NIỀM VUI CỦA THÁNH PHANXICÔ

Choir

 

 
 

TGM Godfried Danneels

 

 

 

Anh chị em thân mến,

Đây là ngày Chúa đă làm ra, nào ta hăy vui mừng hoan hỉ” (TV 118, 24)

Đó là bài ca của Giáo hội vào buổi sáng Phục sinh. Đó cũng là điều tôi muốn chúc cho từng anh chị em: Chúa đă sống lại từ kẻ chết. Ngài đến gặp gỡ chúng ta. Ngài cho chúng ta thấy cây thánh giá: cây sự chết vào ngày thứ sáu tuần thánh, đă trổ hoa ba ngày sau đó; bởi v́ nhờ cây thánh giá này, niềm vui lại đến trong thế giới. Đức Kitô cho chúng ta thấy đôi tay, đôi chân và cạnh sườn bị đóng đinh của Ngài. Đấy là những vết thương vinh hiển: không c̣n đau khổ nơi Đấng đến băng bó vết thương chúng ta và chữa lành chúng. Ai c̣n thiếu niềm vui này nữa? V́ đây là lễ Phục sinh, ngày Chúa đă làm ra.

Và năm nay niềm vui c̣n nhiều hơn thế nữa. Chúng ta mừng kính thánh Phanxicô, con người nghèo ra đời tại Átxidi cách đây 800 năm. Chưa có ai vui bằng ngài cả, ngài là “Tiểu tử thanh bần”. Ngài vui hơn chúng ta nữa đấy! Có lẽ ngài có một Tin mừng khác sao? Tin mừng vẫn chỉ là một, hôm qua cũng như hôm nay. Vậy th́ sự khác biệt từ đâu đến?

 

Niềm vui bay đi rồi sao?

Niềm vui tan biến nơi đâu? Có quá nhiều sầu buồn trong thế giới, trong chúng ta, trong Giáo hội và trong con tim mỗi người! Khăn tang này đến từ đâu trong đời chúng ta? “Sự sầu buồn nhè nhẹ” bay chung quanh chúng ta như làn sương mỏng đến từ đâu? Chúng ta bị bệnh không? Bị bệnh v́ khủng hoảng không? Không chắc, nhưng không có nhiều người đau khổ nữa sao? Xin nghe một lá thư gửi đến tôi hôm qua: “Chồng con và con, dường như chúng con xa nhau, trong khi chúng con đều có thiện chí cả. Nhưng đồng thời có sự cách xa bí nhiệm nào đây? Chúng con yêu nhau, chúng con sợ mất nhau. Tại sao chúng con không t́m được nhau thật sự!” Tại sao có nhiều sự sầu lo buồn bă trong mỗi gia đ́nh, trong hầu hết mọi tâm hồn?

Ai sẽ chỉ cho chúng ta biết cái giếng của Giacóp để chúng ta đến múc nước của niềm vui? Bao người nam nữ và bao cặp vợ chồng ngồi bên thành giếng, mệt mỏi và khát nước vào giờ trưa của đời họ. Họ giống như Đức Giêsu. Họ nói giống Ngài: “Xin cho tôi uống nước” (Ga 4, 7). Trong sa mạc của nền văn minh này, cái giếng nằm nơi đâu, cái giếng có thể cung cấp đủ nước không những cho Giacóp và gia súc của ông, mà c̣n cho cả nhân loại? Bởi v́ sự sầu buồn có mặt khắp nơi và mang nhiều tên khác nhau. Mọi người đều khát, khát nước của hy vọng và niềm vui. Nước sự sống nằm ở đáy giếng mà chỉ có Chúa múc được mà thôi.

Đă đến lúc phải đi t́m nguồn mạch niềm vui. Sự sầu buồn là không thể chịu đựng được trong lễ Phục sinh và trong năm dành cho thánh Phanxicô này.

 

“Tuổi trẻ vàng son”

Phanxicô đă khởi đầu cuộc sống như đa số người trẻ hôm nay: trai trẻ, ham sống và thích vui thú. Átxidi cũng có tuổi trẻ của ḿnh, một tuổi trẻ vô lo, sống qua ngày. Đấy là thời kỳ mới: thời kỳ phát sinh các thành phố buôn bán và tiền bạc ngự trị khắp nơi. Hầu như mọi sự đều có thể được, gần giống như chúng ta trong thập niên 1960. “Đó là tuổi trẻ vàng son”, như ở đất nước chúng ta cách đây 10 năm. Ngày nay người ta c̣n có thể thấy được điều này trên đường phố và thành thị của chúng ta. Phanxicô được mô tả: “Các bạn bè đă chọn cậu để tổ chức buổi tiệc sang trọng và chính cậu phải trả mọi chi phí. Cậu thường làm như vậy. Khi họ đă no nê, họ cùng nhau đi ra đường, ca hát vang cả thành phố. Cậu cầm gậy, là hoàng tử của họ và cậu đi cuối cùng của đám rước”. Ai chưa hề thấy như vậy? Không có thành phố nào, không có đêm nào mà điều này không xảy ra. Giới trẻ hôm nay cũng có thần tượng riêng và hoàng tử riêng của họ.

Nhưng điều xảy đến với thánh Phanxicô cũng có thể xảy ra nữa: tâm hồn của hoàng tử không hiện diện ở đó. Chúng ta hăy đọc: “Hoàng tử Phanxicô đi thinh lặng đàng sau. Cậu chăm chú lắng nghe các bạn ca hát. Nhưng bỗng dưng Chúa đến thăm cậu. Ḷng cậu tràn ngập sự hiện diện của Chúa. Cậu không thể nói ǵ hoặc cử động ǵ”.

Ngày nay cũng thế, sẽ có những hoàng tử không ca hát nữa? Tâm hồn họ không hiện diện lúc đó nữa. Vậy niềm vui của họ bay đi đâu? Nó đă bị một con sâu nhỏ đâm chích như trái cây quá chín. Và rồi tuổi trẻ của thời đại chúng ta sẽ biết giờ sự thật của ḿnh. Đó là giờ mong ước sống đơn độc và suy tư. Đó là giờ của các vấn nạn: có c̣n sự ǵ khác trong cuộc đời tôi không? Luôn luôn có những hoàng tử được Chúa đến thăm vào giữa bữa tiệc vui. C̣n có những chuyện mà chúng ta không tin được. Nhưng liệu có ai để lắng nghe, để sống với họ trong giờ quyết định ấy? Một linh mục hoặc một ngôn sứ? Không hoàn toàn như thế, như lời ngôn sứ Giêrêmia: “Cả ngôn sứ cùng là tư tế, lang thang khắp xứ mà không hiểu biết ǵ” (Gr 14, 18).

 

Trái tim cao thượng nhuốm mùi sầu thương

Phanxicô có quả tim cao thượng; nơi Ngài có điều ǵ đó rất thượng mă: ưa thích chuyện nhân bản và ham thích đấu tranh cho các giá trị này, Phanxicô đă mua ngựa, vũ khí và tiến về Pérouse. Người ta chờ nghe tin của Ngài. Sự hùng hổ dẫn Ngài đến những hành vi trái với lư trí. Ngài không lùi bước trước bất cứ điều ǵ. Ngài cảm thấy trái tim ḿnh được tôi luyện bằng các lư tưởng của thời đại: phù hiệu của thành phố hoặc của gia đ́nh, và trước hết danh dự trên băi chiến trường.

