NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO CÁC GIA Đ̀NH VIỆT NAM
TRONG XĂ HỘI PHÁP HIỆN NAY

Thánh Gia

 

 

 

 

 

 

(Bài gợi ư, nói trong Khóa Hội Thảo thứ 12
của Ban Mục Vụ Giới Trưởng Thành
Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp,
họp từ 01 đến 04/05/2008, taị La Puye, Poitiers, Pháp)

 

 

Kính thưa quí Cha,
Kính thưa quí Ông Bà Đại Diện
trong Ban Mục Vụ giới trưởng thành, các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Pháp

 Người Việt ta, ai cũng xưng ḿnh là ḍng dơi Âu Lạc. Âu Lạc là tên của một cặp hôn nhân thủy tổ của ḍng giống Việt Nam. Gia đ́nh bởi vậy giữ một vai tṛ quan trọng trong tiềm thức suy lư, trong sinh hoạt tổ chức và trong sáng tạo ứng xử của mỗi cá nhân và của xă hội Việt Nam. Tinh thần gia đ́nh này được biểu lộ một cách rơ rệt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ Việt Nam là một ngôn ngữ gia đ́nh. Những thứ bậc, vị trí gia đ́nh, từ cố cụ, ông bà, bác chú, cô d́, cậu mợ, anh chị em, con cháu,...đều đă được xử dụng để gọi thưa, xưng hỏi trong ngôn ngữ thông thường hàng ngày với tất cả mọi người, thân quen hay xa lạ. Văn hóa việt nam là văn hóa gia đ́nh. Nếu Văn hóa việt nam, gốc Âu Lạc, ăn rễ sâu vào Khổng Lăo Phật và đặt nặng đời sống tập thể gia đ́nh và tâm linh, th́ văn hóa Âu Châu, gốc Hy Lạp, Rô Ma và Kytô lại chú tâm đến cá nhân và vật chất.

Từ những năm 1970, số người việt nam hồi hương hay tỵ nạn ở Pháp càng ngày càng đông. Sau hơn bốn chục năm sống tại Pháp, người việt nam có hội nhập xă hội cao. Đại đa số có công ăn việc làm. Đa số có nhà cửa. Đa số có con cái học hành tốt. Về vấn đề vật chất có thể nói rằng người việt nam thành công trong xă hội Pháp. Nhưng dưới khía cạnh văn hóa và tâm linh, từ những năm 2000, nhiều vấn đề đă được các cộng đoàn nêu lên, mà vấn đề căn bản là những thách đố. Thách đố xă hội, thách đố văn hóa, thách đố đức tin, thách đố giáo dục, thách đố gia đ́nh…

Cha Tổng Đại Diện các tuyên úy việt nam bên cạnh Hội Đồng Giám Mục Pháp HÀ QUANG MINH đă chỉ định tôi gợi ư với Quí Cha và Quí Ông Bà Đại Diện các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp thảo luận về đề tài : « Những thách đố cho các gia đ́nh việt nam trong xă hội Pháp hiện nay ». Nói khác đi, Ban Tuyên Úy muốn chúng ta chia sẻ và trao đổi với nhau xem : Các gia đ́nh việt nam đang sống tại Pháp hiện nay có gặp những thách đố về gia đ́nh không ? Nếu có, những thách đố đó là những thách đố nào ? Từ đâu mà đến ? Nguyên nhân tại đâu ? căng cương ra sao ? Có thể giải đáp được không ? Giải đáp thế nào ? Trong bài gợi ư này, tôi xin tŕnh bày một số thách đố hiện nay trong xă hội pháp cho các gia đ́nh việt nam và nêu ra một vài giải đáp.

 

1. Bảy chức năng gia đ́nh theo quan niệm Việt Nam

Tư tưởng việt nam về gia đ́nh đă được cha ông ta tóm tắt và truyền lại cho con cháu qua câu ca dao rằng :

« Vợ chồng là nghĩa tào khang
Chồng ḥa vợ thuận, nhà thường yên vui
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no »

Gia đ́nh là một định chế xă hội căn bản, được chuẩn bị bằng nhiều giai đoạn và nghi lễ khác nhau mà nghi lễ quan trọng nhất là lễ cưới, có sự công khai ưng thuận và kư kết trước sự chứng giám của làng xă, giáo xứ, bà con bốn họ. Định chế gia đ́nh này có nhiều chức năng, mà chính yếu là bảy chức năng đă được gói ghém trong câu ca dao trên.

