SỰ PHÂN LY GIỮA LINH ĐẠO VÀ TÔN GIÁO

1 2 3

Montmartre

 

CHƯƠNG HAI

 

XÉT LẠI KƯ ỨC:
THÁCH ĐỐ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC BẮC CẦU PHÂN LY

Chương trước đă tŕnh bày một phác thảo về phân ly giữa tôn giáo và linh đạo mà ta đang kinh qua. Chúng tôi đă gợi ư rằng sự phân ly không may mắn ấy tuy nhiên cũng đem lại nhiều thách đố và cơ hội có ư nghĩa. Ít nhất, sự phân ly ấy cũng sản sinh ra một cuộc đàm luận qua đó, rất có cơ may biến sự phân ly hiện nay giữa linh đạo và tôn giáo thành sự phân biệt giữa chúng với nhau. Sự phân biệt mà vẫn liên hệ hỗ tương này được đưa ra để tạo nên một định nghĩa có tính chu kỳ về linh đạo.

 

Liệu ‘Tôn giáo’ có chịu tham dự cuộc vui hay không?

Chúng tôi có hai mối hy vọng sau đây: một là linh đạo có thể được khẳng nhận như một cảm nghiệm nội tại nhân bản, và thứ hai vị trí và tầm quan trọng của tôn giáo trong hành tŕnh linh đạo có thể được đổi mới và tăng cường. ‘Giây phút thiêng liêng’ và ‘giây phút tôn giáo’ có thể có tương quan với nhau một cách mật thiết đến nỗi tầm quan trọng của mỗi bên đều được khẳng nhận, nhưng vấn đề là ‘trên thực tế, cái tương quan lư tưởng ấy hiện hữu ở đâu và hiện hữu như thế nào?’

Gần đây, một giảng sư về linh đạo đă đưa ra phê phán sau đây về vấn đề trên:

Tôi hoàn toàn đồng ư rằng linh đạo và tôn giáo cần nhau, và công tŕnh viết về các ‘giây phút’ biệt lập ấy rất tốt, rất tuyệt diệu. Nhưng đó vẫn chỉ là vấn đề lư thuyết hay kỹ thuật mà thôi. Giáo hội, điều được hàm ư ở đây, thực sự chưa hiện hữu, ngoại trừ như một lư tưởng lung linh trong tưởng tượng. Nếu có lúc nào tôi phải sai các sinh viên tốt nghiệp linh đạo trở lại với giáo hội, chắc chắn điều ấy sẽ tạo ra những hậu quả thảm họa về phương diện xă hội lẫn xúc cảm, và thế là tôi không dám khuyên các sinh viên của tôi trở ‘lại’ với giáo hội nữa. Cho nên, làm sao ta có thể thực sự nói đến tính bổ túc lẫn nhau của tôn giáo và linh đạo được? (25).

Dù lời b́nh luận trên có vẻ khắc nghiệt, nhưng xem ra nhiều người chia sẻ các ưu tư trên. Họ biết rơ cơn khát và việc đi t́m linh đạo hiện nay, đặc biệt nơi thanh thiếu niên. Tuy nhiên họ không biết phải làm sao nuôi dưỡng cuộc t́m kiếm ấy theo chiều hướng của các giáo hội. Tôn giáo định chế xem ra không thích đáng về phương diện mục vụ để có thể nói đến bản chất các hành tŕnh linh đạo của con người hiện nay. Người trẻ ngày nay thường không sẵn sàng chấp nhận toàn bộ cách giải thích có tính hệ thống và tín lư đối với cảm nghiệm thiêng liêng của họ. Họ không thích diễn tả cuộc t́m kiếm linh đạo của họ dưới h́nh thức lễ nghi, đặc biệt khi lễ nghi ấy được cử hành theo đầu óc cục bộ hẹp ḥi (parochially). Tuy nhiên, ít có ǵ khác đă được đề nghị cho họ. Hậu quả là họ đang phải kinh qua một cuộc trống đánh xuôi kèn thổi ngược lớn lao giữa các vấn đề linh đạo và các giải đáp tín lư mà tôn giáo từng cung cấp cho họ.

Tony Kelly, một thần học gia Kitô giáo Úc, cho rằng một trong những lư do chính của cảnh đánh xuôi thổi ngược trên là do sự khó khăn cố hữu trong phương thức đối thoại của chính tôn giáo ḿnh. Kelly nhấn mạnh điều triết gia Bernard Lonergan gọi là ‘chức năng cấu thành ư nghĩa’, nghĩa là, chức năng của ư nghĩa không liên quan đến thực tại tri thức mà là chủ quan tính – làm sao để ư nghĩa ấy ‘thông tri hay cư ngụ ngay trong ư thức, (ngơ hầu) tạo nên một căn tính và một sự tự hiểu nào đó’ (26). Chức năng này đ̣i con người phải có những hành động như cảm nghiệm, tưởng tượng, cảm nhận, t́m kiếm, hiểu biết, suy tư, phán đoán và quyết định. Kelly cũng ghi nhận rằng linh đạo ‘ rất chú tâm tới những loại ư nghĩa cấu thành, có tác động đối với ư thức, nhưng ít chú ư tới loại ư nghĩa tri thức (cognitive), ít nhất cũng trên khía cạnh phương pháp luận.’ Nhưng tiếp theo đó, trong cuộc đàm đạo giữa linh đạo và tôn giáo, ‘có thể có hai lối nói với hai nhóm người nói chuyện với nhau’

Trong quan sát trên, ta thấy có một thách đố lớn lao về phía ‘tôn giáo’ (27). Trong tư cách chủ yếu giải thích và lượng giá kinh nghiệm linh đạo, tôn giáo đương nhiên có đặc tính giáo thuyết. Như ta đă thấy, ít nhất về phương diện luận lư, đức tin tôn giáo xuất hiện trong một giây phút nào đó trong chu kỳ của kinh nghiệm linh đạo/tôn giáo. Trong giây phút đó, chủ quan tính của kinh nghiệm được bao hàm (subsumed) trong khách quan tính của giáo thuyết. Tuy nhiên, nó không được thế chỗ cho khách quan tính kia. Đúng hơn, ‘giây phút tôn giáo’ phải tiếp tục nh́n nhận, khích lệ và tham dự vào ‘giây phút linh đạo’. Không được coi chân lư tín điều chỉ có ư nghĩa tri thức nhưng nó phải có tính suy tư, giải thích và can dự vào kinh nghiệm nhân bản. Tôn giáo không thể chờ mong linh đạo phải trở ‘về nhà’ như ngày xưa, trên căn bản chân lư trừu tượng của tôn giáo, nhưng chỉ ở mức độ nó thực sự can dự vào các vấn đề do kinh nghiệm linh đạo gợi lên. Nếu tôn giáo thất bại không đạt tới nhu cầu này, chắc chắn sẽ gặp nguy cơ rút lui vào lănh địa tư hữu, ưu quyền (elite), một thứ ghetto vây kín, đầy ứ các hiểu biết về chính ḿnh nhưng bất lực không thể nói được tiếng nói đem sức sống nào đến cho những con người đói khát cái tinh thần đang thức giấc trong họ.

