘT SỐ TRỞ NGẠI

01
BỮA CƠM CHAY

Trên đường t́m nối kết ḍng họ, tôi có dịp gặp gỡ một số đạo hữu Cao Đài và có chung với nhau những kỷ niệm đẹp.

Trong những bản sao gia phả từ những địa phương khác nhau của Hà Tĩnh, có một vị ở đời thứ tư, ông Vơ Mạnh, hầu như mọi bản sao đều ghi là "vô tự", chỉ riêng bản của từ đường La Mạc, xă Phong Thịnh, ghi rằng hậu duệ của vị này hiện phát triển tại Phù Mỹ, B́nh Định; một người trong nhánh này là Chánh Quản cơ Vơ Vệ đă về t́m họ. Tôi đă sao quyển gia phả này ra nhiều chục bản và đi Phù Mỹ t́m nhưng không gặp được manh mối.

Tháng Mười, 2012, sau tang lễ một bà cụ họ Vơ, ông Trưởng ban Liên lạc họ Vơ Công giáo B́nh Định cho biết có người nhờ ông chuyển cho tôi một bản gia phả. Người này chưa hề biết bản gia phả Phong Thịnh tôi đang phát hành. Ông ta chỉ c̣n giữ được không đầy mười trang chắp vá rơi rớt lại từ một công tŕnh gia phả, nay muốn nhờ tôi xem và cho ư kiến. Tôi cầm lên th́, chao ôi, ngay ở trang đầu tiên, danh tính người tôi đang đi t́m được tô đậm: Ông VƠ VỆ, thời Tự Đức. Chỉ sót lại mấy trang nhưng đủ thông tin để có thể xác lập liên quan giữa người đang sở hữu gia phả với gốc tổ Hà Tĩnh. Người tặng tài liệu nhận tôi làm anh v́ ông tổ của tôi là trưởng tộc, c̣n ông tổ anh ta là em trai thứ tư.

Tiếp đó, một cụ niên trưởng người lương đă chở tôi bằng xe máy, từ sáng sớm đến trưa, đưa tôi đến thăm bốn từ đường nằm trên địa bàn ba huyện khác nhau của tỉnh B́nh Định: Tuy Phước, Phù Cát và An Nhơn. Bất ngờ lại có được một thông tin hết sức quư mà tôi chưa hề nghĩ tới, chưa hề mong chờ.

Nhánh thứ nhất chúng tôi đến thăm là chi tộc Vơ Tấn ở thôn An Lợi, phát xuất từ tỉnh Hà Nam. Rời An Lợi chúng tôi đến thôn Vân Triêm cũng gọi là Vân Tập, thuộc xă Cát Chánh huyện Phù Cát. Ở đây có hai từ đường họ Vơ phát xuất từ Vũng Tô, phái nhất và phái nh́. Cụ Vơ Kế Đức gọi điện đến ông Vơ Lục ở tận Gia Lai hỏi số điện thoại của vị quản lư từ đường phái nhất. Ông Lục xin chuyển máy điện thoại cho tôi và bảo:

- Họ Vơ của chúng tôi phát xuất từ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Thạch Hà là huyện quê nhà của tôi. Không dám tin vào tai ḿnh, tôi hỏi lại:

- Ông bảo sao: Từ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh?

Một thông tin đến từ phía không ngờ, từ một người chúng gọi chỉ để xin số điện thoại người khác. Thông tin này trở thành chủ đề cho câu chuyện của chúng tôi tại ba từ đường chúng tôi đến thăm hôm ấy. Trong bữa ăn trưa, các vị hiện diện đă yêu cầu tôi giúp t́m gạch nối giữa tổ phụ Vơ Quang Biều và gia phả Thạch Hà.

Bảng tông đồ 14 đời được phục chế đang trưng bày ở nhà cụ Vơ Kế Đức lên tới tổ Vơ Quang Biều. Ông Vơ Quang Biều và con trai ông là những vơ quan chỉ huy một chiến thuyền. V́ một lư do nào đó, thuyền bị ch́m, có nguy cơ bị kết án nặng, cho nên họ đă chạy trốn vào tận Vũng Tô, một thung lũng nhỏ ven biển nằm khuất giữa ba mặt núi (nay thuộc thôn Tân Thanh, xă Cát Hải).

Trong gia phả Hà Tĩnh những thế kỷ xa xưa không thấy có ai mang tên Biều. Tuy nhiên với chút kinh nghiệm luận giải gia phả đă học, cuối cùng tôi đă kết luận được vị tổ ấy là ai trong bản gia phả Hà Tĩnh và tại sao hai tên gọi khác nhau chỉ là một người.

Tôi thông báo kết quả và mời các vị đại diện tới Ṭa Giám mục Qui Nhơn trao đổi để soi sáng thêm cho luận giải của tôi. Ngoài cụ Đức, năm vị đại diện ba nhánh kia đều là tín hữu Cao Đài. Có thêm bốn anh em các nhánh Công giáo cũng được mời tới gặp gỡ. Mọi người phấn khởi khi nối được gia phả với gốc xưa. Kết thúc đă 11 giờ. Tôi mời mọi người đi ăn trưa. Có bốn vị là chức sắc Cao Đài xua tay:

- Xin lỗi huynh, bọn đệ ăn chay. Để bọn đệ tự liệu lấy.

- Thôi mà, nể nhau một bữa, mừng ngày nhận ra nhau là anh em, phá lệ ăn cơm người Công giáo nấu xem có ngon lành ǵ không!

- Không được. Bọn đệ đă phát nguyện ăn chay trường.

- Đùa thôi. Bây giờ đến lượt tôi phải kêu gọi các vị Công giáo, xin mời tất cả cùng đi dùng cơm chay với quư huynh đệ Cao Đài.

Tôi đă đặt sẵn cơm chay tại quán Thanh Minh ở đường Phan Bội Châu, chủ quán là một ông biện giáo xứ Chính Ṭa Qui Nhơn.

*

Khi tôi nêu câu hỏi tại sao Đạo Chúa có mặt ở Việt Nam đă gần 500 năm mà không thấy ḍng tu nào đưa chay lạt vào chọn lựa của ḿnh, nhiều người bảo rằng v́ chay lạt ôm theo ḷng tin về luân hồi. Bạn có thể kiểm chứng ngay bên cạnh bạn rất nhiều người thực hành chay lạt cho dù không hề tin luân hồi. Để ư kỹ ta sẽ thấy tự thâm sâu, những người thờ cúng Ông Bà không tin vào luân hồi. Dựa trên tập tục chỉ giữ bài vị ở nhà năm đời, sang đời thứ sáu th́ đem gộp chung ở từ đường hoặc đem chôn, người ta nói rằng người chết ở với con cháu năm đời rồi sau đó đi đầu thai. Trong thực tế th́ dù đă sáu bảy đời hay mười mấy đời, con cháu vẫn tin rằng Tổ Tiên đang ở đó và vẫn chân thành cầu khẩn.

Quan niệm chay tịnh của người Công giáo và người lương khác nhau, một bên nhằm chia sẻ với những đau thương của Chúa Cứu Thế trong cuộc Thương khó, một bên nhằm phát huy ḷng nhân từ, nhưng trước đó cả hai bên có cùng một điểm chung, và cũng là điểm chung với nhiều người thiện chí, muốn tiến bước trên đường “tâm linh”: Sự thanh tẩy giác quan. Việc nhịn đói, kiêng thức ăn động vật, bỏ thuốc lá hay bỏ rượu đều là những nỗ lực nhằm làm chủ giác quan, vượt thoát những đ̣i hỏi của giác quan để bước đi trong tự do. Để đặt vấn đề loan báo Tin mừng cách nghiêm túc, để đạt kết quả, người Công giáo không thể thoái thác cuộc chạy đua trong việc làm chủ giác quan.

Bản thân tôi vẫn thường xuyên dùng thực đơn chay lạt, chẳng phải v́ tôi thương các con vật nhưng chỉ v́ tôi rất yêu quư bà con lương dân và các Phật tử quanh tôi, khao khát đồng cảm với tâm nguyện tốt lành của họ để cầu nguyện cho họ được ơn đức tin. Không riêng tôi mà thiết tưởng hiện đang có không ít anh chị em Công giáo khác cũng cùng chung một tâm nguyện ấy. Chắc hẳn cả những anh chị em lương dân bán tín bán nghi về chuyện luân hồi, khi biết có nhiều người tin Chúa thực hành chay lạt, họ sẽ hiểu ra phải tin theo bên nào mới đúng.

02
CƠM CHAY TRÊN BÀN THỊT CHÓ

 

Tết Quư Tỵ, Trung ương Ḍng họ từ Hà Nội viết thư cho hai vị khác và cho tôi, yêu cầu cả ba hợp tác xúc tiến thành lập Hội đồng Ḍng họ Vũ-Vơ tỉnh B́nh Định. Đó cũng là lúc Ban Liên lạc Vơ tộc Công giáo tỉnh B́nh Định đang chuẩn bị cuộc sinh hoạt lần thứ tư. Đoàn hành hương khoảng 250 người, trong đó khoảng một phần tư ngoài Công giáo, đă đi thăm bốn từ đường người lương và dừng chân dâng lễ và ăn trưa tại một nhà thờ Công giáo, nơi có mộ một vị tiền hiền Công giáo họ Vơ. Trong dịp này, vị nhận lời làm Chủ tịch Ban Chấp hành lâm thời của Ḍng họ tại Tỉnh B́nh Định đọc lá thư của Trung ương, rồi vạch phương hướng xây dựng và tổ chức Đại hội cấp Tỉnh.