1a). T́nh yêu và tính dục : Gái trai, dẫu có là « gái sắc trai tài » th́ cũng vẫn là gái trai. Nhưng nếu được kết hôn, th́ sẽ được gọi là vợ chồng. Tên vợ chồng đă được dùng thay cho từ ngữ gái trai. Vợ chồng là sự nối kết giữa hai người nữ nam bằng t́nh dục và t́nh yêu, qua hôn nhân, để cùng chung sống với nhau. Vợ chồng, định chế xă hội, cũng gọi là hôn nhân, đă công khai chấp nhận nhu cầu t́nh yêu và t́nh dục của một người nam, con trai và một người nữ, con gái. Đó là chức năng thứ nhất của hôn nhân.

1b). Tương trợ xă hội và chung thủy yêu thương: Vợ chồng là một trong năm đẳng cấp xă hội cổ truyền. Nếu đạo quân thần trọng ở chữ trung, đạo phụ tử nặng ở chữ hiếu, cũng như đạo huynh đệ quí ở chữ đễ và đạo bằng hữu nặng ở chữ tín, th́ đạo vợ chồng sâu ở chữ nghĩa. Đó là ư nghĩa của thành ngữ ‘Nghĩa tào khang’. Trong mạch văn ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’, mà vợ chồng là một định chế, chữ ‘nghĩa’ là đức tính căn bản của vợ chồng, đă được dùng để định nghĩa cho hôn nhân. Nó là một tương quan trong năm tương quan: Trung, Hiếu, Nghĩa, Đễ, Tín. Nó là một định chế trong năm định chế: Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Phụ, Huynh-Đệ, Bằng-Hữu. Chữ ‘nghĩa’ ở đây bao hàm ư nghĩa của một định chế tốt, phải đạo, được xă hội công nhận. « Tào khang » là một từ ngữ rút ra từ câu trả lời của Tống Hoàn Công cho vua Quang Vơ. Số là vua Quang Vơ có ngưới em gái goá chồng, tên là Hồ Dương công chúa. Bà này đem ḷng yêu thương quan Tống Hoàn Công và nhờ anh là vua Quang Vơ dạm hỏi, mối mai. Vua Quang Vơ bèn kiếm dịp gạ hỏi xem ư Tống Hoàn Công thế nào. Ngày kia, vua hỏi Tống Hoàn Công rằng: ‘Trẫm nghe thiên hạ nói giầu đổi bạn, sang đổi vợ. Vậy ư khanh thế nào? Tống hoàn Công là người có nghĩa, có đức độ và đă có vợ, lấy nhau từ thuở hàn vi, bèn trả lời rằng: ‘Tào khang chi thê bât khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong’, nghĩa là vợ chồng lấy nhau từ lúc khổ cực chẳng nên bỏ, bạn bè kêt giao từ thuở nghèo hèn chẳng nên mất. Tào khang dịch là khổ cực là dịch theo nghĩa bóng. Nghĩa đen ‘tào’ là cái máng, cái chậu cho súc vật ăn, ‘khang’ là cám gạo. ‘Nghĩa tào khang’, như vậy, là môt định chế phải đạo, lấy sự hy sinh, trung tín, chung thuỷ làm đầu. « Nghĩa tào khang » là chức năng thứ hai của hôn nhân, chức năng tương trợ xă hội và chung thủy yêu thương.

1c). Điều ḥa t́nh cảm : Gia đ́nh là nơi mà mỗi thành phần có thể chia sẻ t́nh cảm cho nhau, trút bỏ những căng thẳng nghề nghiệp, những đụng độ xă hội, những cam go cuộc sống, khuyến khích và tăng cường ḷng tự tin, đức nhẫn nhục, chí phấn đấu,…để tạo nên cái cảnh : ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ : chồng hoà, vợ thuận và gia đ́nh có đạo đức ngũ thường là chức năng thứ ba của gia đ́nh, chức năng điều ḥa t́nh cảm.

