ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN TỪ CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
CHIỀU KÍCH CHIÊM NIỆM ĐƠN TU

Lao Ong

Một trong những khám phá vĩ đại của thế kỷ 20 là đă sâu sắc nh́n ra sự liên lập yếu tính giữa các dân tộc, văn hóa và nhóm hội. Sự liên lập này rất rơ trong kinh tế, chính trị và sinh hoạt xă hội, nhưng cũng hiện hữu giữa cả các tôn giáo nữa. Thời ta, kinh nghiệm cụ thể về sự liên lập này ngày càng được cổ vũ mạnh hơn qua nhiều h́nh thức tiếp xúc, trao đổi, và khai phá khác nhau giữa đại diện của nhiều truyền thống. Giáo hội giữ một vai tṛ tiên phong trong việc mở cửa đối với các truyền thống tôn giáo khác, qua việc khích lệ các mối liên hệ đều đặn và có hệ thống. Kết quả từ những cuộc trao đổi gặp gỡ ấy ngày một hiển nhiên hơn: kính trọng thực sự các giá trị đạo đức, tâm linh và tâm lư hiện hữu trong từng truyền thống, t́m ra cơ sở chung, và một cảm thức chịu trách nhiệm chung về hành tinh này trong mọi chiều kích của nó.

Từ đó phát sinh ra cam kết phải hợp tác với nhau để cổ vũ cho ḥa b́nh thế giới cũng như cho một cách nh́n mới đối với xă hội và nhân loại nói chung. Sự đóng góp của giới chiêm niệm và đơn tu vào cuộc đối thoại liên tôn và cảm thức đang gia tăng về trách nhiệm và hợp tác hoàn cầu thật có nhiều ư nghĩa. Bài này nhằm mục đích tŕnh bầy một tŕnh thuật lịch sử ngắn về bản chất, nội dung và viễn ảnh tương lai của cuộc đối thoại giữa các truyền thống đơn tu liên tôn kể từ Công đồng Vaticanô II.

CÁC CỐ GẮNG TIỀN CÔNG ĐỒNG HƯỚNG ĐẾN VIỆC ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN:

Đáng lưu ư là đă có những cố gắng đối thoại và hội nhập văn hóa khá sớm tại Trung Hoa và Ấn Độ. Người ta không bao giờ nhấn mạnh đủ đối với công việc vĩ đại và việc hội nhập của học giả Matteo Ricci, Ḍng Tên, tại Trung Hoa. Công tŕnh của nhà truyền giáo Ḍng Tên khác, tức Roberto de Nobili (1577-1656) tại Ấn Độ, tuy ít nổi tiếng hơn, nhưng cũng linh hứng không kém. Thành tựu của ngài hiện nay vẫn c̣n tác động.

De Nobili là một học giả vô song về Ấn Độ Học và thực sự là người đầu tiên không phải Ấn Độ đọc được các bản văn thánh của Ấn Giáo: kinh Vệ-đà, kinh U-pa-nishad và kinh Bhagavad Gita (1). Dù là một nhà truyền giáo, de Nobili vẫn vào sâu được đời sống của Ấn Giáo, khiến các đạo sĩ Brahmins cũng phải kính phục, ngài c̣n thực hiện những bước căn bản của lối tu sannyasa. Hạn từ này chỉ việc ‘từ bỏ’ cái hư ngă, vốn là lư tưởng của một nhà tu hành Ấn giáo. Năm 1607, de Nobili được bề trên cho phép mặc áo kavi, tức cà sa vàng, vốn là y phục của một sannyasi. Ngài trở thành một sannyasi đúng nghĩa: ăn chay, quán niệm và kiêng thịt. Ngài long trọng tuyên thệ sống đời một sannyasi cho đến măn đời, một lời tuyên thệ ngài đă giữ trọn (Cronin 70-71).

