Trăng
Thập Tự
Có
ai về Cát Minh
Tuyển
tập thơ Trăng Thập
Tự
(1963-2004)

MỘT
NẺO CÁT MINH
Một
thuở
Yêu
em
Theo
trăng tìm dệt lụa
Khoác
áo tình cho đêm.
Hóa
vết thương không lành
Bởi
đêm chưa dày đủ.
Rủ
trăng về cuốn lụa
Trả
đêm đen cho đời.
Nhặt
thanh gươm ngày cũ
Nung
một khối lửa nồng
Cho
vết phỏng giữa lòng
Không
bao giờ lành nữa.
Đứng
lên về Cát Minh
Bước
chung đoạn đường
tình.
Trăng
cả một thuyền đầy
Chợt
trút hết, theo Thầy.
Bạn
có thể đặt tên
cho bài thơ là cuốn
lụa. Tôi viết nó
tại Manila, mùng 6 tết
Giáp Thân 2004, phần nào
gói ghém hành trình
hơn 40 năm làm thơ
cho Chúa.
Một
trong những bài thơ
đầu tiên tôi còn giữ
được là bài
“Trăng tu viện”, viết
năm 16 tuổi, lúc học
lớp đệ ngũ, tức
là lớp 8 ngày nay,
với câu mở đầu
thật ướt át:
Nàng
trăng hỡi, thôi
đừng trêu ghẹo nữa,
Kẻ
tu hành xin khẩn khoản
van lơn.
Anh
em chủng sinh cùng lớp
có người thích
và khuyến khích tôi nhưng
cũng có người
bàn ra: “Bạn muốn tu
thì đừng làm
thơ nữa! Xuất bây
giờ!” Tự hỏi
tại sao đi tu lại không
thể làm thơ, tôi
đáp:
–
Mình sẽ vừa làm
thơ vừa làm linh mục.
Để
khẳng định quyết
tâm ấy, tôi đã chọn
bút hiệu Trăng Thập
Tự. Trăng tượng
trưng cho nghệ thuật,
thập tự tượng
trưng cho đời tu. Một
bên tròn một bên vuông, tưởng
chừng không sao hòa hợp
được, thế nhưng
khi Đức Giêsu gục
đầu trên cây giá gỗ
ấy thì quanh đầu
Ngài tỏa ra một vòng
hào quang. Càng về sau
tôi càng thích thú với
hình ảnh Đức
Giêsu sẽ nối kết những
gì tưởng chừng
không nối kết
được. Chính Ngài
giao hòa giữa trời
tròn với đất
vuông, giữa thời
gian và vĩnh cửu,
giữa nỗ lực
con người và ân sủng
Thiên Chúa. Rồi những
năm đầu Đại
chủng viện,
được sự
khích lệ của cụ
Võ Long Tê, tôi tiếp tục
làm thơ.
Mười
hai năm sau, tháng 8 năm
1975, đến lúc tôi phải
quyết định dấn
thân lãnh nhận các tác
vụ thánh. Trở ngại
không phải là thơ
nhưng là những tật
nguyền trong tâm hồn tôi.
Tuy nhiên, với sự
trấn an của cha linh hướng,
lòng tin vào ơn Chúa
và vì yêu mến các
linh hồn, tôi đã tiến
bước.
Sau
khi làm linh mục, tôi mới
nhận ra mình đã vô
tình chọn tên một vị
thánh nhà thơ làm
bút hiệu. Tên tôi trùng
với thánh Gioan Thánh
Giá, vị thánh cải
tổ Dòng Cát Minh ngành
nam. Trong ca dao “trăng” cũng
còn được
đọc là “giăng”,
mà “Giăng” lại là
từ được
anh em Tin Lành chọn để
phiên âm thay cho “Gioan”.
Tôi
đã nghe nói nhiều
đến vị thánh này
từ hồi học Đại
chủng viện. Cũng
đã có mấy người
khuyến khích tôi đọc
các tác phẩm của
ngài nhưng chẳng hiểu
sao tôi không chịu đọc. Mãi tới bốn mươi
tuổi, sau nhiều dịp nói
chuyện với thầy
Thế Tâm Nguyễn Khắc
Dương, tôi mới
đọc thánh Gioan Thánh
Giá và dần dần
đã đi theo ngài. Duyên
hay là nợ?
