Niềm tin và Trí tuệ

Thánh Gia

  Pháp thoại của Thượng tọaThích Thái Ḥa giảng trong khoá tu ngày 7/ 2 / Giáp Thân (26/02/2004 ) cho các phật tử tại thiền đường Trăng Rằm, Tổ đ́nh Từ Hiếu Huế.

Chỉ cần Thầy tu thôi !

Quư vị biết không, gần đây có nhiều người đến khuyên tôi thế nầy: “Thầy ơi, lúc nầy Thầy cứ tu đi th́ mọi việc sẽ tốt đẹp, Thầy đừng làm chi hết, bởi v́ Thầy có làm chi th́ sẽ đụng tới người ta, chỉ cần Thầy tu thôi là yên hết.”

Tôi cười và nói: Xin cảm ơn quư vị - đó là một lời khuyên và lời khuyên ấy đă được nói một cách thật ḷng, nhưng chưa đúng hoàn toàn.

Giả như quư vị là tôi th́ quư vị sẽ nghĩ như thế nào về lời khuyên đó? Và phải trả lời người đó như thế nào?

Trước hết ḿnh cũng xin ghi nhận cái tâm của họ rất là tốt. Nhưng, chúng ta phải ghi nhận và phải thực hiện như thế nào?

Chúng ta đưa đôi mắt thiền quán để nh́n vào cuộc đời của đức Phật trước và sau khi Ngài thành đạo, để chúng ta có thể thấy được giá trị của lời khuyên ấy. Là Phật tử, tất cả chúng ta đều biết rằng, trước khi đức Phật thành đạo Ngài có làm ǵ đâu, Ngài chỉ ngồi yên lắng trên núi Tuyết, thế mà thiên ma vẫn hoạt động rất dữ dội, họ t́m đủ mọi cách để quấy phá sự thành đạo của đức Phật. Ngài đă ngồi yên lặng thiền định không phải giữa phố thị mà Ngài ngồi trên núi, rồi sau khi thành đạo Ngài cũng chưa định đi chuyển pháp luân th́ thiên ma yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn.

Đức Phật nói rằng: Trước sau ǵ Như Lai cũng nhập Niết Bàn thôi, nhưng mà để Như Lai giáo hóa cho có chúng Tỳ kheo đă!

Sau khi có chúng Tỳ kheo, thiên ma khuyên Phật nhập Niết Bàn, Ngài nói đợi có chúng Tỳ kheo ni đă. Khi đă có chúng Tỳ kheo ni, thiên ma yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn, Ngài lại nói: trước sau ǵ rồi ta cũng nhập Niết Bàn thôi, để ta giáo hóa cho có chúng Ưu Bà Tắc đă. Sau khi thấy có chúng Ưu Bà Tắc, thiên ma lại thúc: Xin Ngài nhập Niết Bàn! Lúc này đức Phật trả lời: Để có chúng Ưu Bà Di đă.

Sau khi đức Phật giáo hóa và thành lập được chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di xong, thiên ma lại đến yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn như đă hứa, v́ bấy giờ đă có người gánh vác Phật pháp. Quư vị thử đoán xem, đức Phật đă trả lời thế nào với thiên ma? Ngài nói: Chưa gấp, hễ thấy đúng thời là Như Lai nhập Niết Bàn thôi!

Trong suốt 45 năm hoằng hóa, thiên ma luôn luôn đi theo đức Phât và họ t́m mọi cách để khiến đức Phật sớm nhập Niết Bàn. Khi Ngài đến xứ Câu Thi La, đức Phật nói với Tôn giả A Nan là Ngài dự định ba tháng nữa, sẽ nhập Niết Bàn. Bấy giờ thiên ma ba tuần đă che khuất sự hiểu biết của ngài A Nan, cho nên ngài A Nan đă không hiểu được ư của Phật, để thỉnh Ngài tiếp tục ở lại giữa cuộc đời. Đức Phật đă ba lần thể hiện ư định nhập Niết Bàn của ḿnh, nhưng v́ bị ma ba tuần che khuất, nên Ngài A Nan không hiểu hết ư của Ngài, và đă không nhận ra được, nên đă không có sự thỉnh cầu Ngài tiếp tục trụ thế, và cuối cùng đức Thế Tôn tuyên bố buông bỏ thọ mạng. Đến lúc đó, ngài A Nan mới nhận ra và vội vă đến thỉnh Phật tiếp tục trụ thế, nhưng đức Phật dạy: ”Như Lai đă nói là làm, Như Lai đă tuyên bố buông bỏ thọ mạng. Bây giờ đă có đủ bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có giới luật rồi, có pháp của Như Lai rồi, đă đến lúc Như Lai nhập Niết Bàn!”