De Nobili không những biết đọc biết viết tiếng Phạn (Sanskrit) và Tamil, ngài c̣n soạn thảo các công tŕnh độc đáo bằng các ngôn ngữ này và các công tŕnh ấy trở thành những tác phẩm cổ điển. Ngoài ra, theo Joseph Thekkedath, ngài c̣n khai triển ra toàn bộ từ vựng cho thần học Kitô Giáo Ấn Độ, sáng tác ra cấu trúc thần học để giảng dạy đức tin Kitô giáo cho bán lục địa này. Dù mục đích nguyên khởi của ngài là phúc âm hóa, ngài càng ngày càng kính trọng và trân quí lư tưởng Ấn độ, nhất là trong những chân lư sâu sắc nhất, trong các chiều kích nội tâm chiêm niệm và trong cam kết nghiêm chỉnh nhằm biến đổi nội tâm. Cuộc đời ngài quả là một cuộc đối thoại sống, và chắc chắn ngài đă đi xa trước thời cuộc.

Khuôn mặt kế tiếp là thầy Brahmin trở lại đạo công giáo tên Brahmabandhab Upadhyay (1861-1907).

Ông là một nhà siêu h́nh học sáng giá, là nhà báo và là một trong những lănh tụ tiên khởi của phong trào dành độc lập cho Ấn (2). Quả vậy, ông là người đầu tiên kêu gọi Anh trả hoàn toàn độc lập cho Ấn Độ. Ông được ít người biết đến v́ phần lớn các tác phẩm của ông bị người Anh tiêu hủy và nguyệt san Sophia mà ông là chủ bút cũng bị cấm đoán như thế. Mặt khác, những nhà bảo thủ Ấn Độ không bao giờ tha thứ cho tội ông từ bỏ Ấn Giáo chạy qua Kitô giáo, cho nên đă t́m đủ cách để xóa mờ các dấu tích đóng góp của ông.

Upadhyay gia nhập Công giáo năm 1894 và từ đó trở thành người cổ động nhiệt tâm cho hội nhập văn hóa hay thích ứng. Giống de Nobili trước đây, ông cũng mặc kavi, và năm 1899, thiết lập một tu viện lấy tên là Kasthalic Matha (hay Đan Viện Công Giáo). Ông làm việc không biết mệt để lên khuôn và truyền bá quan điểm của ông về một tổng hợp giữa Vedanta, mà ông coi nguyên tuyền chỉ là một học thuyết siêu h́nh học tương tự như học thuyết Aristote hay Platon, và thần học Công giáo hiểu như bắt nguồn từ mạc khải. Ông cũng là người đầu tiên đề nghị dùng hạn từ Phạn Saccidananda để chỉ Thiên Chúa (Sat=hữu thể hay hiện hữu; cit=ư thức; ananda= hạnh phúc trọn vẹn). Hạn từ này nay đă trở thành thông dụng tại Ấn Độ. Chẳng may, sự thiếu ủng hộ của hàng giáo phẩm đối với kinh nghiệm tân kỳ của ông đă khiến nó xem ra thất bại. Chúng tôi nói xem ra v́ mầm mống từ quan điểm của ông sau này sẽ đem lại hoa trái nơi những người như Jules Monchanin, Abhishiktananda, Bede Griffiths và nhiều người khác nữa.

Jules Monchanin (3) (1895-1957), một linh mục Pháp tới Ấn Độ năm 1939, đă làm sống lại lư tưởng sannyasa theo tinh thần Kitô giáo cùng với Abhishiktananda (4) hay Henri Le Saux (1910-1973), cũng người Pháp, đến Ấn năm 1948. Họ cùng nhau lập ra tu viện Saccidananda Ashram hay c̣n gọi là Shantivanam trên bờ sông Kauvery, vùng Tamil Nadu, miền Nam Ấn Độ vào ngày 21 tháng 3 năm 1950, ngày lễ trước đây kính thánh Biển Đức. Abhishiktananda vốn là một tu sĩ ḍng Biển Đức. Hai tu sĩ tiên phong này hoàn toàn thích ứng phương thức đơn tu của Biển Đức vào lối sống sannyasa, hay truyền thống khổ hạnh Ấn Độ, tạo ra thuật ngữ mới tức sannyasa Kitô giáo, một thuật ngữ rất phổ biến ngày nay, dù lúc đó ít được ai lưu ư.