Việc chọn lựa không phải là lấy chủ quan tính mà bỏ khách quan tính, nội tâm tính mà bỏ định chế tính, ư thức mà bỏ lương tâm . Chúng là những kinh nghiệm nhị phân, nên nếu tách biệt nhau, các cực đơn thuần sẽ trở thành những biếm hoạ đối với nhau. Đúng hơn, phải giữ các cực này ở thế căng thẳng sáng tạo đối với nhau.

Trong lời mở đầu, chúng tôi đă đề cập đến cái nhu cầu cần phải có một thứ Tân Lăng Mạn mới, một cố gắng mới nhằm giữ cho trí và tâm ở lại với nhau. Tuy nhiên, như Kelly đă chính xác nhận xét, việc chọn lựa không phải là lấy chủ quan tính mà bỏ khách quan tính, nội tâm tính mà bỏ định chế tính, ư thức mà bỏ lương tâm (28). Chúng là những kinh nghiệm nhị phân, nên nếu tách biệt nhau, các cực đơn thuần sẽ trở thành những biếm hoạ đối với nhau. Đúng hơn, phải giữ các cực này ở thế căng thẳng sáng tạo đối với nhau nếu ta muốn kinh nghiệm linh đạo chân chính trưởng thành và kinh nghiệm tôn giáo chân thực thâm hậu.

Trong chương này, chúng tôi muốn thăm ḍ nhiệm vụ của tôn giáo trong việc đáp ứng đối với sự bột phát của ‘linh đạo’. Tôn giáo phải hành động ra sao để cổ động mối căng thẳng sáng tạo mà chỉ có nó mới bắc được nhịp cầu ngang qua sự phân ly ta đang kinh qua giữa tôn giáo và linh đạo.

 

Những cái có thể trong phương thức ‘xét lại’

Một dự án như trên chỉ có thể xẩy ra trong điều ta gọi là một ‘khuôn khổ xét lại’. Dù hạn từ ‘xét lại’ thông thường vẫn chỉ về việc tái giải thích có phê phán các học thuyết Macxít, nhưng ở đây, chúng tôi sử dụng nó theo công tŕnh của nhà thần học Mỹ David Tracy.

Tracy đề nghị một mẫu ‘xét lại’ cho thần học Kitô giáo. Ông chọn từ này v́ cả hai lư do lịch sử lẫn hệ thống. Xét theo lịch sử, ‘dường như rơ ràng các chủ nghĩa tự do cổ điển, chính thống cổ điển, các thứ tân chính thống khác nhau, và những chủ nghĩa cấp tiến thay thế khác đều đă bị kết án cách chính đáng là thiếu thích đáng đối với nhiệm vụ thần học ngày nay’ (29). Nhưng xét theo hệ thống, là khía cạnh được ông coi có tính thuyết phục hơn: hạn từ đó có ư nói đến việc cam kết

Chỉnh lại các hạn chế thần học trước đây, cả dưới ánh sáng những tài nguyên mới do các nghiên cứu và suy tư lịch sử, triết học, và khoa học xă hội mới đây mang lại, lẫn dưới ánh sáng những quan tâm và thành tựu chính đáng của các phương thức tân chính thống và thần học cấp tiến sau này. Tóm lại, nhà thần học xét lại cam kết bước vào điều rơ ràng đă trở thành nhiệm vụ trung tâm của thần học Kitô giáo ngày nay. Đó là việc đối đầu đầy bi đát, việc soi sáng và sửa chữa lẫn nhau, việc trong căn bản có thể hoà giải được các giá trị chính, các đ̣i hỏi tri thức, và các niềm tin hiện sinh của cả ư thức hậu hiện đại đă được giải thích lại lẫn Kitô giáo cũng đă được giải thích lại(30).

Đâu là lợi điểm của một phương thức như thế đối với quan tâm của chúng ta trong việc bắc cầu ngang qua sự phân ly giữa linh đạo và tôn giáo?

Trước hết, Tracy sử dụng hạn từ này để chỉnh lại các phương pháp thần học thiếu sót. Áp dụng vào chủ đề của chúng ta, từ ngữ này muốn ám chỉ việc sửa chữa lại những nền linh đạo hoặc bất lực không thể vượt qua được dẫy núi phân chia hoặc có thể vượt qua được nhưng vượt một cách lười lĩnh. Thí dụ, có những nền linh đạo t́m cách loại bỏ hoàn toàn ư nghĩa của các truyền thống tôn giáo. Chúng được cấu tạo theo phương thức hoàn toàn hiện sinh. Người ta tự đặt ra những câu hỏi rồi t́m cách trả lời những câu hỏi ấy từ những cái lưỡng nan trong kinh nghiệm của riêng ḿnh. Đối diện với những vấn nạn của cuộc sống riêng, họ không c̣n được chuẩn bị để chấp nhận cái tŕnh thuật vĩ đại do các biến cố lịch sử trong đó họ sinh ra nữa. Họ không c̣n chấp nhận chân lư trên căn bản uy quyền truyền thống là thứ họ đă học để phá hủy hầu như do bản năng riêng – tuy không hẳn là thiếu thông minh. Như một nhà b́nh luận đă phát biểu, ‘chẳng cần sư thánh (guru) chẳng cần sư thần; chỉ cần sống cuộc sống ḿnh, cái ḿnh qúy giá; và vâng theo cái lương tâm riêng, và tuân giữ điều ít ra cũng đáng tin cậy như các lương tâm của một số người khua chiêng gơ mơ lớn nhất cho tôn giáo. Điều ấy quả là giải thoát’ (31). Một phương thức như thế quả đă minh họa được sự từ khước nh́n nhận khuynh hướng của thời cận đại muốn có một con đường khai phá duy nhất và đồng bộ.