1d). Truyền sinh : Gia đ́nh là dụng cụ truyền sinh, là định chế duy nhất trong xă hội được công nhận, để chính thức « Sinh con » nối dơi tông đường. Theo sinh học th́ sinh con là việc tự nhiên. Theo tâm lư xă hội học th́ sinh con là một nhu cầu truyền sinh để bảo vệ ḍng giống. Theo đạo lư Việt Nam th́ sinh con là một điều quí, mà ai cũng mong muốn có và có nhiều. Bởi vậy, mới có lời chúc ‘tam đa’, ‘ngũ phúc’ vào dịp cưới hỏi và được lặp lại hằng năm vào dịp tết nhất. Ba cái nhiều ta hằng chúc nhau là ‘đa tử, đa tôn, đa phú quí’, nhiều con, nhiều cháu, nhiều giầu sang. Năm cái phúc ta vẫn mong là ‘phú, quí, thọ, khang, ninh’, giầu có, sang trọng, sống lâu, khoẻ mạnh và b́nh an. Sinh con là chức năng thứ tư của gia đ́nh, chức năng truyền sinh

1e). Giáo dục và xă hội hóa : Có con là điều tốt, có nhiều con là điều tốt hơn. Nhưng có con thành thân thành người mới là chính yếu quan trọng. Muốn được thế, cha mẹ phải làm sao cho chúng ‘ra’. Chữ ‘ra’ nghĩa thứ nhất là ‘ra khỏi’ như ‘ra khỏi nhà’. Nghĩa thứ hai là ‘trở nên, trở thành, hoá ra’. Chữ ‘ra’ này không ǵ khác hơn là chữ ‘giáo dục’ mà ta dùng hiện nay. Giáo dục, như chữ ‘ra’, đầu tiên có nghĩa là việc làm cho ta ra khỏi sự tối tăm, dốt nát, non dại, và sau đó đưa ta trở thành thông bác, khôn ngoan, đạo đức. Sinh con là một phúc đức của vợ chồng và giáo dục con thành thân thành người là bổn phận của cha mẹ. Mục tiêu giáo dục con cái mà cha mẹ ở gia đ́nh phải đạt đến là thành thân thành người. « Ra thân ngừời » rơ rệt ám chỉ chức năng thứ năm của gia đ́nh.

1f). Lao động và kinh tế : Nói ‘làm ăn’ là để phân biêt với ‘làm’. Nếu chỉ có ‘làm’ không, th́ chữ làm là làm việc, mà đức tính cần cù là căn bản. ‘Làm ăn’ đây, nói theo kiểu ngày nay là hành nghề. Và việc hành nghề phải có lời để kiếm ăn. Chúng ta lưu ư tính cách thiết thực và mục đích cận kề của nó : làm để ăn, hoặc ăn để làm. ‘Làm ăn’ bởi vậy bao hàm tư cách hành nghề, như ‘làm chủ, làm thợ, làm công, làm mướn, làm thuê, làm khoán,...’. ‘Làm ăn’ cũng bao hàm cái nghề ḿnh làm, như ‘làm nông, làm thày, làm thợ, làm quan, làm buôn, làm bán,...’ Trong xă hội cổ truyền Việt Nam, có bốn ngành kinh tế để cho người ta làm ăn. Đó là làm hành chánh (sĩ), làm canh nông (nông), làm công kỹ nghệ (công), làm thương mại (thương). Trong tổ chức kinh tế tân tiến hiện đại, ngàn vạn nghề khác nhau, cũng qui về bốn ngành nghề căn bản này. Trước nhất là ba lănh vực kinh tế có tính cách thị trường : nông nghiệp, công nghiệp kỹ nghệ và thương măi dịch vụ. Thêm một lănh vực không có tính cách thị trường, đó là công chức hành chánh. Làm ăn ở đây không nhất thiết phải làm nghề ǵ, nhưng quan trọng là phải đạt được hai chỉ tiêu sau dây : thịnh vượng và ấm no. Chúng ta lưu ư quan niệm quản lư làm ăn rất hiện đại của Việt Nam. Đó là quan niệm quản lư theo mục tiêu. Chỉ tiêu thứ nhất là cho công việc ḿnh làm, xí nghiệp ḿnh điều khiển được thịnh vượng. Chỉ tiêu thứ hai là cho gia đ́nh ḿnh, đời ḿnh đến đời con, có chỗ chi tiêu, có ăn no mặc ấm. Sự phân chia lợi tức cũng đă được phác họa. Tại sao thịnh vượng ấm no lại là một sứ mệnh của gia đ́nh ? Tại v́, nếu không có ăn no mặc ấm, là những nhu cầu tối thiểu để sinh tồn, và nếu không có thịnh vượng để thỏa măn những đ̣i hỏi cần thiết khác, th́ làm sao có thể có phương tiện để dậy con thành người ? Làm sao có điều kiện thuận lợi để làm cho gia đ́nh được yên vui hạnh phúc ? Thiếu ấm no thịnh vượng, th́ định chế gia đ́nh có nhiều nguy hiểm bị suy nhược và tan ră. « Làm ăn thịnh vượng » chỉ rơ chức năng thứ sáu, chức năng lao động kinh tế của gia đ́nh.