Quư vị thấy, đức Phật trước khi thành đạo, Ngài không tranh giành chi với ai cả, Ngài chẳng giành uy tín chi của ai hết, Ngài chỉ ngồi im lặng thiền định thôi, thế mà thiên ma đâu có buông bỏ việc quấy phá sự thành đạo và giáo hóa của Ngài. Ngài chỉ ngồi trên núi thôi, chứ có đi giữa đồng bằng, phố thị treo bảng này, bảng nọ để quảng cáo ǵ đâu!

Sau khi thành đạo, Ngài đi giáo hóa đem lại lợi ích cho con người và cho xă hội. Ngài đâu có giành cơm của ai để ăn, giành áo của ai để mặc, giành tiền của ai để xây lâu đài tráng lệ cho riêng ḿnh! Vậy mà, thiên ma vẫn luôn đeo đẳng để yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn.

Như vậy, quư vị thấy chuyện “ḿnh cứ tu đi th́ mọi chuyện nó yên hết, ḿnh chỉ cần tu thôi th́ không ai đụng tới ḿnh cả”, câu nói đó quư vị nghiệm lại thấy có đúng không? ”Thầy cứ tu đi, Phật tử cứ tu đi th́ không ai đụng tới Thầy, không ai đụng tới Phật tử đâu!”

Đúng là đức Phật chỉ tu thôi, Ngài có đụng tới ai đâu. Giờ đây, ḿnh là đệ tử phật, ḿnh cũng chỉ tu và cũng chỉ làm công việc của nhà tu thôi, chứ ḿnh có làm ǵ khác đâu!

Tu là đụng chạm:

Ḿnh không tu có thể ḿnh sẽ đụng chạm tới thiên hạ, đó là điều dễ hiểu, nhưng ḿnh có tu, quư vị cũng đừng nghĩ là chúng ta không đụng chạm ǵ đến ai.

Ḿnh tin Phật th́ sẽ đụng đến người tin ma. Mà giữa đời này ma nhiều hơn Phật chứ, cho nên, chỉ tin Phật thôi là đă đụng nhiều người lắm rồi!

Ḿnh tin Pháp th́ sẽ đụng đến các tà thuyết bất chính. V́ thế, ḿnh nói đúng chánh pháp và hết sức tuyên dương chánh pháp là đă đụng đến các tà thuyết, tà pháp của thế gian!

Ḿnh tin Tăng th́ đụng chạm tới ai? Tới các tà sư ác hữu. Thật sự ḿnh chỉ biết đi chùa, biết tụng kinh, ngồi thiền và niệm Phật thôi, ḿnh đâu có th́ giờ để đi nói xấu các tà sư ác hữu, thế mà vẫn đụng chạm tới họ!

Ḿnh tin Giới là đụng tới những sinh hoạt phi đạo đức, phi luân thường đạo lư của xă hội! Ḿnh chỉ tin Giới thôi, th́ những người buôn lậu, những người tham nhũng,... họ ghét dữ lắm. Mà sự thật, ḿnh đâu có giành chi của họ, ḿnh cũng chẳng tham nhũng, chẳng hối lộ chi ai. Chính cái phi lương tâm, phi đạo đức của hành động họ, làm cho họ cảm thấy không thích ḿnh, nên cứ như thế mà đụng!