Tôi nhận lời tham gia làm một ủy viên thường trực của ban Chấp hành Hội đồng Ḍng họ Vũ-Vơ tỉnh B́nh Định. Nhờ đó, tôi có dịp theo anh em trong Ban thường trực đến dự sinh hoạt tại các huyện và được gặp gỡ thêm rất nhiều người cùng chung một mối đồng cảm về Ḍng họ. Lắng nghe những chia sẻ tại những sinh hoạt ấy, tôi càng thấy rơ đây là thời của những cơn mưa ơn phước. Lúa chín đầy đồng và có ai đó đă gặt chất nghều nghệu hai bên bờ, chỉ c̣n việc đem về nhà, tiếc rằng người ta chểnh mảng không chịu đem về cho nên lũ lại cuốn trôi tất cả.

Vị đứng đầu Ban Chấp hành Ḍng họ chúng tôi tại Tỉnh này mấy lần ngỏ lời muốn nhóm thường trực gặp nhau trong một bữa ăn tại một nhà xứ nào đó. Có lẽ v́ sinh hoạt liên kết ḍng họ chúng tôi ở đây do anh em Công giáo khởi xướng cho nên ông muốn có một dịp bày tỏ thân t́nh. Tôi ở nhà hưu dưỡng, không có điều kiện. Đang khi đó, sáu trong bảy người của nhóm này có quen biết linh mục nhạc sĩ Ánh Đăng. Tôi ngỏ lời và cha Ánh Đăng sẵn sàng mời và cũng sẵn sàng đáp ứng theo thực đơn vị ấy đề nghị: thịt chó.

Gần tới ngày hẹn, cha Ánh Đăng gọi cho tôi:

- Trong bảy người, có một phụ nữ, bà ấy ăn thịt chó được không?

- Ḿnh không rơ, nhưng vấn đề có thể chạm đến một trong mấy người đàn ông: Ông ta là một dược sĩ, 65 tuổi, ăn chay lạt mỗi tháng 12 ngày.

- Làm thế nào bây giờ?

- Anh cứ giúp cái thực đơn kia, c̣n đồ chay, tôi sẽ nhờ người làm và đem tới.

Tôi khá thân với vị dược sĩ. Ông rất linh động, gặp ngày chay, người ta mời ǵ ông vẫn ăn nấy rồi ăn chay bù lại ngày khác sau. Tôi đặt đồ chay không chỉ để tỏ ḷng kính trọng ông mà c̣n để ông biết trong Hội thánh Công giáo vẫn có người đồng hành với ông. Hôm ấy, người khách phụ nữ ăn thịt chó nhưng một tài xế rất trẻ lại ăn chay. Phía ăn chay có ba người: vị dược sĩ, cậu tài xế và một linh mục. Phía ăn mặn có hai linh mục, một giáo dân và bốn người ngoài Công giáo. Bên nào cũng có nửa kư và nửa cân.

Dấn thân truyền giáo, tôi nhận ra rằng thuở ban đầu người Việt hăm hở đón chào Tin mừng cứu rỗi v́ khám phá ở đó những giá trị trổi vượt hẳn những ǵ họ đang có. Cả tín lư và luân lư Công giáo đều hợp lư, trong sáng và cao cả, đáng tin nhận. Chưa đầy sáu năm, nhà truyền giáo trẻ 31 tuổi làm việc tại Quảng Ngăi – Marie André Garin (cố Châu) – đă rửa tội hơn 1.200 người lớn và hơn 10.000 trẻ nhỏ. Họ đă theo tôn giáo của ông Tây trẻ tuổi, nói tiếng Việt trọ trẹ, v́ nhận thấy ở đó những giá trị cao cả mà văn hóa cổ truyền không sao sánh được.

Thế nhưng ngày nay mọi chuyện không c̣n đơn giản như thế. Những tài liệu xuyên tạc Đạo Chúa, bắt đầu với “Tây Dương Gia Tô bí lục” và tiếp tục với nhiều sách báo, phim ảnh và trang mạng vu khống, bôi nhọ Đạo Chúa, anh chị em lương dân hiện đang có những ấn tượng xấu rất khó phai mờ về người Công giáo. Bên cạnh đó, cuối thế kỷ XIX, sách vở Phật giáo đều bằng ngoại văn và chưa phổ biến rộng răi đến đại chúng; c̣n cuối thế kỷ XX, kinh điển Phật giáo được dịch ra quốc ngữ, nhiều tác phẩm tŕnh bày Phật giáo cách mới mẻ và lôi cuốn.

Ngôn ngữ Phật giáo xây nền trên vốn từ Hán Việt, có bề dày hàng chục thế kỷ, càng đào bới càng sâu. Đang khi đó, ngôn ngữ của giới Công giáo có hai phần: Những kiểu nói thuần nôm sớm bị lỗi thời, những kiểu nói vay mượn của Hán Việt th́ chưa sàng lọc đủ, hỗn độn, không thống nhất… Cả hai đă khiến cho văn chương nhà đạo bị đẩy lùi và gạt sang bên lề ḍng văn học của cộng đồng dân tộc… Thay v́ sức hút mănh liệt của thuở đầu, ngày nay sách vở nhà đạo lại gây dị ứng, khó được tiếp nhận.

Thêm vào đó, Phật giáo được lan truyền bằng con đường thực hành, bằng chứng nghiệm bản thân, tạo nên cho đại chúng tín đồ một trào lưu xác tín mạnh mẽ. Những ai đă tiếp cận với thiền định và chay lạt đều cảm thấy rằng đó là những giá trị khó thay thế.

Đang khi đó, người Công giáo Việt Nam lại chạy đua phát triển sinh hoạt các giáo xứ thay v́ chạy đua trong việc thể hiện các giá trị Tin mừng. Các giáo xứ tạo nên cảm giác ổn định nhưng có lẽ chính sự ổn định ấy đă vô t́nh khiến cho Đạo Chúa bị phá giá. Thay v́ là niềm vui phấn đấu của ḍng người lữ hành, đám dân Chúa thích định cư trên trần thế, trở thành tôn giáo của đám đông, của các h́nh thức lễ hội, khiến sức đổi mới cuộc sống ngày càng bị yếu đi, không toát ra được những giá trị sâu thẳm và cao vượt như thuở ban đầu. Giữa ḷng xă hội tiêu thụ, chủ nghĩa tương đối không bành trướng nơi các cộng đồng Công giáo Việt Nam về mặt lư thuyết nhưng h́nh như nó hoàn toàn thắng thế về mặt thực hành…

Trước mắt người Công giáo đang mở ra một cuộc chạy đua với anh em Tin lành và chạy đua với các tôn giáo phương Đông: chạy đua về các giá trị. Quả là một thách đố hết sức lớn nhưng đồng thời, với ơn Chúa, đây lại đang là một cơ hội có một không hai để tiến nhanh vượt bậc.

Khi biết nh́n nhận thiện chí và những kinh nghiệm của anh chị em lương dân, như sự thinh lặng và chay tịnh, chúng ta sẽ có thêm những điều kiện mới để sống triệt để các giá trị Tin mừng. Qua đó, anh chị em lương dân sẽ thấy rơ thiện chí của chúng ta, và đến lượt họ, sẽ mở rộng cửa ḷng để đón nhận ánh sáng của ơn cứu rỗi.

03
TỎA SÁNG CÁC GIÁ TRỊ

Giữa lúc xă hội quay cuồng với văn minh tiêu thụ, đang âm thầm lan tỏa một niềm khao khát các giá trị tinh thần, ngay cả nơi những bạn trẻ rất ít tuổi. Trào lưu ấy đ̣i chúng ta, nếu muốn loan báo Tin mừng, phải có kế sách tỏa sáng các giá trị Tin mừng trong cuộc sống.

Chúng  ta có những giá trị nổi bật: chân thật, công bằng, bác ái, bảo vệ sự sống… Tuy nhiên có thể những giá trị ấy đang bị lu mờ do nhiều anh chị em thiếu ư thức, không c̣n cố gắng phát huy. Đang khi đó, việc thực hành chay lạt đang nở rộ như một giá trị trổi vượt.

Mỗi lần tham gia bàn thảo chọn ngày họp mặt đồng tộc có chuyện ăn uống đi kèm, tôi thường nghe người ta cân nhắc để tránh ngày rằm và mừng một, nghĩa là tránh ngày chay lạt. Tỉ lệ số người thực hành chay lạt khá  lớn. Nhiều người ăn chay để cầu phúc, để được thành công, buôn may bán đắt. Tuy nhiên nhiều phụ huynh khuyên con cái ăn chay v́ mục đích giáo dục. Họ mong muốn cho con em biết sống thanh thoát, nhân ái, điềm đạm. Chay lạt gia tăng ḷng nhân ái. Nó dạy trẻ em tôn trọng cả con muỗi, con kiến. Giống hệt tâm niệm của các hướng đạo sinh sói con: “Hướng đạo sinh yêu thương loài vật”. Nếu với những con vật bé nhỏ làm hại ta mà ta c̣n nhân từ tha thứ, tôn trọng mạng sống của chúng th́ không có lư do ǵ đế ta được nóng giận với người đồng loại. Nhờ ăn chay, bạn trẻ biết sống hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, lịch thiệp. Đó là chưa kể những lợi ích về dinh dưỡng, giúp tránh nhiều bệnh tật, đă được khoa học chứng nghiệm. Những bạn trẻ này thường không biết ǵ về giáo lư nhà Phật nhưng họ xác tín giá trị của chay lạt và sẽ không chấp nhận một chọn lựa nào chống lại xác tín ấy.

Nói thật ra, có lẽ nhiều người tưởng rằng kiêng cả thịt lẫn cá là điều ǵ khó lắm. Trong thực tế không khó ǵ cả. Nhất là nếu chúng ta có tấm ḷng nghĩ đến phần rỗi của anh chị em lương dân, chúng ta sẽ thấy chay lạt là điều lư thú và có lợi nhiều mặt. C̣n nếu đă ngại hy sinh cố gắng th́ chắc hẳn bao giờ cũng có thể vịn hết cớ này đến cớ nọ để lẩn tránh.