Tuy nhiên, hơn bất cứ Kitô hữu nào khác, Abhishiktananda đă đi rất sâu vào huyền nhiệm học Ấn Độ. Ông hoàn toàn d́m ḿnh trong truyền thống này và hấp thụ được đầy đủ các giá trị của nó; quả thực, ông đă trở thành một nhà huyền nhiệm trong chính truyền thống này. Hơn thế nữa, ông trở thành một advaitin tinh ṛng trong các quan niệm huyền nhiệm học, dù phải trải qua nhiều năm khắc khoải và tranh chấp nội tâm trong cố gắng tích nhập kinh nghiệm advaitic vào đức tin và kinh nghiệm chiêm niệm Kitô giáo cũng sâu sắc không kém của ḿnh. Trong cuốn Saccidananda: Một Tiếp Cận Kitô Giáo Với Kinh Nghiệm Advaitic (Saccidananda: A Christian Approach to Advaitic Experience), ông miêu tả hết sức trong sáng cuộc hành tŕnh tích nhập này.

Abhishiktananda đưa cuộc đối thoại lên b́nh diện tối hậu của trái tim, tức guha hay “lồng tim”, và ở đấy, trong cơi im lặng nguyên sơ, t́m ra điểm kết hiệp không phải chỉ nguyên giữa Ấn giáo và Kitô giáo, mà giữa mọi truyền thống chân thực có chiều sâu tâm linh. Ông phải được coi như biểu tượng của cuộc hội ngộ sống động giữa các tôn giáo hoàn cầu có chiều sâu huyền nhiệm.

Dom Bede Griffiths (sinh năm 1906), một tu sĩ Biển Đức người Anh, đến Ấn Độ năm 1955 và cùng với cha Francis Mahieu, một tu sĩ Ḍng Xitô người Bỉ, lập ra tu viện Kurisumala Ashram, như một thử nghiệm cho phương thức đơn tu Kitô giáo trong bối cảnh Ấn Độ. Đó là năm 1958. Cha ở lại Kurisumala, thuộc Bang Kerala, 10 năm. Rồi năm 1968, khi Abhishiktananda bỏ quyền bề trên Shantivanam, về hưu tại một tu viện kín ở phía Bắc, Cha được gửi đến làm bề trên thay thế. Dưới sự lănh đạo và linh hứng của Cha, Shantivanam phát triển đáng kể. Chính ngài đă làm rất nhiều để cổ vũ việc hội ngộ và hoà giải hai niềm tin Ấn và Kitô giáo, phần lớn các cố gắng của ngài xẩy ra sau Công đồng Vaticanô II. Ngài đă thành công rất nhiều trong việc khai triển một truyền thống vững chăi cho lối sống sannyasa Kitô giáo tại Ấn Độ và các nơi khác. Với tư cách một sannyasi và là thầy dạy linh đạo, ngài đă dẫn khởi khoảng 40 người vào lối sống sannyasa.

Phật giáo, trong lănh vực trao đổi liên đơn tu (intermonastic), ít có giao tiếp với Kitô giáo trước ngày có Công đồng, dù vẫn đă có những trao đổi quan trọng giữa các học giả của hai tôn giáo. Sau khi công bố Nostra Aetate, các giao tiếp trở nên đều đặn hơn. Trước Công đồng, Thomas Merton bắt đầu những nghiên cứu nghiêm chỉnh của ông về Lăo và Phật giáo, đặc biệt là trường phái Thiền. Ông bỏ ra mười năm học hỏi các truyền thống này cách sâu sắc và đă thực hiện một cuộc đối thoại lâu dài với D.T. Suzuki cũng như các bậc thầy Phật giáo khác. Chắc chắn ông đă đi trước thời cuộc xuyên qua cuộc hành hương tới Phương Đông của ḿnh. Cuộc hội ngộ của ông với đức Đạt La Lạt Ma sau Công đồng vào tháng 11 năm 1968 chứng tỏ có tính tiên tri cả đối với hội thánh lẫn phong trào đơn tu, v́ nó đă chỉ đường cho một bên đối thoại, một đối thoại hiện đang đem lại hoa trái cho cả các niềm tin lẫn nhân loại nói chung. Ta cũng nên nhớ rằng Merton qua đời đang khi tham dự một hội nghị liên đơn tu tại Vọng Các.

 

Tôn giáo không phải là những thực thể văn hóa tĩnh tụ, nhưng thực sự là những cơ thể sinh động (dynamic organisms), dù là cơ thể thiêng liêng. Do đó, cũng như các cơ thể sinh học, tôn giáo cũng tăng trưởng.