Đó là những nền linh đạo bảo thủ (fundamentalist) hay ‘phục nguyên’ (restorationist) hoặc ‘giáo thuyết’ (doctrinalist). Trong các nền linh đạo này, người ta sử dụng các truyền thống tôn giáo một cách tự vệ để chống lại các thách thức hiện đại. Họ từ khước không chịu xem xét các vấn nạn của thời đại, và dùng linh đạo như một ngụy trang mỏng manh của an toàn chống lại bất trắc.

Ngược lại, lại có những nền linh đạo trong đó không những các truyền thống tôn giáo được trân quư nhưng c̣n cấu trúc linh đạo theo một cách độc chiếm và theo một cách khiến các vấn đề của tâm linh không c̣n được nh́n nhận nữa. Đó là những nền linh đạo bảo thủ (fundamentalist) hay ‘phục nguyên’ (restorationist) hoặc ‘giáo thuyết’ (doctrinalist). Trong các nền linh đạo này, người ta sử dụng các truyền thống tôn giáo một cách tự vệ để chống lại các thách thức hiện đại. Họ từ khước không chịu xem xét các vấn nạn của thời đại, và dùng linh đạo như một ngụy trang mỏng manh của an toàn chống lại bất trắc. Phân tích ra, những thứ linh đạo này chỉ là những nhu cầu quyền lực trong một t́nh huống vô vọng. Khá nhiều thanh niên bước theo hướng này một cách hăm hở.

Đâu đó ở giữa hai nền linh đạo trên, có những người bị vây hăm bởi những căng thẳng của cuộc sống đô thị và kỹ thuật muốn đi t́m những chiến thuật tạo quân b́nh và toàn diện, những khí cụ tạo an vui, những phương tiện mang lại phục hồi trong đó truyền thống tôn giáo được ve văn nhưng không được cam kết. Trong các nền linh đạo này, đôi khi được gọi là ‘Tân Đại’ (New Age), truyền thống tôn giáo trở thành một món hàng hóa (commodity). Các phương pháp chữa bệnh và thư giăn cổ truyền được đề nghị một cách khiến người ta có một lối hiểu giản đơn hơn, tự nhiên hơn, toàn bộ (holistic) hơn về cuộc đời. Nhưng những phương pháp này thoái lui trở lại những kỹ thuật rút ra từ hậu cảnh triết học vốn là nguồn gốc của chúng và thuờng được gói ghém để sử dụng như các món hàng tiêu thụ. Dù có tính ủi an, tựu chung các phương thức này chỉ đem lại những giải pháp rẻ tiền, phiến diện đối với các vấn nạn nhân bản phức tạp và đôi khi đau ḷng mà nền linh đạo chân chính thường gợi lên.

Bên ngoài các đáp ứng không mấy thỏa đáng vốn chẳng giải quyết ǵ được cuộc phân ly giữa linh đạo và tôn giáo, phương thức xét lại tôn trọng cả hoàn cảnh hiện đại lẫn truyền thống tôn giáo. Đây chính là lợi điểm thứ hai trong việc sử dụng phương thức ‘xét lại’ của Tracy. Bởi v́, khi áp dụng từ này vào quan tâm của chúng ta, cả truyền thống tôn giáo lẫn cuộc đi t́m ư nghĩa của thời nay đều được coi là các nguồn ngang nhau để có được một phát biểu mới về chân lư linh đạo (32). Cái này không ḱnh chống cái kia; cái này không được quan niệm như một đe dọa đối với cái kia.

Linh đạo ‘xét lại’ sẽ xuất hiện trong cuộc đàm luận giữa các vấn đề của thời đại và những thúc đẩy sâu xa nhất của một truyền thống tôn giáo đặc thù. Cuộc đàm luận này diễn tiến theo chiều hướng giúp những phong trào sâu sắc nhất của truyền thống không những cung cấp các câu trả lời cho các vấn đề hiện đại mà c̣n tôn trọng Thần Khí đang hiện diện trong mối tương quan hỗ tương, trong những hội ngộ, những điểm tiếp xúc giữa kinh nghiệm nhân bản và các hoài mong và truyền thống tôn giáo. Khi tôn trọng chủ trương của cả hai như vậy, phương thức ‘xét lại’ đă đem lại cho ta một cây cầu bắc ngang dẫy núi vĩ đại phân chia tôn giáo và linh đạo. Sử dụng h́nh ảnh trong các huyền thoại Hy Lạp xưa trong đó nhà anh hùng phải len lỏi giữa hai lựa chọn hấp dẫn nhưng có tính hủy diệt, phương thức ‘xét lại’ quả đang yên ổn lướt qua giữa một bên là Scylla của chủ nghĩa duy ngă ‘Tân Đại’, trong đó cái tôi tự khóa cứng trong chính ḿnh, và một bên là Charybdis của chủ nghĩa truyền thống cô lập…

Montmartre

Phương thức ‘xét lại’ t́m ra được những vấn đề chính có tầm sắc bén đặc biệt đối với kinh nghiệm hiện đại. Nó đem truyền thống tôn giáo can dự vào các vấn đề ấy. Chính truyền thống tôn giáo sẽ xuất hiện như một thực tại có ư nghĩa và, nói một cách đầy đủ, có liên quan, theo mức các ngôn từ thần học và giáo thuyết can dự vào các quan tâm này và những hoài mong ẩn tàng trong chúng. Đây không phải là trường hợp thay thế các quan tâm trong các niềm tin chính để chỉ chú ư đến các vấn đề hiện sinh. Việc thay thế ấy sẽ là một ‘bán tháo’ cái đặc thù của truyền thống tôn giáo và việc giải thích có giá trị đối với kinh nghiệm linh đạo. Tuy nhiên, khi bắc cầu qua cuộc phân ly, thách đố đối với truyền thống tôn giáo là phải nói rơ những niềm tin cốt lơi của ḿnh trong cái nhậy cảm sâu sắc đối với các vấn đề hiện nay. Phương thức ‘xét lại’ t́m kiếm những cộng hưởng hỗ tương trong cả các niềm tin thừa hưởng từ một tôn giáo đặc thù lẫn kinh nghiệm hiện sinh của con người đương đại.