Trước đây, việc kiêng thịt ngày Thứ Sáu đă thành thông lệ. Người nội trợ Công giáo nhớ ngay rằng Thứ Sáu không mua thịt. Xă hội bên ngoài cũng nh́n nhận điều ấy như một thực tế. Hằng tuần cứ tới Thứ Sáu là lượng thịt bán ở chợ tự động giảm hẳn, tôm cá được bày bán nhiều hơn. Người ta lấy cớ thời chiến để xin Ṭa Thánh chuẩn miễn. Nay th́ thời chiến đă lùi vào quá khứ đến gần bốn mươi năm và Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo 1992 vẫn khẳng định điều răn kiêng thịt nhưng chẳng hiểu tại sao người ta lại cứ lờ đi.

Để việc truyền giáo đạt kết quả, cần khẳng định lại việc kiêng thịt ngày thứ Sáu, và đi xa hơn một bước nữa: kiêng luôn cả cá. Tại đây c̣n một chi tiết nữa rất đáng suy nghĩ: Người lương giữ chay không do luật buộc mà do tự phát nguyện. Thánh Phaolô cũng từng phát nguyện như thế: “Phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô! V́ thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngă, th́ tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngă” (1Cr 8,12-13).

Vấn đề chính yếu ở đây là cần chia sẻ quan niệm về chay tịnh của phương Đông là tôn trọng sinh mạng của muôn loài. Không phải là chay trường, chỉ cần giữ tất cả các ngày Thứ Sáu, mỗi tháng được bốn ngày, cũng bằng ba mươi, mùng một, mười bốn và rằm cộng lại.

Trong bài "Những nẻo đường hồn nhiên của Tin mừng - 9" giới thiệu trên mạng internet đầu năm 2010, tôi đă kể về kinh nghiệm chay lạt của bản thân tôi. Qua kinh nghiệm ấy, tôi hiểu tại sao người ta quư chay lạt. Những người đă phát nguyện ăn chay trường khó mà từ bỏ điều ấy để theo Kitô giáo. Những người chưa qua kinh nghiệm chay trường ít lâu, khó hiểu được rằng người cảm nhận sự thanh cao của nó và quư trọng chẳng khác nào người tu sĩ Công giáo cảm nhận và quư trọng ơn độc thân khiết tịnh.

Với kinh nghiệm ấy, tôi nhận ra một lư do hệ trọng lư giải tại sao ngày nay không c̣n hiện tượng người Việt theo Kitô giáo ồ ạt như mấy thế đầu của cuộc truyền giáo. Xưa kia người dân ồ ạt tin theo Đạo Chúa, v́ nhận thấy ở đó những giá trị cao cả mà văn hóa cổ truyền không sao sánh được. Ngày nay anh chị em lương dân từ chối theo Đạo Chúa cũng v́ lư do tương tự. Họ khám phá và xác tín sự cao quư của chay lạt cùng những hoa quả tự nhiên và tâm linh phát xuất từ chay lạt: sự hiếu ḥa, ḷng từ bi nhân ái, sự từ bỏ, một thân xác và tâm hồn thanh tịnh, sự ḥa hợp với thiên nhiên đă khơi nguồn và thấm sâu vào tâm hồn họ nhờ chay lạt. Họ xác tín không phải do xưa bày nay làm nhưng với những sách vở và chứng nghiệm rất rơ theo khoa học. Lập luận hết sức đơn giản: Tại sao phải bỏ một con đường có những giá trị cao cả như thế để đi theo một con đường thiếu vắng những giá trị ấy?

Tôi viết bài này không phải để đề nghị các Bề Trên trong Giáo hội buộc giáo dân ăn chay lạt. Sự thành công và thuyết phục của chay lạt chính là ở chỗ nó không phải là một luật buộc nhưng là một giá trị cuốn hút. Suy nghĩ của tôi là thế này: Khi chúng ta biết nh́n nhận và đón nhận những giá trị cao quư của anh em, anh em sẽ nh́n nhận và đón nhận những giá trị cao quư gấp bội của Tin mừng. Tôi không chờ đợi những quyết định của các Bề Trên trong Giáo hội nhưng chờ đợi sự hưởng ứng của chính bạn, người đang đọc những ḍng này.

Ước mong các đồng đạo trẻ của tôi, cách riêng là những người tận hiến trẻ, sẽ nhập cuộc nghiên cứu vấn đề này, không chỉ trên giấy bút nhưng trước hết bằng thực nghiệm bản thân. Các bạn và tôi, không những chúng ta sẽ gặt hái được những ích lợi phần xác và phần hồn mà c̣n được đón nhận cả những linh hồn tuyệt vời của các anh chị em chúng ta nữa.

04
KHÔNG PHẢI VỰC SÂU NHƯNG LÀ KHÁT VỌNG

Năm 1997, cuối thánh lễ an táng một linh mục, người ta hát bài “Từ vực sâu u tối”. Sau đó một giáo dân tâm sự với tôi:

- Con nghe bài hát mà nản ḷng và bất măn quá! Ông cha này ai cũng biết là rất tốt, rất đạo đức thánh thiện, tại sao vừa chết xong lại bị đày xuống vực sâu, bị tống vào ngục tối ngay lập tức vậy?

Lời chia sẻ khiến tôi giật ḿnh. Chính bản thân tôi cũng đă nhiều lần cảm nghiệm nhận ra sự trái khoáy ấy mà không lấy làm điều, nhưng đối với những người đang kiếm t́m đức tin th́ quả t́nh bài ca có thể khiến họ nghĩ: Cách nh́n về cái chết của người Công giáo thật mâu thuẫn. Có những lần tôi hiện diện trước áo quan anh chị em ḿnh trong tâm t́nh chúc mừng, mừng v́ Chúa Kitô Cứu Thế vừa khẳng định thêm một chiến thắng không thể đảo ngược, trong lúc bên tai tôi người ta đang rên rỉ câu kinh từ vực sâu ai oán. Thật hết sức lạc điệu nếu giữa tâm t́nh rộn ră của đêm chia tay trước khi cô dâu lên xe hoa về nhà chồng, chợt có người cất tiếng: Từ vực sâu tối tăm!... Vâng, nhiều trường hợp chúng ta cầu nguyện bên người vừa nằm xuống trong bầu khí họp mừng vượt qua, và như muốn tha thiết nói với Tân Lang rằng: Xin hăy cảm thông, vui ḷng chờ cho chúng em được tỏ chút luyến lưu bịn rịn; chỉ vài giờ nữa thôi, chúng em sẽ để cho Chàng tự do đưa bạn ấy lên đường…

Tôi đă hứa sẽ viết bài về vấn đề này. Giới Công giáo đă quá quen tai cho nên không để ư rằng bài hát mang h́nh ảnh vực sâu tối tăm có thể gây phản cảm nặng nề nơi người ngoài Công giáo. Người ta đồng ư rằng người Công giáo luôn tưởng nhớ đến người đă khuất rất nhiều, nhưng cách nhớ tưởng ấy rất khác với tâm t́nh người Việt. Người Việt nhớ đến Ông Bà Cha Mẹ đă khuất và xin các ngài phù hộ cho con cháu, c̣n với người Công giáo, h́nh như Ông Bà Cha Mẹ chết xong là rơi vào thảm trạng bi thương. Hiện nay, không chỉ có một bài mà đến bốn, năm bài hát với h́nh ảnh vực sâu tối tăm, từ chốn luyện h́nh u tối. Những bài này thịnh hành đến nỗi buổi kinh hoặc thánh lễ tưởng nhớ người chết mà không hát một trong mấy bài ấy th́ dường như c̣n thiếu sót.

Vừa qua, sau 15 năm gặp lại người giáo dân nọ, chúng tôi nói chuyện khác, nhưng tôi chợt nhớ một món nợ chưa trả.

Tôi về mở quyển “Nghi Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn”, Ủy ban Giám mục về Phụng tự xuất bản, Sài G̣n 1971, dày 230 trang, thấy phản ứng của người ấy rất đúng. Quyển sách gồm có 5 lời hiệu triệu, 152 lời nguyện, 9 bài Cựu ước, 8 đoạn xướng đáp và lời cầu , 26 thánh vịnh, 11 câu xướng alleluia và 20 bài Tân ước chưa kể kể 19 bài Tin mừng, 5 kinh Tiền tụng, 3 Kinh nguyện Thánh Thể… Suốt bằng ấy nội dung, tiếng "vực sâu" chỉ xuất hiện trong một bản văn duy nhất là thánh vịnh 129/130 được in lại 6 lần ở các trang 19, 23, 28, 56, 84 và 125. Thánh vịnh này được đề nghị dùng làm đáp ca, và ở các trang 28, 56 và 84 có hai câu đáp để chọn là câu 1: “Từ vực sâu, Lạy Chúa, tôi kêu lên cùng Chúa” hoặc câu 5: “Tôi hy vọng rất nhiều vào Chúa, tôi trông cậy ở lời Người”; ở trang 19 và 23 có hai câu đáp để chọn là câu 1: “Lạy Chúa, tôi kêu lên cùng Chúa”, bỏ cụm từ “Từ vực sâu”, hoặc câu 6: “Linh hồn tôi mong đợi Chúa tôi”, ở trang 125 không có câu đáp. Như thế ở đây phụng vụ cũng đọc thánh vịnh này với tất cả sự lạc quan tin tưởng như khi trích đọc nó trong Kinh chiều II của Lễ Giáng sinh.

Các nhạc sĩ Việt Nam đă dừng lại ở h́nh ảnh vực thẳm và triển khai kịch tính của h́nh ảnh này khiến cho một chi tiết phụ của bài thánh vịnh lấn lướt mất nội dung chính. Điều này cũng có phần do âm hưởng của cung giọng năo nuột của kinh "Ớ Chúa tôi, tôi ở chốn thẳm sâu kêu lên cùng Chúa" (Đàng Trong) tức cũng là kinh "Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi" (Đàng Ngoài).