Trong thời đại chúng ta, có vô số thanh niên như vậy, họ mang trong ḿnh sự cao thượng của con tim như con chim trong lồng vậy. Họ rất nhạy cảm với các giá trị của thời đại chúng ta: công bằng, ḥa b́nh, liên đới với người nghèo, giải trừ binh bị, quan tâm đến môi trường và vạn vật. Họ không chịu nổi các vết thương của thế giới: đói nghèo, áp bức, nguy hiểm hạt nhân và biết bao nơi chốn có người phong sinh sống. Có nhiều hơn một Phanxicô là người không ngần ngại ra đi chiến đấu chống lại thành Pérouse, và ngày nay từ chối sống b́nh thường hoặc lao vào chuyện tầm thường. C̣n Phanxicô đó muốn chiến đấu để thay đổi thế giới, ngài luôn có mặt: ngài đi trên các nẻo đường và đến các trường học chúng ta.

Phanxicô có quả tim cao thượng… nhưng ngài không t́m thấy niềm vui. Sự hăng hái của ngài chỉ kéo dài một mùa hè. Thế rồi dường như có mùa thu trong đời ngài. Lá vàng rơi. Không c̣n ǵ làm ngài đam mê nữa, “cả ngựa, gươm giáo, thành phố bao vây” cũng không làm ngài vui. Ngài thất vọng. Đó là giờ mà những ai muốn thoát sự tầm thường biết đến; những ai mơ điều ǵ cao hơn nữa biết đến. Họ đă đào sâu để khám phá châu báu; nhưng lại gặp một điều hiển nhiên: không có thành phố bị chôn vùi, không có Atlantide. Đây là giờ của sầu buồn; đây thường là giờ mà Chúa nói, nhưng người ta không quan tâm. Đây là giờ của bóng mờ và phiền muộn, trong đó người ta nói rất khẽ: người ta sẽ có nhiều hơn tôi đă nh́n thấy cho đến bây giờ, nhưng bóng mờ không kéo dài: cần phải chuyển qua điều khác. Hiện trạng là bất khả nhưng việc ǵ sẽ xảy đến? Bóng tối, hoàng hôn, rạng đông? Đó là khởi đầu của ánh sáng ban ngày hay của đêm đen loan báo?

 

Hôn người phong

Để trả lời câu hỏi này, bạn cần làm điều ǵ đó: bạn không thể ngồi yên được. Hăy làm điều ǵ đi: một bước chân dù là nhỏ thôi, một cử chỉ nho nhỏ. Có thể là một điều nhỏ bé, b́nh thường, nhưng là điều bạn đă từ chối, bạn đă hoăn lại cho lần sau.

Phanxicô làm một cử chỉ để thoát ra ngoài: Ngài làm một cử chỉ mà từ nhiều năm qua Ngài đă luôn từ chối khi tự nhủ: “Tôi không thể làm được bao giờ!”. Thế nhưng Ngài đă làm thành công nhờ ơn Chúa: Ngài ôm hôn một người phong. Ngài liều lĩnh để làm; thật cay đắng khi hôn cái miệng méo xệch đó. Nhiều năm sau, trong di chúc, Ngài sẽ viết: “Chúa đă ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: Khi c̣n sống trong tội lỗi, mỗi lần trông thấy người phong, tôi lấy làm ghê tởm lắm. Nhưng chính Chúa đă dẫn tôi đến với họ và tôi đă tỏ ḷng thương xót họ”.

Và trong cử chỉ đó ẩn giấu một niềm vui, như cục vàng thiên nhiên trong ḷng con sông vậy. Nếu tôi muốn thoát ra khỏi vũ trụ tuyệt vọng hoặc sầu buồn, tôi chỉ có một lựa chọn: tôi phải đi một bước, phải làm điều ǵ đó. Một bước nhỏ, một điều nhỏ, nhưng tôi phải liều mới làm được. Tôi cần phải thỏa hiệp. Có thể là từ nhiều năm rồi tôi chưa ôm chặt đứa con vào ḷng, chưa đối thoại với chồng tôi, vợ tôi, và sau nhiều ngày đêm câm nín, tôi viết lá thư đầu tiên sau thời gian im lặng lâu dài, chào hỏi người nào đó mà tôi cố tránh mặt từ lâu. Những cử chỉ đơn giản thôi, nhưng khó làm biết bao. Và khi tôi lao ḿnh làm được, điều trước đây là cay đắng sẽ đổi thành sự dịu ngọt.

Với mỗi người chúng ta, luôn có một người phong đứng ở lề đường. Biết đâu người phong ấy lại chính là Chúa: trong nhiều năm, tôi chưa hề nói ǵ với Ngài để chúc tụng Ngài, tôi chưa hề thú nhận lầm lỗi của tôi. Điều này xem ra quá khó, và rồi: cầu nguyện hoặc xưng tội nào tốt lành ǵ đâu?

Nhưng bỗng nhiên, có điều ǵ đó đổ vỡ trong tôi: tôi liều nói ra. Lúc ấy niềm vui thứ tha ngập tràn ḷng tôi; tôi cảm thấy ḿnh hồi sinh như một cây lớn sau mùa đông dài.

 

Niềm vui thưa “vâng”

Nhưng nụ hôn trao cho người phong luôn dẫn đi xa: hướng tới con người của khổ đau, đầy thương tích. Phanxicô đă gặp con người ấy trước tượng thánh giá nhà thờ San Damiano. Ngài nghe những tiếng đơn giản: “Phanxicô, con không thấy nhà Ta đang sụp đổ sao? Hăy đi sửa lại nhà Ta!”. Phanxicô hiểu các lời này theo nghĩa đen: ngài leo lên mái nhà thờ và xây lại với từng viên đá một. Rồi ngài đi khắp nơi trong thành phố, bắt đầu tu sửa các nhà thờ. Bởi v́ ngài tin là ḿnh hiểu rơ lời này của Chúa rồi.

Nhưng câu nói có một nghĩa khác mà Phanxicô không dám nghĩ vào lúc ấy. Ngài sẽ hiểu, nhưng chỉ sau đó nhiều năm: đó là ngài và các anh em tu sĩ của ngài sẽ xây lại Giáo hội của Chúa.

Một lời của Chúa luôn có hai nghĩa: lời nói với ư nhiều hơn so với khi người ta nghe lần đầu. Lời nói có hai nội dung. Do đó, khó mà hiểu trọn được ư phong phú ngay lúc đầu. Nhưng thật phúc cho bạn nếu bạn cứ hiểu theo nghĩa đen, bởi v́ trong sự ngây thơ này ẩn giấu một niềm vui độc nhất; niềm vui không bao giờ đến lần nữa. Niềm vui này, bạn chỉ biết được một lần: đó là niềm vui của đứa con làm điều đă nghe, làm ngay, nghe sao hiểu vậy và thực hành ngay. Sau thời gian của tiếng “vâng” đầu tiên, là đến thời gian của tăng trưởng và học tập sống cuộc sống người lớn. Chúa sẽ mặc khải những việc lớn lao khác, và có các niềm vui khác kèm theo sau này. Nhưng niềm vui của tiếng “vâng” đầu tiên không bao giờ trở lại. Nếu bạn nghe tiếng Chúa, hăy làm điều Ngài bảo bạn làm, theo ư bạn hiểu lúc ban đầu. Và hăy làm không tŕ hoăn. Niềm vui của bạn sẽ trọn vẹn. Tŕ hoăn sẽ làm cho chúng ta buồn khổ.

 

Đừng viết giữa các ḍng chữ … “Evangelium sine glosa”

Phanxicô không có Tin mừng khác chúng ta. Tại sao ngài quá vui sướng? Và tại sao niềm vui của chúng ta lại nhạt nhẽo thế? Đâu là sự khác biệt?

