SƯU TẬP NHỮNG
GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
VỀ TRUYỀN GIÁO
CHƯƠNG III
NỘI DUNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO
Dẫn nhập:
Để hiểu đầy dủ và sâu sắc hơn thế nào là Truyền giáo, là Loan báo Tin Mừng, là Phúc âm hóa, thiết nghĩ chúng ta phải đi vào nội dung của việc Truyền giáo. Nội dung của việc Truyền giáo là làm chứng cho ḷng yêu thương vô bờ bến của Chúa Cha, là công bố và đón nhận sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô tức công bố và đón nhận chính Chúa Giêsu. Người chính là quà tặng của Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội và chúng ta, để rồi chúng ta trao tặng cho anh chị em của chúng ta.
I. LÀM CHỨNG TÁ CHO L̉NG YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA CHA.
38. Không phải là thừa khi nhắc lại điều
này: phúc âm hóa trước tiên là làm chứng, một
cách giản dị và trực tiếp, về Thiên Chúa
đă được Đức Giêsu Kitô mạc khải,
trong Chúa Thánh Thần. Làm chứng rằng trong Con của
Ngài, Ngài đă yêu mến thế gian, rằng trong Ngôi Lời
nhập thể, Ngài đă cho vạn vật hiện hữu,
và kêu gọi mọi người đến cuộc sống
đời đời. Đối với nhiều người,
Thiên Chúa mà chúng ta làm chứng có thể chính là vị
Thiên Chúa vô danh mà họ tôn thờ, nhưng không biết
tên, hay họ t́m kiếm bằng một tiếng gọi
thầm kín trong ḷng khi họ có kinh nghiệm về sự
trống rỗng của mọi thần tượng.
Nhưng làm chứng như vậy là phúc âm hóa trọn
nghĩa khi tỏ rơ rằng, đối với con người,
Tạo Hóa không phải là sức mạnh vô danh và xa lạ:
Ngài là Cha. “Chúng ta được gọi là con Thiên
Chúa và thực sự chúng ta là thế!”, và v́ vậy
chúng ta là anh em với nhau trong Thiên Chúa.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng,26).
39. “Thiên Chúa giàu ḷng thương xót là chính Đấng
mà Đức Giêsu Kitô đă mạc khải cho chúng ta biết
như một người Cha: chính Con của Ngài đă
bày tỏ cho ta biết về Chúa Cha qua chính bản thân
ḿnh”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Thiên Chúa giàu ḷng
thương xót, 1).
II. CÔNG BỐ SỨ ĐIỆP TRỌNG TÂM : ƠN CỨU ĐỘ TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ.
40. Việc phúc âm hóa cũng luôn luôn bao hàm một sự
công bố minh bạch rằng trong Đức Kitô, Con
Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại,
ơn cứu độ được ban cho mọi
người, như tặng phẩm của ân sủng và
ḷng nhân lành của Thiên Chúa. Sự công bố như thế
vừa là nền tảng, vừa trung tâm và chóp đỉnh
của động lực phúc âm hóa. Và đây không phải
là một thứ cứu độ nội tại, chỉ
vừa tầm với những nhu cầu vật chất
hay tinh thần, nằm gọn trong khuôn khổ cuộc sống
trần thế và đồng hóa hoàn toàn với những
ước muốn, những hy vọng, những công việc
và những cuộc đấu tranh trần thế. Đây
là một ơn cứu độ vượt qua mọi giới
hạn này để được hoàn thành trong sự
hiệp thông với Đấng duy nhất Tuyệt Đối
là Thiên Chúa: ơn cứu độ siêu việt, cánh
chung này hẳn là bắt đầu ở đời này,
nhưng lại được hoàn thành trong vĩnh cửu.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 27).
