ĐỌC VỀ KITÔ HỌC

1 2 3 4

Christ

 

 

 

II. LỊCH SỬ HỌC LƯ KITÔ HỌC.

 

1. Khởi điểm và những khai triển ban đầu của Vấn đề Kitô Học

  a. Kitô Học và học lư về Chúa Ba Ngôi đă tạo nên hạt nhân trong việc phát triển học lư của Giáo Hội. Ngay từ khởi thủy, Kitô Học cho thấy Kitô giáo đă ư thức được rằng ḿnh là một thực thể vừa có tính lịch sử vừa có tính siêu lịch sử; rằng cái đặc điểm lưỡng tính ấy biểu tỏ cả sức căng thẳng sâu sắc lẫn khả thể của một liên hệ thực sự giữa Thiên Chúa và con người; và cái lưỡng tính ấy đă nói lên cả sự khác biệt lẫn sự trổi vượt của Kitô giáo.

Rơ ràng không kém nữa là ngay từ đầu cái lưỡng tính kia, một lưỡng tính vốn nói lên sự cao cả trổi vượt của Kitô giáo, cũng là dịp gây nên bất ổn và khó khăn triền miên, nguồn gốc của rất nhiều thay đổi và lầm lạc, và là lư do gây nên rất nhiều thiếu sót sẽ c̣n kéo dài cho đến tận ngày sự toàn thiện sau cùng và vĩnh hằng sẽ xẩy ra. Để hiểu được sự phát triển và lịch sử Kitô Học kể từ lúc ban đầu, việc cần đầu tiên là phải hiểu rằng thế giới cổ thời, tức môi trường lịch sử của Kitô giáo, phần lớn không có những quan niệm như chúng ta có hiện nay, cả các quan niệm về tính lịch sử lẫn các quan niệm qua đó ta phân biệt được điều ǵ là siêu h́nh, điều ǵ là tâm linh, và điều ǵ là vật chất. Họ không bao giờ ư thức về chúng với h́nh thức, với định nghĩa và với sự rơ ràng như ta có hiện nay. Trong quá tŕnh khai triển học lư, mỗi cơn khủng hoảng trong việc hiểu các quan niệm này cuối cùng đă đem đến một khủng hoảng cho Kitô Học.

 b. V́ nhiều lư do, sẽ không bao giờ có thể có được một giải đáp chung cục và khoa học cho vấn đề nguồn gốc lịch sử của Kitô Học của Giáo Hội. Lư do thứ nhất v́ những nguồn tài liệu ta có về thời kỳ ban đầu không thoả đáng bao nhiêu. Sự thiếu thỏa đáng này, đàng khác, không phải chỉ là t́nh cờ, nhưng đă thấy ở các giai đọan phôi thai của bất cứ hiện tượng lịch sử lớn lao nào. Các nguồn gốc tối hậu của một phong trào xẩy ra trong tâm trí người ta lúc nào cũng chỉ có thể giải thích được bằng cách dựa vào những chứng cớ sau này; và trong diễn tŕnh ấy, bao giờ cũng có sự can dự của một phán đoán khách quan tổng quát về bản chất của toàn bộ hiện tượng.

Dĩ nhiên, cả Kitô giáo buổi sơ khai lẫn Giáo Hội trong các thế kỷ đầu tiên đều nh́n nhận vấn đề thần học căn bản của Kitô Học như là vấn đề, nhưng không thấy một phát biểu Kitô Học nào trong các nguồn tài liệu cổ xưa theo nghĩa tín điều. Tuy thế, thể tài của vấn đề căn bản ấy th́ chắc chắn đă có rồi (xem I, 1b ở trên). Dĩ nhiên không thể xác định được nguồn gốc của từng thể tài cá biệt một để rồi từ đấy đưa ra một miêu tả sử học cho toàn bộ học lư, cả dưới khía cạnh tùy thuộc các tôn giáo khác về phương diện lịch sử lúc nó xuất hiện lẫn các bản chất và nội dung riêng biệt của nó. Mặt khác, phải khẳng định rằng việc khai triển học lư Kitô Học của Giáo Hội xét trong toàn bộ là dấu chỉ rơ ràng rằng ngay từ ban đầu, đă có một sự thống nhất hữu cơ rồi dù ta chưa biết toàn bộ các chi tiết của nó.

 c. Cái móc xích chắc chắn nhất giữa Kitô giáo lúc ban sơ và nền Kitô Học đang phát triển của Giáo Hội là gia tài Do Thái, tức việc hiểu Chúa Giê-su Kitô như là đấng Sức Dầu (Xem I, 1,5). Justin Tử đạo khẳng định tước hiệu căn bản này của Chúa Kitô trong câu trả lời cho Trypho người Do Thái (Dialogue, 48). Đă đành tước hiệu này chẳng bao lâu sau đă biến mất khỏi các tín điều của Giáo Hội, v́ nó chẳng c̣n ư nghĩa hoặc ích lợi bao nhiêu khi Giáo Hội đi vào các dân ngoại. Nhưng hàm ư cốt yếu của nó vẫn c̣n đó và được duy tŕ trong Kitô Học của mọi giáo phái cho đến tận nay, tức ư niệm tái lâm cánh chung của Chúa Kitô để phán xét thế gian và thiết lập Nước Thiên Chúa.

Cái chướng ngại lớn lao do việc đến thế gian lần thứ nhất của Chúa Kitô gây ra đối với người Do Thái, tức việc Người bị khinh khi và nhục mạ, đă được vượt qua trong tâm trí các Kitô hữu lúc ban đầu và trong các thế hệ kế tiếp, chính là nhờ ư niệm được rút tỉa từ chính niềm tin Do Thái giáo này. Ư niệm về một quan án sức dầu và cai trị thế gian sẽ đến trong thế gian nay mai là ư niệm Kitô Học đầu hết đă được thành h́nh và quảng bá ngay từ thuở đầu. Nó là một ư niệm tiền Kitô giáo, nhưng với cả Kitô giáo lúc ban sơ, nó cũng đă trải qua một thay đổi hết sức triệt để về nội dung. Chứng cớ là cái tên hay cái tước hiệu diễn tả về nó vốn được tiếp nhận từ Do Thái giáo đă biến mất khi người ta không c̣n dùng đến nó nữa.

Vấn đề trở nên khó khăn hơn đối với các khai triển phát xuất từ việc hội nhập các ư niệm tôn giáo của dân ngoại vào Kitô Học của Giáo Hội, qua diễn tŕnh triết chung luận (syncretism). Về điểm này, các nghiên cứu về lịch sử tôn giáo trong mấy thập niên gần đây đă đưa lại nhiều khám phá lớn lao, nhưng đồng thời cũng cổ xúy khá nhiều kết luận thiếu chín chắn và học lư giả tạo. Có lẽ do kết quả việc buôn bán quốc tế rất phồn thịnh hồi ấy cũng như việc trao đổi tư tưởng, là hai hiện tượng đă kéo nhân loại lại gần nhau hơn kể từ thời Alexandre Đại Đế, các thứ giáo phái (cult) khác nhau đă khai triển ra một thứ khuôn mẫu chung, và do đó ít nhất cũng có một số các ư niệm, các cách quan niệm, các tập tục cúng tế và các nghi lễ cá biệt được phỏng theo và trao đổi giữa giáo phái này và giáo phái kia.

Chắc chắn Kitô giáo ngay từ buổi đầu cũng không tránh khỏi chịu ảnh hưởng bởi t́nh huống ấy. Mà ảnh hưởng quan trọng nhất về phương diện này chính là việc tôn sùng hoàng đế Rôma. Hầu như tất cả các tước hiệu áp dụng cho Chúa Kitô đều có thể t́m thấy trong các tín ngưỡng thời đó, như tước hiệu Đấng Cứu Thế (soter), Chúa Tể (Kyrios), Con Trời, Trời... Ngay cả các hành vi cứu thế như cái chết và sự sống lại của Người, cũng thấy có ở nơi khác nữa, và cả các hành vi như dẫn nhập và được nhận làm thành viên, các bữa ăn nghi lễ, thẩy đều quan trọng vào buổi đầu của Giáo Hội Kitô. Việc này dẫn ta đến hai câu hỏi quan trọng. Thứ nhất, đâu là ư nghĩa và hiệu quả của việc tiếp nhận các tước hiệu và quan niệm ngoại giáo? Tước hiệu soter, Đấng Cứu thế, trên thực tế có thể đă được rút tỉa từ việc thờ kính hoàng đế, nhưng một khi đă ở bên trong Kitô giáo, nó đă mặc lấy một nội dung mới và hoàn toàn khác hẳn. Và việc này dẫn ta đến vấn đề thứ hai và là vấn đề quan trọng hơn. Nếu hết mọi tôn giáo đều có các thần thoại riêng; Kitô giáo cũng không tránh khỏi việc ấy. Nhưng ngay từ đầu, thần thoại Kitô giáo đă khác hẳn thần thoại của các tôn giáo khác ở điểm nó là một thần thoại lịch sử (historical myth), nghĩa là một biến cố lịch sử thực sự xẩy ra cho một nhân cách lịch sử, và được tŕnh bầy như thế, dù hạn từ lịch sử lúc ấy không được hiểu theo nghĩa khoa học hiện nay. Ta sẽ không thể hiểu được cuộc cạnh tranh sinh tồn của Giáo Hội với phái ngộ đạo trong thế kỷ thứ hai nếu ta không hiểu điểm trên.