Những
năm ở Đại chủng
viện tôi nghiêng về hoạt
động xã hội và
các phong trào sôi nổi.
Sau khi làm linh mục tôi vẫn
còn khuynh hướng chạy
theo sức mình, chạy
theo những sáng kiến
mới và những
phương tiện nhân loại,
tìm cách bọc
đường cho thuốc
đắng. Giờ
đây vị thánh này bắt
đầu nói với tôi
những điều có
vẻ rất khác.
Suốt
mười năm sau khi thụ
phong linh mục, năm nào tôi
cũng mất cả tháng
trời chạy đôn
đáo mong xin được
một chỗ dừng chân
để phục vụ và
đóng góp như lòng
mình ước mơ.
Chùm thơ đầu tiên
ghi lại chuyện này mang
tên Tiên Tri, trong đó
tôi tự đồng hóa
mình với ngôn sứ
Êlia. Sau đó còn một
bài Êlia khác nữa
trước khi tôi biết
được rằng
vị ngôn sứ này
được coi là tổ
phụ tinh thần của Dòng
Cát Minh. Quả không hẹn
mà hò.
Những
năm ấy, anh chị em giáo
dân và vị linh mục già
ở Tuy Hòa rất mong
mỏi đợi chờ
tôi xin được về
đó. Tôi vừa làm
hết sức mình
để đáp lại
nguyện vọng của mọi
người và cũng
là của chính tôi, vừa
linh cảm rằng Thiên Chúa
đang muốn một điều
gì khác. Có lần
sau một ngày mệt nhoài
chạy giấy tờ hộ
khẩu chẳng kết
quả gì, ngang qua những
cầu trên đường
về Quy Nhơn, tôi đã
viết:
Sông
xanh nước chảy
lững lờ,
Thân
anh phiêu bạt, em chờ
đợi chi?
Đường
dài Chúa đuổi anh
đi,
Dừng
đây phút chốc, việc
gì em thương?
Lần
khác, cũng sau những
mệt mỏi với giấy
tờ, tôi quỳ một
mình trong nhà thờ
Tuy Hòa mà nghiệm ra rằng
có lẽ ơn gọi của
tôi là chính cái tư
thế ấy:
Ngày
xưa Ngài bảo con đi,
Bây
giờ Ngài bảo con
quỳ xuống đây.
Suốt
những năm đầu
đời thất nghiệp,
tôi đã xoay dần sang
một nghề tay trái là
giảng tĩnh tâm, học
đòi theo các môn sinh của
thánh I Nhã. Việc giảng
tĩnh tâm có đem lại
cho nhiều người một
số kết quả mà
đồng thời cũng
đem lại cho tôi lắm
kinh nghiệm về nhận
định để phân biệt
ý mình với ý
Chúa, và nhờ
đó, những tật
nguyền trong tâm hồn tôi
dần dần được
chữa khỏi. Dĩ nhiên
là phải đi từ
những kinh nghiệm
đau thương của chính
mình:
Lòng
ơi lòng, sao ta dám tin
em,
Khi
em đã biết giả vờ
thánh thiện.
Lòng
ta ơi, thôi đi, đừng
ngụy biện,
Mãi
tìm mình, sao gặp
được Trời
Cao?
Thoạt
đầu tôi cứ
tưởng mọi điều
tôi đang khám phá đều
là Linh Thao I Nhã. Thế
nhưng dần dần các
con cái của thánh I Nhã
lại cho biết rằng
tôi đang giảng một thứ
Linh Thao ngoài luồng. Lắm
điều đối với
tôi thật quan trọng thì
anh em tôi không quan tâm. Tôi cũng
bạo phổi làm điều
những anh em ấy ít
khi làm, ấy là dạy
cho người tĩnh tâm
cách phân biệt điều
tốt thật với
điều tốt giả, hay
bình an thật với
bình an giả, ngay khi họ
mới làm linh thao lần
đầu… Những
người tĩnh tâm cũng
rất thích thú, xúc
động và
được ơn hoán
cải đích thật, khi
nghe tôi nhấn mạnh đến
những điều nhỏ,
sự song song đồng
dạng giữa điều
nhỏ và điều lớn,
giữa cái bên ngoài
và cái bên trong. Về
sau, đọc tác phẩm
của thánh Gioan Thánh
Giá tôi mới hiểu
ra rằng mình đã
lấy râu ông nọ cắm
cằm ông kia. Tôi đã
hướng dẫn các
tâm hồn theo đường
của thánh Gioan Thánh
Giá mà không ngờ.