III. ĐỨC GIÊSU CỨU TINH: MỘT MÓN QUÀ GỬI TẶNG CHÂU Á.
41. Kinh Thánh đă xác nhận rằng Đức Giêsu thật sự sống cuộc sống của con người. Đức Giêsu mà chúng ta tuyên bố là vị Cứu Tinh duy nhất đă từng có mặt trên đời này như một Thiên Chúa có đầy đủ nhân tính. Ngài giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Sinh ra bởi một Người Mẹ Đồng Trinh tại vùng phụ cận nghèo nàn của Bêlem, Ngài cũng yếu đuối như mọi trẻ em khác, thậm chí c̣n phải sống kiếp người chạy trốn cơn giận của một lănh tụ bạo tàn (Mt 2,13-15). Ngài tùng phục cha mẹ, những người không phải lúc nào cũng hiểu Ngài, nhưng được Ngài tín nhiệm và yêu mến nghe theo (Lc 2,41-52). Trong khi cầu nguyện, Ngài luôn luôn được kết hợp thân mật với Thiên Chúa mà Ngài gọi là “Abba”, “Cha ơi”, tới mức những kẻ nghe được phải ngạc nhiên khó chịu (Ga 8,34-59).
Ngài gần gũi những người nghèo, những người bị bỏ quên, những người thấp hèn, tuyên bố rằng chính họ là những người thật sự được chúc phúc v́ có Chúa ở với ḿnh. Ngài ăn uống cùng với các người tội lỗi, hứa với họ rằng trong bàn tiệc của Chúa Cha họ sẽ có chỗ nếu họ biết từ bỏ con đường tội lỗi của ḿnh và quay về với Ngài. Khi đụng chạm đến những người ô uế và để họ đụng chạm đến ḿnh, Ngài muốn cho họ hiểu thế nào là sự gần gũi của Thiên Chúa. Ngài khóc thương cho một người bạn đă chết, phục sinh một người con đă chết cho người mẹ góa bụa, tiếp đón trẻ em, rửa chân cho các môn đệ. Chưa bao giờ con người thấy t́nh thương Thiên Chúa lại gần gũi như thế.
Người bệnh, kẻ què, người mù, kẻ câm điếc, tất cả đều đă có dịp cảm nghiệm thế nào là được chữa lành và được tha thứ khi được Ngài đụng chạm đến. Ngài chọn ra một nhóm làm bạn đồng hành và đồng sự gần gũi nhất của ḿnh, một nhóm khá đặc biệt v́ trong đó người đánh cá có mặt bên người thu thuế, người theo phái Ai Quốc quá khích ở bên cạnh người thiếu hiểu biết về Lề Luật, và có cả phụ nữ nữa. Một gia đ́nh mới đang được xây dựng dưới sự chăm sóc yêu thương đến mức bất ngờ của Chúa Cha. Đức Giêsu giảng dạy rất đơn sơ, ưa dùng những thí dụ lấy từ cuộc sống hằng ngày để nói về t́nh thương và Nước của Thiên Chúa; c̣n dân chúng th́ nh́n nhận Ngài nói năng có uy quyền.
Tuy vậy, Ngài vẫn bị tố cáo là đă phạm thượng, đă vi phạm Luật thánh, là một người gây phiền phức cho xă hội cần phải loại bỏ. Sau một lần xét xử chỉ căn cứ trên những chứng gian, Ngài đă bị kết án tử h́nh như một phạm nhân phải treo trên thập giá. Bị bỏ rơi và bị nhục mạ như thế, xem ra như Ngài đă thất bại. Người ta vội vàng chôn cất Ngài trong một ngôi mộ mượn tạm. Nhưng vào ngày thứ ba sau khi chết, cho dù có sự canh gác cẩn thận của binh lính, người ta đă khám phá thấy mộ trống. Đức Giêsu đă sống lại từ cơi chết, rồi hiện ra với các môn đệ trước khi trở về với Chúa Cha, nơi Ngài đă từ đó ra đi.