Ngoài các ảnh hưởng từ các tôn giáo ngoại đạo, Giáo Hội sơ khai c̣n chịu ảnh hưởng nặng hơn từ nền triết học Hy Lạp. Cùng với đà gia tăng về kích thước và tầm quan trọng, Kitô giáo không thể cô lập ḿnh khỏi bộ phận tư tưởng này, nếu không muốn bị coi là một tôn giáo mọi rợ và do đó chẳng chóng th́ muộn cũng phải tiêu tan. Bởi thế, khỏang cuối thế kỷ thứ hai, nó đă sử dụng các ư niệm của nền triết học này để xây dựng ra nền Kitô Học của ḿnh. Nhưng, ngay trong Kitô Học của các nhà Hộ Giáo và trường phái Alexandria, nơi sự sử dụng trên xẩy ra, ta cũng thấy rơ sợi dây liên kết với các ư niệm và quan niệm triết lư được truyền lại từ Kitô giáo lúc ban đầu. Ta đă biết có cả một truyền thống phía sau các nhà Hộ Giáo, một truyền thống hoàn toàn có mục đích tôn giáo, không có tính triết học, không chuyên chở ǵ khác ngoài các ư niệm rút ra từ Phúc Âm lịch sử, một truyền thống được tiếp nối và củng cố trong thần học Antiochia. Tuy nhiên, trong Kitô giáo c̣n một truyền thống khác, có trước các Nhà Hộ Giáo, mà chính các Nhà Hộ Giáo lẫn trường phái Alexandria đều là những kẻ hậu sinh trực tiếp. Truyền thống này đă đề cập đến vấn đề vũ trụ học (cosmological) rồi, tức mối liên hệ giữa Thiên Chúa và vũ trụ, đúng hơn giữa Thiên Chúa và con người, một vấn đề khởi thủy chỉ là vấn đề siêu h́nh học không hơn không kém, nhưng sau đó mới dần dần mặc thêm khía cạnh tôn giáo nữa.

Ở đây, ta thấy một bầu khí tôn giáo rất khác với bầu khí của việc ḥa giải kẻ có tội với Thiên Chúa vốn được rút ra từ Do Thái giáo. Tuy nhiên đó vẫn là một ưu tư thực sự có tính tôn giáo, một ưu tư về mối tương quan giữa Thiên Chúa toàn năng, siêu việt khỏi trần gian này, và con người, bị giam hăm trong thế giới vật chất. Để xử lư vấn đề này, nền siêu h́nh học của Hy Lạp, một nền siêu h́nh vốn thực sự quan tâm đến tôn giáo, đă tiếp nhận ư niệm logoi của Platon. Logoi được hiểu là mô h́nh nguyên thủy (original archetypes) của vạn vật, và theo các suy luận của trường phái Khắc Kỉ, đó là ư lực bao trùm vũ trụ; ư niệm này tương tự với diễn tŕnh xẩy ra trong Do Thái giáo sau đó khi vấn đề vũ trụ luận trở thành gay cấn. Ta không thể nói các ư niệm về đấng trung gian và về Logos của Do Thái giáo có ảnh hưởng hay không và ảnh hưởng đến mức nào trên Kitô Học trước thời Hộ Giáo. Ta chỉ có thể nói rằng các mối liên hệ tổng quát đă có rồi, và các nhà Hộ Giáo cũng như trường phái Alexandria đă có thể sử dụng chúng và khai triển nội dung của chúng.

Việc họ sử dụng tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’, và sự kiện họ ‘nghĩ về Chúa Kitô như Thiên Chúa’ tức như đấng phán xét thế gian (2 Clement I, 1), quả không phải là đă lấy từ những tôn giáo bí hiểm, cũng như không có nghĩa vũ trụ luận; đúng hơn, chúng liên hệ đến việc hiểu Chúa Giê-su Kitô như đấng chuộc tội có thật trong lịch sử và có thần tính thực sự.

 d. Ngay từ đầu, cả trong chính Phúc Âm, Chúa Giê-su Kitô đă được qui cho vị thế và phẩm vị đặc biệt của một nhân vật lịch sử được nâng cao bên trên b́nh diện nhân bản. Từ đấy ta thấy một liên hợp và đồng thời một căng thẳng xẩy ra giữa nhân vật lịch sử hiện thực này và thiên tính siêu lịch sử của ngài, chính chúng tạo thành căn bản cho Kitô Học của Giáo Hội. Cả Giáo Hội sơ khai lẫn thế hệ các Giáo phụ Tông đồ sau đó đều có những cách khác nhau để miêu tả t́nh trạng trên, tất cả đều không có hệ thống, hiện diện kế cận nhau và không ai cố gắng làm chúng thích hợp với nhau.

Tuy nhiên họ cùng đồng ư với nhau ở một điểm căn bản này là tặng cho con người lịch sử Giêsu đó tước hiệu Thiên Chúa, hoặc thường hơn tước hiệu Con Thiên Chúa. Nhăn quan tổng quát của thế giới cổ thời, một thế giới không sử dụng tước hiệu ‘Thiên Chúa’ theo nghĩa hẹp như chúng ta hiểu ngày nay, và cả các ư niệm tôn giáo và triết học của Hy Lạp nữa đều đă ảnh hưởng đến diễn tŕnh này một cách chính thức. Dù vậy, căn cứ vào cách các Giáo phụ Tông đồ duy tŕ và tiếp nối các ư niệm của Kitô giáo sơ khai, rơ ràng việc họ sử dụng tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’, và sự kiện họ ‘nghĩ về Chúa Kitô như Thiên Chúa’ tức như đấng phán xét thế gian (2 Clement I, 1), quả không phải là đă lấy từ những tôn giáo bí hiểm, cũng như không có nghĩa vũ trụ luận; đúng hơn, chúng liên hệ đến việc hiểu Chúa Giê-su Kitô như đấng chuộc tội có thật trong lịch sử và có thần tính thực sự.

T́nh trạng thiếu hệ thống trên dần dần được cải thiện nhờ những cố gắng xếp đặt các ư niệm Kitô Học cho có thứ tự hơn hoặc ít ra cũng nói lên những khuôn mẫu căn bản. Dù những khuôn mẫu do một học giả đưa ra đă bị các học giả khác tranh luận, nhưng một khi được xác định rơ ràng cũng đă nói lên một chủ đề hay một thành phần trong diễn tŕnh khai triển Kitô Học; đặc biệt, là việc khai triển ra nền thần học được Loofs gọi là ‘nền thần học Tiểu Á’, một nền thần học bước chân theo các trước tác của Gioan và Phao-lô trong việc nhấn mạnh đến lịch sử cứu độ. H́nh thái luận ngây thơ của họ, một chủ thuyết đă đồng hóa không dè dặt Chúa Kitô với Chúa Cha với mục đích hiển dương công tŕnh cứu độ của Ngài, và việc chỉ gán tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’ cho Chúa Kitô sau khi Ngài nhập thể tất cả đều có mặt trong nền thần học kia. Nhưng các khuôn mẫu khác cũng chiếm được giá trị đáng kể và các giới hạn nhất định, đặc biệt là hai khuôn mẫu Kitô Học thừa nhận (adoptionist) và Kitô Học thần khí (pneumatic).

Cả hai quan niệm này đều t́m thấy gốc gác trong Tân Ước, và đều phải được hiểu dưới ảnh hưởng trực tiếp về nội dung của các ư niệm tôn giáo siêu h́nh. Trong trường hợp Kitô Học thừa nhận, ta có con người lịch sử Giêsu, được Thiên Chúa chỉ định làm đấng cứu chuộc loài người, được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử (adopted) chia sẻ đầy đủ thiên tính của Người. Việc nhận làm con này đă được phê chuẩn và hoàn tất khi công cuộc cứu chuộc đă hoàn thành. C̣n trong Kitô Học thần khí, ta có đấng thiêng liêng từ cảnh vực thần linh xuống cơi trần trong một thời gian, mặc lấy xác phàm để thi hành công tŕnh cứu chuộc. Hiển nhiên, Tân Ước có đề cập đến quan niệm sau, tuy không có mầu sắc vũ trụ luận. Dù các nghiên cứu sau này phải có để xem xem liệu có thể có những kiểu mẫu khác, và những kiểu mẫu này có thể thay thế được các kiểu mẫu hiện nay hay không, chắc một điều những kiểu mẫu này vẫn quan trọng để hướng dẫn các nghiên cứu kia. Tuy nhiên, một cách tổng quát, cần nhấn mạnh một điều là trong thời kỳ đầu tiên nay, chủ nghĩa độc thần không hề bị đe doạ, và điều này không phải chỉ đúng đối với Kitô Học thừa nhận mà thôi đâu. Cả các quan niệm Kitô Học ta đă tŕnh bày cũng như công thức ba vị (triadic formula) đă có từ thuở đầu Kitô giáo cũng đều không đưa lại bất cứ đe doạ nào cho chủ nghĩa độc thần, phần lớn bởi v́ không một tư duy nào đă chĩa mũi dùi vào đấy. Chỉ khi có những đe doạ đối với chủ nghĩa độc thần do những tranh luận với người ngoại đạo, người ta mới khai triển một loạt những ư niệm mới cho Kitô Học trong đó có học lư về Chúa Ba Ngôi.