Thêm
một điều nữa
tôi có phần giống các
vị trong Dòng Cát Minh:
nghiền ngẫm các bài
học Cựu ước.
Nhiều nhân vật Cựu
ước đã là
nguồn cảm hứng cho
tôi: Ađam, Evà, Abraham,
Isaac, Giacóp, Môsê, Đavít,
Giônathan, Amos, Giêrêmia, Hôsê,
Giôna và cả Rút mà
có lần tôi đã
được nhập vai:
Em
đang mót lúa
dưới đồng,
Không
dưng ông chủ đem lòng
xót thương.
Người
phụ nữ gốc dân
ngoại ấy cảm kích
trước lòng tốt
của ông Bôát nhưng thật
ra lòng tốt của ông có
phần cũng là đáp
lại lòng tốt của
nàng. Còn khi chúng ta
được Thiên Chúa
xót thương thì quả
thật không do một công trạng
nào của bản thân. Chẳng
ai có được một
chút gì đáng giá
để Thiên Chúa phải
quan tâm đến. Đó
cũng là điều thật
đúng cho bản thân tôi.
Đang không. Đang không Ngài
đã ngỏ lời và
từ không bỗng dưng
tôi đã thành có:
Xưa
tôi chẳng nói chẳng
rằng,
Vô
thanh vô sắc, lặng
băng cõi nào.
Thương
tôi Chúa đã gọi vào
Ô
hay, hiện hữu, xiết
bao lạ lùng.
Tôi
thụ phong linh mục vào
mùa hoa quỳ Đà Lạt
nở vàng rực núi
đồi, vì thế mà
tôi yêu hoa quỳ. Ôi đóa
hoa quỳ ấy có mùi
khó chịu là vậy
mà sao tôi yêu nó đến
thế? Thì ra, cũng tựa
như Thiên Chúa yêu tôi chỉ
vì Ngài là Tình
Yêu:
Hoa
trong thành phố thiếu
gì,
Sao
anh lại chọn dã quỳ
mà thương?
Không
vì sắc, chẳng
vì hương,
Yêu
em là bởi anh
thường hay yêu.
Thế
đấy, chuyện tình
đối với hoa quỳ
cũng giúp tôi hiểu hơn
về chuyện tình Chúa
dành cho tôi. Dịp kỷ
niệm 10 năm thụ phong
linh mục đã giúp tôi
thấm thía chuyện tình
ấy:
Quỳ
hoa ai rắc sao sa,
Cho
đồi xanh nối lòng
ta với trời.
Mùa
thu 1990, Mẹ đưa tôi về
Việt Bắc, tắm
nước sông Hồng
ở Phố Lu, rồi
lên đỉnh cao nhìn
tư bề, thấy tà áo
Mẹ phủ khắp non sông.
Trước đó mấy
hôm, Mẹ đưa về Phát
Diệm. Phát Diệm lúc
ấy chưa có ánh
điện màu. Trong đêm
đen, Mẹ kể cho tôi nghe
chuyện cô bé chăn
cừu:
Chuyện
rằng chú bé
chăn chiên
Bị
thương ốm nặng
triền miên tháng ngày.
Từ
trên ngực đến
chân tay
Phải
tên cô bé thường
hay chăn cừu.
Sông
Tương dòng nước
luân lưu,
Cho
nên chú bé lỡ yêu
cô mình.
Kinh
Dịch dạy rằng
đối với trời
thì đàn ông là
âm. Kinh Diễm Ca trong Thánh
Kinh Cựu ước và
Khúc Linh Ca của thánh
Gioan Thánh Giá cũng dạy
rằng linh hồn tôi chẳng
khác nào cô bé
được yêu thương.