Những bài thánh ca chủ đề vực sâu thật hay, tiếc là không đúng phụng vụ cũng không sát giáo lư Công giáo. Tiếc hơn nữa là chúng đă gây những ngộ nhận rất lớn cả cho người Công giáo lẫn người ngoài Công giáo.

Vấn nạn được nêu lên không phải là thắp nhang hay đặt đồ cúng nhưng là theo Chúa th́ mất đi cái nh́n lạc quan đầy hy vọng của Đạo Hiếu khi nghĩ về tiền nhân! Do chưa nhận biết mạc khải, người Việt chưa diễn tả bằng ngôn từ chính xác nhưng cách ứng xử cho thấy dường như đa số linh cảm rằng tiền nhân qua đi là về với Cội Nguồn tối thượng. Cùng lúc, người sống vừa cầu mong cho người chết sớm siêu thoát vừa xin người chết phù hộ. Cái nh́n ấy khá gần với giáo huấn trong sách "Giáo Lư Của Hội Thánh Công Giáo". Sách này không hề nhắc ǵ đến một vực thẳm hoặc một nơi chốn. Với tựa đề "Luyện ngục: cuộc thanh luyện cuối cùng", số 1030 của sách này nói đến sự "thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết":

"Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắn chắc được cứu độ đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên Đàng.

Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là “purgatory”. Dù ta quen dịch là luyện ngục, thuật ngữ này chỉ đơn giản là một t́nh trạng thanh luyện, không phải vực, cũng không phải là ngục tối. Điều này khác hẳn với h́nh phạt đời đời của kẻ bị chúc dữ: Hội Thánh công bố giáo lư về luyện ngục cách riêng trong các công đồng Flôrence (x. DS 1304) và Trentô (x. DS 1820; 1580). Dựa vào một số đoạn Kinh Thánh (x. 1Cr 3,15; 1Pr 1,7), Hội Thánh nói về lửa thanh luyện.

"Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12,31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, nhưng một số tội khác th́ phải đợi tới đời sau" (x. T. Grêgôriô cả, đối thoại 4,39).

Lời dạy này cũng căn cứ trên tập quán cầu nguyện cho những người quá cố mà Kinh thánh đă nói: v́ thế ông Giuđa Macabêô "xin dâng lễ đền tội cho những người chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi" (2 Mcb 12,46). Ngay từ đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố và cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong thánh lễ (x. DS 856) để một khi được thanh luyện họ có thể hưởng nhan Thánh Chúa. Hội Thánh khuyên chúng ta bố thí, làm việc hăm ḿnh và nhường các ân xá cho những người đă qua đời.

"Chúng ta hăy giúp họ và hăy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đă được thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (G 1,5), tại sao chúng ta c̣n nghi ngờ là những lễ tế của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, để cầu cho người quá cố, lại không đem đến cho họ một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu nguyện cho những người đă qua đời"(x. T. Gioan Kim Khẩu, Bài Giảng về 1Cr 41,5).

Thánh vịnh 129/130 quả có được dùng trong sách “Nghi Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn”, tuy nhiên đọc kỹ, sẽ thấy ở đó Hội Thánh nhấn mạnh hai điều: hoặc là sự kiện con người không thể tự cứu ḿnh, hoặc là niềm khát vọng sớm được cứu thoát chứ không hề nhấn mạnh thảm cảnh “vực sâu”. Ước mong các cấp thẩm quyền của Hội Thánh sớm nghiên cứu lại để tránh t́nh trạng phản tác dụng cho việc loan báo Tin mừng tại Việt Nam.

Cụ thể, Ban Thánh Nhạc toàn quốc có thể giúp giải quyết vấn đề cách nhẹ nhàng bằng một tuyển tập thánh ca cho lễ an táng và cầu hồn. Hiện nay trong rừng thánh ca Việt Nam, có nhiều bài rất hay cả về nhạc, về lời, về h́nh ảnh và về thần học hy vọng để cầu nguyện lúc anh chị em tín hữu lên đường về với Chúa, nhưng chỉ mới được biết đến ở một số cộng đoàn hay một số địa phương. Ước mong Ban Thánh Nhạc sớm thu thập và đề cao những bài ấy để phổ biến cho mọi người, và đừng đưa những bài không chuẩn về thần học hoặc dễ gây hiểu lầm vào tuyển tập. Hy vọng như thế dần dần thói quen dùng những bài thảm sầu như nói ở trên sẽ lùi vào quá khứ.

 

05
VIỄN ẢNH LẠC QUAN CỦA SPE SALVI

Để độc giả có thêm cơ sở suy nghĩ về điều vừa chia sẻ ở bài trước, và áp dụng vào việc loan tin mừng cho Ḍng họ, tôi xin được lược tóm ở đây giáo huấn của Đức Bênêđictô XVI trong thông điệp Spe Salvi: “Được cứu rỗi trong đức trông cậy”.

Thông điệp Spe Salvi số 45 có nhắc đến quan niệm Do Thái giáo "cho rằng các linh hồn đang sống trong một h́nh thức bị tạm giam,… đang phải chịu phạt hay đang được hưởng một h́nh thái hạnh phúc tạm thời" và lập tức cho rằng quan niệm ấy đă bị đầy lùi vào quá khứ. "Giáo Hội sơ khai tiếp nhận các quan điểm này, và trong Giáo Hội Tây Phương, chúng dần dần được phát triển thành học thuyết về Luyện Ngục. Chúng ta không cần xem xét ở đây các nẻo đường phức tạp trong lịch sử sự phát triển ấy; mà chỉ cần hỏi xem điều này thực ra có ư nghĩa ǵ" (số 45).

Điểm chính yếu trong học thuyết Spe Salvi về luyện ngục, ở số 47, là sự thanh luyện trong t́nh yêu của Đấng Thẩm Phán và, ở số 48, mối hiệp thông trong Hội Thánh khiến ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn đang được thanh luyện. Xin trích nguyên văn số 47:

"Một vài thần học gia mới đây có ư kiến cho rằng lửa vừa thiêu đốt vừa cứu chuộc chính là Chúa Kitô, vị Thẩm Phán và là Đấng Cứu Thế. Cuộc gặp gỡ với Ngài là hành động phán xét chung cuộc. Trước ánh mắt Ngài, tất cả những ǵ là giả trá sẽ tan biến. Sự gặp gỡ Ngài trong khi thiêu đốt chúng ta, lại cải biến chúng ta, và giải thoát chúng ta, khiến cho chúng ta trở nên con người chính thật của ḿnh. Tất cả những ǵ chúng ta xây dựng trong đời có thể chỉ là rơm rạ, rỗng tuếch và sụp đổ. Vậy mà trong cái đau đớn của cuộc gặp gỡ này, khi những dơ bẩn, và bệnh hoạn của cuộc đời được phơi bày ra trước mắt chúng ta, th́ ơn cứu độ nằm ngay ở đó. Cái nh́n của Chúa, sự va chạm của trái tim Ngài chữa lành chúng ta qua một biến cải chắc chắn là đau đớn "như đi qua lửa".

Nhưng đó là một sự đau đớn được chúc lành, trong đó quyền lực cực thánh của t́nh yêu Ngài xuyên thấu chúng ta như một ngọn lửa, giúp chúng ta trở nên hoàn toàn là chính ḿnh và nhờ đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Bằng cách này sự tương quan giữa Công Lư và ân sủng cũng trở nên rơ ràng; cách thức chúng ta sống trên đời không phải là không quan trọng, nhưng tội lỗi của chúng ta không gây t́ ố trên chúng ta măi măi nếu ít ra chúng ta vẫn tiếp tục vươn ra để đến với Chúa Kitô, đến với sự thật và t́nh yêu.

Thật vậy, tội lỗi đă bị thiêu đốt qua cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vào lúc chung thẩm chúng ta cảm nhận và hấp thụ quyền lực vô biên của t́nh yêu Ngài trên tất cả sự dữ trong thế gian và trong chúng ta. Nỗi đau của t́nh yêu trở nên ơn cứu rỗi và niềm vui của chúng ta. Rơ ràng là chúng ta không thể đo lường "thời gian" của sự thiêu đốt biến cải này bằng những đơn vị đo lường thời gian của trần thế. "Giờ phút" biến cải trong cuộc gặp gỡ này vượt quá ước tính thế gian - đó là thời khắc của con tim, đó là thời gian của cuộc "vượt qua", để tiến đến hiệp thông với Thiên Chúa qua Ḿnh Thánh Chúa Kitô.

Sự phán xét của Chúa là niềm hy vọng, v́ đó vừa là Công Lư, và vừa là ân sủng. Nếu chỉ có ân sủng mà thôi, khiến cho tất cả mọi việc trên thế gian không c̣n vấn đề nữa, th́ Chúa sẽ mắc nợ chúng ta một câu trả lời về Công Lư - một câu hỏi quyết liệt chúng ta đặt ra cho lịch sử và cho Thiên Chúa. Nếu chỉ là Công Lư, th́ cuối cùng chỉ có thể đem lại cho chúng ta sự sợ hăi. Việc Thiên Chúa nhập thể nơi Đức Kitô đă nối kết Công Lư và ân sủng với nhau mật thiết đến độ Công Lư được thiết lập vững chắc: chúng ta đều phải lo liệu cho sự cứu rỗi của ḿnh "trong âu lo và run sợ" ( Pl 2, 12 ). Tuy nhiên, ân sủng cho phép tất cả chúng ta hy vọng, và để vững tin đi gặp vị Thẩm Phán, Đấng chúng ta biết đến như là "trạng sư", hay parakletos ( x. 1 Ga 2, 1 ) của chúng ta."