TÁC ĐỘNG CỦA VATICANÔ II VÀ NOSTRA AETATE

Vatican II đă cởi mở và nhậy cảm đối với đa dạng tính hay đa nguyên tính, dù bản sắc và chú tâm của nó hiển nhiên có tính Kitô giáo vững chắc. Liên quan tới các tôn giáo khác, việc cởi mở và nhậy cảm kia đưa đến việc thiết lập ra Văn Pḥng Phụ Trách Các Tôn Giáo Không Phải Là Kitô Giáo vào ngày 14 tháng 5 năm 1964, trong khi Công đồng đang diễn ra, và trước khi công bố sắc lệnh Nostra Aetate vào ngày 28 tháng 10 năm 1965. Văn pḥng này, năm 1989, được đổi thành Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn nhân khi Giáo triều được cải tổ, tạo nhiều ảnh hưởng lớn lao trên thái độ của giáo hội đối với các tôn giáo trên thế giới. Từ ngày được thiết lập, nó đă cổ vũ giá trị của việc đối thoại liên tôn qua các ấn phẩm, các kỳ hội thảo, các buổi thuyết tŕnh, các cuộc hội nghị và nhiều h́nh thức đối thoại khác trên khắp thế giới. Nó cũng đă làm dễ và hiện c̣n làm dễ các cuộc gặp gỡ giữa đức giáo hoàng và các nhà lănh đạo tinh thần khác, đại diện cho các tôn giáo lớn trên thế giới, một tập quán đă khởi đầu và được khuyến khích dưới thời đức Phaolô Sáu, là vị giáo hoàng hết sức cổ vũ đối thoại giữa các tôn giáo.

Thời đức Gioan Phaolô II, Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn đă mở rộng rất nhiều. Dĩ nhiên việc cởi mở và nhậy cảm trên đă được linh hứng rất nhiều bởi Nostra Aetate, một thứ hiến chương thực sự cho đối thoại. Trên b́nh diện lịch sử cụ thể, ta có thể coi Nostra Aetate là văn kiện quan trọng nhất của Vaticanô II v́ nó thay đổi vĩnh viễn thái độ và tương quan của giáo hội với các tôn giáo khác. Nó đặt giáo hội và các tôn giáo kia vững chăi trên con đường gây ảnh hưởng và phong phú hóa lẫn nhau. Tôn giáo không phải là những thực thể văn hóa tĩnh tụ, nhưng thực sự là những cơ thể sinh động (dynamic organisms), dù là cơ thể thiêng liêng. Do đó, cũng như các cơ thể sinh học, tôn giáo cũng tăng trưởng. Lúc ta bước vào cuộc đối thoại hiện sinh chính là lúc ta bước vào khả thể thay đổi sâu sắc chính các quan điểm riêng của ta, chưa kể chính cuộc sống ta nữa. Khả thể này diễn tiến cả hai chiều. Xin đơn cử một thí dụ: người ta từng phải ngạc nhiên xiết bao khi thấy những người phật giáo Tây Tạng chịu ảnh hưởng sâu sắc như thế nào bởi Kitô giáo.

Những người có học của họ đă cởi mở xiết bao đối với Phúc Âm, một sự cởi mở phát sinh từ các kinh nghiệm bản thân của họ trong khi giao tiếp với một số đại diện của đức Kitô hơn là từ những công bố trừu tượng của các trao đổi bác học. Giáo hội vẫn c̣n phải hiểu trọn vẹn các hệ luận từ lời công bố sau đây của Nostra Aetate: “V́ thế Công đồng có lời khuyên sau đây với con cái ḿnh: một cách khôn ngoan và đầy yêu thương, qua đối thoại và hợp tác với các tín hữu của các tôn giáo khác, và trong chứng tá đức tin và đời sống Kitô hữu, hăy nh́n nhận, bảo toàn, và cổ vũ các điều tốt về tâm linh và luân lư t́m thấy nơi những người này, cũng như các giá trị t́m thấy trong xă hội và văn hóa của họ” (Số 2).