Bởi v́ Phanxicô hiểu Tin mừng cách đơn sơ: hiểu theo văn bản, theo nghĩa trần trụi của nó. Ngài chừa các lề sách trắng và không viết ghi chú ǵ cả. Một Tin mừng không sửa chữa, hoặc nói đúng hơn, một bản văn không hề có b́nh giải. Và lời Chúa xảy đến, nhọn sắc như một mũi tên bắn vào tim. Lời chúa tạo ra nhiều vết thương, nhưng chúng chóng lành. Chúng ta đừng viết ǵ giữa các ḍng chữ cả: v́ nếu viết, chúng ta ngăn cản lời Chúa chữa lành chúng ta, chúng ta cất đi sức mạnh chữa lành của lời Chúa.

Tin mừng cũng không đón nhận lời giải thích hoặc chú giải. Các lời này hữu ích cho chúng ta hơn, và chúng đem lại ánh sáng và sự hiểu biết. Nhưng niềm vui có phát sinh từ đó không? Đâu là nguồn mạch niềm vui nếu không phải là sự vâng phục đức tin với tâm hồn con trẻ? Có lẽ Phanxicô đă thường sai lầm khi chú giải “một cách khoa học”; nhưng ngài không hề sai lầm trên nghĩa sâu xa của lời Chúa. Bởi v́ ngài có quả tim biết vâng lời và hoàn toàn tự do. V́ thế ngài hiểu ngay điều Chúa muốn nói với ngài. Nhưng c̣n hơn thế nữa. Phanxicô luôn ở trong truyền thống sống động của Giáo hội. Ở đây, giữa ḍng nước của con sông lớn ngài đón nhận lời Chúa. Ngài viết trong di chúc: “Sau khi Chúa đă ban cho tôi một số anh em, không ai chỉ bảo cho tôi phải làm ǵ, nhưng chính Đấng tối cao đă mạc khải cho tôi biết phải sống theo mẫu mực thánh Phúc âm. Và tôi đă xin viết ra luật sống ấy một cách đơn sơ và ngắn gọn, và Đức Thánh Cha đă xác nhận cho tôi”. Người ta chỉ có thể hiểu được lời Chúa khi đặt lời này trong truyền thống sống động của Giáo hội; trong Giáo hội có người lớn, người nhỏ, có người thánh và người tội lỗi, có người thông thái và có người vô học, có các vị mục tử và người bé mọn, có mọi người nghe lời Chúa. Lời Chúa chỉ có thể hiểu được cho người đón nhận lời này trong ḷng mẹ Giáo hội. Chính trong Giáo hội lời Chúa có thể nẩy mầm, lớn lên và nuôi dưỡng, bảo vệ và luôn giữ thăng bằng. Giống như một bé thơ trong ḷng mẹ…

 

“Phép lịch sự của con tim”

Phanxicô từ chối có sự chọn lựa trong Tin mừng. Tin mừng của ngài là Tin mừng của ngày hôm ấy, như ngài đă đọc hiểu. Ngài tham dự thánh lễ như mọi người, do một linh mục b́nh thường cử hành, vào một ngày b́nh thường, trong một nhà thờ b́nh thường. Ngài lắng nghe. Ngày ấy, ngài cho phép Tin mừng nói ra điều muốn nói. Bởi v́ ngài sợ ḿnh quá chọn lựa, và điều này sẽ làm cho lời Chúa mất phần sắc sảo và tính chất bất ngờ. Đây là một nguyên nhân của sầu buồn: con tim làm sự lựa chọn trong Tin mừng, không nghe sứ điệp đang nói với ḿnh. Không có niềm vui trong con tim đă cài sẵn chương tŕnh từ trước.

Nhưng một niềm vui bất ngờ ngập tràn con tim của người tự biến thành dễ tổn thương trước phụng vụ của ngày hôm ấy. Lời sự sống, người ấy không tự lựa chọn; người ấy đón nhận lời từ môi miệng của Giáo hội. Lời được nói cho người ấy. Và thường là bất ngờ. Lời mới mẻ. Chỉ có đôi tai nào đón nhận và dễ bị tổn thương mới nghe được tiếng động mới mẻ. Sự tôn trọng Tin mừng hàng ngày gọi là sự “lịch sự của con tim”, đối với Chúa. Phép lịch sự này tạo ra niềm vui của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn.

 

“Vâng”, nhưng mà …

Sống lời Chúa vượt quá sức mạnh của chúng ta: chúng ta không đạt đến được. Nhưng tiếng “vâng” đầu tiên, của việc lắng nghe cách khiêm hạ, mà không biết thực thi ra sao đây, lại là một nguồn mạch niềm vui, niềm vui của Đức Mẹ. Con tim chúng ta thường sầu buồn do một điều đơn giản là tiếng “vâng” của chúng ta thường đi kèm một tiếng “nhưng” để sửa chữa. Tiếng “nhưng” này là như một ḥn đá chận đứng nguồn mạch vui mừng. Lẽ tất nhiên, lời Chúa Giêsu vượt qua mọi sức mạnh con người của chúng ta. Nhưng điều bất khả cho con người, Chúa có thể ban cho ta được. Chúng ta hăy xin Chúa điều này. Nhưng đừng giữ lại niềm vui sẵn sàng phát sinh từ tiếng “vâng” đơn sơ trước lời Chúa. Những ǵ chúng ta muốn thêm thắt vào chỉ làm cho chúng ta sầu buồn mà thôi.

 

Cây và rễ

Chữ “nhưng” này thường đi kèm chữ “vâng” của chúng ta đến từ đâu đây?

Con người giống như một cây lớn. Chúa đă trồng nó trong vườn tạo vật của Ngài, cho bám chắc trong ḷng đất, cho bén rễ ba lần. Và những rễ của chúng ta là sự ước ao chiếm hữu, khát khao t́nh dục, phát triển cái tôi của ḿnh. Chúa đă dựng nên chúng ta như thế, như chúng ta đọc thấy ở trang đầu kinh thánh. Và với câu b́nh giải: “Và Chúa thấy điều ấy là tốt lành”. Nhưng cây của chúng ta lại giống với cây thầu dầu của ngôn sứ Giôna: có con sâu nhỏ gặm nhấm các rễ cây. Cây của Giôna mọc lên trong một đêm; nó chắc chắn và khỏe mạnh; đêm hôm sau, nó khô héo. Chúng ta cũng thế: muốn có tiền bạc, lập gia đ́nh, sinh con cái, phát triển mọi mặt: đó là cây chắc chắn và xinh tươi; cây khỏe mạnh. Nhưng trong một đêm mọi sự có thể thay đổi. Tại sao ước muốn sở hữu đă trở thành một đam mê đi đến thái quá? Việc chạy đi kiếm tiền, t́nh dục và phát triển cái tôi chỉ đem đến cái chết mà thôi. Điều tự thân là tốt lành và khỏe mạnh đă trở thành bệnh hoạn. Nhiều tế bào tốt gia tăng không kiểm soát được: đó là ung thư. Tiếp đến là đau khổ: điều đáng lẽ làm cho con người hạnh phúc đă đẩy con người vào sầu buồn. Nhiều nỗi buồn của chúng ta phát sinh từ đó: chúng ta bám vào biết bao chuyện, đến nỗi mất đi sự tự do toàn vẹn của thiên đàng. Con người cũ đă cư ngụ trong chúng ta. Chúng ta đă mang một vết thương ngay từ nguyên thủy. Đó là nguyên nhân của việc chúng ta thiếu niềm vui: cây tốt và rễ tốt. Nhưng … có một con sâu.

 

Từ bỏ mọi sự. Để được gấp trăm lần.

Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, v́ Thầy và v́ Tin mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đăi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10, 29-30). Không ai hiểu đoạn văn này như Phanxicô cả.

