SƯU TẬP NHỮNG
GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
VỀ TRUYỀN GIÁO
CHƯƠNG VI
ƠN GỌI TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO DÂN
Dẫn nhập:
Trong nhiều thế kỷ, người giáo dân đă hiểu sai rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới có Ơn gọi và bổn phận Truyền giáo. V́ thế mà phần đông người giáo dân chỉ biết sống đạo một cách thụ động, không quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng và giúp người lương dân đón nhận và tin thờ Chúa. Rất may là Công đồng Vatican II đă được Thánh Thần hướng dẫn để xác định lại ơn gọi và sứ mạng của Kitô hữu giáo dân trong Giáo hội và thế giới mà truyền giáo là một phần rất quan trọng. Những giáo lư của Công đồng Vatican II về giáo dân đă được Thượng Hội đồng Giám mục về giáo dân năm 1987 xác nhận lại một lần nữa và sau đó đă được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cô đọng lại trong Tông huấn Kitô hữu giáo dân (Christifideles Laici) năm 1988.
I. ƠN GỌI LÀM TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN
90. C̣n phần giáo dân, v́ họ tham dự thực sự
vào quyền tư tế, ngôn sứ, vương giả của
Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của ḿnh
trong sứ mệnh của toàn dân Thiên Chúa trong Giáo Hội,
và ở giữa trần gian. Giáo dân thực sự thi
hành việc tông đồ bằng công việc của
ḿnh để rao giảng Phúc Am và thánh hóa nhân loại,
đem tinh thần Phúc Am thấm nhuần và kiện toàn
những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho
công việc của họ thuộc lănh vực này làm chứng
tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc
cứu độ nhân loại. V́ bản chất riêng biệt
của người giáo dân là sống giữa đời
và làm việc đời nên chính họ được
Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy
tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa
đời như men trong bột.
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ
Giáo Dân, 2).
V́ vậy hết mọi tín hữu đều có bổn
phận rất cao cả là hoạt động để
mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết
và đón nhận Phúc Am cứu độ của Chúa.
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ
Giáo Dân, 3).
Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Am và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, v́ Chúa phán:”Sự sáng các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).
Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại
vịec làm chứng bằng đời sống. Người
tông đồ đích thực c̣n t́m dịp loan truyền
Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người
chưa tin để đưa họ đến Đức
Tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng
cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng
hơn “v́ t́nh yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 5,14)
và trong ḷng mọi người phải vang lời Thánh
Tông Đồ :”Thật khốn cho tôi nếu tôi không
rao giảng Phúc Am” (1 Cr 9,16).
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ
Giáo Dân, 6).
II. SỰ CỘNG TÁC
91. V́ toàn thể Giáo Hội là truyền giáo và v́ công việc rao giảng Phúc Am là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên Thánh Công Đồng mời gọi mọi người canh tân tự thâm tâm ḿnh, để khi đă tích cực ư thức trách nhiệm riêng trong việc truyền bá Phúc Am, mọi người góp phần vào công cuộc truyền giáo nơi muôn dân.
Tất cả các Kitô hữu v́ là chi thể của Chúa Kitô hằng sống, được sáp nhập và nên giống Người nhờ Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, nên họ có bổn phận phải cộng tác vào việc phát triển và bành trướng Thân Thể Người, để Thân Thể này được sung măn càng sớm càng hay.
V́ thế, tấ cả con cái Giáo Hội phải tích
cực ư thức trách nhiệm của ḿnh đối với
thế giới, phải hun đúc cho ḿnh có tinh thần
thực sự công giáo, và phải hy sinh góp sức vào
công việc rao giảng Phúc Am. Tuy nhiên, mọi người
phải biết rằng bổn phận đầu tiên và
quan trọng nhất đối với việc truyền bá
đức tin là sống sâu xa đời sống Kitô hữu.
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Họat
động Truyền Giáo của Giáo hội, 35).
92. Giáo dân cộng tác vào công cuộc rao giảng Phúc
Am của Giáo Hội, đồng thời với tư cách
chứng nhân và khí cụ sống động, họ tham
gia vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội, nhất
là khi họ được Thiên Chúa kêu gọi và
được Giám Mục thu nhận làm việc đó.Trong
những địa hạt đă theo Kitô giáo, giáo dân
tham gia vào việc rao giảng Phúc Am bằng cách tự
khuyến khích và khích lệ người khác hiểu biết
và yêu mến các xứ truyền giáo, cổ vũ ơn
gọi trong gia đ́nh ḿnh, dâng cúng mọi thứ của
cải, như thế họ trao tặng kẻ khác ơn
đức tin mà họ đă nhận lănh nhưng không.