Không những lời công bố trên nh́n nhận các truyền thống trên có chân lư, nó cũng mở cửa để ta đồng hóa chính các giá trị đó vào truyền thống phổ quát của giáo hội, là truyền thống luôn luôn tăng trưởng và thu thập những cái nh́n sâu sắc mới. Thí dụ, các tôn giáo Á Châu có rất nhiều những cái nh́n sâu sắc có thể đóng góp vào lănh vực thần học huyền nhiệm và tu đức (mystic and ascetic theology), là một thần học không bao giờ trừu tượng cả, nhưng luôn luôn liên hệ tới cố gắng khó khăn phải biến cải nội tâm, vốn là mục đích chính của cuộc sống tâm linh trong bất cứ truyền thống nào. Ta không nên quên rằng phần lớn cuộc hành tŕnh thiêng liêng liên quan đến việc biến đổi tính t́nh và điều ta vẫn gọi là sự nên thánh. Các tôn giáo Á Châu có rất nhiều tài nguyên phong phú giúp cho sự biến đổi này.

Bên trong cộng đồng đơn tu của giáo hội và nơi những đan sĩ thông thạo các vấn đề này, hiện đang có sự đánh giá rất chân thực đối với túi khôn luân lư, tâm lư và tâm linh của Ấn giáo và Phật giáo. H́nh như, trên b́nh diện này, các đan sĩ can dự một cách có ư thức hơn mọi người khác. Điều ấy chắc chắn là kết quả của chiêm niệm, mà cũng chính là chiêm niệm hay một phần của chiêm niệm. Giáo hội, khi nhận ra điều đó trong ơn gọi đơn tu và khi hiểu ra bản chất chiêm niệm trong các niềm tin Á Châu, đă yêu cầu các tu sĩ Biển Đức và Xi Tô tại Âu Châu đảm nhận trách nhiệm đối thoại với các tôn giáo Á Châu, nghĩa là với các đại biểu chiêm niệm của các tôn giáo ấy. Văn Pḥng của Vatican tiếp xúc với một tổ chức đơn tu vốn sẵn có nghĩa là đă đang hoạt động từ nhiều năm qua trong việc trợ giúp các tu viện tại các quốc gia Đệ Tam.

Tổ chức ấy có tên là Cơ Quan Trợ Giúp Liên Tu Viện (Aide-Inter-Monastères viết tắt là A.I.M) đặt trụ sở tại Paris. A.I.M. có một phân ngành gọi là D.I.M. hay Đối Thoại Liên Tu Viện (Dialog-Inter-Monastères) để thi hành ủy nhiệm của Vatican và tập trung vào các sinh hoạt đối thoại. Hội nghị Bangkok mà Merton tham dự và chết tại đó đă được tổ chức dưới sự bảo trợ của A.I.M. Năm 1977, Hội Đồng Bắc Mỹ Đối Thoại Đông Tây (North American Board for East-West Dialogue-NABEWD) được thành lập với cùng mục đích trên tại Hoa Kỳ. Khởi đầu nó là một ngành của A.I.M. nhưng trong những năm gần đây, nó đă trở thành độc lập nhiều hơn trong việc tự đưa ra các chính sách và sáng kiến riêng. Nó rút tỉa được nhiều kinh nghiệm phong phú về đối thoại cũng như về nhiều tài nguyên khác nơi các tôn giáo Á Châu tại Mỹ và Canada. Qua ấn bản The Bulletins, tổ chức này thông báo cho các ủng hộ viên của ḿnh các biến cố liên tôn có liên quan kể cả tin tức nữa và cung cấp cho họ bản tóm lược các bài báo, phê b́nh, phỏng vấn cũng như các tuyên bố của giáo hội. Xét chung, công việc của Hội Đồng đem lại nhiều thành quả và các giám mục Mỹ hiện tiếp nhận nhiều đóng góp từ tổ chức này, một tổ chức họ rất kính trọng. Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn của Ṭa Thánh cũng theo dơi xát các hoạt động của NABEWD và thường xuyên tường thuật các sinh hoạt của nó trên các ấn bản của ḿnh.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHIỀU KÍCH CHIÊM NIỆM (ĐƠN TU) ĐỐI VỚI ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN

Việc lớn mạnh của phong trào chiêm niệm trong Kitô giáo, nhất là những cái nh́n sâu sắc của Cha John Main và phương pháp suy niệm Kitô giáo của ngài như đă được tu viện Biển Đức tại Montréal là tu viện do chính ngài sáng lập năm 1977 kết hợp. H́nh thức Cầu Nguyện Tập Chú (Centring Prayer) do các tu sĩ Xi-Tô như tu viện trưởng Thomas Keating, William Menneger và Basil Pennington triển khai đă giúp các Kitô hữu nhậy cảm đối với các giá trị tâm linh và tâm lư của các truyền thống Đông Phương. Ngoài ra, sự trăm hoa đua nở của các ashrams Kitô giáo tại Ấn Độ và các nơi khác, như Shantivanam tại Tamil Nadu, Nam Ấn Độ, hay Christa Prema Seva Ashram tại Pune gần Bombay đă đóng góp rất nhiều vào môi trường chiêm niệm, hội nhập văn hóa vào phong cách Ấn Độ. Điều ấy cho phép cuộc đối thoại diễn ra trên b́nh diện huyền nhiệm.

Tuy nhiên, nói như trên rồi, ta mới thấy chính yếu tố kinh nghiệm mới là chủ yếu và quyết định. Không khối lượng thuyết giảng nào, dù khôn ngoan, bác học và hùng biện đến đâu, không con số nghiên cứu nào có thể thay thế được cuộc sống chiêm niệm sâu sắc. Điều ấy đúng v́ các Kitô hữu, các tín hữu Ấn giáo và các Phật tử đều có chung một ḷng trân quí đối với lối sống đơn tu/chiêm niệm và điều lối sống ấy nhắm tới tức sự khôn ngoan huyền nhiệm và biến đổi tâm linh thành những con người yêu thương, nhân hậu. Đối thoại trên b́nh diện đơn tu/chiêm niệm thật hữu ích, có hiệu quả và vô cùng có lợi cho hoàn cảnh bất ổn của thế giới hiện nay.

 

 

mỗi tín ngưỡng này đều có cảm thức và cảm nghiệm mạnh mẽ về Thực Tại Siêu Việt, Chân Lư Khôn Kể, Mầu Nhiệm Tối Hậu, và con đường dẫn đến Thực Tại ấy qua một kỷ luật hành tŕnh tâm linh bao gồm việc tự từ bỏ ḿnh (self-denial), cầu nguyện chiêm niệm và phục vụ người khác, nên việc đối thoại có chiều sâu, những gặp gỡ chân thực hay những nhận thức hiện sinh giữa họ với nhau là điều thực sự có thể và trên thực tế đă từng thường xuyên xẩy ra

V́ những nhà đơn tu trong mỗi truyền thống vĩ đại trên đều là và nên là những “nhà chuyên nghiệp” trong việc đi t́m Đấng Thần Thiêng, Đấng Tuyệt Đối, và v́ mỗi tín ngưỡng này đều có cảm thức và cảm nghiệm mạnh mẽ về Thực Tại Siêu Việt, Chân Lư Khôn Kể, Mầu Nhiệm Tối Hậu, và con đường dẫn đến Thực Tại ấy qua một kỷ luật hành tŕnh tâm linh bao gồm việc tự từ bỏ ḿnh (self-denial), cầu nguyện chiêm niệm và phục vụ người khác, nên việc đối thoại có chiều sâu, những gặp gỡ chân thực hay những nhận thức hiện sinh giữa họ với nhau là điều thực sự có thể và trên thực tế đă từng thường xuyên xẩy ra.

Người ta c̣n có thể đi xa hơn nữa khi nói rằng đây mới chính là bản chất chân thực của đối thoại, nghĩa là, cuộc đối thoại phải t́m ra gốc rễ của nó trong các ưu tư tối hậu của nhà huyền nhiệm học. Trên b́nh diện huyền nhiệm này, các tôn giáo có rất nhiều điểm chung với nhau, trong khi trên b́nh diện bác học, ngôn từ có thể và thực sự đă cản đường cho nhiều đối thoại sâu sắc. Cần minh xác một điều: kiểu đối thoại khoa bảng vẫn rất cần thiết, nhưng nó phải tuân theo thực tại huyền nhiệm là cái cốt lơi của mọi truyền thống.