 

Xây cầu: Các Kinh Nghiệm Phải Vang Lên trong việc Sử dụng Ngôn từ Tôn Giáo

Chúng tôi tin rằng có sáu vấn đề vốn làm nên đặc điểm cho thời đại ta và tạo nên hoài mong cũng như việc đi t́m linh đạo nơi những con người đương đại. Chúng là những ‘điểm nẩy c̣ của siêu việt’, và theo chúng tôi, là những điểm đặc thù của thời đại ta. Cho nên, chúng là những vấn đề mà các niềm tin tôn giáo phải vang dội lại một cách rơ ràng nếu muốn bắc được cây cầu qua cuộc phân ly. Sáu vấn đề ấy là:


*Làm thế nào để cuộc sống lại có tính mê hoặc (enchantment) trở lại?
*Làm thế nào cảm nghiệm được mối liên hệ thực sự và lâu bền?
*Làm thế nào duy tŕ, và bước vào được những nghịch thường của cuộc đời?
*Làm thế nào cảm nghiệm được liên tục tính với quá khứ của ta?
*Làm thế nào để liên hệ với nhau một cách thực sự thỏa măn?
*Làm thế nào cưỡng lại được tất cả những ǵ khiến ta kém điều chúng ta hiện có?

Đây là những vấn đề có tính khẳng định, nhưng hiển nhiên chúng phát sinh từ những đe dọa, những âu lo đặc thù, đă được nhận ra. Kinh nghiệm rất có thể là cuộc sống đă mất đi sợi dây nối kết với nhịp điệu và những âm thầm thở than của thiên nhiên, là mối liên hệ mỏng ḍn quá, là ta sống những cuộc sống phân chia, là quá khứ ta không c̣n thông tri ta nữa, là ta thất vọng không trở nên toàn diện được v́ những sức mạnh nằm ngoài tầm kiểm soát của ta.

Ta hăy xét từng mỗi kinh nghiệm ấy trong hậu cảnh của chúng.

 

MÊ HOẶC

. Hiện nay đang có một cố gắng ‘tái mê hoặc’ cuộc đời (reenchantment) (33). Mỗi ngày ta một sống tách biệt với trái đất. Cuộc sống của ta được môi giới hóa qua máy móc, qua điện tử và có lẽ qua cả điều người ta gọi là ‘như thật’ (virtual) nữa. Trong tất cả những điều này, ta cảm nhận đă mất đi cái đơn chất (simplicity) trong đó cái nhỏ nhoi, cái tầm thường thật khó giữ được sự chú ư của ta. Đặc biệt trong nền văn hóa thính thị, ta bị đối mặt với vận tốc nhanh các h́nh ảnh đập vào cảm quan thưởng ngoạn. Nhưng trong khi con người có khuynh hướng muốn t́m những ǵ lớn hơn, sáng láng hơn, một trong những điều Phong trào Tân Đại, càng ngày càng nổi tiếng, vốn dạy ta: nghịch lư thay lại là con người vẫn đói khát một cảm thức về cơi linh thánh trong đời, một thứ huyền nhiệm về cuộc sống và một cảm nhận mới về sự nối kết với trái đất. Người ta khát mong ‘cái tự nhiên’ lại trở thành bùa mê một lần nữa.

 

LIÊN HỆ

hiện đang bị căng thẳng đặc biệt trong kinh nghiệm hiện nay. Những thay đổi không ngừng trong khỏang 40 năm nay khiến người ta phải đặt những câu hỏi là liệu c̣n chăng sự bền vững (permanence). Cái chiều hướng đổi thay kia thẩm thấu vào cả cấu trúc của các mối liên hệ. Tuy nhiên, bên kia vô số những mối liên hệ không bền vững, các cuộc nghiên cứu cho hay cái kinh nghiệm phổ quát hiện nay về trầm cảm và tự sát, đặc biệt nơi giới trẻ, phần lớn là do nỗi khó khăn không t́m được những mối liên hệ hay những cộng đoàn có ư nghĩa. Nhiều người cho rằng các thế hệ mới ‘học cách sống một ḿnh’ v́ không c̣n thích sự thân mật lẫn sự tùy thuộc nữa và nói chung sợ phải đớn đau và chia cách (34). Nhưng đồng thời, sự say mê đối với các mối liên hệ và hoài mong có được những mối liên hệ có ư nghĩa vẫn c̣n là những mối bận tâm chính đối với chúng ta. Cơn đói liên hệ vẫn tiếp tục song hành với nỗi sợ đối với các rủi ro của nó.

Người tầm thường phải đương đầu với nghịch lư và hàm hồ (ambiguity) hơn hẳn các định chế tôn giáo rất nhiều. Nghịch lư, nếu công khai duy tŕ, có khuynh hướng làm người với người trở nên thân thiết bởi v́ thực tế tất cả chúng ta đều ở trong bụng của nghịch thường.

 

NGHỊCH LƯ

. Hiện tượng ngoại thường trong phản ứng đối với cái chết của Công Chúa Diana cho ta thấy nhiều điều. Sự nổi tiếng của Diana một phần do cách cô hành xử đối với người khác như là biểu tượng cho các mâu thuẫn được công khai duy tŕ trong thế căng thẳng. Diana là một nghịch lư: một đàng, cô rất quyến rũ, nhưng đàng khác, cô lại rất dễ bị tổn thương (vulnerable). Như Clive James từng viết: ‘… mọi điều tôi khám phá đầu tay nơi cô, ngay cả và đặc biệt là những thiếu sót và những khùng điên (follies) của cô, đều làm tôi yêu cô hơn, bởi chẳng có điều ǵ trong số đó lại chưa có lần là của chính tôi, và một số trong chúng vẫn c̣n là của tôi hiện nay. Trong bi kịch nội tâm sống động của cô, tôi thấy chính bi kịch của ḿnh’ (35). Người tầm thường phải đương đầu với nghịch lư và hàm hồ (ambiguity) hơn hẳn các định chế tôn giáo rất nhiều. Nghịch lư, nếu công khai duy tŕ, có khuynh hướng làm người với người trở nên thân thiết bởi v́ thực tế tất cả chúng ta đều ở trong bụng của nghịch thường. Dù ngay lúc chúng ta dùng hết năng lực để chối bỏ hay khuất phục các nghịch lư nội tâm của ḿnh, ta vẫn muốn chúng được tôn trọng và can dự công khai.