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Họat
động Truyền Giáo của Giáo hội, 41).
III. GIÁO DÂN
93. V́ ơn gọi đặc thù của họ giữa ḷng đời và ở hàng đầu những nhiệm vụ trần thế đa dạng nhất, cho nên các giáo dân cũng phải làm công việc phúc âm hóa theo một cách thức độc đáo.
Nhiệm vụ đầu tiên và tức thời của
họ không phải là thiết lập và phát triển cộng
đồng Giáo Hội – đó là nhiệm vụ đặc
thù của các Chủ Chăn – nhưng là vận dụng
tất cả các khả năng Kitô giáo và Tin Mừng
c̣n tiềm ẩn nhưng lại đă có mặt và tác
động trong thế sự. Phạm vi dành riêng cho hoạt
động phúc âm hóa của họ là thế giới rộng
răi và phức tạp chẳng những của các sinh hoạt
chính trị, xă hội, kinh tế, mà c̣n của văn hóa,
các khoa học và các nghệ thuật, đời sống
quốc tế, các phương tiện truyền thông
đại chúng, và cũng là một số thực tại
khác đang chờ được phúc âm hóa như t́nh
yêu, gia đ́nh, giáo dục trẻ em và thiếu niên, nghề
nghiệp, đau khổ. Càng có những giáo dân thấm
nhuần Tin Mừng mà có trách nhiệm về các thực
tại trên và dấn thân rơ rệt vào đó, có đủ
điều kiện để đẩy chúng đi lên
và ư thức rằng cần phải vận dụng đầy
đủ khả năng Kitô giáo của chúng thường
bị chôn vùi và bị ngạt, th́ các thực tại
ấy tuy không mất đi hay phải hy sinh giá trị
nhân văn của chúng, nhưng biểu lộ kích thước
siêu việt ít được biết tới và càng có
ích cho việc xây dựng Triều Đại Thiên Chúa
và ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô. (x. Hiến
chế tín lư về Giáo hội 31, 33, 34, 35, 36, 41, 48).
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 70).
IV. HĂY ĐI KHẮP TỨ PHƯƠNG THIÊN HẠ
94. Nhận ra rằng hiện nay cần cấp bách phải có một công cuộc Phúc Am Hóa mới. Giáo Hội không thể từ khước sứ vụ trường kỳ là mang Tin Mừng đến cho hàng triệu triệu người nam cũng như nữ, chưa nhận ra Đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại. Đây là công tác truyền giáo đặc trưng nhất mà Đức Giêsu đă và đang mỗi ngày trao phó cho Giáo Hội của Ngài.
Công việc của anh chị em giáo dân, mà không bao giờ
thiếu trong lănh vực này, hiện nay luôn tỏ ra cần
thiết hơn và cao cả hơn. Thực vậy, lệnh
truyền của Đức Kitô “hăy đi khắp tứ
phương thiên hạ” vẫn được rất
nhiều giáo dân quảng đại hưởng ứng.
Họ sẵn sàng từ giă môi trường sống, công
việc làm, quê hương xứ sở ḿnh, để
đến những miền truyền giáo, ít là trong một
thời gian nhất định. Có cả những đôi
vợ chồng Công giáo, noi gương Aquila và Priscilla (Cv
18 ; Rm 16,3) đang cống hiến một chứng từ
khích lệ cho thấy một t́nh yêu thiết tha đối
với Đức Kitô và với Giáo Hội bằng sự
hiện diện tích cực của họ tại các miền
truyền giáo.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Kitô hữu Giáo dân, 35).
V. DO BÍ TÍCH THANH TẨY, MỌI GIÁO DÂN ĐỀU LÀ NHÀ TRUYỀN GIÁO
95. Trong thời gian gần đây, các Đức Giáo Hoàng đă nhấn mạnh nhiều đến vai tṛ quan trọng của giáo dân trong hoạt động truyền giáo.
Việc tín hữu tham gia vào sứ vụ truyền bá đức tin đă xuất hiện rơ ràng ngay từ những thời kỳ đầu của Kitô giáo, nhờ hoạt động của các tín hữu, các gia đ́nh cũng như toàn thể cộng đoàn. Đức Piô XII đă nhắc lại điều đó trong Thông Điệp đầu tiên của ngài về truyền giáo của giáo dân (Thông Điệp Evangelii Praecones). Sự tham gia tích cực của các nhà truyền giáo giáo dân, namvà nữ, cũng không thiếu trong thời cận đại. Làm sao lại không nhắc đến vai tṛ quan trọng của các nhà truyền giáo giáo dân, công việc của ho trong gia đ́nh, trong trường học, trong sinh hoạt chính trị, xă hội văn hóa, nhất là việc giảng dạy đạo lư Kitô giáo do họ đảm nhận? Cũng phải nh́n nhận rằng một số Giáo Hội đă được thành lập nhờ hoạt động của các nhà truyền giáo giáo dân, nam cũng như nữ. Và điều đó đem lại vinh dự lớn lao cho họ.