Cùng với tất cả Kitô hữu, chúng ta tin rằng
Con Người đặc biệt này, một mặt rất
tầm thường và đơn sơ, mặt khác lại
rất lạ lùng và ch́m đắm trong mầu nhiệm,
đă đưa Nước Chúa đi vào lịch sử
nhân loại và “dùng sức mạnh Nước Thiên
Chúa mà in dấu trên mọi khía cạnh của đời
sống con người và xă hội, đă từng bị
tội lỗi và sự chết bủa vây. Bằng lời
nói và việc làm của ḿnh, nhất là bằng đau
khổ, cái chết và sự sống lại, Đức
Giêsu đă thi hành ư muốn của Cha Ngài là ḥa giải
toàn thể nhân loại với Cha, sau khi quan hệ giữa
Đấng Tạo Hóa và thụ tạo bị tội
nguyên tổ cắt đứt. Trên thập giá, Ngài đă
mang lấy tội lỗi của thế giới trong quá
khứ, hiện tại lẫn tương lai (…)
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại
Châu Á, 11).
Tất cả con người của Chúa Con và tất cả
những ǵ Chúa Con làm đều đă được Chúa
Cha chấp nhận. Sau đó Chúa Cha đă tặng lại
món quà này cho thế giới, bằng cách phục sinh
Đức Giêsu từ cơi chết và đặt Ngài ngồi
bên hữu ḿnh, nơi đó tội lỗi và chết
chóc không c̣n quyền hành ǵ nữa. Thông qua hy tế Vượt
Qua của Đức Giêsu, Chúa Cha đă cống hiến
cho thế giới sự ḥa giải và một sự sống
sung măn, và không bao giờ lấy lại nữa (…). Trong
Đức Giêsu, nhờ quyền năng của Thánh Thần,
chúng ta mới biết được Thiên Chúa không nỡ
xa chúng ta, không ở trên và ở cách con người,
nhưng Ngài ở rất gần, thậm chí kết hợp
với mỗi người và mọi ngươi trong hết
mọi t́nh huống cuộc sống. Đây là sứ
điệp mà Kitô giáo muốn gởi tới cho thế
giới, và sứ điệp đó cũng là nguồn
b́nh an và hy vọng tuyệt vời cho mọi tín hữu.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại
Châu Á, 12).
IV. DẤU CHỈ NIỀM HY VỌNG ĐỜI SAU
42. Việc phúc âm hóa không thể không bao hàm sự
tiên báo về một thế giới bên kia, v́ đó là
ơn gọi sâu xa và quyết định của con
người vừa liên tục vừa gián đoạn với
hoàn cảnh hiện tại: bên kia thời gian và lịch
sử, bên kia thực tại của thế giới này
mà bộ mặt đang qua đi, và bên kia mọi sự
của thế giới này mà một chiều kích ẩn
khuất ngày kia sẽ được biểu lộ; bên
kia chính con người mà vận mệnh đích thực
không chỉ ở khuôn mặt trần thế, nhưng sẽ
được mạc khải trong cuộc sống mai sau.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 28).
V. NIỀM HY VỌNG VÀO LỜI CHÚA HỨA TRONG GIAO ƯỚC MỚI CỦA ĐỨC KITÔ.
43. Việc phúc âm hóa cũng bao hàm sự rao giảng
niềm hy vọng vào các Lời Chúa hứa trong giao ước
mới nơi Đức Giêsu Kitô; rao giảng t́nh thương
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và t́nh yêu
thương của chúng ta đối với Thiên Chúa;
rao giảng t́nh thương yêu huynh đệ đối
với mọi người – là khả năng hiến tặng
và tha thứ, từ bỏ, giúp đỡ anh em – phát xuất
từ t́nh thương yêu của Thiên Chúa, t́nh thương
yêu này là ṇng cốt của Tin Mừng phúc âm hóa. Phúc
âm hóa bao hàm sự rao giảng về mầu nhiệm sự
ác và việc tích cực t́m kiếm sự thiện. Phúc
âm hóa cũng bao hàm một sự rao giảng luôn luôn khẩn
thiết về cuộc t́m kiếm chính Thiên Chúa bằng
cách cầu nguyện, nhất là cầu nguyện thờ
lạy và tạ ơn, nhưng cũng bằng cách hiệp
thông với Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô là dấu
hiệu hữu h́nh cho cuộc gặp gỡ với Thiên
Chúa. Sự hiệp thông này lại được diễn
tả qua các bí tích là những dấu chỉ khác của
Đức Kitô đang sống và hoạt động trong
Giáo Hội. Sống các bí tích như thế để việc
cử hành đạt tới chỗ viên măn thật sự,
điều đó không làm cản trở hoặc làm sai lạc
việc phúc âm hóa như một số người
nghĩ tưởng, nhưng là đem lại cho nó tất
cả tầm sâu rộng.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 28).