Cho nên, việc ḿnh thực hiện niềm tin đối với Tam Bảo thôi là ḿnh đă đụng tới tất cả những người không có niềm tin Tam Bảo rồi.

Người đời thích giết hại sinh vật để ăn, tranh giành nhau để sống, tàn hại người khác để mưu sinh cho riêng ḿnh, c̣n những ai đă tin Phật rồi th́ lại không thích tàn hại bất cứ ai, hay dẫm đạp lên bất cứ loài vật nào để tồn sinh. Họ bảo giết người, giết vật, ḿnh không giết, thế là đụng họ rồi. Thế th́ ai đụng ai? Ḿnh có thích đụng đâu mà! Ḿnh chỉ thích giữ giới, thích không tàn hại chúng sinh thôi, vậy mà vẫn đụng!

Ḿnh ưa tôn trọng công bằng lẽ phải. Cái ǵ làm được th́ ḿnh hưởng, người khác làm được th́ người khác hưởng. Nhân ngang đâu th́ Quả ngang đó. Bởi ḿnh ưa như vậy, nên ḿnh mới giữ giới thứ hai là giới không trộm cắp. Nhưng giờ đây, giữa thiên hạ, người ta ưa làm ít mà hưởng nhiều, nghĩ cách để chạy mánh chạy mung... thế là đụng nhau thôi à!

Người đệ tử Phật ưa sống tiết hạnh thanh bạch. Vậy, những người mua dâm, bán dâm, những người làm phim ảnh đồi trụy không lôi kéo được sự đồng t́nh của người đệ tử Phật. Chỉ đơn giản vậy thôi, th́ những người kinh doanh về mặt này trong xă hội đă ghét ḿnh lắm rồi.

Người đệ tử Phật chỉ thích nói lời chân thật, nói đúng lẽ phải. Nhưng, hễ nói lời ngay thẳng th́ sẽ đụng kẻ xảo quyệt điêu ngoa, hễ nói thiệt th́ sẽ đụng đến người nói láo. Mà giữa đời này có những kẻ làm chuyên gia nói láo, nói láo có truyền thống, nói láo có hệ thống, nói láo có súng đạn, nói láo có băng đảng, nói láo có tổ chức từ trên xuống dưới... Là người con Phật ai lại đi nói láo phải không quư vị, chỉ cần ḿnh nói thiệt thôi, là đă đụng đến người ta rồi, thực ra ḿnh đâu có nói xấu chi họ.

Người ta uống bia uống rượu, ḿnh không uống rượu bia, vậy là họ ghét. Có người ăn chay trường, đi ăn tiệc cưới ngồi chung bàn với bạn bè, chắc chắn người ta sẽ xầm x́: tu làm ǵ không biết nữa, tu để mau thành Phật à?! Ḿnh đâu có giành bia, giành thịt của họ mà ăn đâu chứ , thế mà vẫn đụng!

Cho nên, quư vị thấy, ḿnh tu thật là đụng tới những tâm ư của người phàm, đụng tới tất cả chúng sinh phàm tục, đụng hết. Bời vậy mà thiên ma ba tuần đă t́m mọi cách làm cho Phật đừng thành Phật chứ ! Đến khi thành Phật rồi, thiên ma lại muốn Ngài nhập Niết Bàn để cho họ được tự tung tự tác giữa cuộc đời, ưa làm ǵ th́ làm, ưa phỉnh gạt ai th́ phỉnh gạt. Đó là ư đồ của thiên ma mà!

Bởi vậy, tu là đụng tới cái tham của chúng sinh. Ḿnh muốn đẩy họ đi lên, lên cao đến vô cùng , thế nhưng chúng sinh đâu có chịu, họ cứ ưa níu kéo nhau đi xuống chỗ thấp kém thôi!

