“HAECCEITAS” (Sở ngă tính) và “DASEIN” (Hiện tính thể)

1 2

Choir

 


Tóm lược:

Haecceitas (Sở ngă tính) và “Dasein” (Hiện tính thể)

Năm 1915, xuất hiện tại Freiburg bản luận án phong hàm Giáo sư của Heidegger mang tên “Lư thuyết các Phạm trù và Ư nghĩa trong học thuyết Duns Scotus”. Heidegger tin rằng tư tưởng của Scotus, một triết gia sắc sảo vào bậc nhất về luận lư và hiện sinh của thời Trung cổ, cùng với các nguồn của Kinh viện, có thể sẽ giúp ông thành công trong việc giải quyết một vấn đề hiện đại: “Vấn đề trạng thái của ư nghĩa luận lư”. Hơn nữa, mối tương quan Heidegger-Scotus ngày càng trở nên rơ ràng hơn trong các bài giảng ban đầu của Heidegger ở Đại học Freiburg (1919-23). Mối tương quan học thuật này giải thích lư do của sự nghiên cứu so sánh về hai khái niệm đặc trưng của họ, đó là “Dasein”(Hiện tính thể) và “Haecceitas” (Sở ngă tính).

Thật ra, qua hai khái niệm này, cả Heidegger và Duns Scotus đều muốn nhấn mạnh đến cá nhân tính, độc nhất tính, tính cao cả và phẩm giá con người. Tuy nhiên, do hai bối cảnh lịch sử và văn hóa rất khác xa nhau, “nhất là do khái niệm con người có về chính bản thân ḿnh”, dẫn đến một số dị biệt trong quan điểm của hai vị. V́ vậy, mặc dầu cả hai đều phát hiện “nỗi cô đơn tột cùng”, “tính-thể-qui-tử” của mỗi một con người, cách giải thích của hai vị về vấn đề này là không giống nhau: trong khi một vị xem đó như là sự kết thúc của mọi sự, của mọi tại-thể-tính, một vị - theo linh đạo truyền thống của Ḍng Phanxicô mà ngài là một thành viên – lại xem hữu thể ấy như là “Người chị”, như một chặng đường của con người mở cửa vào cuộc sống mới vượt ngoài trí tưởng tượng của chúng ta. Sự khác biệt về quan niệm này bắt nguồn từ sự hiểu biết rất khác nhau về ư nghĩa của hiện hữu tính, và kết quả là nó ảnh hưởng sâu xa đến thái độ sống của các vị: “Điều mà vị này diễn tả trên b́nh diện khái niệm th́ vị kia lại thể hiện trong chính cuộc sống của ḿnh.”

Từ ngữ quan trọng: Hữu thể, Haecceitas, Dasein, Tại-thể-tính, Tính-thể-qui-tử, Nỗi cô đơn tột cùng, Ngẫu nhiên tính, Cá nhân tính, Phẩm giá, Độc nhất tính.

 

 

“John Duns Scotus (1266-1308) và Martin Heidegger (1889-1976)” :

“Haecceitas” (Sở ngă tính) và “Dasein” (Hiện tính thể)

Chào đời ngày 26-9-1889 tại Messkirch, miền tây nam nước Đức, có cha mẹ là người Công giáo đạo đức, Heidegger học triết học với tư cách là một ứng sinh trẻ cho chức linh mục Công giáo, “nhưng sau hai năm [1] học thần học tại Đại học Freiburg, chứng đau tim tái diễn làm tắt các hy vọng này.”[2] Những năm học thần học như thế đă giúp Heidegger làm quen với triết học Kinh viện thời Trung cổ theo phái triết gia Aristotle. Thời gian ấy, Heidegger gặp một vấn đề có tầm quan trọng hiện đại: “Vấn đề trạng thái của ư nghĩa luận lư”. “Xác tín rằng các nguồn của Kinh viện – và nhất là Scotus, một triết gia sắc sảo vào bậc nhất về luận lư và hiện sinh của thời Trung cổ, có thể giúp ông thành công trong việc giải quyết các vấn đề này”, nghĩa là “một vấn đề mang ư nghĩa siêu h́nh: luận lư học đ̣i hỏi “viễn ảnh đích thực của nó”, đó là siêu h́nh học” (FS 2. 406)[3] . Ông muốn thực hiện cuộc đối thọai với Scotus từ lập trường của triết gia Edmund Husserl và luận lư học hiện đại của Đức[4]. Việc này dẫn đưa Heidegger viết cuốn sách nổi tiếng về Duns Scotus, “Lư thuyết các Phạm trù và Ư nghĩa trong học thuyết Duns Scotus”, luận án phong hàm Giáo sư tại Đại học Freiburg năm 1915,”[5] và bài giảng đại học năm 1915 mang tựa đề “Khái niệm thời tính trong khoa học lịch sử.” McGrath cho rằng “món nợ của Heidegger với Doctor Subtilis (Tiến sĩ tế vi, Scotus thường được gọi như vậy) sống cuối thế kỷ 13 được thể hiện ở trang đầu cuốn “Thể tính và thời tính”, trong đó ông không hỏi về hữu thể, nhưng hỏi về ư nghĩa của hữu thể, và ông viết: “biên độ khả thể tính th́ rộng lớn hơn thực thể tính.[6]