NABEWD và AIM đă và đang tiến hành chương tŕnh hiếu khách liên tu viện với các giới Phật giáo trong nhiều năm nay và chương tŕnh này rất bổ ích cho cả đôi bên. AIM đă mời các tu sĩ nam nữ của Phật giáo (Thiền) Nhật Bản cũng như các tu sĩ đơn tu Tây Tạng thăm viếng các đan viện Âu Châu trong nhiều tháng. Mỗi dịp như thế, họ được mời ở lại bên trong các đan viện ít nhất cũng một, hai tuần. Các nam nữ đan sĩ Biển Đức và Xi Tô, ngược lại, cũng sống cùng khoảng thời gian như thế tại các tu viện Tây Tạng tại Ấn Độ. Chương tŕnh này nay c̣n tiếp tục và đang được mở rộng thêm. Những tiếp xúc như thế đă thâm hậu hóa cách sâu sắc cuộc đối thoại hiện sinh giữa giáo hội và Phật giáo. Mức độ tiếp xúc ấy nên được triển khai với các sannyasi Ấn giáo tại Mỹ, dù nó đă được thực hiện đại qui mô bên Ấn Độ giữa các đan sĩ Kitô giáo và Ấn độ giáo.

 

Nếu Kitô hữu nào đó cũng là một bậc thầy, nghĩa là một nhà chiêm niệm, th́ chiều sâu trong chàng hay nàng sẽ rất dễ có họ hàng hang hốc với cùng một chiều sâu ấy nơi một nhà chiêm niệm Ấn, Phật hay Hồi giáo, hay bất cứ truyền thống nào khác.

HOA TRÁI CỦA CUỘC ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN

Hai mươi năm sau Vaticanô II, chúng tôi nhận thấy không c̣n phải là vấn đề đối thoại song phương nữa, nghĩa là giữa giáo hội và một truyền thống khác nào đó, mà đúng hơn phải là cuộc đối thoại bên trong (intra) tôn giáo hay cuộc gặp gỡ và đàm thoại giữa (among) những vấn đề tôn giáo khác nhau như liên hệ giữa Đấng Thần Thiêng với con người hay thế giới, Thiên Chúa và Niết Bàn, giữa Saccidananda với Chúa Ba Ngôi, giữa từ bi (compassion) với đức ái, giữa đức Kitô với Bồ Tát (Bodhisattva), và giữa giác ngộ và cứu độ, ấy chỉ là một số vấn đề.

Theo thiển ư, những vấn đề ấy không thể giải đáp trong giới khoa bảng được, mà chỉ có thể được giải đáp cách dứt khoát trong chiều sâu của cảm nhận huyền nhiệm, nghĩa là, trong diễn tŕnh hiện sinh của cuộc sống nội tâm hay trong chính chiêm niệm. Không ǵ thay thế được một giờ ngồi trước một bậc thầy Phật giáo, Ấn giáo hay Hồi giáo (Sufi). Nếu Kitô hữu nào đó cũng là một bậc thầy, nghĩa là một nhà chiêm niệm, th́ chiều sâu trong chàng hay nàng sẽ rất dễ có họ hàng hang hốc với cùng một chiều sâu ấy nơi một nhà chiêm niệm Ấn, Phật hay Hồi giáo, hay bất cứ truyền thống nào khác. Đối thoại là một vấn đề sống động, chứ không phải một cuộc tranh luận đầy đủ h́nh thức nhưng ly dị hẳn việc thực hành tâm linh của người tham dự. Điều này đặc biệt đúng đối với các tôn giáo huyền nhiệm, chứ không đúng đối với các môn như toán, vật lư hay sinh học.

Trong lănh vực đối thoại bên trong tôn giáo và tương lai của toàn bộ phong trào này, Tu Viện Trưởng Thomas Keating và tổ chức Hội Nghị Tuyết Khối (Snowmass Conference) của ông, một tổ chức bao gồm đại biểu của 15 tôn giáo, đem lại một viễn tượng đầy hứa hẹn cho thấy các truyền thống tôn giáo có thể và nên tương quan với nhau ra sao trong một phương thức phổ quát. Hội Nghị Tuyết Khối đă tổ chức các cuộc hội họp từ 10 năm nay, và 15 vị lănh đạo tinh thần đă nhất trí được các nguyên tắc cho cuộc đối thoại liên tôn. Họ gọi những nguyên tắc này là “Các Chỉ Dẫn Để Hiểu Nhau Giữa Các Tôn Giáo”. Thomas Keating đă tóm lược các chỉ dẫn này trong Nói Về Im Lặng (Speaking of Silence, 127-128):

1. Các tôn giáo thế giới mang chứng nhân cho cảm nghiệm về Thực Tại Tối Hậu mà họ gọi bằng nhiều tên khác nhau: Đại Ngă (Brahman), Đấng Tuyệt Đối, Thiên Chúa, Allah, Đại Thần Linh, Đấng Siêu Việt.