Quư vị biết, ngay cả Sư ông Nhất Hạnh, đi đâu cũng chỉ muốn giáo hóa cho người ta tu học, và trong biến cố tại Mỹ ngày 11 tháng 9 cách đây hai năm, khi xuất hiện tại Mỹ, Sư Ông đă khuyên họ hăy yêu thương nhau và đừng tạo ra hận thù. Vậy mà đă có một số người đă t́m cách để làm khó Sư Ông. Sư Ông chỉ khuyên họ những lời từ ái dễ thương thôi mà họ đâu có chịu nghe, không những không chịu nghe mà c̣n chống báng nữa ! Cho nên, sống giữa đời, người biết nói lời từ ái với nhau đă khó, huống ǵ là người biết lắng nghe lời từ ái để sống! Không tu th́ đụng theo kiểu phàm tục, không tu th́ đem cái phàm đụng tới cái phàm, đem cái chúng sinh đụng với cái chúng sinh. Có tu th́ cái thánh thiện của người tu sẽ đụng đến cái chất phàm trong chúng sinh. Ḿnh phải biết được điều đó để có sự kham nhẫn trong quá tŕnh tu học. Đừng có nghĩ rằng, ḿnh tu rồi th́ ai cũng thương, ai cũng kính và ai cũng tạo thuận lợi. Không có đâu, đừng có ảo tưởng! Càng tu càng bị nhiều người chống đối, v́ giữa này phàm nhiều hơn thánh mà! Đức Phật đă dạy: pháp của ta không phải để cho chúng sinh công nhận, mà để cho người trí trong đời công nhận thôi. Giáo pháp ấy được người trí thực tập, người trí tuyên dương. Thực vậy, nếu chúng sinh có công nhận, có tuyên dương, có ca ngợi th́ cũng theo kiểu phàm tục của họ, chứ chẳng có giá trị ǵ. Thấy được điều đó, qúy vị mới có cơ hội sống và đi trọn vẹn với niềm tin của ḿnh, trọn vẹn với con đường tu tập của ḿnh. Tu tập không phải là phong trào, là ủng hộ, là lấy phiếu, nên quư vị đừng buồn và đừng có cảm giác cô đơn, khi thấy rằng, người ta đi chùa th́ ít mà tới các quán càphê hay các hư trường lại nhiều.

Lại có người đă thấm thía nhân t́nh thế thái nầy lắm, nên họ đă than:

Đường đời chật hẹp lắm người đi Cửa đạo thênh thang hiếm kẻ t́m.

Cũng phải thôi, bởi người đời vốn quen sống theo mùi tục lụy, cho nên hễ rủ ai đi uống bia uống rượu, ăn thịt, ăn cá, đánh bạc, tắm hơi, đua tranh danh lợi ... th́ dễ kiếm t́m và có nhiều nguời theo lắm. C̣n rủ người ta đi thiền, lạy Phật, ăn chay th́ mười người hết chín người lúc lắc rồi. Nên, không phải điều ǵ được nhiều người phàm tục công nhận đều có giá trị cả đâu. Do đó, chúng ta phải có cái nh́n sâu sắc, có tuệ giác lớn và niềm tin kiên định, để nhận diện sự có mặt của ḿnh trong cuộc đời và để chúng ta tránh khỏi những cảm giác cô đơn, lạc loài giữa xă hội.

Đức Phật dạy tu tập là phải biết kham nhẫn. Trong cơi Ta Bà này, chúng sinh th́ kham nhẫn và chịu đựng với sự khổ đau; Bồ tát th́ kham nhẫn sự khổ đau của chúng sinh để tuyên dương chánh pháp. Chúng sinh phải kham nhẫn theo nghiệp báo của ḿnh để mà thọ khổ, c̣n Bồ tát và Phật kham nhẫn với cái nghiệp của chúng sinh để tuyên dương chánh pháp đem lại niềm tin và trí tuệ cho họ.

Niềm tin và trí tuệ:

Niềm tin phát sinh có 4 trường hợp:

1- Niềm tin phát khởi do hiện kiến : Hiện kiến là ǵ? Đức Phật dạy cuộc đời là khổ. Vậy, nó khổ như thế nào? Nó khổ mặt nào?

Ngài nói: Già là khổ. V́ sao già lại khổ? Trí năng kém cỏi, thân thể mất chủ quyền, chân tay run rẩy, nói năng điều được, điều mất, mắt mờ, tai điếc,... già như vậy có khổ không?