1g). Quốc gia dân tộc : Thiếu ấm no thịnh vượng, th́ ở mức độ cao hơn, là mức thôn xóm, xă làng, quốc gia, xă hội, th́ xă hội nào có nhiều gia đ́nh nghèo đói là xă hội có nhiều nguy hiểm, mà nguy hiểm lớn nhất là bất công, tham nhũng và độc tài. Rồi từ bất công, tham nhũng, độc tài, sinh ra loạn lạc, chiến tranh. Từ bất công, tham nhũng, độc tài, loạn lạc, chiến tranh sinh ra nghèo đói, ngu dân. Phải hiểu cái ṿng luẩn quẩn này, thi mới hiểu được tư tưởng khôn ngoan của Việt Nam, đưa ‘(Làm ăn thịnh vượng) đời đời ấm no’ làm chức năng thứ bảy của hôn nhân, chức năng bảo vệ và phát triển quốc gia dân tộc.

Như vậy, qua một câu ca dao vắn gọn, ông bà ta đă truyền lại cho con cháu một quan niệm phong phú về gia đ́nh với bảy chức năng rơ rệt : t́nh yêu tính dục, tương trợ xă hội trong chung thủy yêu thương, điều ḥa t́nh cảm, truyền sinh, xă hội hóa và giáo dục, lao động kinh tế, quốc gia dân tộc. Quan niệm đời sống gia đ́nh việt nam này có thích hợp trong xă hội Pháp không ?

 

2. Ba nét độc đáo của đời sống gia đ́nh ở Pháp

Đời sống gia đ́nh ở Pháp có những dữ kiện chính sau đây :

2a). Về cấu trúc gia đ́nh, bảng thống kê làm vào năm 2005 nêu ra năm cấu trúc : độc thân, một phụ huynh, không con, có con, phức tạp và cho biết chiều tăng giảm, từ 1968 đ ến 1999.

Số gia đ́nh độc thân, đàn ông hay đàn bà, càng ngày càng đông, nhất là đàn bà.: trên 100 đơn vị gia đ́nh, từ 20,2% là độc thân vào năm 1968 đă tăng lên 31, 0% vào năm 1999

Số gia đ́nh một phụ huynh cùng theo một chiều tăng : từ 2,9% (1968) lên 7.4% (1999).

Số gia đ́nh không con cũng tăng, t ừ 21.1% (1968) l ên 24.8% (1999)

Số gia đ́nh có con, ngược lại, lại giảm, từ 36% (1968) trụt xuống 31.5% (1999)

Số các gia đ́nh phức tạp, trong đó có các gia đ́nh tam đại hay tứ đại đồng đường th́ lùi rơ rệt, từ 19.8% (1968) tụt xuống c̣n 5.3% (1999).