Các chi tiết lịch sử này về mối liên hệ giữa Heidegger[7] , một triết gia hiện tượng luận và hiện sinh nổi tiếng của thế kỷ 20, và một triết gia kiêm thần học gia sống vào cuối thế kỷ 13, đă dẫn tôi cố gắng so sánh đặc tính riêng về triết học của hai người: “Dasein” và “Haecceitas.” Qua hai từ ngữ này, Scotus và Heidegger đều muốn nhấn mạnh đến đến cá nhân tính, độc nhất tính, tính cao cả và phẩm giá con người. Tuy nhiên, do hai bối cảnh lịch sử và văn hóa rất khác xa nhau, “nhất là do khái niệm con người có về chính bản thân ḿnh”[8] có thể chẳng đă xuất hiện một số khác biệt trong quan điểm tác động lên thái độ hiện sinh của hai vị trong cuộc sống? Sau đây, tôi sẽ lần lượt tŕnh bày Haecceitas, Dasein của Scotus và Heidegger, sau đó, tôi sẽ nghiên cứu so sánh hai khái niệm trên một số điểm chính.

 

I. Haecceitas :[9]

 

I.1. Định nghĩa

Xét về từ nguyên, từ Latinh này – một từ ngữ của triết học Trung cổ, do Duns Scotus đặt ra – thường được dịch là “this-ness” (“sở ngă tính”, từ chữ haec, nghĩa là "cái này"), đối lập với chữ “quidditas”, "whatness" (“yếu tính”, từ chữ quid, có nghĩa là "cái ǵ"), để nói lên các phẩm chất riêng, đặc tính hoặc đặc điểm của một vật làm cho vật ấy trở nên một vật đặc biệt, nghĩa là lư do tại sao cá nhân này là cá nhân này chứ không thể là cá nhân khác[10]. “Thisness” (sở ngă tính) là yếu tố quyết định, riêng biệt cho cá nhân ấy, vốn cá nhân hóa một người, chẳng hạn biết người ấy chắc chắn là Socrates, chứ không thể là Plato, hoặc Aristotle. Chẳng hạn, Socrate-tính có thể diễn tả “haecceity” của Socrates; Platon-tính là “haecceity” của Plato, vv… Nói tóm lại, đó là tính độc nhất, sự hoàn hảo duy nhất, tính độc đáo[11], tạo cho mỗi người và mỗi vật có một giá trị nội tại và miên viễn. Triết gia Gabriel Marcel có lư khi nói: “Điều hiện hữu và đáng kể, đó là cá nhân này, là thực tại cá nhân tôi.[12]” Allan B Wolter tóm lược về “chức năng hai mặt của “Haecceity” (Sở ngă tính) hoặc “thisness” (Sở ngă) như sau: (1) nó làm cho mỗi cá nhân là độc nhất và không thể có bản sao, ngay cả bởi Thiên Chúa toàn năng; và (2) nó phân biệt tận gốc và tận cùng cá nhân này với cá nhân khác, dù cá nhân này khác biệt hoặc giống nhau trong chủng lọai”[13]

 

I.2. Tính chất đa chiều của Haecceitas (Sở ngă tính)

 

I.2.1. Di sản linh đạo Phan sinh:

Scotus ủng hộ cá nhân tính độc nhất và cụ thể, không chỉ v́ ngài “đi theo xu hướng đặc biệt của Trường phái Oxford”[14] - nơi mà ngài đă dành phần lớn phần đời trí thức với tư cách là một sinh viên và sau đó là giáo sư[15]- nhưng ngài c̣n thừa hưởng sự chọn lựa này từ thánh Phanxicô Átxidi, một con người vô địch về cổ vũ trong luật Ḍng tầm quan trọng của mỗi cá nhân, bằng cách nhường phần lớn cho linh hứng và ơn Chúa dẫn dắt. Chính cá nhân là quan trọng nhất cho vũ trụ trật tự của Chúa và là một gía trị không thể chuyển nhượng được trong cái nh́n của Chúa. Thái độ tôn trọng của thánh Phanxicô đối với mỗi một cá nhân là một sự tôn trọng, bất chấp cá nhân đó là ai, bất kể các đức tính và sự nghiệp mà cá nhân ấy đáng hưởng, nhưng chỉ bởi v́ cá nhân ấy được Thiên Chúa sáng tạo một cách đặc biệt. Thánh nhân đă khuyên nhủ anh em ḿnh: “Anh em hăy thể hiện phẩm gía mà Chúa trao cho anh em”. Nét độc đáo này của truyền thống linh đạo Phan sinh đă làm cho một triết gia nghiên cứu về thời Trung cổ, J.W. Thompson, khẳng định mạnh mẽ: “Một cá nhân th́ có giá trị hơn mọi vật phổ quát trên thế giới…Thiên Chúa không dựng nên thế giới v́ lợi ích của con người phổ quát, nhưng v́ lợi ích của từng cá nhân một.[16]” Người ta có thể nói rằng Scotus biết lợi dụng ngôn ngữ triết học để diễn tả điều đă được thánh Phanxicô thể hiện cụ thể trong cuộc đời ngài. Thật vậy, khi nh́n thế giới, thánh Phanxicô yêu thương mọi loài thụ tạo, loài động thực vật cũng như loài bất động, bởi v́ thật ra trong Giao ước, Thiên Chúa đă có sự cam kết không chỉ với loài người, mà c̣n với mọi loài Người đă dựng nên (xem St. 9, 12-13): “Thay v́ nói Sở ngă tính, ngài nói anh chị em.[17]” Trong tạo dựng, con người chúng ta cũng ngang bằng với các loài thụ tạo khác, bởi v́ tất cả mọi loài thụ tạo đều diễn tả sự Chân, Thiện, Mỹ của Thiên Chúa[18]. Thánh Phanxicô sống “haecceitas” của Anh Mặt Trời, Chị Mặt Trăng, chị Chết, anh Lửa, anh Leo, anh Bernard… “Mọi loài trong công tŕnh sáng tạo của Thiên Chúa là anh chúng ta, là chị chúng ta, như thánh Phanxicô đă gọi một cách thi vị trong Bài ca mặt trời, hoặc Bài ca các tạo vật.” Bài ca giúp chúng ta có ḷng tôn trọng mọi tạo vật do Chúa tạo nên, và nhất là tôn trọng Trái đất quí giá này, con tàu vũ trụ xinh đẹp của chúng ta, tài sản chung của cả nhân lọai.[19]

 

I.2.2 Sự độc nhất bí nhiệm

Tuy nhiên, nói chung, haecceitas được hiểu một cách sống động nhất trong mối quan hệ giữa con người với con người. Nó liên can đến mỗi cá nhân, nhắc đến thực tại sau cùng của mỗi hữu thể[20], vốn chỉ được một ḿnh Chúa biết rơ mà thôi. “Bằng cách lọai bỏ thuyết yếu tính của Platon, Scotus đặt bước đầu cho việc cá nhân hóa thực sự, mà nguyên lư không ǵ khác hơn là ultima realitas entis [21](thực tại sau cùng của hữu thể); và các loài thụ tạo t́m thấy ở đây sự biện minh đầy đủ của ḿnh.[22]” Một cá nhân là một hữu thể, vốn được phong phú hơn yếu tính riêng của ḿnh. Như thế Haecceitas là sự hoàn hảo sau cùng của một vật, một sự hoàn hảo cần thiết cho sự hiện hữu cụ thể của một vật. Cá nhân chỉ hiện hữu trong ư nghĩa đầy đủ của hạn từ như thế. Và bởi v́ chỉ một ḿnh nó là hữu thể đích thực[23], có một “nỗi cô đơn tột cùng”[24] do do nó tạo nên sự bí nhiệm của căn tính mỗi cá nhân. Ingham diễn tả tuỵêt vời căn tính duy nhất bí nhiệm này của mỗi con người qua mọi thời gian, như sau:

Haecceitas nêu ra được điều không thể diễn tả trong mỗi hữu thể. Tính thánh thiêng của mỗi người, và cả của mỗi hữu thể, được diễn tả một cách triết học trong từ ngữ Latinh này. Theo Scotus, trật tự được tạo thành …được phú cho một ánh sáng nội tâm, và ánh sáng này chiếu rọi ra ngoài từ tận nguồn mạch bên trong của nó…Nguồn ánh sáng này đă được Đấng Tạo Thành ban cho mỗi hữu thể. Mỗi hữu thể trong trật tự sáng tạo đă sở hữu một phẩm giá nội tại; phẩm giá này được Thiên Chúa yêu thương ban tặng cùng với một sự thánh thiện vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta.”[25]

Việc nhấn mạnh vào tính cao cả và phẩm giá của con người, vốn làm thành chiều kích hiện sinh của học thuyết Scotus, giúp Scotus đồng thời nhấn mạnh đến sức mạnh tự quyết nội tại (ab intrinseco) của ư chí đối với sự thiện được khám phá-- và điều này được ư chí thể hiện một cách tự tại--, để rồi, sau đó ngài mới nhấn mạnh đến sự tự do và t́nh yêu[26]. Sự tự do không ǵ khác hơn là lư do mà nhờ đó sức mạnh ư chí trổi vượt trong phẩm giá, là điều kiện sine qua non (không thể không có) của ư chí. Thánh Âu Tinh đă từng nói: “ Trong con người của chúng ta, không có cái ǵ mạnh hơn ư chí.”[27] Mặc dầu sự tự do được mọi người nhất trí nh́n nhận như là nét cơ bản của con người, tuy nhiên, sự hiểu biết về bản tính và cách giải thích th́ nó thật đa dạng. Về điểm này, Scotus đưa ra cái nh́n gợi ư như sau:

Cái mà chúng ta chọn đưa chúng ta đến một trạng thái sống quyết liệt, hoặc là làm chúng ta mở rộng ḷng ra hơn hoặc khép kín ḷng hơn trước các cảm nghiệm mà chúng ta có thêm về sự Thiện. Như vậy, sự chọn lựa là quan trọng vi nó thể hiện bản chất con người chúng ta là ǵ, chúng ta sẽ trở thành ai, và chúng ta sẽ hoàn thành điều đó như thế nào…Sự đóng góp quan trọng của Scotus hệ tại ở chỗ giúp chúng ta có một sự hiểu biết về tự do, một sự tự do công nhận rằng việc lựa chọn phản ảnh một thực tại sâu sắc hơn đang họat động; thực tại đó là sự cam kết kiên định hướng về sự Thiện, để rồi, mỗi người có thể được hoàn thiện bởi cam kết ấy.[28]

Sự cam kết hướng về sự Thiện là một hành vi của ư chí tự do par excellence (ở mức cao nhất), bởi v́ nó là t́nh yêu, hành vi mạnh mẽ nhất và cao thượng nhất trong con người[29]. Nói tóm lại, “nỗi cô đơn tột cùng”, bí nhiệm của mỗi cá nhân không phải là sự cô lập; độc nhất tính không thể hiểu lầm như là tính ích kỷ. Nó không khép kín con người vào chính ḿnh, nhưng cởi mở ra cho mọi người khác, và trên hết mọi sự, cho một Đấng Tối cao, mà con người là h́nh ảnh phản chiếu h́nh ảnh của Người. Lúc đó, sẽ có sự mở ḷng ra cho mọi người khác, hoặc để buông xuôi hoặc để dấn thân phục vụ : “Chỉ khi nào sự tự hiến bắt nguồn từ sự tự do toàn hảo của t́nh yêu, lúc đó tính độc nhất của con người mới đạt đến sự thể hiện trọn vẹn nhất của nó.”[30]