Công đồng Vatican II đă xác nhận truyền thống
này qua việc làm sáng tỏ tính cách truyền giáo của
toàn thể dân Chúa, nhất là việc tông đồ của
giáo dân, đồng thời cũng nhấn mạnh đến
đóng góp riêng biệt mà người giáo dân được
mời gọi đem lại cho hoạt động truyền
giáo. Đối với mỗi tín hữu, sự cần
thiết phải chia sẻ một trách nhiệm như thế
không phải chỉ là vấn đề hiệu năng tông
đồ : đó là một bổn phận và một quyền
lợi dựa trên phẩm giá do Bí tích Rửa tội
đem lại, nhờ đó, người giáo dân tham dự
theo cách thức riêng của ḿnh, vào ba chức vụ của
Đức Giêsu Kitô: tư tế, ngôn sứ và vương
giả. Bởi vậy họ có nghĩa vụ tổng quát
và có quyền lợi xét như từng cá nhân hoặc kết
hợp thành hiệp hội, làm sao để mọi
người khắp thế giới biết đến và
đón nhận sứ điệp cứu độ của
Thiên Chúa. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn
trong những hoàn cảnh mà chỉ nhờ giáo dân, người
ta mới có thể nghe Tin Mừng và biết Đức
Kitô”. Ngoài ra v́ tính cách trần thế là tính cách
riêng biệt của họ, nên họ có ơn gọi
đặc biệt “t́m kiếm Nước Thiên Chúa bằng
cách xử lư các việc trần thế và điều hợp
chúng theo ư Thiên Chúa”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Sứ Điệp Đấng Cứu
Độ, 71).
VI. GIÁO DÂN
96. Như Công Đồng Vatican II đă chỉ rơ, do ơn gọi của ḿnh, các giáo dân được đặt một cách vững chắc vào trong thế giới để thi hành những công việc hết sức đa dạng. Chính tại nơi này họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Do ân sủng và do tiếng gọi từ bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, mọi giáo dân đều là nhà truyền giáo ; và địa bàn truyền giáo của họ là những thế giới vô cùng rộng răi và phức tạp như chính trị, kinh tế, công nghiệp, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và thể thao. Tại nhiều nước Á Châu, người giáo dân đang phục vụ như các nhà truyền giáo chính hiệu, tiếp xúc với những đồng bào Á Châu có thể chưa bao giờ có dịp gặp gỡ các giáo sĩ và tu sĩ. Tôi xin gửi lời cám ơn của toàn thể Giáo Hội đến họ, và tôi khuyên tất cả các giáo dân hăy nhận lấy vai tṛ riêng của ḿnh trong sinh hoạt và sứ mạng của Dân Chúa, làm chứng cho Đức Kitô ở bất cứ nơi nào ḿnh có mặt.