 

KƯ ỨC

. Cuối thế kỷ 20 được đánh dấu bằng việc ban hành quyền đất đai cho nhiều nhóm thổ dân. Trong cốt lơi của phong trào này, ta thấy có sự thừa nhận ư nghĩa của liên tục tính trong lịch sử cá nhân, gia đ́nh và văn hóa. Đồng thời, cũng có sự công nhận cái nỗi đớn đau do đứt đoạn tính trong các lịch sử ấy gây nên. Người ta đă chứng tỏ rằng kinh nghiệm được ‘tái tiếp nối’ với lịch sử của bản thân ḿnh là một kinh nghiệm rất mạnh mẽ. Tuy không xúc động bằng điều những người thổ dân bị tước quyền cảm nhận, phần lớn chúng ta ai cũng say mê đọc lại gia phả của ḿnh. Những cuộc truy lùng gia phả v́ thế đă trở thành một nghiệp vụ quan trọng. Tâm điểm của những nghiệp vụ này chính là tầm quan trọng của chuyện kể và của kư ức đối với chúng ta. Chính kư ức cho ta thấy cái khả thể về một tương lai có địa sở. Cắt rời khỏi kư ức, ta mất hết qui chiếu và định hướng. Trong một môi trường đổi thay, ta rất dễ bị phân ly khỏi câu chuyện trong đó, ta thủ diễn bi kịch đời ta. Được tái tiếp nối với câu chuyện đời ḿnh như nó đang khởi diễn là một ưu tư chính đối với con người đời nay.

 

ĐÀM LUẬN

. Dù cuộc ‘cách mạng thông đạt’ đem lại nhiều kết quả phi thường, nhưng xem ra người ta ít nói chuyện với nhau hơn trước nhiều, cả b́nh diện bản thân lẫn b́nh diện xă hội. Người ta thường được nghe những người làm việc văn pḥng hay nhà máy than rằng liên hệ làm việc trước thời vi tính hóa lao động tốt hơn bây giờ nhiều. Con người ngày nay quen nói chuyện với máy móc, quen nhận được các giải đáp cho các vấn nạn của ḿnh theo điều kiện của máy móc. Những cái tầm phào (vagaries) và những phong cách tự nhiên của người khác chẳng dễ ǵ được thu thập như trước nữa. Ta mong những kết quả tức khắc từ máy móc và chuyển dịch nỗi chờ mong ấy sang người khác. Cộng với cái đạo đức kỹ thuật trong các xă hội đa nguyên, các quyền lợi cá nhân được khẳng định bất kể đến công ích. Kết quả là xă hội bị phân mảnh thành những nhóm quyền lợi khác nhau. Những nhóm này mất hết kỹ năng đàm thoại với nhau.

 

ĐỐI KHÁNG

. Đối diện với các lực lượng phi ngă, con người lao đao cố giữ cho được cảm thức chính đáng trong việc tự quyết. Nhất là v́ hiện tượng hoàn cầu hóa, chúng ta thấy cần phải tranh đấu để duy tŕ cho bằng được cảm thức về cộng đoàn và văn hóa địa phương. Có những người ư thức được các hiệu quả phi nhân hóa của việc sở hữu đa quốc và tập đoàn và đang tranh đấu chống lại các hiệu quả này bằng cách đưa ra những chiến lược thay thế, trong đó, họ chủ trương ‘nhỏ mới đẹp’, v́ họ tin rằng qui mô sản xuất nhỏ sẽ cho phép người ta có được cái sinh hoạt nhân bản nhiều hơn.

Nếu truyền thống tôn giáo không chú tâm tới các kinh nghiệm và các lo âu này, mà nói lên cái túi khôn và sự thật tri thức của ḿnh, dù gián tiếp, để cùng vang dội với những quan tâm này, th́ số phận của sự phân ly giữa tôn giáo và linh đạo chắc chắn sẽ rộng và sâu hơn. Cái giá mà tôn giáo phải trả sẽ là trở thành loăng nhách và, tệ hơn nữa, khô cứng như đá. Nó sẽ trở nên vô hồn (spirit-less). Nhưng chúng tôi tin rằng mặt ngược lại cũng đúng: truyền thống tôn giáo chân thực không nhất thiết đe dọa các hoài mong linh đạo. Tôn giáo ấy có thể tự đảm nhận vai tṛ làm người giải thích, làm người chuyên chở các quan tâm kia, miễn là ngôn từ sử dụng tại các nơi cái tâm linh tươi mát kia vọt lên phải thật trong sáng.

 

Các Thách Đố Khác Nữa về phía ‘Tôn Giáo’

Tuy nhiên, phương thức xét lại cũng đặt lên vai tôn giáo các đ̣i hỏi đặc thù khác nữa. Việc chú tâm đến các kinh nghiệm chúng tôi nhắc trên đây cũng đ̣i tôn giáo phải được đặc điểm hóa một cách ‘mới’ và đặc thù. Một tôn giáo xa rời, vụ ưu tú sẽ bất lực không thể nói lên các chân lư và túi khôn tích góp của ḿnh. Nó sẽ không được coi là có khả năng cung cấp lời giải thích có giá trị cho kinh nghiệm linh đạo. Đúng hơn, v́ tính khẩn trương trong đó người ta đi t́m linh đạo, tôn giáo cần phải đề cập đến các vấn đề ḿnh gặp một cách đặc thù. Sau cùng, nó phải chứng tỏ các đặc điểm sau đây: phải chứng tỏ ḿnh đă được tháo gỡ (deconstructed), ḿnh huyền nhiệm mà chính trị, linh thánh, có tính cộng đoàn, phong phú mà thơ mộng (36).