2b). Về việc lập gia đ́nh và ly dị, bảng thống kê làm vào tháng giêng 2008 cho biết về số gia đ́nh được lập và số gia đ́nh ly dị, từ năm 1994 đến năm 2007.

Số gia đ́nh được hỏi cưới, từ 261037 vào năm 1994 tăng lên 305385 vào năm 2000 để tụt xuống 274084 vào năm 2006

Số gia đ́nh ly dị, từ 121946 vào năm 1995, cứ từ từ tăng dần hằng năm, lên tới 139147 vào năm 2006.

2c). Về luật pháp và chính sách gia đ́nh. Nước Pháp có một kho luật rất dồi dào về gia đ́nh, từ luật hôn nhân, ly dị, đến quyền cha mẹ, con cái, ăn ở không hỏi cưới,…. đặt căn bản trên công lư và b́nh đẳng. Thêm vào đó một chính sách gia đ́nh rất nhân bản, đặt nền tảng trên t́nh huynh đệ, đă lập ra những phụ cấp gia đ́nh, giúp nhiều gia đ́nh thoát cảnh khốn cực.

Tổ chức gia đ́nh ở Pháp, trên căn bản về các chức năng gia đ́nh, không khác lắm đối với quan niệm gia đ́nh việt nam. Bảy chức năng mà người việt nam gắn cho định chế gia đ́nh xem ra được xă hội Pháp công nhận. Sự khác biệt không ở phạm vi chức năng gia đ́nh, nhưng ở cách thực hiện. V́ quan niêm « cá nhân chủ nghĩa », xă hội Pháp dành cho mỗi cá nhân một sụ tự do rất lớn, có thể vượt trên những ràng buộc của tập tục xă hội gia đ́nh. Xă hội Pháp cho phép thanh niên nam nữ tự do tính dục ngoài hôn nhân, cho phép dùng những phương pháp khoa học để điều ḥa sinh sản, cho phép rút lại lời giao ước hôn nhân chung thủy bằng ly thân, ly dị, cho phép khế ước sống chung cùng phái tính.

Ngoài ra, nước Pháp, v́ là một nước kỹ nghệ và là một nước đă tiếp nhận nhiều sắc tộc ngoại kiều, nhất là những ngoại kiều gốc thuộc địa á phi cũ, thấy giăi bày ra trước mắt một số sự kiện khác về hôn nhân, như hôn nhân dị giáo và dị chủng. Một số vấn đề gia đ́nh cũng gặp những khó khăn, như Uy quyền, uy tín cha mẹ, Giáo dục con cái, Liên lạc, thân t́nh họ hàng, Hiếu thảo với cha mẹ, Tôn kính ông bà tổ tiên.

Những khác biệt và khó khăn vừa nêu trên có đặt vấn đề và trở thành thách đố cho gia đ́nh việt nam ở Pháp không ? Nhiều người, không chỉ việt nam, xác nhận và bảo rằng đó là những thách đố :

• 1- Tự do tính dục ngoài hôn nhân,
• 2- Dùng thuốc điều ḥa sinh sản,
• 3- Ly thân, ly dị,
• 4- Khế ước sống chung cùng phái tính,
• 5- Hôn nhân dị giáo, dị chủng,
• 6- Uy quyền, uy tín cha mẹ bị giảm,
• 7- Giáo dục con cái bị khó khăn,
• 8- Liên lạc, thân t́nh họ hàng thành lỏng lẻo,
• 9- Hiếu thảo với cha mẹ bị lơ là,
• 10- Tôn kính ông bà tổ tiên bị biếng trễ.

Nguyên nhân khiến chúng trở thành thách đố là v́ cái ngôn ngữ rất gia đ́nh là tiếng việt đă bị lơ là. Từ đó, cái cốt lơi của văn hóa việt nam là chữ « HIẾU » cũng lu mờ. Chữ Hiếu không chỉ là cốt lơi của văn hóa gia đ́nh việt nam mà c̣n là cốt lơi của văn hóa việt nam. Ta có thể bảo : « Người có hiếu chưa hẳn đă là việt nam ». Nhưng « không thể là việt nam, nếu không có hiếu ».