VI. SỨ ĐIỆP LIÊN QUAN ĐẾN TẤT CẢ ĐỜI SỐNG
44. Nhưng việc phúc âm hóa sẽ không trọn vẹn
nếu không để ư tới những quan hệ cụ
thể và thường xuyên giữa Tin Mừng và đời
sống cá nhân và xă hội của con người. V́ thế
việc phúc âm hóa bao gồm một sứ điệp rơ
rệt, thích nghi với những hoàn cảnh khác nhau, với
t́nh h́nh hiện tại, một sứ điệp như
thế về các quyền lợi và nghĩa vụ của
tất cả mọi người, về đời sống
gia đ́nh là điều kiện cần thiết để
mỗi người có cơ triển nở, về đời
sống chung trong xă hội, về đời sống quốc
tế, về ḥa b́nh, công lư và phát triển, một sứ
điệp mạnh mẽ trong thời đại chúng ta
về vấn đề giải phóng.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 29;
ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng
Cứu Độ, 37).
45. Giáo Hội lắng nghe tiếng nói của hàng triệu
con người đang sống bên lề cuộc đời
giữa những nghèo đói bất công phi nhân và vô
luân. Giáo Hội xác tín ḿnh có nghĩa vụ loan báo công
cuộc giải phóng và giúp cho công cuộc này được
khởi phát và thực thi toàn diện .
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng
Cứu Độ, 37).
Trao đổi:
1. Nội dung của Truyền giáo là làm chứng cho ḷng yêu thương của Chúa Cha dành cho loài người nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Cha. Muốn làm chứng được điều ấy th́ Kitô hữu phải cảm nghiệm được t́nh thương độc đáo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Việc ấy đ̣i hỏi chúng ta phải thường xuyên tiếp cận với các trang Phúc Âm và sống mật thiết với Đức Giêsu Kitô là Đấng hiện diện trong các trang Phúc âm ấy. Vậy thử hỏi: bạn đă thực hiện điều ấy chưa? và ở mức độ nào?
2. “Nhưng việc phúc âm hóa sẽ không trọn vẹn nếu không để ư tới những quan hệ cụ thể và thường xuyên giữa Tin Mừng và đời sống cá nhân và xă hội của con người.” Vậy trong ḥan cảnh cụ thể của người giáo dân nói riêng, của xă hội Việt Nam nói chung, chúng ta thấy mối quan hệ cụ thể và thường xuyên trên như thế nào? Phải làm ǵ để mối quan hệ ấy mật thiết và gắn bó hơn?
3. “Giáo Hội lắng nghe tiếng nói của hàng triệu con người đang sống bên lề cuộc đời giữa những nghèo đói bất công phi nhân và vô luân. Giáo Hội xác tín ḿnh có nghĩa vụ loan báo công cuộc giải phóng và giúp cho công cuộc này được khởi phát và thực thi toàn diện.” Trong đời sống giáo xứ và xă hội chúng ta có những bất công và có những con người phải “sống bên lề cuộc đời” không?Do đâu mà xẩy ra những bất công trong giáo xứ và xă hội? Chúng ta phải làm ǵ để dẹp tan bất công và giúp cho mọi người có chỗ trong cuộc đời?
Mời đọc tiếp
Xem các bài viết khác trong Nguyễn Văn Nội, Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.