Phương thức xét lại, và thời đại trong đó chúng ta đang hiện diện, trước nhất kêu gọi tôn giáo phải được tháo gỡ nghĩa là sẵn sàng để thiên hạ lục lọi các nguyên động lực lẫn các nghị tŕnh pha trộn của ḿnh. Tôn giáo không luôn luôn là điều người ta thấy ở bề ngoài hay điều tôn giáo tự tuyên bố về ḿnh. Khoa thông giải các hoài nghi, một khoa rất đặc trưng của thế kỷ 20, cho thấy tôn giáo có thể che mặt nạ cho nhiều kiểu thức chống chế rất căn bản trong nhân cách các tín đồ và trong các khuôn mẫu xă hội của ḿnh. Thí dụ các h́nh ảnh về Thiên Chúa không giản đơn chút nào; ít khi chúng trong sáng lắm. Hoài mong tôn giáo, các kiểu mẫu tác phong tôn giáo, các phong thái cầu nguyện và sự ưu ái đối với một ngôn ngữ tôn giáo đặc thù là những điều có giá trị cung cấp cho ta nhiều điều về nhân cách – về các nghị tŕnh chính trị cũng như xă hội – cũng như về mầu nhiệm ‘Thiên Chúa’. Các định chế thực tế đă dính líu vào cái mạng lưới chính trị của quyền lực nhiều lắm. Tôn giáo cần đến khoa thông giải các hoài nghi về chính ḿnh. Truyền thống tôn giáo nào không sẵn sàng tháo gỡ quả đáng hoài nghi. Tôn giáo nào đơn thuần chỉ phóng chiếu các kiểu mẫu chống chế hay đơn thuần chỉ nối dài chủ nghĩa lạc quan căn bản hay bị vướng bẫy ngay bên trong cơ cấu quyền lực xă hội của ḿnh, sẽ không thể có được tính uyển chuyển, tính tiếp thu và tính sáng tạo là những đặc tính mà cây cầu của phương thức xét lại đ̣i phải có. Điều cần là trong tôn giáo, các tầng lịch sử, văn hóa và giải thích phải được phân biệt rơ; cũng cần phải phân rơ giữa nghĩa đen và nghĩa bóng và lượng giá đầy đủ hơn vai tṛ các tŕnh thuật, văn thể các dụ ngôn và ư nghĩa các huyền thoại, để các vấn đề cốt chính trong tôn giáo một lần nữa trở nên trong sáng và đơn giản. Lịch sử trả lời các vấn đề ấy cách rất khác nhau, với những công thức khác nhau tùy theo sự dị biệt trong khuôn khổ triết học và các giả định văn hóa. Nhưng chúng tôi tin rằng chúng ta sẽ lầm lẫn nếu nghĩ rằng các câu trả lời do lịch sử lên khuôn sẽ làm cho các vấn đề độc lập với lịch sử trở thành không cần thiết. Đồng thời, chúng tôi cũng không ủng hộ cái lối tra vấn bất tận là thứ tra vấn từ khước chân lư, một thứ chủ nghĩa duy tối tăm (obscurantism) luôn bỏ qua không đếm xỉa ǵ tới câu trả lời, mà chỉ muốn tra vấn cho sướng miệng. Chúng tôi cũng không bác bỏ ư nghĩa chủ yếu của những công thức có sẵn của niềm tin trong một tôn giáo từng làm nên cái cốt lơi của hệ thống tin trong tôn giáo ấy. Tuy nhiên, các câu hỏi lúc nào cũng là suối nguồn của nghị lực và đam mê. Nó giúp lửa cháy bén. Phục hồi các câu hỏi, và không phải chỉ là những câu hỏi về các công thức có trước của túi khôn, chính là khả thể lớn nhất trong diễn tŕnh tháo gỡ.

Muốn xây được cây cầu qua sự phân ly giữa tôn giáo và linh đạo, điều thứ hai tôn giáo cần làm là phải rơ ràng cho thấy ḿnh vừa huyền nhiệm vừa chính trị. Qua từ ‘huyền nhiệm’ chúng tôi muốn nói đến việc tôn giáo phải cho thấy là ḿnh có những kinh nghiệm linh đạo tức khắc và có tính cảm nghiệm sâu sắc. Tôn giáo phải chứng tỏ rằng ḿnh có thể dẫn người ta đến chỗ cảm nhận được Thiên Chúa, chứ không phải chỉ biết về Thiên Chúa mà thôi. Việc gia tăng chú tâm đến linh đạo bên ngoài tôn giáo thách thức tôn giáo phải phục hồi vô số các kỹ năng linh đạo vốn nằm queo trong lịch sử của ḿnh và biến chúng thành khả dụng. Các trung tâm tổ chức bên trong các truyền thống tôn giáo cần phải trở thành các trung tâm linh đạo, nghĩa là những nơi trong đó giáo huấn và thực hành linh đạo được chuyển thông. Chính cái xu hướng huyền nhiệm trong một tôn giáo mới có cái khả năng can dự vào cuộc t́m kiếm ư nghĩa có tính bản thân sâu sắc nhưng cũng phổ quát không kém. Nó cung cấp cho ta cái trực giác có phê phán cần thiết để phân biệt được chân với giả. Cái động năng huyền nhiệm chân chính ấy cũng ở thế căng thẳng. Nó cho phép chân lư xuất hiện qua việc hiệp nhất các đối nghịch là sự hiệp nhất, như trên đă nói, tương hợp với vấn nạn cốt lơi trong thời đại ta.

Tuy nhiên, chiều kích huyền nhiệm của tôn giáo tự nó cần phải ở thế căng thẳng với chiều kích ‘chính trị’. Qua từ ‘chính trị’, chúng tôi muốn nói đến cái khả năng thực hiện được thay đổi trong xă hội. Bằng cách thực sự ‘chính trị’ - chứ không phải phe phái – tôn giáo sẽ giữ được đặc điểm công của ḿnh. Nó không chịu được cái xa xỉ dật dờ trôi vào ‘những vùng tư riêng trong tâm trí con người’ nhưng lúc nào cũng cam kết làm việc v́ công ích và biến cải xă hội (37). Kinh nghiệm linh đạo không bao giờ được phép biến chúng ta thành tŕ trệ (inert) hay mù loà trước các nhu cầu và đ̣i hỏi của người khác nhưng đúng hơn phải làm ta chú tâm hơn và có chiến lược nhiều hơn đối với họ.

Tôn giáo linh thánh là tôn giáo nhập địa (earthed). Nó nhập thể. Nó không để ḿnh bị dụ khị vào việc suy nghĩ rằng tinh thần tự cho ḿnh đi bất cứ cách nào nhưng nhất định không phải là qua sáng thế. Nó trung thành với thế giới mà nó coi như sân khấu của cơi thần linh. Nó học nghe và nhận ra một cái ǵ lớn hơn hiện diện trong cái tầm thường của cuộc đời. Nó có khả năng nhận ra trong cái hữu hạn có sức đẩy của vô hạn, và trong cái nhân bản có cái thần linh.