“Con người cũ” không thể làm chết ngạt trong chúng ta một ước muốn tiềm tàng khác, đó là trở nên một “con người mới”, do Chúa Thánh Thần sinh ra. Chính v́ thế luôn có những người đi ngược trào lưu: nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục. Họ khám phá ra một niềm vui mới. Họ đă từ bỏ mọi sự; nhưng họ sẽ nhận lại gấp trăm lần.

Phanxicô biết “con người cũ” nằm nơi đâu vào thời ngài; ngài biết ung nhọt gặm nhấm xă hội thời ấy. Đó là tiền bạc; các thương gia Átxidi có nhiều bạc tiền. Bản thân Phanxicô cũng giàu có cho đến ngày nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn ngài như sương mờ, và làm cho ngài đau nhói con tim. Và một ngày kia ngài tự biến ḿnh thành người nghèo thật nghèo. Khi trở nên nghèo khó như Đức Giêsu và v́ Đức Giêsu, ngài tự chữa lành ḿnh như một số người đương thời của ngài. Và ngày nay ngài có thể chữa lành chúng ta, chính chúng ta và thời đại chúng ta.

Nỗi buồn này đến từ đâu? Trong chúng ta và trong xă hội chung quanh chúng ta ư? Tiền bạc ư? T́nh dục bừa băi ư? Sự phát triển của cái tôi, không khiêm hạ ư? Hay tất cả những thứ này cộng lại? Chớ ǵ Chúa ban cho chúng ta một Phanxicô biết biện biệt. Một con người nh́n thấy nỗi khổ của thời đại. Một con người có thể chữa lành nỗi khổ ấy. Bởi v́ niềm vui và niềm hy vọng của hậu bán thế kỷ 20 này có thể dựa vào ngài.

Nơi mỗi người chúng ta có chút ít con người gọi là Phanxicô. Bởi v́ trong sâu thẳm của linh hồn, chúng ta biết rằng sự không dính bén vật chất làm cho chúng ta tự do, cho chúng ta có cái nh́n mới về sự vật và con người. Sau một thời kỳ chay tịnh và kiêng khem, ai lại không t́m lại sự thèm muốn mới? Đó là sự khôn ngoan thế tục của mùa chay. Ai không t́m lại người bạn đời với cái nh́n mới, sau một thời gian mà t́nh yêu từ bỏ sự đam mê để t́m ra một ngôn ngữ mới của yêu thương tŕu mến? Chúng ta mang quá đồ đạc theo ḿnh. Chúng làm nặng con người chúng ta và không làm cho ta vui sướng. Nhiều đêm mất ngủ phát sinh từ một tâm hồn lo lắng. Chúng ta sợ mất những ǵ chúng ta có, chúng ta lo toan những ǵ ḿnh c̣n thiếu. Nhưng con người tự do ngủ ngon giấc như một trẻ thơ.

 

Trung tâm sự thật

Sự tự do này đem lại cho Phanxicô một cái nh́n mới trên mọi vật. Khi các giác quan bận rộn, ngài hít thở bằng mọi lỗ chân lông của cơ thể. Mọi sự đă thay đổi cho ngài: đồ vật, cây cối, động vật, con người. Đó là một điều ǵ hơn là cảm giác về vạn vật. Chính là cái nh́n khác đạt đến trung tâm sự vật, mặt bên trong của sự vật. Phanxicô nh́n chúng như chúng phát ra từ quyền năng sáng tạo của Chúa, cách thức mọi vật chảy ra từ bàn tay Chúa, như nước một gịng suối. Bởi v́ những ǵ hiện hữu đều được ban cho chúng ta lúc ban đầu. Và sau đó chúng ta có thể nắm lấy, biến đổi chúng theo cách sử dụng của ḿnh. C̣n trước khi chúng ta có thể sờ mó, đụng chạm chúng, chúng được Chúa ban tặng cho ta một cách nhưng không. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nước và lửa, và ngay cả những thứ làm chúng ta khổ sở hoặc tấn công chúng ta: gió, giá lạnh, cơn mưa và sự chết. Phanxicô gọi tất cả là anh chị em của ngài. Ngài nh́n vào trung tâm sự vật. Và cái nh́n này làm cho ngài hân hoan với niềm vui của Đấng đă tạo thành mọi sự.

Lịch sử c̣n lưu giữ vô số “cánh hoa đơn”, ngàn cái nh́n của tiểu tử thanh bần thành Átxidi trên con người, sự vật, biến cố. Ngài cấm anh em đừng chặt cây sát gốc, để cây c̣n có cơ hội lớn lên vào năm sau. Ngài không tự tay ḿnh tắt các ngọn đèn: ngài cứ để đuốc và nến cháy sáng măi cho đến khi chúng tự tắt đi; bởi v́ ngài nói rằng mọi ánh sáng đều đến từ Chúa. Tôi là ai mà tự cho ḿnh là ông chủ? Phanxicô lượm cả những con trùn đất: v́ ngài sợ người đi đường giẫm đạp lên chúng. Và trong mùa đông, ngài đem mật và rượu nóng tới cho bầy ong. Chuyện thật hay huyền thoại đây? Điều này không quan trọng. Dẫu sao có một sự thật sâu sắc trong đó.

 

“Chúa đă ban cho tôi một số anh em…”

Bàn tay Chúa cũng ban nhiều người cho chúng ta. “Chúa đă ban cho tôi một số anh em”: Phanxicô nói như thế mỗi lần ngài nói về Ḍng của ngài. Không phải ngài đă lập ra Ḍng, nhưng chính Chúa đă ban Ḍng cho ngài một cách nhưng không. “Chúa đă làm tất cả. Ngài ban cho tôi một số anh em”. Các lời này ở trên môi miệng ngài như một điệp khúc.

Quả vậy, một cộng đoàn Kitô hữu trước hết không là kết quả của các nỗ lực chúng ta: chính Chúa ban nó cho chúng ta. Chính ngài trao ban chúng ta cho nhau, trước khi cả chúng ta tự chọn lựa nhau. Bởi v́ trước khi có các anh em hoặc chị em, đă có Chúa là cha. Chính đây là giá trị của cả cộng đoàn. Trước khi người nam chọn vợ, hoặc người nữ chọn chồng, Chúa đă đưa họ lại với nhau như đă nói ở các trang đầu của kinh thánh. Ai xứng đáng chồng ḿnh hoặc vợ ḿnh? hoặc con cái ḿnh? Chúa đă nói là trước khi anh chị em sinh con ở đời, Chúa đă ban cho anh chị em rồi.

Tất cả được ban cho chúng ta nhờ ân sủng, trước khi chúng ta bắt tay vào bất cứ việc ǵ. Chúng ta thường quên điều này, và đó là lư do mà chúng ta thường sống trong xao xuyến âu lo. Từ đó một t́nh cảm về trách nhiệm quá mức cất đi mọi niềm vui của chúng ta. Ai có thể trông coi không sai sót một người được giao phó cho ḿnh? Không quên ǵ và không có lầm lỗi nào sao? Không hiếm khi gặp được những cha mẹ tuyệt vời mà tự nhận thấy ḿnh có lỗi: tôi đă làm mọi sự cho con cái nếu tôi thấy chúng lớn lên ra sao không? Tôi cần làm hơn nữa cho chồng tôi, cho vợ tôi, cho đứa con này, đứa con nọ… làm thêm nữa hoặc làm khác nữa. Và họ mất niềm vui của ḿnh: v́ họ cảm thấy ḿnh có lỗi. Điều này biện minh được chăng? Làm sao chữa được nỗi xao xuyến này?