Cũng cần góp thêm vào đây cái nh́n thần học tâm linh của Ḍng Cát Minh Têrêxa về sự “hiệp nhất tạo biến đổi”, được cha Marie Eugène tŕnh bày trong sáng dễ hiểu ở phần đầu tác phẩm “Tôi muốn thấy Thiên Chúa”. Khái niệm hiệp nhất tạo biến đổi giúp ta hiểu ra rằng khi được gọi hiệp nhất với Thiên Chúa Chí Thánh, thụ tạo được Ngài đổi mới không ngừng cho đến đời đời. Sau giai đoạn thanh tẩy luyện lọc hết những vết nhơ, sự biến đổi tiếp tục làm cho thụ tạo càng lúc càng giống với Thiên Chúa. Người ta thường h́nh dung cách giản dị là phải xong việc này rồi mới sang việc khác, phải qua khỏi giai đoạn luân lư rồi mới bàn đến đời sống hiệp nhất, nhưng thực tế của đời sống ơn thánh cho thấy cả ơn hiệp nhất và ba nhân đức tin cậy mến có mặt ngay từ đầu và, nơi con cái Chúa, chính ba nhân đức ấy giục giă ta dứt khoát với tội lỗi, làm cho mọi dính bén và mọi bất toàn bị bật rễ. Ngay ở đời này ba nhân đức tin, cậy, mến đă cho ta một kinh nghiệm về việc lửa đốt sạch những cặn bẩn. Nơi sự hiệp nhất tạo biến đổi, ta sẽ như những cục than, những thỏi kim loại được ném vào ḷ lửa hồng và rực cháy theo lửa…Thiên Chúa vừa bất biến vừa vô cùng vô tận cho nên thụ tạo khi chiêm ngưỡng và khám phá Ngài sẽ đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác cho đến đời đời và đời đời. Thiên đàng chẳng phải là một đêm lễ hội ánh sáng nào đó nhưng một chuỗi đời đời những ngạc nhiên thích thú và măi măi khám phá sự tươi mới, chẳng c̣n hở ra một phút giây nào để nhàm chán. Thánh Gioan Thánh giá diễn tả điều ấy như sự khám phá của người khai thác những hầm mỏ mênh mông, của người lạc vào những hang động thiên nhiên bất tận. C̣n Thánh nữ Têrêxa Avila, trong quyển Lâu Đài Nội Tâm, th́ xếp đặt thành một lộ tŕnh tiến dần để, ngay ở đời này, những người khát khao sẽ tha thiết nài xin cho ḿnh được biến đổi và hiệp nhất với Thiên Chúa.

06
CẦN NHỮNG BÀI CA MỚI CHO NGƯỜI ĐĂ KHUẤT

 

Thánh ca đang đóng một vai tṛ quan trọng trong việc loan báo Tin mừng. Nhân khi nghiên cứu quyển “Nghi Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn” để viết về bài hát “Từ vực sâu”, tôi thấy quyển sách đầy những ư tưởng giàu h́nh ảnh, dễ tạo cảm hứng cho những bài thánh ca thật hay để cầu nguyện bên người quá cố. Chỉ cần nêu lên tần số xuất hiện của những ư tưởng từ nhiều đến ít như sau, cũng đủ gợi hứng cho người viết ca từ biết phải viết theo hướng nào:

Sống: (148), trong đó có: hằng sống (23) + sống mới (9) + sống đời đời (8) + những trường hợp khác (108)

Chết: (145)

Tin: (98)

Phục sinh: (91), trong đó có: sống lại (62) + trỗi dậy (9) + Phục Sinh (20)

Phúc: (71)

Cứu: (68), trong đó có: cứu (25) + cứu độ (29) + giải thoát (14)           

Hiệp nhất: (60), trong đó có: nước trời (6) + tiệc (14) + luyện (8) + hợp nhất với/hiệp nhất với Chúa (8) + liên kết (7) + chiêm ngưỡng (7) + đón nhận (        10)

Hưởng:  (45)

Niềm vui: (43), trong đó có:  ân sủng (11) + niềm vui (6) + an ủi (7) + ánh sáng (9) + b́nh an (10)

Vinh quang: (42)

Hy vọng: (36), trong đó có: hy vọng (13) + trông cậy (12) + trông đợi (5) + mong đợi (5) + mong chờ (1)

Nhân hậu: (31), trong đó có: khoan dung (4) + nhân từ (3) + thương xót (10) + nhân hậu (14)

Thanh tẩy: (22), trong đó có: phép Rửa (9) + rửa (5) + thanh tẩy (8)   

Đóng đinh: (11)

Khóc: (9)         

Vượt thắng: (18), trong đó có: vượt (7) + thắng (11)

Lửa: (9), trong đó có: luyện vàng trong lửa (5) + hồ lửa (3 - trong cùng một bài đọc) + lửa đời đời (1) + Lửa vinh quang (1 - ánh lửa chiếu qua bụi lau)          

Mục tử: (7), trong đó có: mục tử (3) + chăn nuôi (4)

H́nh khổ: (5), trong đó có: xiềng xích (2) + cực h́nh (3)           

Phạt: (4)

Dù vực thẳm (Rm 8,39): (1)

Từ vực thẳm (Tv 130,1):        (1)

Ngục: (0)

 

Ngoài ra c̣n có một h́nh thức mai táng mới xuất hiện trong đời sống người Việt nói chung và người Công giáo Việt Nam nói riêng trong mấy thập niên gần đây, là hỏa táng. Hỏa táng thường gây những ấn tượng và cảm xúc hết sức đau thương. Kinh Thánh cũng cho ta nhiều h́nh ảnh mănh liệt về sự thanh tẩy bằng lửa. Cho tới nay các nhạc sĩ Công giáo Việt Nam chưa quan tâm đến sự kiện này. Thiết tưởng dân Chúa đang rất cần những bài thánh ca đầy hy vọng để có thể vượt qua những giây phút thương tâm trong b́nh an. Trong quyển “Kinh nguyện gia đ́nh” phiên bản 1986, chúng tôi có đề xuất những đoạn sau đây, xin nêu như những gợi ư cho anh chị em nhạc sĩ:

“Lạy Cha, Cha đă tạo dựng nên lửa và ban nó cho chúng con. Lửa đă sưởi ấm khi chúng con sinh ra, đă tạo điều kiện cho cuộc sống hằng ngày, và khi chúng con đă qua đời, lửa c̣n làm cho thân xác này chóng về lại t́nh trạng cát bụi. Xin Cha chúc lành và thánh hoá ngọn lửa chúng con sắp dùng để hoả táng thân xác người anh em (chị em) chúng con.” (Lời nguyện)

“Anh chị em thân mến, bởi v́ chúng ta được lănh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với ḷng biết ơn đó, chúng ta hăy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp ḷng Ngài. Quả thật, Thiên Chúa chúng ta là một ngọn lửa thiêu” (Lời Chúa: Dt 12,28-29; xem thêm những đoạn khác:  1 Côrintô 15,35-38 và 42-49; Đanien 3,19b-21 và 24-28; 2 Vua 2,1-2 và 7-11; 1 Côrintô 3,10b-17; Isaia 43,1-7; 2 Phêrô 3,8-13)

Hoặc lời mời gọi, các lời cầu và lời nguyện:

“Thưa anh chị em, Kinh thánh nói: Thiên Chúa là lửa thiêu. Chính Thiên Chúa là Cha đă cho Đức Giê-su Ki-tô đến thanh tẩy chúng ta bằng lửa trong Thánh Thần, và đă ban Chúa Thánh Thần như lửa sưởi ấm linh hồn ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta dâng hiến đời sống cho Ngài như những lễ vật toàn thiêu. Với những xác tín ấy, trong dịp cử hành lễ hoả thiêu hôm nay, chúng ta hăy thưa với Ngài những lời cầu nguyện tha thiết và đầy tin tưởng.

Chúng con xin dâng lên Cha mọi việc lành của (OBACE) T. và của mỗi người chúng con đă cố gắng thực hiện trong cuộc sống. Xin Cha thanh luyện cho trở nên của lễ đẹp ḷng Cha.

Chúng con xin giao phó trong tay Cha mọi tội lỗi của (OBACE) T. cũng như của mỗi người chúng con đă vấp phạm. Xin Cha lấy lửa yêu mến của Cha mà thiêu đốt và thanh tẩy.

Như ngọn lửa vật chất sắp thiêu đốt thi hài (OBACE) T. , xin cho ngọn lửa mến Chúa yêu người cũng luôn thiêu đốt tâm hồn chúng con.

Cũng như thân xác (OBACE) T. sắp thành những hạt bụi mất hút trong ḷng đời, xin Cha cho mỗi người chúng con biết quên ḿnh, biến tan đi trong cuộc sống phục vụ anh em.

Xin cho các thân nhân của (OBACE) T. nhận được mọi ơn lành của Cha và gặp được nơi mọi người ḷng yêu mến thiết tha như ngọn lửa an ủi sưởi ấm tâm hồn.

Lạy Cha, giờ đây chúng con xin dâng phó linh hồn (OBACE) T. trong t́nh thương của Cha, và chúng con hoả táng (OBACE) như một của lễ toàn thiêu dâng lên Cha. Xin cho lễ hiến dâng này, cùng với t́nh yêu của gia đ́nh và cộng đoàn chúng con, được kết hiệp với sự hy sinh của Chúa Giê-su trên thập giá thành một của lễ đẹp ḷng Cha. Xin cho đời sống chúng con và mọi lời chúng con cầu nguyện cũng được như hương khói chân thành tỏa bay trước Nhan Cha, để cầu cho (OBACE) T. và mọi người đă qua đời trong ơn nghĩa Cha được vào hưởng vinh quang Cha muôn đời.