 

II. Dasein (Hiện tính thể)

 

II.1.Cấu trúc thời gian và không gian của Dasein: “Tại thể tính”

Từ ngữ Dasein trong triết học Đức thời trước Heidegger có nghĩa là “hiện hữu”, nhưng trong ngôn ngữ thường ngày này, nó có nghĩa là sự hiện hữu của từng con người. Tuy nhiên, với Heidegger, từ ngữ này trở nên quen thuộc đến độ người ta có thể nói mà không thấy thái quá, đó là : nói về Heidegger có nghĩa là nói về “Dasein”.

Choir

Da-sein” theo nghĩa đen là “hiện hữu ở đó” (da : ở đó; sein : hiện hữu). Tuy vậy, trong quá tŕnh phân tích và tŕnh bày tư tưởng của Heidegger, từ ngữ này đă đón nhận nhiều tính chất phong phú nói lên được cách nh́n cơ bản của Heidegger vào ư nghĩa của sự hiện hữu con người, vốn được diễn tả thật xuất sắc trong tác phẩm Being and Time (Thể tính và Thời tính, 1927)

“Chữ “Da-” hoặc “ở đó” trong từ ngữ Dasein có nghĩa rằng nó không phải là một thực thể khép kín mà là thực thể cởi mở, một cái ǵ đó “ex” hoặc bên ngoài với chính nó, để làm cho “Dasein” và “hiện hữu” qui hướng về cùng một hiện tượng. Dasein là nơi mà các hữu thể gặp gỡ. Nó cũng có nghĩa là “sự hiện hữu ở đó” của Dasein cho chính nó trong sự tự nhận thức. Tuy nhiên sự tự nhận thức này không phải là sự tự tỏ bày đời sống tinh thần…nhưng là sự nhận thức t́nh cảm và thực tiễn được chính bản thân tạm thời khai mở, liên can đến các khả năng riêng của nó, các chọn lựa, cũng như các bất khả thể, các dự phóng và nỗi lo sợ, các hoàn cảnh, quá khứ và các giới hạn; tất cả mọi h́nh thái nhận thức này đều không thể quan niệm được ngoài đặc điểm thời tính của Dasein.[31]

Nói tóm lại, Da là “mở”(nghĩa là, mở ra cho mọi h́nh thái hiện hữu, hoặc “là”); Dasein là “sự mở ra” nghĩa là hữu-thể-mở ra, hữu-thể-mở, hoặc “sự kiện chúng-ta-mở-ra”.

Theo Heidegger, thời tính và cảnh huống lịch sử là những nét chính yếu của sự hiện hữu thật sự của Dasein, thế giới của sinh họat hàng ngày. Như thế Dasein trong cấu trúc cơ bản của nó là “tại thế” (Weltlich), “tại-thể-tính” (In-der-Welt-Sein). T́nh trạng cơ bản này của Dasein, Heidegger quan niệm như là một hiện tượng đơn vị nhất thống, bởi v́ Dasein không có lợi thế để từ đó nó có thể nh́n xem thế giới như một vật thể và đồng thời xem nó như là một vật thể khác: nó là tại-thể-tính[32]. Tom Nenon giải thích rơ hơn tính cách cơ bản của “tại-thể-tính”

“V́ bối cảnh này hoặc “thế giới” này bao gồm trước tiên một nhóm các cách thức mà Dasein có thể tự ứng xử (thậm chí thụ động trong nghĩa là có sự ǵ xảy ra trong nó), thứ đến là sự tự hiểu chính ḿnh của Dasein- nghĩa là sự hiểu biết về sự hiện hữu của nó, xét về các khả năng cũng như giới hạn của nó- để đặt nền móng cho sự hiểu biết về sự hiện hữu của các hữu thể khác trong thế giới.”[33]

Thật ra, Heidegger học quan điểm này từ kinh nghiệm độc đáo về hữu thể của người Hi lạp cổ, v́ họ không “khách thể hóa” các hữu thể (họ không giản lược chúng vào một khách thể cho một chủ thể tư duy), nhưng họ cứ để mặc chúng như chúng hiện diện, như chúng tự trưng bày trong chân lư khai mở (aletheia). Họ cảm nghiệm tính hiện tượng của vật đang hiện diện, sự tự trưng bày rạng rỡ của vật ấy. Con người, như là Da-sein, là hữu thể duy nhất có đặc tính cởi mở ra với hữu thể, và xét như là vị trí, "Da" là cái mà hữu thể đ̣i hỏi để tự bộc lộ chính ḿnh. Người ta có thể thấy rằng, đối với Heidegger, cảm nghiệm trao ban hoặc hướng về kẻ khác được sáp nhập vào bên trong cơ cấu hữu thể của Dasein.