 

2. Sự Chiến thắng của Kitô Học Ngôi Lời và của Học Thuyết Vật Thể về Cứu Chuộc

  a. Từ thời kư tối tăm với những vấn đề không được giải quyết, ta bước sang thời kỳ trong đó lịch sử của học thuyết thực sự bắt đầu cùng với việc người ta biết sử dụng các phương pháp sử học để nghiên cứu vấn đề một cách tương đối chắc chắn. Thời kỳ này bắt đầu với những soạn giả được gọi là các Nhà Hộ giáo. Cả ở đây ta cũng thấy có nhiều vấn đề có tính sử học chưa được giải đáp thoả đáng. Tuy nhiên, ít ra ta cũng có thể phân biệt được những kiểu mẫu ư niệm dứt khóat và những đường hướng khai triển rơ rệt, những việc sẽ được tiếp nối sau này, cũng như quan sát được việc thu hẹp dần (narrowing) các quan niệm và các ư niệm Kitô Học mà căn bản vẫn c̣n thịnh hành đến tận thời Cải Cách, và thực tế vẫn có tầm quan trọng quyết định ngày nay. Nhưng ta cũng có thể nói rằng trong một thời gian dài, song song với việc khai triển trên, vẫn c̣n một gịng tư tưởng và chủ đề khác hẳn đi đôi với nó. Các chủ đề khác này do những người chống đối Kitô Học này cũng có mà do ḷng sùng đạo b́nh dân của Giáo Hội cũng có. Hành động rơ ràng nhất của các nhà Hộ Giáo là đă áp dụng ư niệm Ngôi Lời vào Chúa Kitô, một ư niệm lấy từ triết lư Hy Lạp, và việc họ liên kết ư niệm này và tước hiệu Con Thiên Chúa. Từ trước đến nay, người ta vốn cho rằng điều này không những đă tạo ra một Kitô Học một chiều và có tính giới hạn, mà có khi c̣n bóp méo cả Kitô Học nữa. Tuy thế, dù cho rằng nhận định trên có đúng đi chăng nữa, vẫn không nên quên rằng các nhà Hộ Giáo đă chính thức chịu ảnh hưởng bởi những khai triển có trước họ, và họ có thể dựa vào Gioan đoạn 1 làm điểm tựa Thánh Kinh.

Họ hiểu Ngôi Lời, cũng như Con Thiên Chúa, như một hữu thể thiên giới và thần linh, khác với Chúa Cha, v́ là ‘sáng tạo đầu hết’ của Người, đi vào hiện hữu bằng việc biệt phân (distinction) từ Thiên Chúa, chứ không phải tách biệt (separation)(Tatian). Ngài là một bản thể khác biệt – và là một ngôi vị khác hẳn, dù quan niệm hiện nay về ngôi vị không thể áp dụng vào mạch văn này- là Thiên Chúa thứ hai bên cạnh Thiên Chúa thứ nhất (Justin). Trong tư cách ấy, Ngài đă đi vào trần gian trong Chúa Giê-su, mặc lấy xác phàm để thi hành công cuộc cứu chuộc, và sau đó đă trở về bầu bạn với Chúa Cha. Hiện nay ta không có cách chi để xem sét vấn đề cách xát hơn cũng như chưa có một cố gắng nào để giải quyết vấn đề ấy. Nhưng rơ ràng một điều là các nền triết học tôn giáo vào lúc kết thúc thế giới cổ thời, cả chủ nghĩa duy lư của nhóm Khắc Kỷ lẫn các học lư của những người tiếp nối trường phái Platon, đă chiếm một địa vị nổi bật trong thần học và do đó trong Kitô Học. Chính v́ vậy, tuy người ta khẳng định con người lịch sử của đấng cứu chuộc, nhưng sự khẳng định này đă tạo nên một vấn đề không những không hiểu được mà c̣n không thể giải đáp được, do đó đă phải lùi dần vào hậu cảnh. Và cuối cùng, học lư có tính vũ trụ luận và vật thể về cứu chuộc đă thế chỗ cho công tŕnh cứu độ mà Tân Ước đă làm chứng, ít nhất về phương diện lư thuyết trong cái gọi là thần học tín lư. Người ta vẫn c̣n chủ trương rằng Thiên Chúa ở trong Chúa Kitô và Người đă ḥa giải thế giới với chính Người, lư do chỉ v́ điều ấy có trong Thánh Kinh; nhưng điều ấy không c̣n chỗ đứng trong học lư Kitô Học của Giáo Hội nữa.

Quan niệm về Ngôi Lời đă đưa lại cái đặc tính vũ trụ luận và vật thể (physical) ngay từ nguồn gốc; Ngôi Lời xuất hiện như một bản thể tách biệt (distinct) khỏi Thiên Chúa, tự ḿnh là một thực tại và một yếu tính, hành động độc lập hẳn. Một khi đă đưa quan niệm Ngôi Lời vào, th́ Ngôi Lời trở thành quan tâm số một, một hữu thể tiền hữu và hậu hữu; cái ư niệm logos spermatikos, hay Ngôi Lời đang hành động như một hạt giống nằm ngầm trong lịch sử có trước, như Justin miêu tả, một ư niệm hết sức quan trọng trong triết học lịch sử và tôn giáo, đă từ hoàn cảnh trên mà phát sinh. Hậu quả là: ư niệm nhập thể, một ư niệm rất yếu tính đối với bất cứ Kitô Học nào, phải lui hoàn toàn vào hậu trường, hoặc ít ra, đă mất hết tầm quan trọng cốt yếu của nó, và đặc biệt không c̣n được nhập cơ vào bất cứ cấu trúc thần học toàn bộ nào nữa.

 b. Nhiệm vụ mà các nhà Hộ giáo bỏ dở dang đă lập tức được hai thần học gia kế tiếp tiếp nối. Họ vốn được coi như gạch nối giữa các nhà Hộ Giáo và nền thần học mới của Giáo Hội, cả hai đều là những nhà Hộ giáo cuối cùng và quan trọng nhất và là hai thần học gia về tín lư đầu hết của Giáo Hội. Hai người đó chính là Irenaeus và Tertullian. Họ đặc biệt quan tâm đến việc chống lại các sai lầm của phái ngộ đạo (gnosticism) và phái huyễn tượng (docetism). Cả hai đều đă không lái Giáo Hội ra khỏi con đường đă được các nhà Hộ Giáo vạch ra và họ cũng không đưa lại một giải đáp nào có tính tín lư đúng nghĩa. Thành quả của họ chỉ là đă bác khước thành công phái ngộ đạo, với cái thứ Kitô Học đầy huyễn tượng của nó, bằng cách đặt nhập thể vào tâm điểm của học lư Ngôi Lời. Irenaeus thực hiện điều ấy chủ yếu trong thần học đồng qui luận (theology of recapitulation) rất quan trọng của ngài. Thần học này loại bỏ vĩnh viễn bất cứ quan điểm thuần huyền học nào về cứu chuộc. Xuất thân từ triết học và trong phong thái luân lư gia, Tertullian đă tạo ra những công thức tuy chứa đựng nhiều khó hiểu và vấn nạn, nhưng đă đẩy xa việc khai triển theo chiều hướng làm người ta từ nay không thể quên rằng hành vi cứu độ của Ngôi Lời là một biến cố lịch sử thực sự, do đó cuối cùng đă đo ván vĩnh viễn phái ngộ đạo.

Nhưng Harnack không ngừng và rất đúng khi nhấn mạnh rằng khi nghiên cứu nền thần học Công Giáo buổi sơ khai, người ta phải luôn nhớ rằng thái độ của nền thần học đó đối với ngộ đạo thuyết không phải chỉ là một chống đối tiêu cực. V́ người ta không thể hiểu được thần học của Irenaeus nếu không nhắc đến trường phái Valentinus và Marcion. Khi nhấn mạnh đến thực tại tính của nhập thể, Irenaeus muốn làm nổi bật công tŕnh cứu chuộc; về điểm này, ngài quả đă tiến xa hơn các nhà Hộ Giáo. Nhưng các phạm trù vật thể lại đă được khẳng định theo đường hướng của phái ngộ đạo, và công tŕnh đền tội (atonment) của Chúa Kitô bị đẩy vào hậu trường (trên thực tế, nó được phần nào duy tŕ trong hệ thống hối cải có tính luân lư-moralist penitential system-). Trong học thuyết của Irenaeus, cũng như trong các công thức của Tertullian, ta thấy đă có những dấu tích (premonition) rơ rệt của học thuyết hai bản tính sau này. Một sự kiện hết sức đáng chú ư là Tertullian, dù là một tư tưởng gia phương Tây và tựu chung không có tính triết lư, đă đưa ra những công thức có tầm quan trọng quyết định đối với việc khai triển chính của Kitô Học phương Đông vào thế kỷ thứ tư. Tertullian nh́n nhận hai bản thể trong ngôi vị Chúa Kitô, dù ông không giải thích rơ mối tương quan giữa hai bản thể này cũng như cách thế hai bản thể này, hiện hữu cạnh nhau, đă thi hành trách vụ thần hóa (deification) con người ra sao. Do đó, biểu thức thần học đầu tiên của Kitô Học về Ngôi Lời đă gây mầm mống cho mọi tranh luận về sau.