Chỉ có một liệu pháp mà thôi, đó là một ḷng tin đơn sơ và khiêm hạ vào Chúa, Đấng luôn là số một. Ngài trao ban và trông nom mọi sự Ngài đă ban. Nhất là con cái. Điều này không làm cho tôi hết trách nhiệm; nhưng nó ngăn cho chúng ta khỏi lo lắng buồn phiền. Chúa nói: “Ta trông nom chồng con, vợ con, con cái của con, giáo xứ của con; chính ta đă ban họ cho con trước khi con làm bất cứ điều ǵ cho họ”.

Những ai sống trong hành động này của ân sủng và hy vọng sẽ không trở nên lười biếng, và không liều lĩnh, nhưng sẽ nhận được sự b́nh an, niềm vui và hy vọng của một con người t́m thấy người cha của ḿnh. Tất cả là ơn ban và hồng ân, trước khi trở thành nỗ lực để làm hoặc bổn phận phải chu toàn.

 

Giáo hội được ban cho chúng ta

Giáo hội cũng được ban cho chúng ta: anh em, chị em, và các vị mục tử nữa. Chúa đă ban họ cho chúng ta, trước khi chúng ta được sinh ra cho sự sống đời đời. Chúng ta đón nhận Giáo hội trước khi làm việc xây dựng Giáo hội. Trong Giáo hội có sự buồn bă và không thỏa măn, và nhiều sự chỉ trích. Một phần nào, những điều ấy có thể biện minh được; bởi v́ Giáo hội gồm những con người yếu đuối và tội lỗi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng trước tiên Giáo hội là một hồng ân nhưng không của Chúa. Giáo hội được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đấng bị đóng đinh và từ lửa của lễ Hiện xuống.

Vào thời của Phanxicô, Giáo hội chưa hoàn hảo đâu. Và so với thời nay, Giáo hội thời ấy biết đâu vẫn c̣n thua kém. Chỉ có Chúa xét đoán được việc này thôi. Nhưng đây là điều Phanxicô đă viết trong Di chúc: “Chúa đă ban và vẫn c̣n ban cho tôi ơn tin mạnh mẽ vào các linh mục sống theo quy luật Giáo Hội Rôma v́ thánh chức của các ngài, nên dầu các ngài có bách hại tôi, tôi vẫn chạy đến với các ngài. Dù tôi có khôn ngoan như vua Salomon, nếu tôi gặp các linh mục thấp kém ở thế gian này, tôi cũng không muốn giảng dạy trong giáo xứ của các ngài, nếu các ngài không chấp thuận. Tôi muốn kính sợ, yêu mến và quư trọng các ngài cũng như tất cả các linh mục khác như là tôn chủ của tôi”. Và Phanxicô viết tiếp: “Tôi hành động như thế v́ tôi không thấy có ǵ cụ thể trong thế gian này về Người con chí thánh của Thiên Chúa, ngoài Ḿnh và Máu rất thánh của người, mà chính các ngài nhận lấy và chỉ các ngài mới được ban phát cho kẻ khác. Tôi muốn các mầu nhiệm rất thánh này được mọi người kính trọng, tôn sùng trên hết mọi sự, và cất giữ ở những nơi quư giá. Nếu tôi bắt gặp những tấm giấy ghi chép Tên và Lời rất thánh của Chúa ở những nơi bất xứng, tôi muốn thu lại và xin người ta thu lại, và để vào nơi xứng đáng. C̣n đối với rất cả các nhà thần học và những người ban phát lời chí thánh của Chúa, chúng ta phải quư mến và tôn kính: chúng ta phải xem các ngài như là những người thông ban cho chúng ta thần khí và sự sống”.

Người ta hiếm khi nói ra những lời tinh tuyền về Giáo hội và linh mục, phép Thánh thể và Kinh thánh như trong Di chúc của con người nghèo thành Átxidi. Bất cứ nơi nào ngài và anh em tới rao giảng, một niềm vui lớn lao tràn ngập các thành thị và làng mạc. Bởi v́ lời của con người yêu mến Giáo hội, như Giáo hội hiện diện cụ thể trong thế gian, th́ có hiệu quả. Lời người ấy đem lại vui sướng. Sự cải cách thật sự cho Giáo hội không bao giờ là kết quả của sự cay đắng trong tâm hồn của người kết án Giáo hội. Lẽ tất nhiên, những ǵ Phanxicô nói chưa phải là bài diễn văn đầy đủ về Giáo hội và các sứ vụ của Giáo hội. C̣n cần phải nói thêm nhiều nữa. Nhưng chắc chắn không thể nói ít hơn được.

 

“Con ơi, đừng lo lắng nữa”

Phanxicô không ngừng nhắc đi nhắc lại: “Chúa đă ban cho tôi một số anh em”. Tuy vậy, đôi khi nh́n lại những ǵ xảy ra trong Ḍng, ngài đă lo sợ nhiều. Rồi một ngày kia, Chúa nói lời trên đây với ngài; Chúa cũng nói lời này với mỗi người chúng ta, dù chúng ta là ǵ chăng nữa: cha mẹ lo lắng, linh mục tu sĩ mỏi mệt, thậm chí nản ḷng nữa; lời được nói với những ai muốn giúp những người khác sống mạnh và những ai cảm thấy lo lắng. Chúa nói với Phanxicô: “Hỡi con. Hăy học biết ta là Chúa và không làm cho con lo lắng. Ta đă trao đàn chiên cho con, nhưng ta vẫn là mục tử coi sóc đàn chiên. Con không được quên điều này. Ta đă chọn con, dù con mọn hèn nhỏ bé, để thế gian thấy rơ một điều: những ǵ ta thực hiện qua con không do tài năng của con, nhưng do ân sủng của ta. Ta là Đấng đă chọn con. Ta là Chúa. Tương lai Ḍng con là chuyện của ta. Con đừng lo lắng làm chi”.

 

Niềm vui của sứ giả ḥa b́nh

Phanxicô đi rao giảng ở các thành thị và nông thôn. Ngài rao giảng ḥa b́nh. Một luồng gió của ḥa b́nh và ḥa giải bay khắp vùng. Rồi bay xa hơn, đến cả Aicập, nơi có quốc vương Hồi giáo cư ngụ. Trong biên niên sử của một cố vấn của quốc vương, vẫn ghi lại “chuyện một tu sĩ”. Phanxicô không đem lại được b́nh an, và không hoán cải quốc vương, nhưng ngài đă được đón tiếp và trở về b́nh an vô sự. Chưa bao giờ kinh thánh và sách coran lại gần nhau đến thế, khi “con người nhỏ bé dễ thương ấy” đứng trước quốc vương và nói về ḥa b́nh ḥa giải, và rao giảng Đức Giêsu Kitô. Ngài chỉ diễn tả bằng một thứ tiếng Pháp không sành sỏi, ngôn ngữ của mẹ ngài. Thế nhưng người ta hiểu được lời ngài.

Phanxicô mang ḥa b́nh đến cho hàng chục thị trấn nhỏ ḱnh địch nhau của nước Ư. Ít năm sau, một sinh viên luật ghi lại: “Tôi học ở Bologne, và tôi có dịp nghe một bài giảng của Phanxicô trên quảng trường các dinh thự. Gần như cả thành phố đều có mặt. Ngài không có vẻ ǵ là nhà hùng biện, cả trong lời nói và cử chỉ. Chỉ là một lời kêu gọi đơn giản là hăy quên đi các t́nh cảm của thù hận và hăy sống ḥa b́nh. Nhà giảng thuyết có một dáng mạo rất tầm thường; người không đẹp và ăn mặc y như một người nghèo. Nhưng người đă thành công khi ḥa giải được giới quư tộc của Bologne, trong lúc họ đang thù ghét nhau từ nhiều thế kỷ qua”.