Điều thứ ba, một tôn giáo đi theo phương thức xét lại cần phải linh thánh (sacral) (38). Tôn giáo linh thánh là tôn giáo có ư thức ảnh tượng (iconic consciousness): sẵn sàng nh́n thấy điều ǵ khác trong điều ḿnh đang nh́n. Bên dưới vẻ bề ngoài của sự vật, tôn giáo ấy sẵn sàng nh́n để nhận ra một cái ǵ khác đang xẩy ra. Nó hiểu được cách tâm linh hiện diện trong thế giới nhưng lại không phải là thành phần của thế giới. Nó hiểu được rằng tinh thần hành động trong và qua các vấn đề thuộc trái tim con người nhưng lại không phải là tùy thể (incidental) đối với chúng. Nó hân hoan trước viễn tượng tinh thần đang được hạ sinh trong thế giới qua những sầu buồn và hoài mong của con người và mong muốn được làm bà đỡ cho cuộc hạ sinh ấy. Tôn giáo linh thánh là tôn giáo nhập địa (earthed). Nó nhập thể. Nó không để ḿnh bị dụ khị vào việc suy nghĩ rằng tinh thần tự cho ḿnh đi bất cứ cách nào nhưng nhất định không phải là qua sáng thế. Nó trung thành với thế giới mà nó coi như sân khấu của cơi thần linh. Nó học nghe và nhận ra một cái ǵ lớn hơn hiện diện trong cái tầm thường của cuộc đời. Nó có khả năng nhận ra trong cái hữu hạn có sức đẩy của vô hạn, và trong cái nhân bản có cái thần linh. Cho nên, tôn giáo nào có đặc điểm linh thánh đều có thể nghe được những tín hiệu mới mẻ của việc thần linh trào dâng lên trong thế giới, chứ không bị kết án là chỉ biết ḍ t́m vết tích những bước đă đi qua của thần linh ấy.

Điều thứ bốn, muốn có khả năng đáp ứng lại việc phân ly, tôn giáo cần phải có đặc điểm cộng đoàn. Như đă nói ở chương đầu, trong chính bản chất, tôn giáo có đặc tính xă hội. Tuy nhiên, đức tin tôn giáo đôi khi lại bị chặt cụt thành cuộc săn t́m cứu độ cá nhân. Trong một dân số có tính đô thị và chuyển dịch, thật khó cho tôn giáo trong việc duy tŕ các kinh nghiệm sống động của cộng đoàn. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tôn giáo chính lại là cuộc khủng hoảng cộng đoàn. Sự tan ră hiện nay trong cộng đoàn, việc lan tràn điều mà họa sĩ Úc, Michael Leunig, từng gọi đùa là ‘tội ác chống lại cộng đoàn’ thực đă được chứng nghiệm, ít nhất cũng trong câu chuyện nhân gian. Sự phân mảnh này chắc chắn có hiệu quả trên sự trong sáng của tôn giáo khi nâng đỡ các hoài mong linh đạo v́ kinh nghiệm linh đạo luôn hướng về cái cộng đoàn kia. Nơi nào cộng đoàn tan vỡ, nơi ấy cuộc sống tinh thần cũng tan vỡ theo. Trong quá khứ, chính trong các định chế của tôn giáo mà người ta phần lớn cảm nhận được cộng đoàn. Những tập hợp xă hội ấy từng cung cấp cho họ một đơn vị những tiếp xúc xă hội không những cho việc thờ phượng mà c̣n cho nhiều sinh hoạt khác nữa. Ngày nay, đối với nhiều người, tôn giáo không c̣n là tụ điểm hàng đầu của cộng đoàn nữa. Con người v́ thế chẳng cần đến tôn giáo để cảm nghiệm cộng đoàn. Cảm nghiệm ấy được nơi khác cung cấp, mà thực ra chẳng có nơi nào hết. Cho nên tôn giáo phải h́nh dung ra những h́nh thức mới cho cộng đoàn, nếu nó muốn vừa lôi kéo vừa giữ được người ta trong cuộc kiếm t́m linh đạo.

Thuộc về một cộng đoàn là thuộc về một dân tộc và lịch sử chung của dân tộc ấy. Thuộc về một dân tộc là chia sẻ kư ức và giữ cho kư ức ấy sống c̣n. Chính kư ức mang lại cho ta chiếc neo và phương hướng. Trong chu kỳ linh đạo, tôn giáo cung cấp kư ức ấy. Nó thưởng ngoạn kư ức của ư nghĩa và túi khôn như bao nhiêu thế hệ đi trước từng cảm nghiệm. Nó cung cấp liên tục tính giữa kinh nghiệm bản thân và việc diễn biến của cuộc kiếm t́m linh đạo trong nhiều thế kỷ. Nhưng kư ức đâu phải được duy tŕ v́ kư ức, nếu không, tôn giáo sẽ tan biến thành món nghệ phẩm có tính xă hội và lịch sử tốt hơn nên trưng bày trong bảo tàng viện. Đúng hơn, trong truyền thống tôn giáo biết đáp ứng, kư ức được duy tŕ cho những khả thể mới mẻ và sáng tạo sẽ được tỏ lộ khi kư ức ấy được đem ra để tiếp xúc với các hoàn cảnh mới. Khi kư ức được ǵn giữ một cách khiến nó không bóp nghẹt được ư nghĩa, nhưng cho phép nó bừng lên cái chói lọi bên trong, th́ những khả thể hoàn toàn mới sẽ được tỏ bày. Điều ngăn cản sự bóp nghẹt kia bằng cách quá nhấn mạnh đến kư ức chính là chị em của kư ức, trí tưởng tượng. Kư ức cùng với tưởng tượng sẽ đem lại những cái nh́n mới mẻ. Muốn đáp ứng được cuộc phân ly giữa tôn giáo và linh đạo, v́ vậy mà tôn giáo cần phải phong phú, đó là đặc điểm thứ năm của phương thức xét lại. Với kư ức và tưởng tượng tay trong tay, tôn giáo quả đă được ‘tái tài nguyên hóa’ (re-sourcing).

Cuối cùng, tôn giáo chỉ có thể bắc cầu qua sự phân ly giữa ḿnh và linh đạo bao lâu nó chịu sử dụng ngôn từ thi ca hơn là mô phạm. Ngôn ngữ có thể mời gọi mà cũng có thể cản ngăn. Nó vừa gợi ư vừa làm cứng đờ. Vừa hứa hẹn vừa loại bỏ. Ngôn ngữ là ch́a khóa giúp tôn giáo hành động hoặc để giải quyết cuộc phân ly hoặc trát xi-măng khô cứng nó. Khi ngôn ngữ cùng vang lên với các quan tâm xét lại, nghĩa là, với những vấn đề của thời đại và những vấn đề nằm sâu dưới thúc đẩy ban đầu của chính ḿnh, th́ tôn giáo sẽ mang theo ḿnh cái năng lực ḥa giải chân chính. Chỉ có ‘ngôn từ thi ca’ mới có được cái đặc điểm ấy. Mà ‘ngôn từ thi ca’ là ngôn từ nói với tưởng tượng. Nó mở ra những viễn tượng mới cho thấy sự vật sẽ như thế nào - chứ không phải phải như thế nào.