 

07
CẦN CÓ THÊM NHỮNG BẢN VĂN LỄ GIỖ MANG TÍNH TẠ ƠN

Hầu như ai trong chúng ta cũng biết bài “Nối ṿng tay lớn” của Trịnh Công Sơn với câu ca vừa trầm lắng vừa mạnh mẽ: “Người chết nối linh thiêng vào đời”. Cả khi người xưa đă xa cách ta nhiều chục năm hay nhiều trăm năm, ta vẫn có thể thấy gần gũi qua công ơn và gương sáng của họ. Hồi tưởng, ta thấy dường như họ vẫn hiện diện đâu đây. Riêng với những người mới xa cách, ta thường ngậm ngùi thương nhớ và cầu nguyện cho họ.

Ở đây, niềm tin của anh chị em lương dân khá mơ hồ và hỗn độn. Một đàng, họ cầu nguyện cho người chết sớm siêu thoát. Một đàng lại có sự tin tưởng cho rằng người chết c̣n ở với gia đ́nh hết năm đời rồi mới đi đầu thai. Tại sao lại được ở với gia đ́nh hết năm đời? Việc ở với con cháu là hạnh phúc hơn hay việc đi đầu thai kiếp khác hạnh phúc hơn? Phải chăng c̣n ở với gia đ́nh là chưa được siêu thoát? Ta nên cầu nguyện cho người chết siêu thoát và thôi ở với gia đ́nh hay là đừng cầu nguyện để họ có thể ở với gia đ́nh măi? Trong thực tế th́ người ta cầu nguyện sự siêu thoát cho người chết chỉ trong hai năm đầu, rồi sau đó không nhắc tới việc cầu cho siêu thoát. Mà thế nào là siêu thoát? Siêu thoát là đi về đâu? Ai giữ cái quyền thẩm xét để cho một người được siêu thoát hay chưa được siêu thoát? Anh chị em lương dân không biết dựa vào đâu để trả lời những câu hỏi ấy và để lư giải những tin tưởng của ḿnh. 

C̣n người Công giáo tin rằng chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và ta được mời gọi hoàn thành cuộc đời này để về với Thiên Chúa. Được cứu rỗi là được về với Thiên Chúa. Ta được cứu rỗi nhờ tin vào Chúa Kitô chứ không nhờ vào công sức riêng của bản thân. Khẳng định như thế không có nghĩa chết xong là được hưởng phúc thiên đàng ngay, bởi v́ chính Chúa cho biết rằng ta phải trả xong những món nợ rất nhỏ cuối cùng rồi mới được vào thiên đàng (x. Mt 5,26). Ta cần cầu nguyện xin Chúa giải thoát người đă khuất, tuy nhiên, phải cầu nguyện cho tới bao lâu?

"Rơ ràng là chúng ta không thể đo lường "thời gian" của sự thiêu đốt biến cải này bằng những đơn vị đo lường thời gian của trần thế. "Giờ phút" biến cải trong cuộc gặp gỡ này vượt quá ước tính thế gian - đó là thời khắc của con tim, đó là thời gian của cuộc "vượt qua", để tiến đến hiệp thông với Thiên Chúa qua Ḿnh Thánh Chúa Ki-tô" (Thông điệp “Được cứu rỗi nhờ hy vọng”, số 47). Không ai trong chúng ta được vượt thẩm quyền của Ṭa Thánh để nói một linh hồn nào đó đă xong hay chưa xong việc thanh tẩy. Tuy nhiên lời ấy của Đức Bênêđíctô XVI nhắc ta nhớ rằng vĩnh cửu và thời gian không cùng một hệ thống và đơn vị đo đếm. Một đàng, một người đă về với Chúa cả trăm năm mà măi đến nay ta mới cầu xin Thiên Chúa giải thoát họ th́ lời cầu xin của chúng ta cũng không vô ích. Đàng khác, một người thân vừa nằm xuống, đang chờ Đấng Thẩm Phán hoàn tất cuộc thanh tẩy nhưng con cháu ở trần gian đă cảm thấy ấm ḷng khi nghĩ đến sự che chở phù hộ của người ấy, th́ cảm nhận này cũng không sai trái. Một đàng, ngoài thẩm quyền của Ṭa Thánh khi tuyên phong chân phước hoặc hiển thánh, không ai nói được một người nào đó đă được hiệp nhất trọn vẹn với Chúa hay chưa, nhưng đàng khác đức trông cậy dạy ta phải tin tưởng mănh liệt vào lượng thương xót của Thiên Chúa. Người đă ra đi thuộc về vĩnh cửu, c̣n con cháu đang ở đời này thuộc về thời gian, ta không thể lấy suy luận duy lư mà cắt nghĩa.

Cho tới nay các bản văn lễ giỗ đều mang ư nghĩa cầu xin ơn giải thoát. Thế nhưng nếu giỗ 30 năm, 50 năm hay 100 năm th́ sao? Nếu ta cứ tiếp tục nhấn mạnh việc cầu xin ơn giải thoát cho những người đă chết lâu như thế, liệu có xúc phạm đến ḷng thương xót bao la của Thiên Chúa chăng?

Tôi nêu câu hỏi như thế không phải để phải trả lời bên này hay bên kia, nhưng để cho thấy ngoài những bản văn lễ giỗ mang ư nghĩa cầu hồn, cần phải có thêm những bản văn mang ư nghĩa tạ ơn và hiệp thông. Thiết nghĩ ngay cả trường hợp giỗ một năm hay cả giỗ 100 ngày đi nữa, lễ giỗ không chỉ có một ư nghĩa duy nhất là xin ơn giải thoát cho người quá cố. Nó c̣n mang ư nghĩa tưởng nhớ, tiếc thương, hiệp thông giữa người sống với người chết và hiệp thông giữa những người c̣n sống trên đời.

Đan cử một ví dụ. Một trong những lư do để tạ ơn Thiên Chúa chính là v́ Ngài đă ban Đạo Hiếu cho người Việt, để nhờ đó người Việt dễ khám phá ra T́nh Cha bao la tuyệt với của Thiên Chúa. Ta có thể lấy ư tưởng ấy làm một lời nguyện nhập lễ. Lời nguyện tiến lễ sẽ dâng lên Cha trên trời ḷng hiếu thảo của cộng đoàn và của cả những người con c̣n ṃ mẫm trong bóng tối. Lời nguyện hiệp lễ vừa tạ ơn v́ đă được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, vừa xin ǵn giữ khỏi mọi mê tín lầm lạc. Một bản lễ như thế sẽ vừa tuyên dương Đạo Hiếu vừa dẫn đưa tâm trí người dự lễ tới con đường chân thật.

Trong viễn tượng loan Tin mừng cho lương dân, thiết nghĩ cộng đồng Công giáo các nước Á Đông cần có thêm những bản văn lễ giỗ theo các ư nghĩa ấy. Các HĐGM có thể đề xuất những bản văn cụ thể và xin Ṭa Thánh phê duyệt. Những bản văn trong sách lễ tiếng Việt về thánh lễ Tất niên, Giao thừa, Minh niên, mùng Hai và mùng Ba Tết, cũng như thánh lễ Trung thu… đă được h́nh thành như thế.

 

08
CẦN XÉT LẠI NGÀY THÁNG MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
NAM

 

Rồi tháng Mười Một cũng đă trôi nhanh và ngày 24-11 Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng đă qua. Có ngày mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam th́ thật tuyệt vời, nhưng lịch mừng ngày 24-11 th́ thật trớ trêu và bất lợi. Đă 25 năm rồi, chưa năm nào Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng trọng thể đúng vào chính ngày 24-11, kể cả năm 2013 này, khi ngày ấy trùng vào Chúa nhật. Chúa nhật cuối năm phụng vụ là để mừng lễ Chúa Kitô Vua, cho nên Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam buộc ḷng phải cử hành sớm đi một tuần, vào Chúa Nhật 33 Quanh Năm.

Có một điều dễ bị lăng quên, là thông điệp quan trọng đặc biệt của phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật 33 Quanh Năm. Cả ba năm A, B và C Lời Chúa của ngày này luôn tập trung vào chủ đề ngày cánh chung. Quên là dễ hiểu, v́ một phần tư thế kỷ rồi, người Công giáo Việt Nam không c̣n biết đến Chúa nhật 33 Quanh Năm nữa.

Mỗi năm 365 ngày chỉ có một ngày để nói về sự cùng tận của lịch sử nhân loại, nhưng từ 25 năm qua người Công giáo Việt Nam không c̣n được nghe và suy ngẫm về điều ấy, đang khi văn minh vật chất ra rả 24/24 giờ dạy họ bám lấy hạnh phúc đời này như sẽ chẳng bao giờ phải chết.

Ngày 24-11 được chọn làm lễ kính CTTĐVN là để ghi nhớ ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, nhằm gián tiếp khẳng định ḷng trung thành của giáo đoàn Việt Nam với Ṭa Thánh Phêrô, thế nhưng suốt 25 năm qua có mấy ai đă nhắc đến ư nghĩa này? Ngay cả Đại Hội Dân Chúa mừng 50 năm Hàng Giáo Phẩm Việt Nam h́nh như cũng không quan tâm ǵ đến (Xem bản đề cương “Giáo Hội tại VN”). Đang khi đó ngày mừng lễ vào 24-11 hết sức bất tiện cho Dân Chúa tại Việt Nam. Hơn 25 năm đă qua, mọi người đă quá rơ là không ǵ lay chuyển được tấm ḷng trung thành của Giáo Hội Việt Nam đối với Ṭa Thánh Phêrô. Việc khẳng định sự trung thành ấy bằng ngày 24-11 có c̣n cần thiết không?

Năm nào, việc kính trọng thể Lễ CTTĐVN cũng lấn mất chỗ của Chúa Nhật 33 Thường Niên. Chúa Nhật này không mang tên một ngày lễ riêng nhưng có đặc điểm là các bài đọc luôn nói về mầu nhiệm cánh chung. Đă 25 năm qua, giáo dân Việt Nam không c̣n được nghe giảng về cánh chung. Nếu chúng ta cứ tiếp tục mất cơ hội nói về cánh chung, chúng ta cũng mất mát rất nhiều trong đời sống tâm hồn của tín hữu. Cần đặt nặng câu hỏi liệu việc mừng trọng thể Lễ CTTĐVN vào Chúa Nhật 33 Thường Niên có gián tiếp gây phản tác dụng? Cần nhớ rằng những lư do đưa đến việc ban hành huấn thị Ex quo singulari năm 1742 rất nghiêm túc, không dừng lại nơi chuyện thắp nhang hay không thắp nhang nhưng chạm đến những sự thật về cánh chung học và cứu chuộc học.