Việc trên xảy ra vào thế kỷ 13 tại Bologne. Nhưng chúng ta có cần một con người ḥa b́nh như vậy nữa không? Chúng ta có nơi nào không phải là Bologne không? Có nơi nào không có người không thể ḥa giải sao? “B́nh an và thiện hảo” (Pace e bene): đó là lời mà cả thế giới chờ đợi.

 

“Anh hăy luôn luôn thương xót”

Chúng ta cần một Phanxicô nh́n vào tận đáy ḷng của mỗi một người thời đại chúng ta, chạm đến nơi họ bị thương tích và chờ đợi sự tha thứ. Bởi v́ người thời đại chúng ta rất cần sự ḥa giải. Xin nghe một đoạn thư Phanxicô gửi cho một anh Phục vụ: “Điều làm cho tôi biết được anh có yêu mến Chúa và yêu mến tôi, người tôi tớ của Người và của anh hay không, đó là không một anh em nào trên đời đă phạm mọi thứ tội có thể phạm được, mà sau khi đă gặp mặt anh để xin thương xót, lại ra đi mà không được anh tha thứ. Nếu người ấy không xin, th́ phần anh, anh hăy hỏi người ấy có muốn được tha thứ không. Và nếu sau này người ấy có phạm tội trước mặt anh ngàn lần đi nữa, th́ anh cứ yêu mến người ấy hơn là yêu mến tôi, hầu lôi kéo người ấy về với Chúa. Xin anh hăy luôn luôn thương xót những người như thế”.

Anh chị em thân mến, “hăy luôn luôn thương xót người khác”.

 

Niềm vui đưa người khác trở thành Kitô hữu

H́nh ảnh của Phanxicô loan báo Tin mừng không quen thuộc với chúng ta lắm – trừ ra việc ngài giảng cho bầy chim, và con chó sói ở Gubbio – trong khi đó là ơn gọi đích thực của ngài. Lời Chúa mời gọi đă rơ ràng vào một buổi sáng tại nhà thờ Đức Mẹ các thiên thần, khi Phanxicô nghe bài Tin mừng trong lễ một thánh tông đồ: “người môn đệ phải lên đường, không mang bao bị, không mặc hai áo, không đi dép hay cầm gậy, để rao giảng nước Trời” (Mt 10). Phanxicô vẫn hiểu theo lối hiểu trực tiếp và hiểu sát chữ. Ngài nói: “Đây rồi, đây là điều tôi muốn. Khi nghe những lời này, niềm vui của thánh linh đă lôi cuốn tôi”.

Phanxicô không thể lặng thinh, v́ ngài đă cảm nhận Tin mừng làm cho ngài vui sướng biết bao. Hạnh phúc này, ngài đă thông chuyển như ngọn lửa cho hàng trăm anh em mới. Và chỉ trong vài năm thôi, số anh em đă lên tới năm ngàn người. Chưa kể Clara và các chị em tại San Damiano; hàng trăm làng mạc và thành phố đă được rao giảng Tin mừng. Một làn sóng phúc âm hóa đă tràn ngập cả đất nước, và vượt qua các biên giới.

Vâng, Phanxicô trước tiên và trước hết là một người giảng thuyết, một người rao giảng Tin mừng. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1 Cr 9,16). Niềm vui của ngài thật là trọn vẹn. Và niềm vui của các anh em ngài cũng thế.

Quả vậy, tự ḿnh t́m được Đức Giêsu đă là một niềm vui lớn lao. Nhưng niềm vui này vẫn chưa trọn vẹn, nếu nó không được chuyển thông cho những người khác nữa. Nó vẫn chưa đầy đủ đối với người không hề dẫn đưa một người khác trở thành Kitô hữu, cũng chưa đủ cho người chưa bao giờ nh́n thấy một tâm hồn mở ra cho Tin mừng; như tâm hồn của năm môn đệ đầu tiên vào ngày Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ tại Galilê (xem Ga 1,35-51), tâm hồn của Saolô ở nhà Anania, của Corneille ở nhà Phêrô, của Lyđia ở nhà Phaolô bên bờ sông tại Philipphê (xem Cv 16,13).

Đó là thân phận của con người: con người chỉ hoàn tất công việc khi trao ban sự sống cho người khác. Đó là khi trở thành cha hay mẹ, dù trong xác thịt hay trong tinh thần. Bởi v́ ngay cả những người ở một ḿnh v́ Nước Trời vẫn có thể là cha là mẹ của nhiều người khác, theo lời của Đức Giêsu (xem Lc 18,18). Thật là niềm vui khôn tả khi đưa một người trở nên Kitô hữu.

Khởi điểm cho việc chúng ta thiếu vắng niềm vui chính là chúng ta trao ban sự sống một cách quá tỉ mỉ, chi tiết. Nhất là về sự sống Chúa ban: chúng ta không dẫn ai trở thành Kitô hữu cả. Người ta nói đó là do chúng ta sợ. Chúng ta hoặc không loan báo Tin mừng hoặc loan báo quá ít.

Chúng ta c̣n nói về Chúa không? Phải chăng chỉ khi chúng ta ở một ḿnh hoặc khi chúng ta biết là người ta có thể nói về Chúa trong các nhà thờ hoặc những nơi đă chọn. C̣n tại nhà, nơi lao động hoặc trên đường phố th́ sao? Sự khát khao lời Chúa không kém lớn trong mọi nơi chúng ta sống phần lớn đời ḿnh và nơi mà Chúa không hề được nêu tên tới.

Các nhà rao giảng và các ngôn sứ ở đâu cả? Những người nói về Chúa đang ở đâu? Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đă nói bên cạnh mồ thánh Phanxicô ngày 12.3.1982: “Hăy rời pḥng thánh của anh em và ra đi loan báo Tin mừng”.

Nơi đâu người nghèo được rao giảng Tin mừng, ở đó có nước Chúa. Phanxicô nói với mọi người, nhất là nông dân nghèo, người dân nông thôn, người ăn xin, người lang thang, người bị gạt bên lề thành phố, người chưa hề nghe nói về Nước Trời. Và họ đă lắng nghe: những người nghèo đă hiểu lời con người nghèo thành Átxidi nói. C̣n chúng ta th́ sao? Ai là người nghèo ngày nay được Chúa mặc khải các bí nhiệm của ngài? Đám đông ấy chưa hề bước chân vào các nhà thờ, họ chiếm một phần ba hoặc một phần tư dân số thế giới; rồi c̣n biết bao người đau khổ, tù nhân và người xa lạ. Và những ai thờ thần Moloch của chủ nghĩa tiêu thụ, họ đều khốn khổ cả. Hăy đi t́m họ để nói với họ. Và họ sẽ lắng nghe.

Tôi tin chắc rằng nếu ngày nay Phanxicô trở lại trần gian, ngài sẽ chọn đến với trẻ em. Tại đất nước chúng ta, có biết bao trẻ em chưa hề nghe hoặc gần như chưa biết ǵ về Tin mừng. Không ai nói với các em về Chúa; không ai dạy cho các em những lời thân thưa với Chúa. Nhiều trẻ em đă lớn lên, cô đơn, trong một thế giới không có Chúa. “Lũ sơ sinh và bầy trẻ dại gục ngă khắp quảng trường. Lũ trẻ thơ hoài công hỏi mẹ: “bánh con đâu?”, rồi ngă gục trên quảng trường thành phố, tựa như người bị đâm: chúng trút linh hồn ngay trên tay mẹ” (Ac 2,11-12). Những lời này trong sách Ai ca không đúng cho Giêrusalem mà chúng ta đang ở đó sao? Các trẻ em của chúng ta rất ít nghe loan báo Tin mừng. V́ vậy, các em chóng mất đi niềm vui và cái nh́n trong sáng. Ngay cả trong Giáo hội cũng vậy. V́ các em đụng đến các vấn đề kinh khủng: một người bạn nhỏ qua đời, một thế giới đầy đau khổ và đói ăn; và bao cuộc chiến tranh… Ai trả lời cho các câu hỏi của các em: “Tại sao tôi đến thế gian này? Tại sao bố tôi ra đi? Tại sao tôi bị bệnh? Tại sao bà ngoại không c̣n sống nữa? Cầu nguyện là ǵ nhỉ? Chúa là ai và Đức Giêsu là ai?”. Đó là những câu hỏi của các trẻ em 7-8 tuổi. Và cần trả lời cho các em.