Paul Ricoeur có lần đă viết: ‘bất cứ đạo đức học nào nói đến ư chí để đưa ra một quyết định đều phải tùy thuộc một thi ca để mở ra những chiều kích mới cho tưởng tượng’ (39). Câu nói ấy thật đúng lúc cho tôn giáo là thực tại hiện đang có nguy cơ mất đi ngôn ngữ thi ca của ḿnh. Thi ca tôn giáo, một thứ lăng mạn chân thực, rất dễ bị mất hút trong văn xuôi là thứ tuy gắn bó về phương diện tri thức nhưng vốn không có khả năng rung động với các vấn đề và những đói khát của thời đại. Tôn giáo phải tái khám phá như mới điều Amos Wilder gọi là ‘thần thi’ (theopoetic) - một ngôn ngữ có khả năng nắm bắt tưởng tượng và đem lại nét phiêu lưu của tinh thần (40).

 

Kết Luận

Chúng tôi đă thưa rằng phác họa sự phân ly hiện đang xẩy ra giữa tôn giáo và linh đạo không phải là để ủng hộ hay lên án nó. Mà xa hơn, cũng không phải để làm ngơ nó. Các phương thức trên, xét cho cùng, là những phương thức lười lĩnh. Sự phân ly giữa tôn giáo và linh đạo mà ta đang phải kinh qua đặt khá nhiều thách đố lên cả hai phía. Linh đạo được tôn giáo khuyến cáo phải t́m kiếm cả gốc rễ lẫn sự chín mùi của ḿnh. Tôn giáo được linh đạo khuyến khích phải t́m lại khởi nguyên của sức thúc đẩy ban đầu trong ư thức linh đạo và phải trong sáng hơn đối với kinh nghiệm linh đạo.

Nhưng sự thách đố lẫn nhau ấy xẩy ra ở đâu? Cuộc đàm luận như thế có thể xẩy ra ở nghị hội nào? Chỉ đơn thuần đặt kỳ vọng vào các nhà lănh đạo tôn giáo sẽ đảm nhiệm mọi công việc là điều quá dễ. Dĩ nhiên các nhà lănh đạo tôn giáo có vai tṛ nội tại trong đó. Tuy nhiên, mọi người âu lo v́ cuộc phân ly này đều có nhiệm vụ phải bước vào dự án xét lại. Nhiệm vụ này trong yếu tính có tính chiêm niệm. Nó đ̣i người ta phải nhậy cảm với các vấn nạn và vấn đề đang bừng bừng trong trái tim con người, những vấn nạn và vấn đề thường không được nói ra. Đồng thời, nó kêu gọi sự tham gia của những người sẵn sàng dấn thân vào nhiệm vụ t́m lại truyền thống lâu đời của kinh nghiệm linh đạo. Nó kêu gọi tất cả chúng ta cố gắng nghe được những vang động hỗ tương sao cho mọi người đều có được những ngôn từ tạo sức sống để nói với thế giới của chúng ta trong thời đại của chính ḿnh và ngay tại nơi chốn của chính ḿnh. Cây cầu mà ta cần bắc ngang qua cuộc phân ly, sau cùng, chỉ có thể xây được trên những cột trụ dựng lên từ bên dưới - từ công tŕnh cực nhọc của những người tầm thường nhưng cam kết sẵn sàng bắt tay vào nhiệm vụ.

Thi sĩ Úc, James McAuley, cung cấp cho tôn giáo lời cầu nguyện sau đây mà có lẽ ngày nay tôn giáo rất cần:


Lạy Ngôi Lời Nhập Thể, mà trong Ngài mọi tạo vật hiện sinh,
xin hăy ném lửa xuống mặt đất: nâng cao những nhà chiêm niệm
giữa chúng con, những người bước đi giữa ngọn lửa
của liên tiếp nguyện cầu, của bồng bột ước mong.
Xin hăy đặt suối lặng thinh nơi đất khô khát này:
những người lơ đăng gieo hy vọng nơi cát hừng
đôi khi cảm nhận một cảm thức mau qua
muốn hỏi, nhưng không biết từ đâu…

… Ấy thế mà, giữa nguyện cầu và lương tri,
trái tim vẫn xúc động, và cuộc sống có ảnh hưởng.
Và khi trái tim sẵn sàng xem
Lư trí sẽ mở cửa kho tàng đức tin ra.
Trước ngạc nhiên thích thú sẽ tŕnh bày
Một bản đồ vũ trụ Mercator chưa bao giờ làm được
(41).

Tuy nhiên chúng tôi nghĩ ta nên kết thúc với lời cầu nguyện của một nhà nghệ sĩ Úc khác, ông Michael Leunig, người đă xây cầu qua cuộc phân ly như sau:

Chúa thân yêu, xin ban cho chúng con một lối hiện sinh khác; một lối hiểu biết khác. Qua mảnh đất khó khăn của cuộc hiện sinh, chúng con từng ráng xây một xa lộ và làm như thế đă mất đi con đường tản bộ. Lạy Chúa, xin hăy dẫn chúng con trở lại con đường tản bộ: xin hăy dẫn chúng con tới đó nơi, trong cái giản đơn, chúng con có thể di chuyển theo tốc độ của những tạo vật tự nhiên và cảm nhận được cái yêu thương của trái đất dưới bàn chân chúng con. Xin hăy dẫn chúng con tới đó nơi, theo từng bước đi, chúng con có thể cảm nhận được chuyển động của sáng thế trong trái tim chúng con. Và hăy dẫn chúng con tới đó nơi, bên nhau, chúng con có thể cảm nhận được cái ôm hôn của linh hồn chung. Với vận tốc, chẳng yêu được ǵ. Lạy Chúa, xin hăy dẫn chúng con tới con đường chậm chạp; những quang cảnh vui tươi của nhà lữ hành; một lối hiểu biết khác: một lối hiện sinh khác. Amen (42).

 

 

Vinc. Vũ Văn An

 

Mời đọc tiếp

1 2 3


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.