Ngài nói: Bệnh là khổ. Bệnh có khổ không quư vị?

Ngài nói: Bị sống là khổ. Ḿnh sống mà không có chủ quyền chi cả, luôn luôn bị thụ động, ngay cả thụ động chết. Ḿnh sinh ra đây mà chẳng biết v́ sao ḿnh lại sinh ra nữa. Khi không nằm trong bụng mẹ và rồi chín tháng mười ngày chui ra, rồi khóc oe oe... Ví dụ bây giờ lớn như thế này mà bảo ḿnh chui vào trong bụng mẹ, ḿnh có chịu không, chắc chắn là ḿnh không chịu, mặc dù ḿnh rất thương mẹ.

Ngài nói: Chết là khổ. Ḿnh ưa sống, nhưng lại bị chết và cái chết đến không biết khi nào, cho nên bị chết là khổ.

Giữa đời này có mấy ai được sinh và có mấy ai được chết. Toàn là sống và chết một cách thụ động, không biết khi nào bị sinh ra và không biết lúc nào bị chết đi. Cuộc sống v́ thế luôn ở trong trạng thái lo âu và sợ hăi.

Cho nên, ḿnh tin vào lời Phật dạy rằng, chúng sinh bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết là đúng. Đức tin này do cái thấy thực tế đem lại.

2 - Niềm tin có từ sự suy nghiệm: Có nhiều người nói rất khoa học: cái ǵ thấy tôi mới tin, không thấy th́ không tin. Câu nói đó đúng, nhưng chỉ trong giới hạn một chừng mực nào đó mà thôi. Có bệnh nhân nào thấy vi trùng lao không? Ngay cả bác sĩ chữa bệnh lao có thấy vi trùng lao không? Thực sự chỉ có những nhà nghiên cứu về vi trùng lao mới thấy và biết rơ về vi trùng lao. Bác sĩ có thể chữa lành bệnh lao là do có kinh nghiệm về bệnh ấy, nên bác sĩ nói th́ bệnh nhân sẽ tin. Niềm tin này là do sự suy nghiệm mà phát sinh.

Có vị hỏi: có thế giới Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà không? Lời Phật dạy: có cái này th́ có cái kia, có thế giới này th́ có thế giới kia. Cho nên, có thế giới Ta Bà th́ có thế giới Tịnh Độ, có Phật Thích Ca Mâu Ni, th́ có Phật A Di Đà. Có Phật ở cơi này th́ có Phật ở cơi kia. Có Nam bán cầu th́ có Bắc bán cầu, có Đông th́ có Tây, có trên th́ có dưới, rơ ràng như vậy thôi, có ǵ là khó hiểu !

Thực ra, không phải chỉ có thế giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà, mà c̣n có vô số thế giới Tịnh độ ở phương Tây.Cảnh giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà chỉ là một trong vô số cảnh giới Tịnh độ ở phương Tây mà thôi. Các phương khác cũng vậy. Ngay ở thế giới Ta bà này cũng có vô số thế giới Tịnh độ, chứ đâu phải chỉ toàn là khổ đau thôi đâu.

Riêng thành phố Huế thôi cũng có vô số thế giới Tịnh độ. Mỗi người là một cảnh giới Tịnh độ. Có những gia đ́nh nghèo khổ tan tác toàn mặc áo rách áo vá, nhưng cũng có những gia đ́nh người ta sống rất hạnh phúc. Có những người đụng đâu khổ đó, đụng đâu bất măn đó, nhưng cũng có những người rất là an lạc thảnh thơi.

Chính v́ vậy, niềm tin phải được soi rọi bằng trí tuệ, th́ niềm tin đó mới không bị lung lay. Niềm tin phát sinh bằng sự suy nghiệm, tức là từ sự biết học hỏi và từ sự biết lắng nghe. Biết lắng nghe rồi, lại phải biết chiêm nghiệm và sau khi chiêm nghiệm rồi, lại phải biết áp dụng vào trong đời sống.