Giáo hội rất cần ḷng tin của trẻ em. Không có trẻ em, “Chỉ c̣n sót lại cô gái Xion, như túp lều trong vườn nho, như cái cḥi trong vườn dưa, như thành thị bị vây hăm” (Is 1,8). Một nền văn minh không có lời cầu nguyện của trẻ em th́ giống như một năm không có mùa xuân. Về trẻ em, cha xứ họ Ars có câu nói nổi tiếng: “Không dẫn đưa trẻ đến việc cầu nguyện, là phạm một bất công đối với cả thế giới”.

 

Ngày thứ năm và thứ sáu tuần thánh của Phanxicô.

Phanxicô là con người của vui mừng, của ánh sáng, của trong sáng. Đây không phải là một nét của tính t́nh nơi Phanxicô, mà là hoa quả của hồng ân Chúa. Bởi v́ ngài đă biết giờ tối tăm của ḿnh. Hơn một lần. Cuối đời ngài, ngài đă sống thứ năm tuần thánh và đồi Gôngôtha. Trong nhiều tuần lễ, ngài sống một ḿnh trên núi Alverna, trong bóng tối hoàn toàn. Các nguồn văn nói đến một khủng hoảng bí nhiệm, một sự suy sụp sâu đậm: đó là vườn cây dầu của ngài. Các anh em nghe tiếng ngài khóc, như Chúa Giêsu đă khóc trong vườn. Ngài đă khóc lâu giờ, tâm hồn đảo lộn bởi bộ mặt đêm đen của sự phát triển của Ḍng; tất cả thoát xa ngài, ngài không c̣n ǵ để nói nữa. Ngài nghĩ đến tất cả: ơn gọi của ngài là ảo ảnh sao? Ngài đă sai lầm chăng?

Bỗng chốc một thiên thần hiện đến: thiên thần có vết thương ở tay và chân. Giờ đây, Phanxicô chỉ c̣n là một với Chúa trên thập giá. Các vết thương bí mật, tức các dấu đanh, ai sẽ giải thích đây? Chứng cớ đă rành rành rồi. Nhưng điều này không thể giải thích được ư? Phanxicô trở nên một với Đấng chịu đóng đinh trong tâm hồn, đến nỗi điều đó phải thể hiện trong cả con người ngài, đến trong cả xác thịt. Bởi v́ nếu điều xảy ra trong thân xác vào tận tâm hồn được, th́ tại sao điều ngược lại không đúng? Điều xảy ra trong tâm hồn cũng in dấu hữu h́nh trong thân xác của ngài.

Phanxicô sống ngày thứ sáu thánh như thế. Và ngài nói như thánh Phaolô: “Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, v́ tôi mang trên ḿnh tôi những dấu tích của Đức Giêsu” (Gl 6,17).

Anh chị em thân mến, mỗi một người chúng ta và cả thời đại chúng ta đang sống ngày thứ năm và thứ sáu tuần thánh. Cả thế giới là vườn cây dầu, là một đồi Gôngôtha. Có quá nhiều đau khổ trên thế gian, ở xa và ở gần chúng ta. Kể ra chi tiết tỉ mỉ th́ không thể chịu nổi. Và thiếu tế nhị nữa! V́ ai đưa ra một vết thương th́ chỉ làm quên đi vết thương của những người khác. Tại sao có quá nhiều đau khổ đến thế?

Hăy nh́n thế giới này và vết thương của nó. Với cái nh́n của đức tin: chúng ta không chỉ nh́n thấy máu người mà thôi. Mọi vết thương của thế giới là những dấu đinh: đó là vết thương của Đức Kitô và máu ấy thuộc về Ngài. Mọi vết thương, kể cả của chúng ta nữa, không chỉ là của chúng ta. Mà là của Chúa nữa.

Nói chính xác hơn, bởi v́ đó là thân thể của Đức Kitô bị đâm thâu liên lỉ, bởi v́ đó là các vết thương của Ngài, chúng sẽ chữa lành. V́ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con trên thập giá: Ngài biến đổi các vết thương Chúa Con thành nguồn chữa lành vết thương. “Người phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Cũng như các cây trong sách Khải huyền, cây thánh giá là cây sự sống “sinh trái mười hai lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng làm thuốc chữa lành các dân ngoại” (xem Kh 22,2).

Mỗi vết thương đ̣i hỏi nơi chúng ta một sự kính trọng, và hơn nữa c̣n mời gọi chúng ta đến niềm cậy trông vô bờ bến.

Khi Phanxicô xuống khỏi núi, một sự thinh lặng vây quanh ngài: ngài chỉ sống với ngày thứ sáu thánh của ḿnh. Ngài đă 42 tuổi và mắt gần như mù hoàn toàn. Ngài đi lại khó khăn, nên anh em cho ngài ngồi trên lưng lừa để đến các làng xung quanh. Để làm giảm sự đau nhức của mắt bệnh, chỉ có phương thuốc thô sơ của thời ấy: người ta áp thanh sắt đun nóng vào thái dương của ngài. Nhưng Phanxicô nói như một người được ḥa giải: ngài chúc lành cho lửa nóng đang làm ngài đau xé, khi nói: “Hỡi anh lửa, hăy lịch sự nhé. Đừng làm tôi đau. V́ tôi luôn yêu mến anh và sẽ tiếp tục yêu mến anh mà”. Đó là một thứ ngôn ngữ chỉ dùng trên thiên đàng hoặc trong thị kiến của ngôn sứ đă nh́n thấy Đấng thiên sai (xem Is 11). Những lời ấy được nói vào thứ bảy tuần thánh, khi mọi đau khổ đă qua đi và Đức Giêsu nghỉ yên trong mồ.

Phanxicô rút lui vào nơi thanh tĩnh của tu viện San Damiano: ngài đến ở một nhà nhỏ hư hỏng cạnh tu viện. Nơi đây lại có bóng tối và đôi mắt ngài không chịu được ánh sáng, kể cả ánh sáng ngọn nến. Phanxicô biết được thứ bảy thánh của ḿnh, giờ đau khổ và cô độc, giờ xuống hỏa ngục. Không ai có thể nói điều ǵ đă xảy ra cho ngài: đó có phải là sự đau khổ tuyệt đối không? Liệu Chúa bỏ rơi ngài không?

 

Bài ca Phục sinh của Phanxicô

Cơn khủng hoảng này sẽ kéo dài hai tháng. Sau đó một ánh sáng phát ra cho ngài. Đôi mắt ngài vẫn c̣n nhắm, nhưng đôi tai chú ư lắng nghe hơn. Ngài nghe tiếng Chúa nói: “Phanxicô, con hăy vui mừng, hăy hân hoan giữa các đau khổ của con. Kể từ nay, hăy sống an b́nh, như là con đă sống với Cha trong Nước Trời”.