Thế nhưng còn một
nỗi giằng co,
người phụ nữ
trong tôi là một cô bé
hay một người
đàn bà? Đúng
hơn, phải hỏi: Đối
với Đấng Chí
Thánh, tôi phải là người
tình hay là người
vợ? Dường
như tôi thấy mình bị
phân hóa giữa Mácta
và Maria, nhưng rồi cuối
cùng tôi đã gặp
được đáp số
nơi đoàn sủng Cát
Minh:
Lòng
con một tấm chia hai nửa,
Nửa
lẳng lơ Kiều, nửa
Thuý Vân.
Một
giọt máu Ngài rơi
chính giữa,
Nối
hai bên lại, bỗng trong ngần.
Dịp
kỷ niệm 15 năm linh mục,
một đàng tôi nghĩ
đến 15 năm của cô
Kiều nọ nhưng một
đàng lại thấy chính
tình Chúa yêu thương
đã giữ gìn tôi:
Mười
lăm năm thấy Chàng
về,
Nàng
dâng nửa mảnh
gương thề trong khăn.
Mười
lăm năm vết xe lăn,
Khôn
nguôi cầm sắt, khôn ngăn
cầm kỳ.
Mười
lăm năm ấy nói gì,
Mười
lăm năm lại hái quỳ
tặng nhau.
Cuối
cùng, hai năm sau cái
năm thứ mười
lăm ấy, “Người
Ta” gởi trầu cau tới.
Thoạt đầu cứ
tưởng là đùa,
nhưng không, chuyện thật
mới chết! Hơn
nữa, ăn lễ hỏi
rồi, Người Ta lại
cứ để đó
mới càng chết hơn!
Tôi đến khốn đến
khổ vì đã ký
vào hợp đồng
mà không đặt
điều kiện thời
gian. Hết đợi lại
chờ, hết chờ
lại đợi, như cô
bé trong bài ca thời
danh nọ của cha thánh
Gioan Thánh Giá:
Người
ẩn nơi nao, hỡi
Người Yêu Dấu?
Mà
bỏ em rên rỉ!
Như
một con nai, Người
trốn biệt,
Mặc
cho em bị thương,
Em
chạy ra, gọi với
theo Người, thì
Người đã
đi.
(Khúc linh ca, đoản
khúc 1)
Thêm
vào đó, cô bé
trong tôi mù tịt, chẳng
biết gì về phía
nhà chồng. Trước
đó, trong những
năm lêu bêu, tôi thường
ghé về đan viện
Châu Sơn và có khi
đã tưởng Chúa
chờ tôi ở đó:
Cistercien,
Cistercien,
Người
là nỗi nhớ không
tên phải rồi.
Lòng
con, này một chiếc
nôi,
À
ơi, hãy ngủ yên, Ngôi Cửu
Trùng!
Giờ
đây tôi càng gần gũi
gắn bó với anh
em Xitô hơn, bởi
tưởng đâu cùng
một thuyền một hội.
Tôi la cà hết Châu Sơn
đến Châu Thủy, rồi
Phước Lý,
Phước Lộc, Phước
Thiên và cả Phước
Vĩnh. Một vài môn sinh
định theo tôi đã
phát hiện ra rằng
tôi sáng lập môn phái
rồi mới đi học
võ…
Có
ai sẽ đồng hành
không? Có vẻ như mịt
mù. Đã có lúc
tưởng chừng bỏ
cuộc. Thế nhưng rồi
năm 1997, trong dịp kỷ niệm
100 năm của chị thánh
Têrêxa, Chị đã
đưa tôi về Hà Nội,
quê hương trong mơ của
Chị:
Ta
dung dăng dung dẻ
Đưa
nhau về Thăng Long.
Chị
thật là nhỏ bé,
Em
vẫn còn lông bông.
Chị
cầm tay, dắt tôi tới
một bệnh viện trẻ
em, bịt mắt tôi, bắt
tôi làm em nhỏ để
Người Ta chạy
chữa cho tôi một lúc.
Khi mở mắt ra, chị
đã biến mất. Tôi
ngước lên thì thấy
nửa nét cong thầm
của một mái nhà xưa:
Phố
Cát Linh vòng sang Cát
Minh
Nhi
khoa cấp cứu
bước đường
tình.
Ra
cô tiến sĩ là y sĩ
Cứu
chữa cho đời
bằng ý kinh.