 c. Kitô Học về Ngôi Lời đă thực hiện được nhiều luận điểm, đă được các tư tưởng gia sâu sắc đưa ra, đă được chấp nhận nhờ đă có khả năng cung cấp lời giải đáp cho vấn đề quan trọng nhất về mối tương quan giữa Chúa Kitô và Thiên Chúa, và do đó đă được dùng như vũ khí hữu ích trong cuộc chiến chống lại lạc giáo ngộ đạo. Tuy nhiên, đặc tính đa nguyên và do đó đa thần của nó đă làm nổi lên nhiều ư kiến chống đối dựa vào đặc tính độc thần rất đặc trưng của Kitô giáo. Và v́ vậy thời kỳ trong đó Kitô Học Ngôi Lời c̣n hoàn toàn chưa được ai biết tới cũng là một thời kỳ không dễ quên. Trong lịch sử của học thuyết, những người chống đối Kitô Học Ngôi Lời trong Giáo Hội được gọi là phái Nhất ngôi Nhất vị (monarchians), bởi họ đặc biệt nhấn mạnh đến cái gọi là monarchia, tức chỉ có một Thiên Chúa thống trị mà thôi. Trái với các thần học gia mới, họ tự coi họ mới thực sự là những quán quân của thần học cổ truyền.

Ta thấy có hai h́nh thức Nhất ngôi Nhất vị. Một đàng chúng được nhận diện nhờ mối liên hệ của chúng với các nền thần học ‘thừa nhận’ và ‘thần khí’ đă nói trên đây. Đàng khác, chúng tái xuất hiện dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác trong suốt lịch sử Kitô Học, đến tận Luther, Schleimacher, và Albrecht Ritschl... đến nỗi ta có thể nói rằng chúng đă nói lên được một số đ̣i hỏi nào đó trong lư thuyết Kitô Học, những đ̣i hỏi mà thế hệ nào cũng cảm nhận được, dù không có một liên hệ lịch sử nào; nói riêng ra, cũng chẳng cần phải đi t́m bất cứ liên hệ nào giữa các thứ Kitô Học trước thời các nhà Hộ Giáo ấy và những người đầu tiên chủ trương Nhất ngôi Nhất vị hiểu đúng nghĩa. Thực tế, ta có thể nói rằng sự chống đối giữa phái Nhất ngôi Nhất vị và Kitô Học Ngôi Lời chỉ nói lên sự căng thẳng nội tại trong vấn đề Kitô Học xét trong toàn bộ. Hai h́nh thức đó được gọi là nhóm Nhất ngôi Nhất vị năng động (dynamistic) hay Nhất ngôi Nhất vị thừa nhận (adaptionist) và Nhất ngôi Nhất vị h́nh thái luận (modalist).

Phái Nhất ngôi Nhất vị thừa nhận cố gắng bảo vệ đặc tính nhất quyền của Thiên Chúa từ dưới đi lên. Nó miêu tả Chúa Kitô như một người phàm được Thiên Chúa phú cho một quyền lực (dynamis) đặc biệt, được Thiên Chúa phái đến một cách nhiệm mầu để thi hành công tŕnh cứu độ, và sau khi hoàn thành sứ mệnh được Thiên Chúa nâng lên địa vị Thiên Chúa. Theodotus, một công nhân thuộc da quê ở Byzantium, được coi là sáng lập viên của nhóm này; giống như lănh tụ của bất cứ trường phái thần học nào khác của thời ấy, ông đă du hành đến thủ đô Rô Ma, nơi ông đă thu hút được nhiều người theo, trong đó có Theodotus làm nghề đổi tiền và một số người tên tuổi khác. Giám mục Rô Ma lúc đó là Victor I (189-198) nhận ra sự nguy hiểm nên đă rút phép thông công nhóm này, khiến họ không c̣n truyền bá luận điểm của họ được nữa, dù họ đă thành công trong việc duy tŕ sự hiện hữu độc lập khỏi Giáo Hội trong một thời gian, nhất là sau khi Artemon (khoảng năm 230) tiếp nhận quan điểm của họ. Hậu bán thế kỷ thứ ba, Kitô Học của nhóm này thu phục được một người quan trọng ở phương Đông, tên là Paul thành Samosata.

Dù mối liên hệ giữa nhân vật này và Artemon, một liên hệ được các giáo phụ luôn luôn khẳng định, khó ḷng có thể chứng minh theo sử học được, và mặc dù nhân vật ấy tŕnh bày quan điểm của ḿnh dưới h́nh thức Kitô Học Ngôi Lời, nhưng ta vẫn phải chấp nhận rằng ông ta đă biểu lộ mối liên hệ rơ ràng với những người đầu tiên chủ trương Nhất ngôi Nhất vị Năng động, và do đó với truyền thống thuộc thời kỳ tiền Hộ giáo, đặc biệt về sắc thái phi triết lư trong học lư Ngôi Lời của ông. Ta phải ghi nhận điều này nữa là trọn bộ trường phái tư tưởng này, dù có óc phê phán cao trong Kitô Học, nhưng lại không chấp nhận những ư niệm phê phán của người khác như Arius của buổi sau này. Cả những người Nhất ngôi Nhất vị đầu tiên lẫn Paul thành Samosata đều không một chút nghi vấn ǵ đối với việc hạ sinh đồng trinh hay việc xác sống lại. Sau này, có người miêu tả họ như những người chủ trương Chúa Giê-su chỉ là phàm nhân không hơn không kém (philos anthropos), th́ ta không nên hiểu thuật ngữ ấy theo nghĩa hiện nay.

Phái h́nh thái luận ráng bảo vệ đặc tính nhất quyền của Thiên Chúa từ trên đi xuống, bằng cách giải thích rằng Chúa Kitô chỉ là một h́nh thái (modus) để Thiên Chúa tỏ ḿnh ra. Chính Chúa Cha trong h́nh thái ấy đă thi hành công tŕnh cứu độ, đă được sinh ra, đă chịu đau khổ và đă chết; chính v́ vậy sau này người ta đă gọi họ là phái Thánh phụ Khổ nạn (Patripassians). Cả ở đây nữa, ta cũng không nên bỏ qua sự đồng nhất về nội dung học thuyết của họ với cái tự nhận là phái h́nh thái luận ‘ngây thơ’ của thời tiền Hộ Giáo; người ta có thể thấy ra sức mạnh của học lư này qua sự kiện nó đă nhận được sự phê chuẩn chính thức của Giáo Hội Rô Ma. Ta biết rằng đầu tiên nó được Noetus thành Smyrna đề xướng, và sau đó được Epigonus, Praxeas... truyền bá tại phương Tây. Dù bị Tertullian cực lực chống đối, nó đă được giám mục Rô Ma là Zephrynus bênh vực. Cả Calixtus I ban đầu cũng bênh vực nó. Sau khoảng năm 215, nó được Sabellius hết ḷng bênh đỡ. Tuy nhiên, cùng với thời gian, Kitô Học Ngôi Lời, một Kitô Học luôn có khả năng trưng dẫn được bằng chứng cổ xưa và hợp truyền thống để bênh vực cho ḿnh dưới khuôn dạng tự ngôn của Phúc Âm Gioan, càng ngày càng trở nên có thế giá một cách mạnh mẽ. Dựa vào một công thức đă được nhất trí, Calixtus sau đó đă tách ḿnh ra khỏi nhóm h́nh thái luận và rút phép thông công họ. Việc ấy đă quyết định số phận nhóm H́nh thái luận, và Kitô Học Ngôi Lời đă được toàn thể Giáo Hội phương Tây chấp nhận. Điều ấy thấy rơ trong thần học của Novatian (khoảng năm 250), người đă chủ yếu duy tŕ các công thức của Tertullian, dù rơi rớt vẫn c̣n dấu vết Nhất ngôi Nhất vị, và do đó đă dọn đường cho những tranh chấp sau này.

 d. Kitô Học Ngôi Lời đă được thần học Alexandria tŕnh bày cách có hệ thống và cuối cùng đă thắng thế, nhờ thiên tài của Origen. V́ tựu chung, chiến thắng của học lư này là do ảnh hưởng hết sức trí thức của ông. Ông đă nhập cơ học lư này vào một hệ thống đầu tiên thực sự có tính tín lư đến nỗi ta không thể tách nó ra khỏi hệ thống này được nữa, dù sau này hệ thống đặc thù của Origen đă sụp đổ, và từ đống tro tàn của nó biết bao vấn nạn đă nổi lên cho thời kỳ kế tiếp. Có hai chủ đề căn bản trong Kitô Học của Origen; v́ ông không hoà giải hai chủ đề này với nhau được, nên trên thực tế chúng đă gieo mầm phá hủy chính Kitô Học kia và cho thấy tại sao Kitô Học của ông đă không c̣n thoả đáng trong các khai triển tín lư của Hy Lạp sau này nữa, dù nó vẫn cung cấp nền tảng cho tín lư ấy. Chủ đề đầu tiên là quan niệm hoàn toàn có tính nhất nguyên (monist) về Thiên Chúa, được xây dựng theo các truyền thống của phái Platon, tuyệt đối loại trừ bất cứ sự phân chia hoặc thay đổi nào nơi Thiên Chúa, do đó báo trước một cách kỳ diệu các ư tưởng của Schleimacher sau này. Hiệu quả trong Kitô Học của chủ đề này là ư niệm về sự sinh ra Ngôi Lời từ thuở đời đời, nhờ đó Origen duy tŕ được tính độc nhất (oneness) và tính đơn nhất (unity) tuyệt đối của Thiên Chúa.