3-Niềm tin phát sinh từ sự thực nghiệm: Nghe, chiêm nghiệm, rồi đem áp dụng vào đời sống của ḿnh. Nhờ sự thực tập đời sống mỗi ngày mà niềm tin được lớn mạnh và bản thân ḿnh cũng lớn mạnh theo với niềm tin đó. Ví dụ, người bị bệnh, biết bệnh, chẩn đoán trúng bệnh, sắc thuốc uống rồi th́ bệnh lành.

Chúng ta phải tu tập hàng ngày để niềm tin của chúng ta ngày mỗi lớn mạnh, trí tuệ ngày mỗi sắc bén và sâu thẳm hơn. Nếu niềm tin không lớn lên từ sự thực tập, th́ trí tuệ làm sao có. Chúng ta cần có trí tuệ chứ không phải là trí thức quư vị ạ. Trí thức khác trí tuệ một trời một vực. Có trí thức mà không có trí tuệ vẫn khổ đau, và vẫn chưa vượt ra khỏi cái tầm thường của thế tục, dù họ có cả chục bằng tiến sĩ đi nữa. V́ vậy, tu tập là nuôi dưỡng đức tin, để từ đức tin đó, trí tuệ được phát sinh. Vừa rồi quư vị xem tivi có biết trường hợp một ông giáo sư tiến sĩ lại làm t́nh với một em bé 13 tuổi 4 tháng. Học hành cho đến học vị tiến sĩ, được xă hội công nhận là trí thức, nhưng có vượt ra khỏi cái dục vọng tầm thường phi luân lư như vậy đâu! Cho nên, trí thức chưa là cái ǵ cả, trí thức không đủ khả năng chế ngự được dục vọng, mà chỉ có trí tuệ mới có khả năng làm thay đổi cái thấp kém và nâng cái thấp kém đó đi lên. Người Phật tử không ham cầu trí thức, người Phật tử nếu có mơ ước th́ mơ ước có được trí tuệ. Trí tuệ đó có gốc rễ từ niềm tin, phát sinh do sự thực tập giới và định. Niềm tin phát xuất từ sự thực nghiệm và trí tuệ, mới là niềm tin đích thực, bởi v́ niềm tin đó có khả năng chế ngự dục vọng.

Một người nữ có thể họ không học trường lớp nào cả, nhưng họ có niềm tin sâu sắc đối với Phật Pháp Tăng. Họ sống cuộc đời rất đẹp, đẹp lắm và những hành xử của họ rất dễ thương mà một đôi khi người có hai, ba bằng tiến sĩ cũng không thể so sánh bằng được. Có vị Phật tử sống trong gia đ́nh với người giúp việc, khi dọn cơm lên người giúp việc bưng chén kiểu bị té, và vị đó đă không la đứa bé đó, vị đó chỉ hỏi: “Con có can ǵ không? Chén bể không quan trọng, con không can chi là tốt rồi!”

Để có được hành xử như vậy phải là người có trí tuệ, trí tuệ có được từ niềm tin tam bảo. Trong trường hợp đó, nếu những người có trí thức mấy đi nữa, nhưng không có được niềm tin th́ sẽ hành xử cách khác, có thể người đó bước tới và tát tai em bé và mắng: “Đồ vô ư vô tứ, cái chén người ta quư như thế đó mà để cho bể.” Thực sự, cái chén đâu quư bằng con người. Con người đang bị té, đang đau nằm đó không hỏi, lại đi hỏi cái chén đă bể chưa! Hỏi như vậy thuộc về những người tranh danh đoạt lợi tầm thường giữa đời, chứ không thuộc về người có niềm tin. Một người có đức tin trong sáng và từ đức tin trong sáng đó trí tuệ phát sinh, người đó có đời sống rất đẹp, đẹp vô cùng. Người có niềm tin và trí tuệ phát sinh từ sự thực nghiệm, là người biết áp dụng lời Phật, lời Tổ và lời các bậc Thánh hiền trong đời sống hàng ngày của ḿnh. Nh́n vào dáng đi, cách ngồi, cách nói cười, ḿnh có thể biết được người đó có niềm tin và trí tuệ hay không, mà không cần phải hỏi người đó học trường lớp nào, học ngang đâu.