Trong lúc làm chứng cho Tin Mừng ở mọi lănh vực
của đời sống trong xă hội, người giáo
dân có thể có một vai tṛ độc nhất vô nhị
trong việc nhổ tận rễ những sự bất
công và đàn áp, và để làm việc này họ cũng
cần được đào tạo thích đáng. Muốn
thế, tôi xin hiệp ư với các nghị phụ Thượng
Hội Đồng đề nghị thành lập ở cấp
giáo phận hay cấp quốc gia những trung tâm đào
tạo giáo dân, chuẩn bị làm công việc truyền
giáo như những chứng nhân cho Đức Kitô tại
Châu Á ngày nay.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu
Á, 45a)
VII. PHỤ NỮ
97. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng tỏ
ra quan tâm nhất là làm sao cho Giáo Hội trở thành một
Giáo Hội tham gia, trong đó không ai cảm thấy ḿnh
bị khai trừ. Các ngài coi việc tham gia rộng răi hơn
của phụ nữ trong sinh hoạt và sứ mạng của
Giáo Hội Á Châu là một nhu cầu hết sức cấp
bách. “Phụ nữ có một năng khiếu hết sức
đặc biệt trong việc truyền đạt đức
tin, đến nỗi chính Đức Giêsu cũng đă
quan tâm đến những năng khiếu ấy trong công
cuộc rao giảng Tin Mừng. Như đă thấy với
người phụ nữ Samari sau khi gặp Đức Giêsu
tại bờ giếng Giacóp: Ngài chọn chị làm người
đầu tiên để quảng bá niềm tin mới
trong một miền đất không phải của người
Do Thái“. Để đẩy mạnh sự phục vụ
của phụ nữ trong Giáo Hội, cần tạo nhiều
cơ hội hơn nữa cho họ tham dự các lớp
thần học và các lănh vực nghiên cứu khác; nam giới
trong các chủng viện và các lớp đào tạo cần
được huấn luyện thế nào để biết
coi phụ nữ là những cộng sự viên của
ḿnh trong việc tông đồ. Cần phải cho phụ
nữ tham gia một cách thực sự vào các chương
tŕnh mục vụ, trong các hội đồng mục vụ
cấp giáo phận và giáo xứ, cũng như trong các hội
nghị giáo phận. Phải đánh giá cho hết mức
khả năng cũng như những đóng góp của họ
trong các ngành y tế, giáo dục, trong việc chuẩn bị
các tín hữu lănh nhận bí tích, xây dựng cộng
đoàn và ḥa giảu. Như các nghị phụ Thượng
Hội Đồng có ghi nhận, sự hiện diện của
các phụ nữ trong sứ mạng yêu thương và phục
vụ của Giáo Hội sẽ góp phần đáng kể
vào việc đưa Đức Giêsu từ bi, chuyên chữa
lành và ḥa giải, đến với dân Á Châu, nhất
là những người nghèo và những người bị
gạt ra ngoài lề xă hội.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu
Á, 45c)
VIII. GIA Đ̀NH
98. Bên trong việc tông đồ phúc âm hóa của giáo dân, không thể không lưu ư đến hoạt động phúc âm hóa của gia đ́nh. Vào những lúc khác nhau trong lịch sử, gia đ́nh đă rất xứng với danh hiệu đẹp đẽ “Giáo Hội tại gia” đă được Công Đồng Vatican II thừa nhận.
Điều ấy có nghĩa là các khía cạnh này nọ của t́an thể Giáo Hội phải được lập lại trong mỗi gia đ́nh Kitô giáo. Ngoài ra gia đ́nh cũng như Giáo Hội, có nghĩa vụ làm một không gian cho Tin Mừng được truyền đạt tới để Tin Mừng từ đó tỏa ra.
Vậy bên trong mỗi gia đ́nh ư thức về sứ mệnh này, tất cả mọi phần tử của gia đ́nh đều phúc âm hóa. Cha mẹ chẳng những truyền thụ Tin Mừng cho con cái mà c̣n có thể nhận được chính Tin Mừng này đă được sống sâu sắc từ phía con cái. Và một gia đ́nh như thế sẽ phúc âm hóa được nhiều gia đ́nh khác và môi trường chung quanh ḿnh.
Cả những gia đ́nh phát xuất từ một
hôn nhân hỗn hợp cũng có bổn phận loan báo
Đức Kitô cho con cái ḿnh với tất cả những
ǵ mà bí tích Thánh tẩy chung bao hàm; các gia đ́nh ấy
c̣n có nhiệm vụ khó khăn là phải dựng xây sự
hiệp nhất.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 71).
Bởi v́ gia đ́nh Kitô hữu dự phần vào sự
sống và sứ mạng của Hội Thánh, một Hội
Thánh đang kiên tŕ lắng nghe Lời Thiên Chúa với
tâm t́nh tôn giáo và đang công bố Lời ấy với
ḷng tin cậy mănh liệt, nên gia đ́nh ấy sống
vai tṛ tiên tri của ḿnh bằng cách đón nhận và
loan báo Lời Chúa; như thế gia đ́nh ngày càng trở
nên một cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia đ́nh, 51).
Như Thượng Hội Đồng Giám Mục đă lập lại theo lời kêu gọi của tôi ở Puebla, tương lai việc Tin mừng hóa tùy thuộc phần lớn nơi Hội Thánh tại gia. Sứ mạng tông đồ ấy của gia đ́nh bắt nguồn từ Bí tích Thánh Tẩy và họ đă nhận được nơi Bí tích Hôn phối một sức đẩy mới để truyền đạt đức tin, để thánh hóa và biến đổi xă hội hiện tại theo ư định của Thiên Chúa.