Chủ đề thứ hai là sự tùy thuộc (subordination) hoàn toàn của Ngôi Lời như một hữu thể độc lập, tự ḿnh là một ousia (bản thể) hay một hypostasis (ngôi vị) - hai ư niệm đă được Tertullian phân biệt rơ ràng, nhưng đối với Origen th́ chỉ là một, sau này lại được thần học Hy Lạp phân biệt do áp lực phương Tây. Ư niệm thứ hai chỉ mâu thuẫn ư niệm đầu về bề ngoài; chứ thực sự bên trong, nó hoàn toàn phù hợp với ư niệm kia. Nhưng v́ Origen không tránh được hệ luận tất yếu của việc hiểu Ngôi Lời như là deuteros theos, Thiên Chúa thứ hai, và không thể vượt qua được sự mâu thuẫn biểu kiến kia, nên Kitô Học của ông đă sụp đổ. Dù hai chủ đề trên về yếu tính có tính triết học hoàn toàn, nhưng trên căn bản thánh kinh học, Origen đă đem một yếu tố có tính Kitô giáo rơ rệt, dù nhỏ, vào Kitô Học của ông, đó là việc thay thế sự xuất hiện trên thế gian của Ngôi Lời bằng linh hồn tiền hữu và tinh ṛng của con người Giêsu. Nhưng sự thay thế này hoàn toàn vô nghĩa trong hệ thống của Origen, v́ ông đă rút gọn việc nhập thể vào điều cuối cùng chỉ c̣n là biểu tượng và là hành vi trợ giúp đối với những con người phàm phu tục tử, đến nỗi ‘lịch sử đă biến thành hơi’ (Harnack). Những Kitô hữu hoàn hảo, tức người thực sự ngộ đạo, chả cần chi đến nhập thể; anh ta tiếp nhận mạc khải theo lối Platon, tức cái lối nhận thức, trực tiếp từ Ngôi Lời. Như thế, Origen đă chủ trương một học thuyết về nhập thể trong cung giọng có tính nhất tính thể (monophysite), nhưng trong hậu quả, quan niệm nhất nguyên về Thiên Chúa của ông lại sẽ dẫn người ta khai triển theo hướng đa nguyên.

Tư tưởng của Origen đă thống trị những năm cuối cùng của thế kỷ thứ ba và một lần nữa người ta thấy có sự giống nhau rất đáng chú ư giữa nó và Schleiermacher, ở điểm nó cũng chia thành cánh hữu và cánh tả trong thần học. Ta có thể gọi cánh hữu những ai tuyệt đối nhấn mạnh đến chủ đề đầu tiên của Kitô Học, tức tính đơn nhất tuyệt đối của Thiên Chúa, trong khi cánh tả nhấn mạnh đến chủ đề thứ hai, tức sự tùy thuộc của Ngôi Lời. Như thế, dù các cá nhân thần học gia, như Methodius thành Olympus, đă cố gắng rất nhiều để điều chỉnh khía cạnh thuần triết học của vấn đề Kitô Học bằng cách lặp lại các ư niệm của Irenaeus và tái nhấn mạnh việc nhập thể, với hy vọng sẽ tạo được sự nhất trí về tư tưởng, nhưng căn bản tạo ra những tranh luận gay gắt cho thời kỳ kế tiếp, với đủ thứ ư kiến trái ngược nhau, đă được đặt định rồi. Trong những ḱnh chống gay gắt tiếp sau đây, quan điểm của Origen đă trở nên tự mâu thuẫn với chính ḿnh.

 

3. Việc Khai triển Sau cùng của Học lư trong các Thế kỷ thứ tư và thứ năm

 Dưới thời cai trị của Constantine, liền ngay sau khi nhà nước công nhận Kitô giáo, đă bắt đầu có sự ḱnh chống sâu sắc trong Giáo Hội về tín lư. Cho đến tận ngày nay, nó vẫn được coi như thời kỳ trong đó người ta vật lộn để giải quyết những vấn đề căn bản trong việc t́m ra một định nghĩa chính xác về quan niệm của Kitô giáo về Thiên Chúa và vị trí của con người Chúa Giê-su Kitô trong quan niệm ấy. Phần đầu cuộc vật lộn quan trọng này được mệnh danh là cuộc tranh luận Arius, trong đó vấn đề chính là vị trí của Chúa Kitô và sau đó của Thánh Linh trong hữu thể Thiên Chúa, dẫn đến việc h́nh thành tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Giai đoạn này kéo dài từ đầu đến cuối thế kỷ thứ tư. Giai đoạn thứ hai tiếp ngay sau giai đoạn đầu, và tiếp diễn trong những điểm chủ yếu cho đến tận thế kỷ thứ sáu. Vấn đề ở đây là làm sao miêu tả chính xác hơn con người Chúa Kitô, và mối tương quan giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong Người. Không thể chối căi rằng những tranh luận sâu sắc trên đă đem lại nhiều ngày tháng không đẹp chút nào mà c̣n ác độc nữa, nhất là v́ thời gian đó tôn giáo và chính trị lại can dự vào nhau cách quá thân thiết. Chúng đă gây nên nhiều đam mê bản thân đầy bạo lực, những ghanh ghét, xuyên tạc, và độc ác nơi các nhà lănh đạo Giáo Hội, là những người bề ngoài tỏ ra hết sức đạo hạnh. Và cứ thế, theo thiển ư, chúng đă tạo nên một trong những kư ức đau buồn nhất trong toàn bộ lịch sử học lư.

Nhưng chưa hết. Các hiệu quả độc hại của chúng như c̣n đâm rễ trong ḷng Giáo Hội đến độ không ai có thể loại bỏ được nữa. Có thể nói đó là nguyên mẫu của mọi tranh chấp về học lư trong Giáo Hội và cái tinh thần tranh chấp của những thần học gia cổ thời kia, mà phần đông, nhất là các phát ngôn viên chính, không phải là những con người đặc biệt lỗi lạc ǵ, nhưng cái tinh thần ấy chưa bao giờ được coi như đă chết trong Giáo Hội. Nhưng mặt khác, ta lại không thể chối từ được đặc tính cần thiết của những cuộc tranh luận này. V́ cần phải thử nghiệm một đối chất rơ rệt giữa các ưu tư của đức tin và các quan niệm dựa trên cấu trúc tư tưởng lúc bấy giờ, và việc đối chất này phải xẩy ra ở một b́nh diện không phải chỉ giữa các nhà triết học và thần học xuất chúng mà c̣n giữa quảng đại kitô hữu như một toàn thể nữa. Có điều việc những công thức được thiết dựng từ đó mà ra trên thực tế chỉ là những h́nh thức ngôn từ, tự chúng c̣n đem theo nhiều vấn nạn mới hơn t́nh thế lúc trước, th́ lại không được ai vào lúc đó nhận ra, v́ thực sự đó là một ư niệm không được đại đa số tán thưởng. Và bất kể tất cả, cái tín điều đang trong diễn tŕnh h́nh thành và thiết dựng trong thế kỷ thứ tư và thứ năm kia đă có khả năng hoàn thành mục đích của nó trong trách vụ lịch sử của Giáo Hội. Sự thúc đẩy dẫn đến cuộc tranh luận lớn lao này là việc phải giải quyết vấn đề tương quan của Chúa Giê-su Kitô với Thiên Chúa sao cho rơ ràng đầy đủ và thỏa măn yêu cầu của mọi người. Trong diễn tŕnh giải quyết ấy, Kitô Học Ngôi Lời, v́ lúc ấy đă được mọi nơi nh́n nhận, nên đă được dùng như dụng cụ triết học. Như ta đă biết, tác giả của cuộc tranh luận này suy cho cùng chính là Origen.

 a. Người ta không biết chắc cuộc tranh luận này đă bắt đầu lúc nào, nguyên nhân trực tiếp của nó là ǵ và diễn tiến lúc ban đầu của nó ra sao. Tuy nhiên, vào năm 318, tại Alexandria, Arius bị giám mục Alexander tố cáo là rối đạo do các lời phát biểu của ông về Chúa Kitô, sau đó ông bị giám mục này phát vạ tuyệt thông vào năm 320/321. Theo Arius, Thiên Chúa hiện hữu một ḿnh, không ai tạo dựng và không ai sinh ra Người, hoàn toàn đơn nhất, trong khi Ngôi Lời chỉ là tạo vật đầu hết của Thiên Chúa trong thời gian, do đó không phải là thành phần hữu thể thực sự của Thiên Chúa; đương nhiên, điều này c̣n đúng hơn khi nói về con người Giêsu Kitô, đấng, trong diễn biến lịch sử sau này, sẽ kết hợp làm một với Ngôi Lời. Đối với Arius, đó là cách duy nhất bảo đảm tính đơn nhất, siêu việt và tuyệt đối khác biệt của Thiên Chúa. Chính v́ thế, các luận đề của ông được phát biểu như sau: 1. ‘Ngôi lời khác và không giống hữu thể Chúa Cha chút nào’; 2. ‘Chúa Con có khởi thủy, Thiên Chúa không có khởi thủy’; 3. ‘Đă có lúc ngài không hiện hữu, và ngài không hiện hữu cho đến khi bước vào hiện hữu’.