 

II.2. Trách nhiệm cá nhân của chính Dasein

Trong khi khẳng định cơ cấu cơ bản của “tại-thể-tính” của con người, Heidegger thúc giục chúng ta sống và hiện hữu bằng cách hiểu rơ các khả thể hiện hữu, những khả thể mà chính cuộc sống vạch ra hoặc dự phóng, nghĩa là không chỉ hiểu vị trí chúng ta hiện nay trong lịch sử , mà c̣n hướng về tương lai và nh́n tương lai trong sự hiệp nhất với quá khứ như là đă có và hiện có. Bởi v́ “sự hiện diện nội tại” bao gồm hiện diện có định hướng thật sự và liên quan đến các t́nh huống có thể hiểu được. Quan điểm về Dasein trở nên thật sự là riêng tư và cá nhân : “Dasein” không phải là một vật, nhưng là “Tôi”, không phải là “cái ǵ” mà là “Ai”…Có một hữu thể mà sự Hiện diện của nó liên kết vào “toàn thể tính” hoặc “cùng tồn tại” (điều được gọi là Jemeinigkeit trong tác phẩm Being and Time, Thể tính và Thời tính) và Existenz (hoặc “Sự kiện tính”)[34] . Xét như một cá nhân, Dasein là một hữu thể có khả năng nêu vấn nạn, một thực tại đi t́m kiếm chính ḿnh, quan tâm đến mọi sự và mọi người, và cố gắng hiểu phải xử sự ra sao trong các t́nh huống lịch sử thực tế. Đối diện với một hoàn cảnh hiện sinh như thế, sự quan tâm chủ yếu của con người đối với môi trường quanh nó là sự chăm lo, thái độ lưu tâm, “sorge”, nhằm đề pḥng chống lại một sự hiện hữu vô nhân sinh mà Heidegger gọi là không trung thực. Bởi v́ đối với Heidegger, con người là hữu thể duy nhất mà sự hiện hữu có đặc tính là cởi mở hướng về hữu thể khác. Những con người, nam cũng như nữ, cũng có thể ngảnh mặt lại với sự hiện diện của ḿnh, quên cả bản thân ḿnh, và tự đánh mất tính nhân bản của ḿnh. V́ vậy một thái độ lưu tâm là điều cần thiết để phù hợp với cấu trúc thời tính của “tại-thể-tính” của Dasein, nghĩa là hiện tượng của các dự phóng có mục đích và hướng về tương lai, mà Heidegger mô tả như là “dự phóng bị ném đi”. Nói cho đúng, trách nhiệm chúng ta trong các dự phóng nên được hiểu là “hàm chứa trong một mạng lưới rộng lớn hơn về các mối tương quan thực tiễn, vốn chỉ định công cụ cho bối cảnh, công tác, mục tiêu, và cho điểm quan trọng cuối cùng của việc chúng ta đang làm, mà Heidegger gọi là “v́ lợi ích của tất cả”[35]. Trái lại, một sự hiện hữu không trung thực diễn ra khi “Dasein không lấy trách nhiệm về việc công nhận chính ḿnh như là nền tảng sau cùng của ư nghĩa, mà chỉ biết thích ứng với bất kỳ hoàn cảnh nào xảy đến trong lịch sử cùng chấp nhận chúng một cách chung chung.[36]” Bằng cách này, khi một người chấp nhận sự sa ngă và hữu hạn tính của đời người, điều này có nghĩa là khi một người quyết định chấp nhận toàn bộ cuộc đời của ḿnh, tức là sự sống đối diện với sự chết, đối diện với sự vô nghĩa của hiện hữu, người đó chứng tỏ ḿnh sỡ hữu một sự hiện hữu thực sự trung thực. Lúc đó cái chết của tôi là biến cố duy nhất trong đời tôi, độc nhất trong đời tôi: nó là eigenlich {“trung thực, thật sự”}, bởi v́ nó là eigen (“của riêng tôi”). Heidegger liên lỉ lập luận rằng chúng ta không bao giờ có thể hiểu được sự chết qua cái chết của người khác, và ông dùng sự việc này để khẳng định rằng cái chết vẫn là một chuyện có tính cá nhân. Trong nỗi xao xuyến lo âu (Angst) tôi dự báo được cái chết sắp tới; nhờ việc "quay hướng về sự chết" chúng ta có thể nh́n thấy quá khứ của ḿnh như là của riêng ta, và có khả năng lần đầu tiên sở hữu nó như là của riêng ta. Nỗi lo sợ có thể đem lại cho con người sự tự do riêng cho ḿnh, biến đổi các phi lư ngọai lai của sự kiện ương ngạnh này thành một khả năng chính yếu cho sự hiện hữu của ḿnh, gọi là “tính-thể-qui-tử” (Sein zum Tode), “thóat khỏi mọi ảo tưởng của “chúng”, trong sự tự do đam mê, tự tin và âu lo hướng về cái chết.”[37]