Trước lễ phong thánh, Giáo Hội Việt Nam có một tháng kính CTTĐVN: Tháng 9. Sau lễ phong thánh, tháng này biến mất không kèn không trống. Nhưng phải hỏi xem, trong tâm tư một giáo dân, tháng 9 ấy và ngày lễ 24-11, bên nào có âm hưởng sâu xa hơn? Để lập lại tháng 9 ấy, cần chuyển lễ CTTĐVN về lại một Chúa nhật của tháng 9. Chúa nhật thứ nhất gần với lễ Quốc khánh, có thể gặp phải những hiểu lầm tế nhị nào đó ở một số địa phương hẻo lánh, cho nên xin được đề nghị chọn ngày lễ này sao đó để có thể mừng trọng thể vào Chúa nhật thứ hai của tháng Chín, trước lễ Suy tôn Thánh giá Chúa.

Nếu chúng ta không thể xin thay đổi ngày lễ CTTĐVN trong lịch phụng vụ toàn cầu, ít ra cần xin một biệt lệ là mừng trọng thể lễ ấy trên lănh thổ Việt Nam vào Chúa Nhật thứ hai tháng 9. Mừng lễ vào đầu tháng 9, không chỉ để khỏi lấn mất giáo lư cánh chung của tháng 11, nhưng c̣n để đem lại ánh sáng phục sinh cho nỗi buồn tháng 7 âm lịch của người Việt.


CHIA SẺ KẾT THÚC

 

THƯ GỬI NGƯỜI EM CHỦNG SINH:
NHỮNG GÀU NƯỚC VÀ TRẬN MƯA TẦM TĂ

 

Tôi đă tự hỏi nên chăng phải viết đủ 50 bài để đánh dấu cuộc kỷ niệm 50 năm? Tuy nhiên đó là một kiểu tạo thành tích không nên có, v́ e rằng chẳng c̣n dành chỗ cho ai đóng góp ư kiến. Xin được dừng lại với bài này và mong sẽ nhận được nhiều bài tương cầu tương ứng, như bài đóng góp của tác giả Mạc Tường ở chia sẻ 27, để không chỉ đạt tới tổng số 50 mà cả tới 100 và hơn nữa. Cách riêng tôi mong nhận được phản hồi của những người em chủng sinh từ mọi ngơ ngách của Đất nước và Giáo hội.

Này em chủng sinh, tôi viết những ḍng này cho em trong đêm canh thức giă từ một nhà đào tạo là cha Phêrô Đặng Xuân Thành, giám học Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Cha bị đột quỵ sau khi vừa tan buổi học, hôn mê mấy ngày rồi được về với Chúa hôm 27-11 và sẽ an táng vào sáng mai, 02-12-2013. Có thể em đă từng thụ giáo với cha qua các lớp học, qua các tuần tĩnh tâm hoặc qua sách vở do cha biên soạn hay dịch thuật. Vị linh mục 60 tuổi này để lại một tấm gương sống âm thầm, giản dị, vui tươi, chuyên cần cầu nguyện, hiếu học, quảng đại phục vụ, trung thực và quả cảm sống theo những ǵ ḿnh giảng dạy.

Ngót 32 năm làm linh mục triều, cha chưa một ngày coi xứ, chưa làm một nhà nguyện nhỏ nào, nhưng có lẽ những đóng góp của cha cho Giáo hội Việt Nam đáng quư hơn cả trăm cả ngàn ngôi nhà thờ, bởi lẽ cha đầu tư toàn bộ đời linh mục của ḿnh để đào tạo người cho Giáo hội.

Cũng vậy, có thể Chúa sẽ không dành cho em trách nhiệm trong một cơ sở đào tạo nhưng chắc hẳn Chúa chọn em làm linh mục không v́ mục đích nào khác hơn là rao giảng Tin mừng cho đồng loại và đưa họ về với Chúa. Thánh Gioan Thánh giá quả quyết rằng chỉ một linh hồn người ta thôi đă đáng quư hơn tất cả vũ trụ này. Em hăy khắc ghi điều ấy để loại hẳn khỏi tâm trí mọi ư tưởng vẽ vời khiến em lệch khỏi lư tưởng cứu rỗi các linh hồn. Hăy ghi khắc để khi được nên người của Chúa, em sẽ không phí phạm năng lực tuổi trẻ linh mục của ḿnh vào việc xây cất cơ sở vật chất. Ma quỷ luôn t́m cách dùng những điều tốt giả hiệu để cầm chân, khiến ta hoang phí tâm huyết vào những điều phù phiếm, không c̣n lắng nghe và thực hiện ư Chúa nữa. Ngay ngày đầu mùa Vọng hôm nay, Hội thánh gửi đến các linh mục và tu sĩ của ḿnh, qua bài đọc I giờ Kinh Sách, lời cảnh cáo nghiêm khắc của sách Isaia: “Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đ́nh. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đă trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa” (Is 1,13-14). Hội Thánh muốn chúng ta đọc lại những lời ấy không phải để nghĩ về những người thời Isaia nhưng để nghĩ về chính bản thân chúng ta.

Trong bài giảng lúc 7 giờ tối nay, trước quan tài cha Phêrô Đặng Xuân Thành, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chuyển từ lời kêu gọi tỉnh thức của Mùa Vọng sang lời kêu gọi truyền giáo. Ngài nhắc lại nhận định của một viên chức nhà nước: “Người Công giáo quư vị giỏi xây cất  nhà thờ nhưng không giỏi truyền giáo như người Tin lành” và nhận định khác của một số anh em Tin lành: “Người Công giáo không thật sự yêu Chúa Kitô. Họ không dám chết v́ Chúa và không dám nói về Chúa. Người Công giáo chỉ lo cho người ta về cơm áo, thuốc men, c̣n người Tin lành cho người ta chính Chúa Giêsu”.

Nhũng lời ấy có lẽ chỉ đúng với người Công giáo Việt Nam chứ không đúng với người Công giáo Nam Hàn. Năm 1950, tại Hàn Quốc, cả Tin lành và Công giáo cộng lại chỉ mới được 1% dân số. Năm nay người Tin lành đă lên khoảng 28% và người Công giáo khoảng 10% dân số. Năm 1950 người Công giáo Việt Nam chiếm khoảng 8% và năm 1963 khoảng 10% dân số. Hiện nay con số lạc quan nhất là 7%.

Thời Êlia, Dân Chúa vẫn chai ĺ sau ba năm rưỡi hạn hán, khiến vị ngôn sứ phải thốt lên: “Các ngươi c̣n đi nước đôi đến bao giờ?”. Ngày nay chúng ta hứng chịu cơn hạn hán đă tṛn nửa thế kỷ mà vẫn b́nh chân như vại. Ta vẫn c̣n cứ say sưa với những h́nh thức hào nhoáng bên ngoài. Bao giờ ta mới can đảm dứt bỏ những Baal của tự hào, khoa trương, chiếm hữu, cầu an và hưởng thụ để quay về với Thiên Chúa hằng sống, Đấng vô cùng giàu sang phú quư mà đă trở thành nghèo khó v́ ta?

Giáo hội Công giáo Nam Hàn hiện đang theo đuổi kế hoạch 20-20, nghĩa là quyết tâm hành động để năm 2020 số người Công giáo sẽ đạt tới 20% dân số.

Em nghĩ liệu Giáo hội Việt Nam chúng ta c̣n có thể bắt kịp họ chăng? Theo tôi, nếu chúng ta dám buông bỏ những dự phóng to lớn mang tính nhân loại để chuyên chăm làm theo những gợi ư nhỏ của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, Ngài sẽ ban chúng ta ơn ấy, nếu không ở năm 2020 th́ ở năm 2033 khi chúng ta mừng kỷ niệm 500 người Việt đón nhận Tin mừng. Nếu chạy theo những kế hoạch loài người, măi măi ta chỉ hứng được những giọt sương, c̣n nếu theo đuổi gợi ư của Thiên Chúa, ta sẽ được ngụp lặn trong nguồn suối dạt dào (Thánh Âu Tinh, xem bài đọc 2 Kinh Sách, Thứ Ba tuần 34 Thường niên). Chạy theo kế hoạch nhân loại, ta sẽ vất vả kéo từng gàu nước giữa cơn hạn hán. Làm theo gợi ư của Thiên Chúa trong giây phút hiện tại, ta sẽ nhận được cơn mưa tầm tă. Không phải tôi quả quyết với em điều ấy nhưng là Thánh nữ Têrêxa Avila, bậc thầy trong Hội thánh về đời sống tâm linh và đời sống hoạt động mà chúng ta sắp mừng 500 sinh nhật vào năm 2015 tới đây. Tôi thoáng thấy cơn mưa đang chờ đợi khi nhận ra rằng Việt Nam cũng có sẵn con đường để thoát khỏi cái mệt mỏi của nỗ lực truyền giáo lẻ tẻ từng người và chuyển sang cung cách hành động mới: tập thể loan Tin mừng cho tập thể. Ở Nam Hàn, người ta loan Tin mừng từ gia đ́nh đến gia đ́nh. Ở Việt Nam, nếu ta biết nhập cuộc kịp thời, Chúa sẽ cho ta cơ hội loan Tin mừng khởi đầu từ những người cùng ḍng họ, họ nào truyền giáo cho họ nấy.