Những luận điểm này cho thấy Arius thích luận suy, muốn độc lập đối với Origen. Sau khi bị vạ tuyệt thông, Arius đi lên phương Bắc, đến Palestine, Syria và Tiểu Á. Trong khi ấy, nhận ra Alexander đă hành động quá đột ngột và độc đoán, nhiều giám mục đă ủng hộ quan điểm của Arius, nhất là giám mục Eusebius thành Nicodemia. Điều này mang lại cho Arius sức mạnh và can đảm trở về Alexandria để thuyết giảng, dù bị giám mục ngăn cấm. Kết quả là cuộc diện tại Alexandria biến thành một tranh căi sôi nổi khiến hoàng đế phải can thiệp vào. Hoàng đế nhận thức rằng trong cảnh hỗn loạn tinh thần này, Giáo Hội chỉ có giá trị và ư nghĩa đối với ông trong kế hoạch nội ngoại tái thiết đế quốc Rô Ma, nếu có được một sự thống nhất chặt chẽ thực sự. Cho nên, trước tiên ông ráng đương đầu với vấn đề bằng các gửi một trong các giám mục đang phục vụ trong triều là Hosius thành Cordova tới Alexandria (324). Nhưng khi sứ mệnh của giám mục này không thành, hoàng đế đă cho triệu tập Công đồng chung tại Nicea vào năm 325. Chính hoàng đế đă hiện diện trong Công đồng này. Dưới thúc ép của ông, và nhất là nhờ kỹ năng chính trị của Hosius, một người thuộc phương Tây, khéo léo lèo lái dư luận đi theo hướng giải quyết của phương Tây, Công đồng đă quyết định thừa nhận quan điểm của Alexander là chính xác về tín lư, do đó kết án Arius, dù kết quả ấy không hẳn phản ảnh quan điểm của đa số giám mục phương Đông hiện diện trong Công đồng. Công đồng chấp nhận công thức tuyên xưng đức tin do giám mục Eusebius thành Cêsarê đệ tŕnh, người đại diện cho khuynh hướng chiết trung; nhưng người ta đă thêm vào công thức ấy những mệnh đề chống lại Arius và kết cục, th́ đó là bản án kết tội Arius. Chính ư hoàng đế và quan điểm phương Tây, nhất là quan niệm homoousios (una substantia – đồng bản thể), một biểu thức trước đây phương Đông không biết đến, bị Athanasius tránh né, đă đem lại sự hiệp nhất cho Giáo Hội bằng sức mạnh, và đạt được chiến thắng cho cánh hữu của trường phái Origen nơi những người chủ trương chiết trung, dù quan điểm ấy chỉ do một thiểu số chủ xướng trước đây.

Sự hiệp nhất của Giáo Hội xem ra đă được duy tŕ, và do đó Giáo Hội được thiết lập như Giáo Hội của quốc gia. Nhưng chẳng bao lâu sau, ai cũng hiểu đó chỉ là sự hiệp nhất bề ngoài mà thôi. Bất kể sự xuất hiện của Athanasius, người đă trở thành phát ngôn viên chính của chính Giáo Hội và trên thực tế là người đóng vai quyết định trong việc h́nh thành các tín lư của Giáo Hội. Ông đă từng hiện diện tại Công đồng Nicea trong tư cách phó tế của Alexander, nhưng không phải là thành viên của Công đồng. Năm 326 hoặc 328, ông kế vị Alexander. Nhờ thế ông có quyền can thiệp vào cuộc tranh luận cách chính thức và hăng hái. Dĩ nhiên ta có nhiều tư liệu chính xác hơn về thần học của ông so với Arius. Thần học ấy thực tế dựa trên các ưu tư liên quan đến việc cứu chuộc, dù việc cứu chuộc này được hiểu theo cách nh́n của tư duy Hy Lạp, rất khác với cái nh́n của Augustine và cả của thánh Phao-lô nữa. Mặc dù thế, ngược với Arius, Athanasius tiếp nối một đường lối rất khác với trường phái Origen, khước từ những suy đoán về một thứ Thiên Chúa nửa vời đầy thần thoại (mythical demi-God), do đó duy tŕ hai khía cạnh chủ yếu tức tính đơn nhất của Thiên Chúa và con người của Ngôi Lời. Tuy nhiên ngay các công thức của ông cũng không thỏa đáng, v́ thực ra không có công thức nào có thể hoàn toàn thỏa đáng được; điều này có thể thấy qua việc chúng bỏ quên không nhắc đến chút nào các sinh hoạt của con người Giêsu, và việc quên sót này kéo dài măi đến thời Luther. Đàng khác, trong khảo luận đầu tiên về chủ đề này, ông đă không sử dụng thuật ngữ homoousios; chỉ dần dà sau đó ông mới làm quen được với ư niệm đó.

Nhưng dù có sự can thiệp mạnh mẽ của ông, học lư chính giáo của Nicea cũng đă mất ảnh hưởng đáng kể trong những năm kế tiếp. Eusebius thành Nicodemia, một lănh tụ hết sức khéo léo của những người tuy không tán thành quan điểm của Arius, nhưng vốn chống đối nền thần học cực đoan của trường phái Alexandria, đă khéo léo tái lập ảnh hưởng của ḿnh nơi hoàng đế và đă thuyết phục được hoàng đế thấy ra rằng quyết định đưa ra tại Nicea không đại biểu cho quan điểm thống nhất của Giáo Hội. Nhưng Nicea là một Công Đồng Chung, không thể đơn giản chỉ cần đưa ra một chiếu chỉ là có thể hủy bỏ được các quyết định của nó. Tuy nhiên Eusebius đâu có chịu thua mà không biết dùng một cách thế cũng hữu hiệu chẳng kém: đó là hạ bệ những ai chấp nhận thần học chính thống của Nicea. Thế là năm 330, Eustathius bị hạ bệ, và năm 336, đến lượt Marcellus thành Ancyra. Tiếp theo, một loạt công đồng địa phương đă hạ bệ thành công được Athanasius. Ông phải biệt xứ đi phương Tây lần đầu từ năm 335 đến năm 337. Một công đồng tại Giêrusalem năm 336 đă công bố rằng quan điểm của Arius là học lư của Giáo Hội, do đó đă phục hồi Arius và các môn đệ của ông ta. Song sự khai triển theo hướng ấy đă bị ngắt quăng do cái chết của chính Arius (năm 336 tại Constantinople) và cái chết của Constantine xẩy ra chẳng bao lâu sau đó. Thế là vào cuối giai đoạn tranh chấp đầu tiên này, t́nh huống trở nên cực kỳ tối tăm và hỗn độn.

 b. Giai đoạn thứ hai trong cuộc giằng co với Arius có thể được mô tả như một tṛ chơi kéo co giữa nhiều ư kiến dị biệt, dẫn đến việc thiết lập ra học lư chính thống Nicea. Giai đoạn này diễn ra phần lớn dưới thời hoàng đế bên Đông là Constantius, là người rất quan tâm dự phần vào cuộc tranh luận này. Thực thế, vị hoàng đế này đă nghiêng mạnh về phe Arius, và không để tâm chi đến Athanasius cũng như các công thức của phương Tây, nhất là từ lúc ông nh́n thấy thâm ư của Giáo Hội trong các công thức ấy muốn thoát khỏi sự thống trị của nhà nước, và khẳng định tư cách độc lập cũng như quyền kiểm soát của Giáo Hội. Nhưng chỉ đến cuối thời cai trị độc đoán của ông, ông mới cuỡng đặt được ư muốn của ḿnh qua các giám mục trong triều. Tuy vậy, rơ ràng ngay từ đầu sự cưỡng đặt ư muốn của hoàng đế ấy chỉ tồn tại rất ngắn, dù học lư chính thống cũ đă chịu thoả hiệp khá nhiều. Công đồng lớn đầu tiên diễn ra thời Constantius, tức cái gọi là Công Đồng Phụng Hiến (Council of Dedication) họp tại Antioch năm 341, đă hoàn toàn được đặt dưới quyền kiểm soát của Eusebius thành Nicodemia, là người có quan điểm trung dung, và đă đưa ra những công thức, tuy không nhượng bộ học thuyết Arius chút nào, nhưng mục đích là ngăn chặn không cho các quan điểm chính thống được khai triển thêm, nghĩa là quay về với quan niệm tiền Nicea, nhấn mạnh đến học lư Ngôi Lời tùy thuộc.