(...)

Alexis TRẦN ĐỨC HẢI ofm
Nguyễn Trọng Đa dịch

 


 

Ghi chú

1- John D. Caputo. Heidegger and Aquinas. An essay on Overcoming Metaphysics, (New York: Fordham University Press, 1982), 24 : “Là sinh viên tại Đại học Freiburg – và từ năm 1909 đến năm 1911 là chủng sinh Công giáo”.

2- “Heidegger, Martin”, trong The Shorter Routledge Encyclopedia of Philosophy, 355.

3- Caputo, 20.

4- Caputo, 20. 33.

5- Caputo, 36.

6- Sean J. McGrath, “Heidegger and Duns Scotus on truth and language”, The Review of Metaphysics, Ngày 1-12-2003, Philosophy Education Society, Inc. 1.

7- Mối tương quan Heidegger-Scotus càng lúc càng trở nên rơ ràng hơn với việc Heidegger xuất bản tác phẩm Gesamtausgabe gồm các bài giảng dạy đầu tiên tại Đại học Freiburg (1919-23), ibd. Note (5), 9.

8- Camille Berube, “Dialogue of Duns Scotus with modern culture” trong Regnum Hominis et Regnum Dei, (Romae: Societas internationalis Scotistica,1978), 4.

9- Rep. II d. 12 q. 5 n. 1.8.12.14. (ed. Vives XXIII 25.29.31.32); Ordinatio II, d.3, p.1 q.1, n.48

10- See A.B. Wolter, The Transcendentals and their Function in the Metaphysics of Duns Scotus, (New York: St. Bonaventure, 1946), 103-7.

11- Ord. II d.3 q. 6 n. 12. 15. (ed. Vives XII 144b): ‘est ultima realitas entis…Ista autem entitas individui est primo diversa ab omni entitate quiditativa”.

12- Jeanne Delhomme, “Temoignage et Dialectique,” trong Existentialisme Chretien : Gabriel Marcel, (Paris, 1947), La Reflexion Primaire, 120-27.

13- John Duns Scotus. Early Oxford lecture on individuation, bản Latinh cùng với bản dịch và dẫn nhập bằng tiếng Anh, của Allan B. Wolter, O.F.M. (New York: The Franciscan Institute, 2005), xii.

14- H.E Cardinale, “The significance of the Apostolic Letter ‘Alma Parens” of Pope Paul VI” trong De Doctrina Ioannis Duns Scoti, vol. I (Romae, 1968),54.

15- Antonie Vos, “ The philosophy of John Duns Scotus,” (Edinburg: Edinburg University Press, 2006),18 : “Các tu sĩ Phan Sinh đến Anh năm 1224. Tại Oxford, dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Robert Grosseteste, tu sĩ Phan Sinh thu hút giới trí thức và học giả từ khắp châu Âu tới, và đem học thuật của thời kỳ này lên đỉnh cao không ngờ tới. Oxford có được sự tiến bộ lớn về danh tiếng trong thế kỷ XIII là nhờ việc các tu sĩ Phan Sinh đến Anh.”