Để
rồi ba năm sau đó,
tại tịnh viện Las
Palmas của Dòng Cát Minh
Tây Ban Nha, tôi đã chuyển
được bài
thơ nổi tiếng của
thánh Gioan Thánh Giá
thành lục bát. Ngày
xưa còn bé, học giáo
lý rước lễ
lần đầu,
được thưởng
cho cỗ áo Đức
Bà Núi Cát Minh, mang
đến là thích.
Đến nay, khi chuyển bài
thơ này, tôi mới
thực sự
được chiêm ngưỡng
Đức Mẹ Núi Cát
Minh như bản mẫu của
một linh hồn lên
đường gặp
Chúa trong đêm đen của
đức tin và tình
mến:
Chẳng
ai nhìn thấy mẹ
đi,
Mẹ
nhìn cũng chẳng thấy
gì đêm sương.
Chẳng
ai dẫn lối đưa
đường,
Chỉ
duy ánh sáng yêu thương
giữa lòng.
Chút
sáng giữa lòng
đã không phản bội
ai và cũng không phản
bội tôi. Chút sáng ấy
đã dẫn dắt tôi
đi, chắc chắn
hơn cả ánh sáng chính
ngọ.
Giờ
đây, khi tôi viết bài
này, thì không phải
đêm mà là bình
minh. Tôi dâng lễ giữa
vườn cây xanh um cạnh
cát cốc Thánh Giuse tại
Tugbok. Trời đã quá
nửa mùa thu. Nghĩ
đến rừng thu trụi
lá bên trời tây mà
thấy thương thấy
nhớ, nhưng đồng
thời nghĩ đến
chút sáng trong lòng lại
thấy vững tin.
Sáng
mai chào mới lạ,
Sương
sớm cười long
lanh.
Thu,
rừng ai trút lá,
Vườn
ta sao nguyên xanh?
Tạ
ơn Chúa. Thuở
rời tập viện Las
Palmas (núi Cọ), tôi biết
ơn phước Cát
Minh đã được
đổ xuống lòng mình
mà vẫn cảm thấy
nó còn đang lạc loài
trong tôi như dầu với
nước, nhưng giờ
đây, có lẽ phép lạ
đã xảy ra, nước
và dầu đã bắt
đầu hòa tan với
nhau.
Chúa
ơi, có thật sự
linh hạnh Cát Minh sẽ
đem lại sức sống
tươi xanh cho thời
đại này? Con biết
là thật. Bởi nếu
không thì Mẹ thánh
Têrêxa Chúa Giêsu đã
chẳng được
Chúa chữa lành cả
tâm hồn và thể xác.
Nếu không thì chân phước
Mariam Bauourdi, cô bé Ả Rập,
đã không phải chịu
cảnh liên tục bị tà
thần hành hạ! Nếu
không thì chị thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu
cũng không cần phải
được chữa
lành căn bệnh tâm lý
vào đêm Giáng Sinh năm
15 tuổi. Phương thuốc
đã chữa lành
những căn bệnh bất
trị ngày xưa ấy cũng
đã chữa lành
con và cũng sẽ chữa
lành những bệnh
tật thể xác và
tâm linh của con người
ngày nay, từ căn bệnh
hối hả quay cuồng
đến bệnh hưởng
thụ, bệnh nuông chiều
giác quan cho đến bao
nhiêu thứ bệnh không
tên khác, kể cả bệnh
già.
Đúng,
kể cả bệnh già.
Hôm sinh nhật thứ
năm mươi tư của
tôi, một chú em tinh nghịch
tặng cho một tờ
quảng cáo thuốc nhuộm
tóc. Chợt nhớ
câu thơ làm năm kia khi
đạp xe trên đường
Cách Mạng Tháng Tám:
Chợ
đời tàn tạ phù
hoa,
Ý
đời phơ phất,
lòa xòa tóc mai.
Sợi
đen ngắn, sợi
bạc dài,
Chú
em cười tươi:
–
Anh nghĩ gì mà bạc
hết cả tóc ra thế?
–
Không riêng mình, còn nhiều
người khác nữa
cũng bạc tóc vì mải
suy nghĩ tìm cách làm
sao giữ cho tóc
được xanh luôn.
–
Thế anh đã nghĩ ra
chưa?