 

3. Mười thách đố cho các gia đ́nh công giáo việt nam tại Pháp

3a. Đức Thánh Cha Gioan Phao lô, trong Tông Huấn gia đ́nh, viết vào năm 1981, khi nêu ra những khía cạnh tích cực và tiêu cực của đời sống gia đ́nh hiện nay, đă nhắc đến những sự thoái hóa đáng lo ngại : 1- một quan niệm sai lầm trên lư thuyết và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng, 2- những mập mờ rất trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, 3- những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đ́nh đă cảm nghiệm, 4- con số các vụ ly dị gia tăng, 6- vết thương về sự phá thai, 7- việc dùng các phương pháp tuyệt sản ngày càng nhiều, 8- việc h́nh thành một năo trạng đích thị là năo trạng chống thụ thai. 9- trong các nước thuộc thế giới thứ ba, các gia đ́nh thường thiếu thốn từ những phương tiện căn bản để sống c̣n, như thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất. 10- Tại các nước giàu có hơn th́ ngược lại, người ta quá thoải mái và nặng óc hưởng thụ, nhưng trớ trêu thay sự thoải mái và óc hưởng thụ ấy lại gắn liền với một thứ âu lo nào đó, cảm thấy bấp bênh trước tương lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh thêm những sự sống mới: người ta không c̣n coi sự sống như là một lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm phải tránh né.

Ngài vạch ra nguyên nhân của những khía cạnh tiêu cực trên. Theo ngài, « Căn nguyên của những hiện tượng tiêu cực ấy thường là sự suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do, người ta không c̣n coi tự do như khả năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đ́nh, nhưng coi nó như một năng lực tự lập để tự xác định chính ḿnh, thường là chống lại người khác, và để lo cho sự thoải mái ích kỷ của ḿnh ».

Và ngài đă đưa ra một giải đáp : « Như thế, chỉ có việc giáo dục t́nh yêu ăn rễ trong đức tin mới có thể đưa người ta đến chỗ có khả năng đọc được những dấu chỉ thời đại nơi việc diễn tả cụ thể của t́nh yêu hai mặt ấy ». Ngài viết :

Hoàn cảnh trong đó các gia đ́nh đang sống hiện có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực: một số khía cạnh là dấu cho thấy ơn cứu độ của Đức Ki-tô đang tác động trong thế gian, một số khía cạnh khác là dấu cho thấy sự chối từ của con người đang chống lại t́nh thương của Thiên Chúa.

Một đàng, người ta thấy có một ư thức sống động hơn về tự do cá nhân và một sự chú ư nhiều hơn đến phẩm chất của các tương quan liên vị trong hôn nhân, đến sự nâng cao phẩm giá phụ nữ, đến sự sinh sản có trách nhiệm, đến việc giáo dục trẻ em; thêm vào đó là ư thức về nhu cầu phải phát triển những liên hệ giữa các gia đ́nh để giúp đỡ lẫn nhau về mặt tinh thần và vật chất, cũng như khám phá lại sứ mạng Hội Thánh riêng biệt của gia đ́nh và trách nhiệm của gia đ́nh trong việc xây dựng một xă hội công b́nh hơn. Nhưng đàng khác, cũng không thiếu những dấu hiệu cho thấy một sự thoái hoá đáng lo ngại về một số giá trị căn bản: một quan niệm sai lầm trên lư thuyết và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng, những mập mờ rất trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đ́nh đă cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp tuyệt sản ngày càng nhiều, việc h́nh thành một năo trạng đích thị là năo trạng chống thụ thai.

Căn nguyên của những hiện tượng tiêu cực ấy thường là sự suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do, người ta không c̣n coi tự do như khả năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đ́nh, nhưng coi nó như một năng lực tự lập để tự xác định chính ḿnh, thường là chống lại người khác, và để lo cho sự thoải mái ích kỷ của ḿnh.