Cơi ḷng Phanxicô bùng dậy: giờ sống lại đă đến, Phục sinh đă bùng lên giữa đêm đen. Như một lời hô vang chiến thắng, bài ca chúc tụng vang ra từ thân xác c̣m cơi của Phanxicô: “Muôn lạy Chúa con thờ, con xin ca tụng, v́ Ngài đă dựng nên muôn loài muôn giống, đặc biệt hơn cả là ông anh mặt Trời, để cho có ngày và để sáng soi. Anh đẹp tuyệt vời, anh rạng ngời rực rỡ, lạy Chúa tối cao, anh là h́nh ảnh Chúa” (Bài ca anh Mặt Trời). Con xin ca tụng v́ chị Hằng, muôn triệu ngôi sao, anh gió ngàn, chị nước, anh lửa và bà mẹ Đất. Đây không chỉ là bài thơ ca tụng nét đẹp của thiên nhiên; mà c̣n là bài ca Phục sinh của một con người Phục sinh đă vượt qua đau khổ gian truân, một bài ca của người lữ hành đang đi trên con đường sự chết tiến về sự sống; một bài ca mang thai con trẻû vào ngày thứ sáu tuần thánh, sống trong thinh lặng suốt ngày thứ bảy tuần thánh, và cuối cùng chào đời vào ngày thứ bảy Phục sinh. Phanxicô đă mất tất cả; giờ đây ngài nhận lại tất cả.

Anh chị em thân mến, mỗi một người chúng ta đă ch́m vào mầu nhiệm Phục sinh này: chúng ta biết ngày thứ năm tuần thánh của ḿnh và bao lo lắng xao xuyến: đó có thể là lần đi khám bệnh, một người thân bị bệnh nặng, người bạn đời cứ mỗi ngày xa tôi hơn, một đứa con bỏ nhà ra đi… “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26, 39). Giờ của lo lắng, thường nặng nề hơn đau khổ mà nó loan báo. Vâng, tất cả chúng ta có ngày thứ sáu tuần thánh của ḿnh, giờ của đau khổ ghê gớm, bóng tối nổi tiếng từ trưa đến ba giờ chiều, giữa cuộc sống chúng ta mà trong đó tất cả xem ra bị đổ găy cả. Mỗi một người chúng ta cũng sẽ sống ngày thứ bảy tuần thánh: sự cam chịu âm thầm sau khi đau khổ, sự tạm lắng sau băo táp của tin dữ, những giờ đau đớn trên giường bệnh c̣n chờ sự chữa trị và khách đến thăm; những ngày cuối tuần sống cô độc, không ai đến viếng, không con cái, không bạn bè đến thăm. Cả thế giới này sống thời kỳ của khổ nạn; thế giới đầy dẫy thương tích và vết thương; bao đau khổ che giấu và bao lo lắng cho tương lai. Khủng hoảng và bạo lực diễn ra khắp nơi. Con người bất lực trong một thời kỳ đầy những khả năng bất ngờ. Đức giáo hoàng Phaolô VI đă gọi thế giới này trong Di chúc của ngài là “một sân khấu trần tục và thế gian, huy hoàng và bi thảm”.

Sau thứ bảy tuần thánh là đến ngày Phục sinh. Giờ của đêm đen không hề là giờ sau cùng. Anh chị em thân mến, chúng ta mang trong thân xác ḿnh cuộc khổ nạn của Chúa và sự chết của Ngài, nhưng cũng mang sức mạnh của việc Chúa sống lại. Là người đă được rửa tội, chúng ta cùng chết với Ngài, cùng được an táng với Ngài, nhưng đă được sinh ra cho sự sống mới. Phép rửa tội ghép chúng ta vào cây sự sống, vào Chúa Phục sinh (xem Rm 6, 1-11). Sự chết đă bị đánh bại, và sự sống của Chúa ở trong chúng ta, trong thân xác ta. Những điều này vẫn là vô h́nh. Nhưng sự sống muôn đời đă ở trong chúng ta như một sự thật chứ không chỉ như một hy vọng xa vời. Kể từ hôm nay, chúng ta mang trong ḿnh mầm của việc Chúa Phục sinh. Một ngày nào đó, mầm sẽ nở ra. Bởi v́ con người mới, con người không chết nữa, chúng ta mang nó trong người chúng ta như một đứa con. Và một ngày nào đó, nó sẽ chào đời; không ǵ ngăn cản nó được. Con người mới đó, được tạo ra trong chúng ta bằng nước rửa tội, sẽ liên lỉ được nuôi dưỡng bằng Phép Thánh Thể. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Đối với những ai tin và sống điều này, th́ đó đă là Phục sinh rồi, dù họ c̣n phải đau khổ nhiều. “Cho nên chúng ta không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, th́ con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4,16).

Anh chị em thân mến, tôi chúc anh chị em có niềm vui lớn trong lễ Phục sinh của năm dành cho thánh Phanxicô. Chúc niềm vui và sự chữa lành cho mỗi một người anh chị em và cho những ai anh chị em yêu mến. Cũng chúc niềm vui, sự chữa lành và b́nh an cho cả thế giới “huy hoàng và bi thảm” trong đó Chúa ban cho chúng ta ơn sống đời này.

 

Chữa lành thời hiện tại

Thời đại chúng ta rất cần sự chữa lành. Cũng như thánh Phanxicô, chúng ta giúp khai sinh một thế giới mới. Một thế kỷ chết đi, một thế kỷ khác ra đời trong đau đớn của lúc sinh ra. Chúng ta không cần một Phanxicô khác hiểu biết thời đại của ḿnh và biết chữa lành nó sao? Phanxicô biết đặt ngón tay ngài lên các vết thương thực sự của thời đại ḿnh: tiền bạc, kiêu ngạo, ngu dốt về tôn giáo. Đó có phải là những nỗi đau mà chúng ta phải chịu bây giờ không? Có lẽ thế. Nhưng có c̣n nỗi đau khác nữa không? Vậy th́ chúng ta cần có người nào đó biết giúp chúng ta hiểu chúng rơ ràng. Nhưng cũng với sự thương yêu nữa. Trước hết, chúng ta cần một medicus mundi (thầy thuốc chữa thế gian), biết chữa trị thời đại và an ủi con người. Người ấy đă đến chưa? Hay c̣n phải chờ? Có lẽ người ấy đă đến giữa chúng ta mà chúng ta không biết, cũng như Đức Giêsu giữa đám đông bên bờ sông Giođan. Chỉ có Chúa biết. Mỗi đứa con sắp ra đời có thể là người ấy lắm. Nếu chúng ta làm cho người ấy im tiếng, các ḥn đá sẽ kêu lên, như lúc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem (xem Lc 19, 40).

Xin Chúa cho chúng ta ơn đón nhận “một tiểu tử thanh bần” cho thời đại chúng ta như thánh Phanxicô. Xin Chúa trao ban cho người ấy nhiều anh chị em. Xin Chúa trao ban những người nam và nữ biết chữa lành, những người được gọi là “thổi phồng t́nh thương” (thánh Phanxicô Salêsiô).

Anh chị em thân mến, “chúng ta được kêu gọi trở nên người thầy thuốc của nền văn minh chúng ta mơ ước, nền văn minh t́nh thương… Chúng ta được mời gọi thổi phồng t́nh thương” (31.12.1975; thứ năm tuần thánh năm 1961). Những lời này của Đức giáo hoàng Phaolô VI, vào một ngày thứ năm tuần thánh, tôi xin biến thành lời của tôi hôm nay, trong lễ Phục sinh này. Và xin phép cho tôi thêm vào năm của thánh Phanxicô lời cầu chúc: “Pace e bene” – b́nh an và thiện hảo cho mỗi một người trong anh chị em.

Lễ Phục sinh năm 1982

Godfried Danneels
Tổng giám mục tổng giáo phận
Malines – Bruxelles, Bỉ

 

 

Nguyễn Trọng Đa dịch

 


 

 

Xem các bài viết khác trong Anh Nguyễn Trọng Đa.