Tuy nhiên, thành quả đầu tiên về phần Hoàng đế không thọ được bao xa. Phương Tây lại can thiệp vào, và cả hoàng đế Constans nữa, là người có quan điểm đi theo kiểu mẫu phương Tây và do đó có thiện cảm với Anathasius. Công đồng Toàn Đế quốc họp tại Sardica năm 343 cho thấy rơ Athanasius và phương Tây nói riêng đă trở thành những nhân tố mạnh mẽ, và bao lâu Constantius không phải là người cầm quyền duy nhất, th́ hiển nhiên phải làm sao để Giáo Hội chịu nhất trí với ư kiến ông ta. Công đồng kết thúc với việc rút lui của các giám mục phương Đông, và hai bên phạt vạ tuyệt thông lẫn nhau. Đó là cuộc ly giáo công khai xẩy ra trong Đế Quốc và sau đó trong Giáo Hội. Công b́nh mà xét cho Constantius, phải ghi nhận rằng v́ nguy cơ quân Ba Tư đang ŕnh rập, ông không muốn khư khư bám lấy quan điểm của ḿnh, nên để cứu nguy cho Đế Quốc, ông đă phải chạy đến với phương Tây. Kết quả của cố gắng hiệp nhất này là một công thức do công đồng tại Antioch tạo ra năm 344. Công thức này miêu tả Chúa Con omoios kata panta to patri (giống Chúa Cha mọi đàng), trong đó hạn từ Hy Lạp omoios (giống) đă nói lên một nhượng bộ hoàn toàn đối với phương Tây và Anathasius. Hoàng đế do đó đă cho phép Anathasius được thoát cảnh lưu đày lần thứ hai (339-346).

Tuy nhiên, trong Công đồng Constantinople năm 553, dựa vào học lư chính thống mới của Leontius thành Byzantium, một thần học gia quan trọng nhất của thế kỷ thứ sáu, Justinian đă có thể cho phép một định nghĩa mới được ban hành. Công đồng này đă giải thích câu định nghĩa của Chalcedon theo tư tưởng Cyril, và kết cục đă hạn chế mọi ư niệm của phương Tây và của trường phái Antioch, bằng cách khẳng định một tín điều Kitô Học theo hướng nhất tính luận.

Trong khi đó, t́nh thế khó khăn mà hoàng đế từng phải đương đầu đă trở nên nhẹ nhơm. Sau khi người em ḿnh là Constans qua đời và sau khi cuộc các mạng quân sự của Magnentius bị lật nhào, ông không cần phải quan tâm nhiều đến phương Tây nữa, và từ nay được rảnh tay lèo lái cuộc tranh chấp về học lư theo ư của ḿnh, với sự trợ lực của các giám mục trong triều. Công tŕnh về Giáo Hội đầu tiên của ông là hai công đồng tại Arles năm 353 và tại Milan năm 355 với mục đích tuyên bố chống lại ư niệm homoousios (đồng bản thể) và lưu đầy các giám mục phản động và bất khoan nhượng của phương Tây (Liberius thành Rô Ma, Lucifer thành Cagliari, Eusebius thành Vercelli, Hilary thành Poitiers, và cả Hosius thành Cordova nữa). Để tránh khỏi bị lưu đầy qua phương Tây một lần nữa, Anathasius đă tự ư rút khỏi Alexandria để vào sa mạc Ai Cập ẩn dật; đó là lần lưu đầy thứ ba của ông từ năm 356 đến năm 362.

Các năm sau đó được đánh dấu bằng các công thức gọi là các công thức Sirmium; v́ trong giai đoạn này, thủ phủ đế quốc phần lớn đặt tại Sirmium. Người ta đă để ra nhiều tâm huyết để tạo ra những công thức hiệp nhất, nghĩa là những công thức không cho thấy chủ nghĩa Arius quá khích nhưng cũng phải hết sức làm mờ quan điểm phương Tây và quan điểm Anathasius. Hạn từ omoios (giống) được dùng luôn luôn nhưng không áp dụng cho ousia (bản thể), và do đó mặc ai muốn hiểu thế nào cũng được. Chính v́ thế, công thức thứ hai của Sirmium (327) chỉ miêu tả Chúa Con omoios to patri (giống Chúa Cha). Tuy thế nó đă không làm ai hài ḷng hết. Những người triệt để theo Arius lại một lần nữa lên tiếng, qua hai đại biểu kiên cường là Aetius và Eunimius; luận chứng của họ dẫn họ đến cái cực đoan trái ngược, khi họ miêu tả Chúa Kitô anhomoios (không giống Chúa Cha), đến nỗi sau này người ta đặt tên cho họ là Anhomoian (phái Phi tương đồng). Phe bên kia t́m được các lănh tụ nơi những người thuộc miền Cappadocea là những người đă có thể mang lại tiến bộ thực sự nhờ không dính líu ǵ đến chính trị như Athanasius.

Công đồng Ancyra dưới dự lănh đạo tinh thần của Basil Cả (358) một lần nữa đả sử dụng công thức omoios kata ten ousiav (‘giống bản thể’), là công thức, đối với những người chiết trung, có mục đích tạo ra cây cầu dẫn vào học lư chính thống Tân Nicea dưới h́nh thức đồng thể luận (homoousianism). Tiếng tăm của Công đồng và những người thuộc miền Cappodea lên cao đến nỗi hoàng đế phải nhất trí với họ trong công thức thứ ba của Sirmium đạt được năm 358. Công thức này gần đạt tới mức được mọi người chấp thuận. Công thức thứ tư của Sirmium năm 359 cho thấy một chiến thắng mới cho hạn từ homoios (giống) theo nghĩa thông thường, theo đó Chúa Con được miêu tả là homoios kata tas graphas (‘giống như thánh kinh dạy’), một công thức nói tất cả nhưng lại chẳng nói được ǵ. Sau hai công đồng chuẩn bị tại Arimanum và Seleucia, các công đồng tại Nicea và Constantinople lại có nghĩa là thần học của hoàng đế đă được cưỡng đặt một lần nữa, dựa trên hạn từ homoios. Nhưng thần học ấy chỉ kéo dài rất ngắn. Cái chết của Constantius đă kết liễu sự hiệp nhất cưỡng ép này, và giờ đây sự xích lại gần nhau giữa những người chủ trương đồng thể luận và nhóm chủ trương bản thể giống nhau trước đây (former homoiousians) có thể diễn tiến được để đưa tới học lư chính thống Tân Nicea.

Khúc quanh của giai đoạn chót này bắt đầu tại Công Đồng Alexandria (362) có sự hiện diện đích thân của Anathasius. Từ đó trở đi, nhiệm vụ tái lập sự hiệp nhất đă thực hiện được nhiều tiến bộ nhanh chóng mặc dù vẫn c̣ những ngắt quăng đó đây. Trách vụ đó được hoàn thành tại Công đồng Constantinople năm 381, dưới thời Hoàng đế Theodosius Cả. Công đồng này không đưa ra một tuyên xưng đức tin mới nào, chỉ canh tân lời tuyên xưng của Nicea, nhưng nó đă thay đổi cách giải thích đến độ các giám mục phương Đông cũng phải thỏa măn. Cách giải thích tân chính thống này về yếu tính là điều Giáo Hội đă bảo tồn từ đó đến nay. Nó bác khước h́nh thức quá khích đồng bản thể (identity of substance), thay thế vào đó là ư niệm đơn nhất bản thể (unity of substance) hàm nghĩa giống nhau về bản thể theo nghĩa thường thức của phái đồng nhất thể (homoousianism). Học thuyết Arius bị lên án vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là án tử của nó đă được kư, mặc dầu nó vẫn thịnh hành trong gần hai thế kỷ kế tiếp tại các vương quốc Đức. Nó chỉ hoàn toàn biến mất khi Clovis, vua người Franks trở lại, và Giáo Hội Visigothic chấp nhận đức tin Công Giáo. Như thế, vào cuối giai đoạn cuộc tranh chấp của phái Arius, học lư về Chúa Thánh Thần đă được ấn định, nhờ thế tín điều Chúa Ba Ngôi đă đạt được h́nh thức sau cùng.

 c. Đối tượng tranh luận trong thời kỳ thứ hai là một vấn đề khác cần có giải đáp, đó là vấn đề tương quan giữa thiên tính và nhân tính nơi Chúa Kitô. Vấn đề này đă được nêu lên trong cuộc tranh chấp Arius, nhưng chưa được giải quyết. Thế kỷ thứ tư đă đưa ra một số đường hướng tư tưởng nhằm giải quyết vấn đề ấy. Một là đường hướng của ba nhân vật nổi tiếng vùng Cappadocea là Basil, Gregory thành Nazianzen và Gregory thành Nyssa, hai là đường hướng của Apollinaris thành Laodicea. Ông sau đă mạnh mẽ khẳng định tính đơn nhất (unity) của Chúa Kitô bằng cách bác bỏ sự hiện hữu của phần quan trọng nhất trong nhân tính Người là nous (lư tính). Tuy bị chính thức kết án, ông vẫn đă gây nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn bộ lịch sử Kitô Học và cả tư tưởng chính thống của Giáo Hội tận ngày nay nữa. Các nhân vật vùng Cappadocea khẳng định hai bản tính nơi Chúa Kitô bằng những ngôn từ mạnh mẽ hơn và đă dùng các ư niệm cùng thâm nhập (perikhoresis - compenetration) và tan ḥa (mixis) để giải thích quan điểm của ḿnh tuy không làm người ta thực sự hiểu rơ.