4-Niềm tin phát sinh từ lời nói của các bậc Thánh trí: Là người phàm tục, ḿnh đâu có biết vô thường là ǵ nên mọi việc ḿnh đều cho là thường hết. Phật dạy: “Các pháp vô thường, thế gian vô thường, chế độ chính trị nào cũng dễ sụp đổ.” Cái biết đó là cái biết của Phật, của Tổ, của Thánh hiền. Ḿnh tin vào lời dạy của quư ngài mà ra sức thực tập, khởi tâm buông xả, tâm không bám thủ vào bất cứ cái ǵ, nhờ đó ḿnh có được hạnh phúc, an lạc.

Đối với phàm tục, ta nh́n cái ǵ cũng thấy thường cả. Làm ra cái nhà ḿnh nói cái nhà của ḿnh là thường, nhưng thực ra cái nhà của ḿnh cũng là vô thường thôi à. Nay chủ này, mai chủ khác, bản thân cái nhà rồi cũng sẽ sụp đổ, bởi v́ vô thường là tự tính của vạn hữu. Không ai làm cho ḿnh chết, nhưng rồi tự ḿnh cũng phải chết, v́ cái vô thường nó thuộc về ở nơi mỗi chúng ta. Chúng ta biết được như vậy là nhờ Phật, nhờ Tổ, nhờ các bậc Thánh trí nói lại. Chúng ta tin như vậy, thực tập như vậy, và hành xử đúng như vậy, cho nên chúng ta là những người có niềm tin và trí tuệ. Đối với thế gian này, có những người đến gần chết rồi mà vẫn c̣n ôm nhà ôm cửa, ôm bạc ôm tiền. Họ nói không được nữa, mắt họ cũng không c̣n thấy ǵ nữa, nhưng tay họ th́ cứ ṃ mẫm nắm bắt . Hạt giống chấp thủ là hạt giống lâu đời, lâu kiếp, nó tàng trữ trong tâm thức và chúng luôn luôn biểu hiện theo nghiệp chủng vậy.

ư thức được vô thường và nói ra trên mặt ngôn ngữ, chưa quan trọng, ta phải ư thức được sự vô thường đó bằng chính sự thực tập của ḿnh. áp dụng sự hiểu biết về vô thường trong đời sống của ḿnh, tức là người đó có đời sống vô trú, không bám víu bất cứ đối tượng nào và bất cứ cái ǵ. Nó đến th́ chấp nhận nó đến, nó đi th́ chấp nhận nó đi, đón nhận cái đến, cái đi một cách rất b́nh thản. Thực tập được như vậy mới là người có niềm tin và trí tuệ. Niềm tin và trí tuệ đó do cái thấy mà phát khởi, do suy nghiệm mà phát khởi, do thực tập mà phát khởi, do nghe lời dạy của ...

Bài do Rev Tiến, gửi lên, nhận qua mail
Cha Tien than men,

Da doc "Nhung dieu mong uoc cua mot linh muc" do cha Khai gui. Rat hay. Canh xin gui cha Tien va cac cha bai chia se nay de doc. Minh thu doc mot it suy tu kieu Phat xem no co giup ich gi duoc gi cho cuoc song tran ai cua minh khong. Theo Canh thi no cung hay lam day. Doc xong bai NIEM TIN VA TRI TUE cam thay long duoc thanh than hon. Dao Phat cung hay lam chu.

Chuc vui khoe va duoc moi on lanh Chua ban.

NTC

 


 NB của WebAdmin: "Bài gửi qua mail bị mất đoạn cuối. Sẽ update khi nhận được đầy đủ .
Kính cáo cùng tác giả, người gửi và các vị độc giả .


Xem các bài viết khác trong Rev. Trần Minh Tiến, Khoá 7 GHHV Đà Lạt Việt Nam.