2. Thực Tại Tối Hậu vượt quá mọi danh xưng hay ư niệm người ta có thể gán cho.

3. Thực Tại Tối Hậu là nguồn gốc của mọi hiện hữu.

4. Đức tin là mở ḷng, phó thác và đáp trả Thực Tại Tối Hậu. Mối tương quan này có trước mọi hệ thống tín ngưỡng.

5. Tiềm năng đạt tới tính toàn diện nhân bản, hay nói theo các khung tham chiếu khác, là giải thoát, là tự siêu việt hóa, là giác ngộ, là cứu độ, là hiệp nhất biến đổi, là moksha, niết-bàn, fana, đều hiện diện trong từng con người.

6. Thực Tại Tối Hậu có thể cảm nghiệm được không những qua thực hành tôn giáo mà c̣n qua cả thiên nhiên, nghệ thuật, các tương giao nhân bản và việc phục vụ người khác nữa.

7. Các khác biệt giữa các hệ thống tín ngưỡng nên được tŕnh bầy như những sự kiện để phân biệt, chứ không như các điểm hơn thua.

8. Dưới ánh sáng hoàn cầu hóa sinh hoạt và văn hóa hiện đang diễn tiến, các nguyên tắc đạo đức bản thân và xă hội do các tôn giáo trên thế giới đề ra trong quá khứ cần được suy nghĩ và phát biểu lại.

Một trong những điều đầu tiên ta ghi nhận từ danh sách các nguyên tắc trên đây là tất cả các nguyên tắc ấy đều là phó sản của một nhậy cảm phổ quát đối với từng mỗi truyền thống, chứ không phải một xác quyết tiên thiên do bất cứ truyền thống đặc thù nào. Thực thế, những chỉ dẫn trên không bị áp đặt từ bên ngoài, mà từ từ được khám phá ra trong diễn tŕnh gặp gỡ sâu sắc nhiều năm của các bậc thầy tâm linh trong mỗi truyền thống tại các cuộc bàn luận liên tục của Hội Nghị. Chắc chắn các nguyên tắc này cần phải được thảo luận nhiều hơn nữa, nhưng rơ ràng những con người già dặn về tâm linh và tâm lư này, với nhiều năm lao nhọc, phải là chuẩn mực tạo nên hoà hợp và khôn ngoan trong các trao đổi liên tôn.

Viết theo Wayne Teasdale (*), Ph.D. Spirituality Today, Hè năm 1991, bộ 43 số 2, các tr.119-133

 

Vinc. Vũ Văn An


Chú thích

(*) Teasdale đậu tiến sĩ thần học tại Đại Học Fordham, là thành viên của NABEWD và Đan Viện Hundred Acres tại New Hampshire.

(1) Vincent Cronin, A Pearl To India: The Life of Roberto de Nobili (New York: Dutton, 1959)

(2) B. Animananda, The Blade: The Life and Work of Brahmabandhab Upadhyay (Calcutta: Roy and Son, 1945)

(3) Muốn biết hậu cảnh cuộc đời và tư tưởng của Monchanin, xin đọc In Quest of the Absolute: The Life and Works of Jules Monchanin J.G. Weber chủ biên và phiên dịch (Kalamazoo: Cistercian Publications, 1977) và Jules Monchanin, Ecrits Spirituels (Paris: Centurion, 1965).

(4) Muốn biết cuộc đời Abhishiktananda, xin xem M.M. Davy, Swami Abhishiktananda: Le Passeur de Deux Rivières (Paris: Cerf, 1981) và James Stuart, Swami Abhishiktananda: His Life Told through His Letters (Dehli: ISPCK, 1989).


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.