Những người nối nghiệp các ông đă khai triển đường hướng thứ ba, tức nền thần học tân Alexandria, do Cyril thành Alexandria đề xướng. Nền thần học này t́m lại các ư niệm của Origen, trong đó đặc điểm nhất tính luận được thấy rất rơ; nhân tính Chúa Kitô vẫn chưa hoàn bị. Đường hướng sau cùng là thần học của trường phái Antioch, trong đó, việc đánh giá mạnh mẽ con người nhân bản của Chúa Giê-su được coi như một sức mạnh thực sự sống động, do v́ trường phái này rất quan tâm đến Thánh Kinh. Nhưng họ lại không đủ khả năng tŕnh bày một học lư thống nhất giúp người ta hiểu được vấn đề hai bản tính, một học lư mà họ khẳng định cách rất tự tin, khiến cho sau này họ bị trách cứ là đă chủ trương có hai Chúa Con, một Chúa Con tiền hữu và một Chúa Con lịch sử. Dù thế, họ đă cứu Kitô Học khỏi rơi vào cái bẫy thuần suy đoán, và chính nhờ có họ mà bản tính nhân loại hoàn hảo của Chúa Kitô đă được công đồng Chalcedon (451) khẳng nhận một lần dứt khóat, ít nhất trên nguyên tắc.

Trong khi đó, bên phương Tây đă xuất hiện một đường hướng Kitô Học khác biệt. V́ ư hướng giảng ḥa các quan điểm đối nghịch, Kitô Học này có tầm quan trọng rất lớn trong các quyết định học lư chủ yếu sau này. Bên dưới nền Kitô Học này, ta nh́n ra các kĩ năng của Tertullian nhằm đưa lại các công thức thỏa đáng. Nhờ ư niệm hai bản thể trong một ngôi vị duy nhất, nhân tính của Chúa Kitô đă được xác định một cách yên ổn, và nhờ hậu cảnh triết học khắc kỉ của Tertullian, các ư niệm đối nghịch đă được giảng ḥa khiến cho nền Kitô Học ấy quả là một bước tiến nhẩy vọt. Nó tránh được cả nguy cơ mù mờ và do đó sự biến đổi hai bản tính, lẫn việc tước bỏ các đặc điểm yếu tính của một trong hai bản tính – thường là bản tính nhân loại. Kết quả cuộc tranh chấp Arius là đă mang phương Tây lại gần phương Đông hơn. Điều ấy có nghĩa là phương Tây đă trở nên quen thuộc với Kitô Học Ngôi Lời dưới h́nh thức Alexandria, và đặc biệt dười h́nh thức của Anathasius, và đă tiếp nhận các ư niệm này vào trong các công thức của ḿnh. Điều ấy đặt phương Tây vào vị thế thượng phong đối với các nhóm đối nghịch nhau tại phương Đông, nhất là hai nhóm Apollinaris và Antioch. Cái giá phải trả đương nhiên là từ nay phương Tây sẽ phải dựa vào ư niệm Ngôi Lời để giải thích con người Chúa Kitô. Tuy nhiên nhờ có được các công thức khéo léo của ḿnh, phương Tây có khả năng gây ảnh hưởng đối với các định nghĩa sau này.

Chính nền chính trị của Giáo Hội cũng như ư muốn thống trị của các toà thượng phụ hồi đó đă làm cuộc tranh chấp thực sự nổ ra. Giai đoạn nhất được tiến hành bởi Cyril, thượng phụ Alexandria và kết thúc bằng chiến thắng của ông đối với thượng phụ Constantinople là Nestorius. Nói cách khác đó là chiến thắng của Kitô Học nhất tính luận (monophysite) đối với chủ trương lưỡng tính luận (duophysitism) triệt để của Nestorius; đức Maria được công nhận là theotokos, đấng cưu mang Thiên Chúa. Chiến thắng đầu này sở dĩ có được cũng nhờ Giám Mục Rô Ma lúc đó là Celestine, người đă về phe với thượng phụ Alexandria v́ sợ bị Constantinople cạnh tranh. Tuy nhiên, chiến thắng năm 431 chỉ là bước đầu và Công thức Tái Kết (Formulary of Reunion) của Theodoret thành Kyrrhos năm 433 chỉ kéo dài bao lâu Cyril c̣n đó để giải thích theo ư ḿnh. Sau khi Cyril qua đời, giai đoạn mới bắt đầu với việc nền thần học của vị đan sĩ già Eutyches đem đến cho Kitô Học của trường phái Alexandria những kết luận hợp lư và triệt để, khiến cho đặc điểm nhất tính luận được mọi người thấu hiểu. Giờ đây, Rôma lại thay đổi đường hướng: dung ḥa hai trường phái Eutyches và Nestorius bằng cách nói đến một Chúa Kitô trong hai bản tính và lần đầu tiên hai ư niệm ngôi (hypostasis) và bản tính (physis) đă được Công đồng Chalcedon phân biệt rơ ràng. Tuy nhiên, ngay từ ngày khai sinh, sự phân biệt ấy đă khiến mỗi người giải thích một cách khác nhau, cho nên công thức một ngôi hai bản tính không hẳn là một công thức đơn giản.

Cuộc tranh chấp v́ vậy lại tiếp tục, nhất là v́ phương Đông thấy công thức ấy vẫn có tính lưỡng tính luận, chế nhạo nó như ‘một tấm h́nh với hai khuôn mặt’, do đó đă quay về với quan điểm nhất tính luận theo đường hướng của Cyril. Năm 482, hoàng đế Zeno đưa ra sắc chỉ Henotikon (sắc dụ Hiệp nhất) để giải quyết cuộc xung đột nhất tính dựa trên các ư tưởng của Cyril. Nhưng thực tế lại đă đưa đến cuộc ly giáo khỏi Rôma kéo dài đến năm 519. Những người chủ trương nhất tính luận luôn luôn đe doạ sự thống nhất của đế quốc Rôma, cho đến lúc lănh thổ của họ bị mất trong thế kỷ thứ 7 trước khi người Hồi Giáo nổi lên. Chính sách của các hoàng đế kế tiếp, nhất là Justinian, vẫn là cố gắng tái lập và duy tŕ các tiếp xúc giữa phương Tây và phái nhất tính luận của phương Đông.

Khó khăn lớn của cố gắng trên được thấy rơ trong cuộc tranh luận thần thụ nạn (theopaschites, tức vấn đề Thiên chúa có chịu nạn hay không), và cuộc tranh luận Tam Chương (Three Chapters), mà Justinian đă đưa ra qua sắc chỉ năm 543 nhằm chống lại con người và các trước tác của Theodore thành Mopsuestia, các trước tác của Theodore nhân danh Nestorius và thư của Ibas thành Edessa, một cuộc tranh luận vốn được coi như nhằm chống lại định nghĩa của công đồng Chalcedon. Tuy nhiên, trong Công đồng Constantinople năm 553, dựa vào học lư chính thống mới của Leontius thành Byzantium, một thần học gia quan trọng nhất của thế kỷ thứ sáu, Justinian đă có thể cho phép một định nghĩa mới được ban hành. Công đồng này đă giải thích câu định nghĩa của Chalcedon theo tư tưởng Cyril, và kết cục đă hạn chế mọi ư niệm của phương Tây và của trường phái Antioch, bằng cách khẳng định một tín điều Kitô Học theo hướng nhất tính luận như trên đă bàn.

Những ǵ xẩy ra sau đó phải kể là không quan trọng, như việc khẳng định hai ư chí trong Chúa Kitô tại Công đồng chung thứ sáu họp tại Constantinople năm 680, kết quả của cuộc Tranh luận Đơn ư luận (monothelite dispute). Việc xác định này chỉ là hậu quả đơn thuần của sự kiện có hai bản tính nơi Chúa Kitô, nhưng đă không thay đổi ǵ đối với việc gần như chối phăng cá tính nhân bản của Người. Trên thực tế, lúc đầu phương Tây có phản đối, nhưng sau cùng đă thuận theo ư muốn của Hoàng đế về học lư, nhất là kể từ lúc các Giáo Hội quan trọng vừa được thiết lập chấp nhận Công đồng năm 553, người Ăng-glô Saxông thuận theo năm 664, c̣n người Franks th́ thuận theo năm 791, 794 và 799; và từ lúc Giáo Hội của người Franks lên án các ư niệm được rút ra từ truyền thống phương Tây có trước, trong lúc xẩy ra vụ tranh luận của phương Tây về tiếp nhận (adaptionist) với sự can dự của Elipandus thành Toledo và Felix thành Urgel. Chính tinh thần của Giáo Hội Hy Lạp, và suy cho cùng chính tinh thần của nền thần học Alexandria, đă lần lần thực hiện được một chiến thắng về học lư, bất kể ảnh hưởng do các công thức của phương Tây gây ra, là các công thức người ta vẫn chưa quên đi được, và bất kể sự kiện đó chỉ là ngôn từ của Tertullian và Augustine vốn ẩn tàng trong các công thức tuyên xưng đức tin của phương Tây, công thức Athanasius và cả công thức của công đồng Lateran nữa.

 (....)

 

  Theo Hermann Bauke
Twentieth Century Theology in the Making
do Jaroslav Pelikan chủ biên
Bản tiếng Anh của R.A. Wilson Fontana

 

Vinc. Vũ Văn An

 

Mời đọc tiếp

1 2 3 4


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.