Một sự kiện khác cũng đáng cho chúng ta chú ư: trong các nước thuộc thế giới thứ ba, các gia đ́nh thường thiếu thốn từ những phương tiện căn bản để sống c̣n, như thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất. Tại các nước giàu có hơn th́ ngược lại, người ta quá thoải mái và nặng óc hưởng thụ, nhưng trớ trêu thay sự thoải mái và óc hưởng thụ ấy lại gắn liền với một thứ âu lo nào đó, cảm thấy bấp bênh trước tương lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh thêm những sự sống mới: người ta không c̣n coi sự sống như là một lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm phải tránh né.

Như thế, t́nh cảnh cụ thể trong đó gia đ́nh đang sống quả là một sự pha trộn giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự pha trộn ấy cho thấy lịch sử không đơn thuần là một sự tiến bộ nhất thiết tiến về cái hay hơn, tốt hơn, nhưng là một diễn biến của tự do, và hơn thế nữa c̣n là một cuộc chiến giữa những mối tự do đối nghịch nhau, nghĩa là, nói theo thánh Augustinô, một cuộc xung đột giữa hai t́nh yêu: một bên là ḷng yêu mến Thiên Chúa đến độ coi rẻ chính ḿnh và một bên là ḷng yêu ḿnh đến độ coi rẻ Thiên Chúa. Như thế, chỉ có việc giáo dục t́nh yêu ăn rễ trong đức tin mới có thể đưa người ta đến chỗ có khả năng đọc được những dấu chỉ thời đại nơi việc diễn tả cụ thể của t́nh yêu hai mặt ấy.

3b. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, mới đây, trong thơ mục vụ 2002, cũng đă nêu ra những nguy cơ của gia đ́nh việt nam : 1- hưởng thụ ích kỷ, 2- lối sống buông thả sa đà, 3- những trường hợp ly dị, 4- suy giảm ư thức về phẩm giá sự sống, 5- một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; 6- một số người trẻ phải rời gia đ́nh đến làm việc ở nơi xa lạ, nên dễ bị bóc lột sức lao động và mắc phải những tệ nạn xă hội như x́ ke, ma tuư hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; 7- một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang, 8- sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xă hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đ́nh như tự do luyến ái, 9- sống chung không cưới xin, 10- dễ dàng sử dụng bạo lực...

Các ngài đă phân tích rơ ba nguyên nhân của những nguy cơ trên. Đó là : 1- Nguyên do dễ thấy nhất là tiến tŕnh "công nghiệp hoá, đô thị hoá" ; 2- hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để t́m việc làm và 3- sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xă hội.

Và các ngài đă đưa ra hai giải đáp : 1 Trước hiện t́nh nêu trên, là người Công giáo, chúng ta hăy nh́n đời sống hôn nhân và gia đ́nh dưới ánh sáng Mạc khải nơi T́nh Yêu tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa, 2- tất cả mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đ́nh. Các ngài viết :

Anh chị em thân mến, Nói đến gia đ́nh Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lư đức tin. Gia đ́nh ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đ́nh ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đ́nh ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đ́nh ấy sống liên đới với các gia đ́nh khác trong t́nh làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tạo nên một h́nh ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả t́nh huynh đệ Kitô giáo. Chính v́ thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là "Dân Thiên Chúa, Thân Ḿnh Chúa Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần" thường được người Việt Nam h́nh dung như một gia đ́nh.

Tuy nhiên, h́nh ảnh đẹp về gia đ́nh Việt Nam hiện nay đang có nguy cơ mờ nhạt dần đi. Nguyên do dễ thấy nhất là tiến tŕnh "công nghiệp hoá, đô thị hoá". Tiến tŕnh này tự nó đem lại nhiều phúc lợi cho xă hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đ́nh, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ư thức về phẩm giá sự sống.

Cùng với tiến tŕnh này là hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để t́m việc làm. Hậu quả là một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đ́nh đến làm việc ở nơi xa lạ, nên dễ bị bóc lột sức lao động và mắc phải những tệ nạn xă hội như x́ ke, ma tuư hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang.

Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xă hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đ́nh như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực...