–
Mình không nghĩ ra nhưng
đã nhớ ra, em
mở tủ sách nhà
mình mà coi, trong đó
có sẵn cả một
bộ sách dạy về
chuyện ấy rất thần
tình. Thì ra cả làng
đãng trí chứ
chẳng riêng mình.
Đêm
nay, ngồi viết lại lá
thư tình của cô bé
chăn cừu cho kịp
gởi chuyến thư ngày
mai, tôi chợt hiểu rằng
mình sẽ chỉ là anh
chàng giúp thiên hạ
lôi bộ sách kia ra khỏi
tủ. Mà cũng có
thể nói, mình là
người chèo đò,
đợi có khách
sang sông, để sẵn
dịp chở khách mà
theo khách sang bên kia luôn một
thể.
Có
ai về Cát Minh?
Cho
trăng về theo với!
Có
ai về Cát Minh?
Thuyền
trăng neo bến đợi!
***
Trừ
bài thơ mở đầu,
những trang trên đây
tôi viết dịp kỷ niệm
một năm ngày khấn
lần đầu trong Dòng
Cát Minh về nguồn, tại
ẩn cốc Thánh Giuse,
Tugbok, Davao City, Philippines, đêm
08-9-2001. Tôi đã ghi ngày
tháng và nơi viết
ở cuối bài và
tưởng là xong. Thế
nhưng chú em nọ chưa
buông tha. Thay vì quyển toàn
tập thánh Gioan Thánh
Giá, nó vào tủ sách
lấy cho tôi quyển “Suối
nguồn tươi trẻ”:
– Đây
là tuyệt chiêu Tây Tạng
dành cho những
người trên 50 tuổi,
sẽ làm cho tóc anh xanh
lại.
Tôi
đọc và áp dụng
thử một thời
gian. Đúng là một
phương pháp có thể
làm cho tóc nhiều người
xanh lại nhưng tóc tôi
vẫn cứ bạc thêm.
Tôi cất nó vào tủ
sách và lại tiếp
tục nghiền ngẫm Gioan
Thánh Giá.
Đã
hơn hai năm. Tuần qua,
ngay đêm 30 tết huyết
áp tôi xuống chỉ còn
70/50. Tôi được
đưa vào phòng cấp
cứu, đón giao
thừa ở bệnh
viện Cardinal Santos, nằm
nghe pháo nổ xa xa ở
những khu phố Tàu.
Người ta làm mấy
thứ xét nghiệm khác
nhau rồi cho tôi về lúc
gần một giờ sáng.
Là tu sĩ, tôi vâng lời
để đi nhà
thương nhưng trong lòng
tôi vẫn nghĩ đây chỉ
là một trong những
khúc quanh cuối trên
đường lên đỉnh
Cát Minh. Suốt bốn ngày
tôi uống thuốc của bác
sĩ cho nhưng không còn
làm việc được
nữa. Ngày thứ
năm, tôi thức dậy
lúc hai giờ rưỡi,
đấu tranh vật vã
suốt hai giờ liền
và rồi tôi đã tìm
ra. Tôi thấy mình khỏe
hẳn, làm việc lại
bình thường và
đem niềm vui đến
cho mọi người. Hôm
ấy là mồng năm tết
Giáp Thân, 2004. Tôi gọi chú
em lại, cười toe:
–
Ê, mình lại sai nữa
rồi! Quyển sách nhà
không dạy cách làm cho
tóc đen lại nhưng nó
bảo rằng cả tóc
đen và tóc trắng
đều đẹp.
Chú
em mỉm cười đáp
lại:
–
Có chắc lần này
anh hiểu đúng chưa
đó?
Học
viện thánh Gioan Thánh
Giá
Manila,
mồng sáu Tết Giáp
Thân, 27-1-2004
TRĂNG
THẬP TỰ
Cát
đệ về nguồn
_____________________________________
Imprimatur:
Nha
Trang, ngày... tháng... năm
2005
Phaolô Nguyễn Văn Hòa
Giám Mục giáo phận
Nha Trang
©
Bản quyền giới hạn:
Vì
mục đích tông đồ,
giáo dục hoặc thông
tin, có thể trích dịch
hoặc in lại không cần
xin phép, còn nếu vì
mục đích thương
mại, cần có sự
đồng ý của Dòng
nam Cát Minh Việt Nam. |