16- J.W. Thompson, The Middle Ages, ( New York : Alfred A. Knopf, 1931), 776. Cf. Luke 15, 1- 32.

17- Eric Doyle, “Duns Scotus and Ecumenism,” trong De Doctrina Ioannis Duns Scoti, Vol. III Acta Congressus Scotistici Internationalis Oxonii et Edinburgi 11-17 Sep. 1966 celebrati. (Romae: Cura Commissionis Scotisticae, 1968), 640.

18- E. Doyle, O.F.M. “The Canticle of Brother Sun and the Value of Creation,” trong Nothwehr, ed., Franciscan Theology of Environment: An introductory Reader, 155-74. 1 Celano 81: “Mọi vật mang tên anh chị; trực giác sâu sắc của tâm hồn ngài đi đến khám phá từ người khác một cách lạ lùng và khó diễn tả mầu nhiệm mọi tạo vật, bởi v́ ngài đă hưởng sự tự do vinh hiển của con cái Chúa.”

19- A.Wolter và B. O’Neill, “John Duns Scotus, Mary’s Architect,” (Illinois : Franciscan Press, 1993),84-5.

20- Ordinatio II, d. 3, n.188. (VII: 484)

21- Ord. II d. 3 q. 6 n. 12. (ed. Vives XII 144b): “est ultima realitas entis”: Gerard Sondag giải thích ư nghĩa của từ ngữ này như sau: Dựa vào sự phân lọai trong “cây Porphyry”, người ta lần lượt đi xuống từ đỉnh hữu thể bằng sự phân biệt về chủng lọai, Ví dụ: hữu thể tự nhiên giản lược thành hữu thể sống động; từ hữu thể sống động đến động vật, từ động vật đến con người. Tuy nhiên, một khi người ta đi đến “cá nhân”, tiến tŕnh không thể được tiếp tục, bởi v́ cá nhân không thể chia nhỏ thành loài thấp hơn được nữa. Điều này có nghĩa là không c̣n xác định được, hoặc có thể tiềm tàng xác định. Đó là thực thể, hoặc một thực tại cuối cùng. Duns Scotus. La metaphysique de la Singularité, (Paris: J.Vrin, 2005), 62.

22- Beraud de Saint Maurice, “Existential import in the philosophy of Duns Scotus,” trong Franciscan Studies, Vol.9, 1949, 288.

23- Quaest. Metaph. I, 7, q. 13, n. 17 :“Individuum est verissime ens et unum”.

24- Ord. III d. 1 q. 1 n. 9 (ed. Vives XIV 45a): “Ad personalitatem requiritur ultima solitudo”.

25- M.B Ingham, Scotus for Dunces, ( New York: Franciscan Institute Publications, 2003),54-5.

26- Ord. IV d.49 q. 5 un. n. 16. (ed. Vives XIII 210a)

27- St. Augustine, “Retract.,” I Libr. c. 22. “Nihil est tam in potestate nostra quam ipsa voluntas.”

28- Thomas.A Shannon, The Ethical Theory of John Duns Scotus. A Dialogue with Medieval and Modern Thought, (Quincy, IL.: Franciscan Press, Quincy University, 1995), 119.

29- Beraud de Saint Maurice, 312.

30- E Doyle, Duns Scotus and Ecumenism, 643.

31- “Martin Heidegger”, trong The Pimlico History of Western Philosophy, do Richard H. Popkin hiệu đính (Columbia University Press, 1998), 684.

32- Taylor Carman, “Husserl and Heidegger”, trong The Blackwell Companion to Philosophy, (xuất bản lần hai), do Nicholas Bunnin và E.P. Tsui-James hiệu đính, (UK: Blackwell Publishing, 2003), 849: “Bác bỏ điều ông gọi là “chủ thể không lời” của Descartes và Husserl, Heidegger (1962: 254) nhấn mạnh rằng sự hiện hữu của con người là chủ yếu “tại thể tính”.

33- The Pimlico History, 685.

34- Caputo, 78.

35-The Blackwell Companion to Philosophy, 851.

36- The Pimlico History, 687

37- Being and Time, 266.

 


  Đọc tiếp :

1 2

 

Xem các bài viết khác trong Anh Nguyễn Trọng Đa.