Trước hiện t́nh nêu trên, là người Công giáo, chúng ta hăy nh́n đời sống hôn nhân và gia đ́nh dưới ánh sáng Mạc khải nơi T́nh Yêu tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. …..

"Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đ́nh" (ĐSGĐ số 86). V́ thế, tất cả mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đ́nh.

 

Kính thưa quí cha,
Kính thưa quí ông bà đại diện,

Phải gọi những thách đố gia đ́nh là ǵ ? là khó khăn, là đ̣i hỏi, là nguy cơ, là thoái hóa ? Tại sao chúng là những thách đố ? Những thách đố ấy là những cái nào ? Nguyên nhân từ đâu ? Sẽ phải được giải quyết ra sao ?

Chúng ta hôm nay gọi chúng là thách đố v́ thấy chúng đưa ra những cư xử dễ dàng, như muốn thách thức ta, muốn thử sức với ta, xem ta có đủ can đảm vượt khó, có đủ tŕ chí đến cùng, có đủ mưu trí giải trừ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi chúng là những sự thoái hóa đáng lo ngại. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gọi chúng là những nguy cơ của gia đ́nh việt nam.

Chúng là những trách đố, v́ chúng muốn lôi ta ra khỏi đường đi của tổ tiên, « văn hóa gia đ́nh Âu Lạc » ta. V́ chúng muốn tách ta ra khỏi « văn hoá t́nh yêu Kitô ». Ví chúng muốn kéo ta xa với « ánh sáng Mạc Khải nơi T́nh Yêu cứu độ của Thiên Chúa ».

Nguyên nhân đưa ra những thách đố ấy là do một quan niệm suy đồi về tự do trong những nước kỹ nghệ giầu có và sự cùng cực khó nghèo trong những nước chậm tiến, do tiến tŕnh công nghiệp hóa và đô thị hóa, do sự di dân ồ ạt về thành phố, do sự phát triển nhanh chóng và thiếu trách nhiệm của các phương tiện truyền thông.

Và cách giải quyết những thách đố này, theo văn hóa việt nam, hay nhất là trở về với chữ hiếu, cập nhật cách sống theo chữ hiếu. Chữ « HIẾU » càng dễ dàng hơn cho người việt nam công giáo, v́ văn hóa t́nh yêu Tin Mừng Kytô xây đắp và củng cố chữ hiếu để đi lên chữ « TIN ». Đức Thánh Cha Phao lô II và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam khuyến cáo giải quyết những thoái hóa và nguy cơ gia đ́nh bằng con đường « giáo dục t́nh yêu trong đức tin, theo ánh sáng Mạc Khải, để quan tâm bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đ́nh ».

Xin cám ơn quí cha và quí ông bà đại diện đă chú ư theo dơi lời gợi ư. Xin kính chúc quí cha và quí ông bà thảo luận tích cực và t́m ra những giải đáp cụ thể cho những thách đố gia đ́nh mà chúng ta gặp phải trong đời sống hiện nay tại Pháp.

Trần Văn Cảnh
(Poitiers, ngày 02/05/2008)

 


Tài liệu tham khảo :

• ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn gia đ́nh, 1981
• Hội Đồng Giám Mục Việt nam, Thư Mục Vụ « Thánh hóa Gia đ́nh, 2002
• INSEE, Population/ Famille /Situation matrimoniale trong
http://www.insee.fr/fr/ffc/chifcle_liste.asp?theme=2&soustheme=3&souspop=
• Trần Văn Cảnh, Một tư tưởng b́nh dân việt nam về hôn nhân và gia đ́nh, trong Đường vào t́nh yêu ; Paris, Giáo Xứ Việt Nam, 2000, tr. 205-217.
• Trần Văn Cảnh, Dẫn nhập vào văn hóa gia đ́nh việt nam, trong Văn hóa gia đ́nh ; Paris : Giáo xứ Việt nam, 2006, tr. 13-70.
• Trần Văn Cảnh, Mục vụ gia đ́nh Giáo Xứ Việt Nam Paris, 2007, 74 trang, trong
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=detail&ib=309
http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/Gs.Canh/MucVuXaHoi/chuong10.htm

 


Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.