Và em biết không, để đạt mục tiêu đă đề ra, Hội thánh tại Hàn Quốc tập trung đào tạo các ngành giới trong Dân Chúa theo định hướng ấy, nhưng cách riêng là tập trung đào tạo các chủng sinh. Mục tiêu các chủng viện của họ không phải là đào tạo những chuyên viên coi xứ nhưng là đào tạo những nhà truyền giáo.

Em hăy tự đào tạo, đúng hơn, hăy để Chúa Thánh Thần đào tạo em thành nhà truyền giáo. Ngay từ hôm nay, em hăy tha thiết cầu xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho một tâm hồn truyền giáo. Hăy xin, Chúa sẽ không chối từ. Hăy ngỏ lời với Mẹ Maria, Ngài sẽ ủng hộ em. Niềm ước mơ của em trên ghế chủng viện sẽ định hướng cả đời linh mục của em. Cha Thành đă như thế, tôi cũng thế và em rồi cũng thế.

Cha Phêrô Đặng Xuân Thành lên đường theo Chúa năm 1965, khi 12 tuổi (12 tuổi ta – tuổi tây là 11). C̣n hết sức bé, so với em ngày nay.

C̣n tôi, năm 1960, khi đă 14 tuổi. Cả bên nội và bên ngoại tôi đều đă theo Chúa từ nhiều thế hệ. Ngày tôi c̣n bé, toàn bộ gia tộc hai bên nội ngoại định cư ở gần trung tâm thị xă Tuy Ḥa, miền Trung. Chỉ riêng có bác Thân tôi ở cách khu trung tâm 3 km về phía Bắc. Bác không theo Công giáo nhưng xuất phát từ cùng một huyện ở quê tôi và lại mang cùng họ, cho nên cha tôi và các chú tôi nhận bác làm anh. Gia đ́nh bác là một gạch nối để tâm hồn trẻ thơ của tôi tiếp cận với thế giới người lương cách thân thương và kính trọng. Nhờ đó, ngay từ những ngày đầu vào Tiểu chủng viện (lớp Sáu ngày nay), tôi đă mơ làm sao chia sẻ Tin mừng cho đông đảo người lương tại xă và huyện quê nhà của tôi, cách riêng là cho những người cùng ḍng họ. Khi Hội Đồng Giám Mục miền Nam Việt Nam ra thông cáo 1965, tôi mới học xong lớp Đệ Tam (lớp Mười ngày nay). Vào năm học tiếp đó, cha Phêrô Hoàng Kym, nay là Tổng đại diện Giáo phận Qui Nhơn, đă giải thích cho lớp chúng tôi nội dung thông cáo ấy.

Năm tôi học lớp dự bị của Giáo Hoàng Học Viện th́ Đức Cha Kontum ngày nay đang là thầy Micae Hoàng Đức Oanh của lớp sắp ra trường. Một hôm ngài đưa cho tôi mấy trang giấy đánh máy và bảo:

- Chú đọc và sửa văn giúp anh, sao cho người lương nghe qua là hiểu ngay.

Tôi c̣n nhớ rơ đó là bản văn Tin mừng theo Thánh Luca kể chuyện Đức Mẹ đi thăm bà Êlisabét.

Rồi tôi được mời tham dự buổi suy tôn Lời Chúa ngoài trời của ngài dành cho bà con cả lương lẫn giáo tại khóm Đông Tĩnh, Hà Đông, Đà Lạt. Mục tiêu cử hành buổi ấy là để giúp người dân suy tư, đi từ việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên đến việc kính thờ Thiên Chúa. Niềm ước mơ của cậu tiểu chủng sinh kia giờ đây được Giáo hội đẩy vào một định hướng thật rơ...

Về sau tôi đọc thấy trong quyển “Bảy thói quen giúp bạn trẻ thành đạt” lời khuyên của tác giả của Sean Covey: “Hăy định rơ mục tiêu trong đầu trước khi bắt tay vào việc”. Chính gia đ́nh, lớp giáo lư, đoàn thể thiếu nhi Công giáo rồi Tiểu chủng viện đă được Chúa Thánh Thần dùng để giúp tôi khẳng định ngay từ đầu mục tiêu đơn giản của ơn gọi là tôn vinh Danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Với ư thức ấy, tôi đă háo hức suốt cuộc hành tŕnh hơn 50 năm của đời tận hiến và ngót 50 năm được đồng hành với niềm thao thức của Hội thánh qua việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est”.

Hôm nay tôi cũng ước mong được nh́n thấy em, người chủng sinh yêu dấu của Chúa, khắc sâu chọn lựa của ḿnh vào tâm trí: chọn lựa Chúa Kitô cùng với nỗi khắc khoải cứu rỗi các linh hồn dù bằng con đường hẹp của Ngài, để rồi 50 năm nữa khi tổng kết hành tŕnh ơn gọi, em nhận ra rằng một khi ta đă miệt mài t́m kiếm Chúa, Chúa sẽ làm cho cả những đóng góp vô nghĩa nhất của ta nở hoa.

Em hăy định rơ trong tâm trí điều Chúa đang mong chờ em và hăy để chính Chúa trang bị em cho công cuộc của Ngài.

Viết xong tại nhà xứ Nam Hải, giáo phận Sài G̣n,
rạng sáng ngày 02-12-2013.

Linh mục Trăng Thập Tự Vơ Tá Khánh

 


MỤC LỤC

 

 

MỘT VÀI KINH NGHIỆM LOAN TIN MỪNG QUA CON ĐƯỜNG ĐẠO HIẾU   3

 

 

.1 LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.. 6

01 VẤN ĐỀ THỜ CÚNG ÔNG BÀ TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI VIỆT NAM    6

02 MỘT SỐ THỰC HÀNH GÂY ÁI NGẠI. 8

03 QUAN ĐIỂM MỚI CỦA T̉A THÁNH.. 10

Thông cáo  của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam  về việc tôn kính tổ tiên  11

QUYẾT NGHỊ VỀ  LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN   16

 

 

.2 ĐÁP ÁN SAU 50 NĂM... 18

01 TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA.. 18

02 TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA (2) 20

03 CHUNG MỐI ĐỒNG CẢM... 22

NHƯ GẤM THÊM HOA.. 22

04 QUYỂN GIA LỄ CÔNG GIÁO HAY KINH NGUYỆN GIA Đ̀NH   25

05 50 NĂM LINH TÍNH ĐỨC TIN – NGHI THỨC CÚNG GIỖ   32

NGHI THỨC CÚNG GIỖ.. 34

Ghi chú về việc niệm hương. Error! Bookmark not defined.

06 TÂM TƯ NGƯỜI NĂM MƯƠI NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN   42

07 NGỎ LỜI VỚI BẠN ĐỌC NGOÀI KITÔ GIÁO.. 46

.3 TRONG  CHÚA GIÊSU KITÔ.. 51

01 NHỮNG CỘI NGUỒN ẢO.. 51

02 GIA PHẢ, CH̀A KHÓA MỞ L̉NG ANH EM... 56

03 GIA PHẢ CHÚA GIÊSU KITÔ.. 58

04 THIÊN CHÚA CHA MẠC KHẢI QUA KINH THÁNH   60

05 ĐẠO HIẾU TRONG LỜI NGUYỆN PHỤNG VỤ.. 63

06 ĐÀO TẠO NGƯỜI CHỨNG TRẺ.. 66

07 DẠY GIÁO LƯ THEO KINH LẠY CHA.. 70

08 ĐÀO SÂU LINH ĐẠO LÀM CON THẢO.. 74

09 HƯỚNG TỚI THẾ HỆ TRẺ.. 77

 

 

.4 LOAN TIN MỪNG  CHO D̉NG HỌ.. 81

01 PHONG TRÀO LIÊN KẾT D̉NG HỌ.. 81

02 CƠ HỘI CHIA SẺ L̉NG TIN.. 84

03 NHÂN H̉A – ĐỊA LỢI - THIÊN THỜI. 87

04 MƯỜI BÀI TÂM CA MÙA BÁO HIẾU.. 90

05 ĂN GIỖ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI ĐĂ KHUẤT  92

06 ĐẾN VỚI LƯƠNG DÂN.. 95

07 KHÓ KHĂN V̀ GIÁN ĐOẠN PHẢ LIỆU - NHỮNG ĐƯỜNG DẪN CO DĂN   99

08 MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ KINH NGHIỆM SINH HOẠT LIÊN KẾT D̉NG HỌ   103

PHỤ LỤC CÁCH KHỞI THẢO GIA PHẢ.. 106

09. 109

DƯỚI MÁI TỪ ĐƯỜNG CỦA TRĂM HỌ.. 109

10 CÁC THÁNH TỬ ĐẠO NGƯỜI VIỆT XẾP THEO D̉NG HỌ   112

11 ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG CÁC THÁNH.. 118

 

.5 GỠ BỎ  MỘT SỐ TRỞ NGẠI. 128

01 BỮA CƠM CHAY.. 128

02 CƠM CHAY TRÊN BÀN THỊT CHÓ.. 132

03 TỎA SÁNG CÁC GIÁ TRỊ. 136

04  KHÔNG PHẢI VỰC SÂU NHƯNG LÀ KHÁT VỌNG   139

05 VIỄN ẢNH LẠC QUAN CỦA SPE SALVI. 144

06 CẦN NHỮNG BÀI CA MỚI CHO NGƯỜI ĐĂ KHUẤT  148

07  CẦN CÓ THÊM NHỮNG BẢN VĂN LỄ GIỖ MANG TÍNH TẠ ƠN   152

08 CẦN XÉT LẠI NGÀY THÁNG MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM    155

 

CHIA SẺ KẾT THÚC.. 158

THƯ GỬI NGƯỜI EM CHỦNG SINH: NHỮNG GÀU NƯỚC VÀ TRẬN MƯA TẦM TĂ   158

 


TỦ SÁCH NƯỚC MẶN

NHỮNG SÁCH ĐĂ IN