Gia đ́nh Kitô hữu, nhất là ngày nay, đặc biệt
được mời gọi làm chứng cho giao ước
phục sinh của Đức Kitô nhờ việc kiên tŕ
tỏa sáng niềm vui t́nh yêu và sự chắc chắn của
ḷng trông cậy, mà gia đ́nh phải lưu tâm tới
:”Gia đ́nh Kitô hữu lớn tiếng loan truyền sức
mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy
trông vào một cuộc sống hạnh phúc “.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Gia đ́nh, 52).
IX. GIA Đ̀NH Á CHÂU
100. Gia đ́nh là môi trường b́nh thường cho trẻ em lớn lên, đạt tới sự trưởng thành cá nhân và xă hội. Gia đ́nh cũng là nơi cưu mang di sản của chính nhân loại, v́ thông qua gia đ́nh, sự sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đ́nh chiếm giữ một vị trí hết sức quan trọng trong các nền văn hóa Châu Á. Và như các nghị phụ Thượng Hội Đồng đă lưu ư, các giá trị gia đ́nh như ḷng hiếu thảo, yêu thương và chăm sóc người già và người bệnh, yêu trẻ và sống ḥa thuận vẫn đang được quư trọng trong các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Châu Á.
Nh́n bằng cặp mắt người Kitô hữu, gia đ́nh c̣n là “Giáo Hội tại gia”. Gia đ́nh người Kitô hữu nói riêng, cũng như Giáo Hội nói chung, phải là nơi lấy sự thật của Tin Mừng làm quy luật sống và làm quà tặng của gia đ́nh cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đ́nh không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ, mà c̣n là một torng các nhân viên đắc dụng nhất trong công cuộc phúc âm hóa. Hiện nay các gia đ́nh người Kitô hữu đang được mời gọi để làm chứng cho Tin Mừng trong những thời thế và hoàn cảnh khó khăn, đó là khi bản thân gia đ́nh cũng đang bị biết bao lực lượng khác đe dọa. Muốn làm nhân viên phúc âm hóa trong một thời đại như thế, gia đ́nh người Kitô hữu cần phải trở thành mộ “Giáo Hội tại gia” chính hiệu, sống trọn ơn gọi Kitô hữu của ḿnh một cách khiêm tốn và đầy yêu thương.
Như các nghị phụ Thượng Hội Đồng
đă chỉ ra, điều ấy có nghĩa là gia đ́nh
cần phải tham gia tích cực vào sinh hoạt giáo xứ,
tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và
bí tích Sám Hối, dấn thân phục vụ người
khác. Điều ấy cũng có nghĩa là các bậc
cha mẹ phải cố gắng hiến những giây phút
cả gia đ́nh quy tụ bên nhau thành cơ hội để
cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh, cử
hành các nghi thức do chính cha mẹ thực hiện, và
giải trí lành mạnh. Tất cả những việc
này sẽ giúp làm cho gia đ́nh người Kitô hữu
trở thành trọng tâm của công cuộc phúc âm hóa,
trong đó ai cũng cảm nghiệm được t́nh
thương của Chúa và chia sẻ cho người khác.
Các nghị phụ Thượng Hội Đồng
cũng nh́n nhận rằng trẻ em phải có một
vai tṛ trong công cuộc phúc âm hóa, cả trong gia đ́nh
lẫn trong các cộng đoàn rộng lớn hơn. Xác
tín rằng “tương lai thế giới và Giáo Hội
sẽ đi qua gia đ́nh”, một lần nữa xin
để nghị mọi người hăy học hỏi
và thi hành những ǵ tôi đă viết về gia đ́nh
trong Tông Huấn “Familiaris Consortio”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu
Á, 46).
Trao đổi:
1. Bạn hăy rút ra những câu mà bạn cho là hay nhất, quan trọng nhất và đánh động bạn nhất trong các trích đoạn trên thuộc Giáo huấn của Giáo hội về vai tṛ truyền giáo của: (a) giáo dân, (b) phụ nữ, (c) gia đ́nh và gia đ́nh Á Châu?
2. Để thực thi trách nhiệm truyền giáo của ḿnh, người giáo dân Việt Nam cần được Giáo Hội đào tạo, hướng dẫn và giúp đỡ như thế nào?
3. Để thực thi trách nhiệm truyền giáo của ḿnh, người nữ giáo dân Việt Nam cần được Giáo Hội đào tạo, hướng dẫn và giúp đỡ như thế nào?
4. Để thực thi trách nhiệm truyền giáo của ḿnh, các gia đ́nh Công giáo Việt Nam cần được Giáo Hội đào tạo, hướng dẫn và giúp đỡ như thế nào?
Mời đọc tiếp
Xem các bài viết khác trong Nguyễn Văn Nội, Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.