LINH ĐẠO HÔN NHÂN HIỆN ĐẠI

1 2 3 4 5

marriage

 

 

3. Linh Đạo và Lối Sống

 

Các lựa chọn ảnh hưởng tới lối sống của ta cũng là một phần của linh đạo hôn nhân. V́ qua các lựa chọn này, ta muốn nói lên các giá trị dùng làm khuôn h́nh cho cuộc sống chung của ta. Mặt khác, đóng góp quan trọng nhất của Kitô giáo đối với hôn nhân chính là các giá trị nó mời gọi ta bước vào. Các chân lư về đời người như có thể yêu người cách không vị kỷ, hy sinh có giá trị vượt quá chính nó, được hưởng lạc thú nhưng không được thần thánh hóa nó, tôi không hiện hữu chỉ v́ bản thân ḿnh, đều là những chân lư không luôn luôn hiển nhiên. Đối với xă hội hiện nay, và cả chính kinh nghiệm của riêng ta nữa, các xác tín ấy dường như có tính ảo tưởng hoặc ngây ngô. Khi sống một ḿnh, ta cảm thấy ảnh hưởng của chúng đối với ta thật mỏng manh. Nhưng khi sống thành cộng đoàn với các tín hữu khác, ta thấy ḿnh ít sợ sệt hơn khi phải giáp mặt với nghi nan v́ ta không giáp mặt với chúng một ḿnh. Trái lại, có thể nuôi dưỡng được một quan điểm tôn giáo về cuộc đời để đỡ nâng ḿnh trong cuộc hành tŕnh hôn nhân kéo dài suốt đời này.

Kitô giáo không đưa lại cho t́nh yêu vợ chồng giá trị của nó; đúng hơn, nó cử hành ư nghĩa sâu xa của t́nh yêu ấy, một ư nghĩa đôi khi bị lối sống ngược xuôi của ta làm biến mất hay ít ra cũng mờ tối đi rất nhiều. Kitô giáo đem lại cho chúng ta nhiều thông sáng, biết nhận ra những điều vốn hết sức vô h́nh, như quyền năng và sự hiện hữu của t́nh yêu Thiên Chúa, luôn bao bọc quanh ta và nhất là trong một số cảm nghiệm ưu việt, có tính bí tích. Đối với phần đông Kitô hữu, t́nh yêu vợ chồng và các cam kết sống vốn phát sinh từ t́nh yêu này và luôn bao quanh nó, chính là những biểu hiện của cảm nghiệm ưu việt trên về quyền năng và sự hiện hữu của Thiên Chúa. Trong chương này, ta sẽ thăm ḍ một số giá trị từng góp phần tạo ra lối sống của hôn nhân Kitô giáo.

Lối sống trong hôn nhân của ta chịu ảnh hưởng của nhiều sức mạnh khác nhau. Một số các sức mạnh này rơ ràng nằm bên ngoài quyền kiểm soát trực tiếp của ta, như các yếu tố kinh tế phát sinh ra lạm phát, các yếu tố chính trị tạo nên chính sách quốc gia về chăm lo trẻ em, các yếu tố văn hóa ảnh hưởng tới các vai tṛ người ta vốn chờ mong nơi người đàn bà và người đàn ông. Đối với một số cuộc hôn nhân, các yếu tố bên ngoài này tác động mạnh đến nỗi xem ra chẳng c̣n mấy cơ hội chọn lựa nào nữa. Khi con người nghèo đói, ít được học hay thất nghiệp kinh niên, th́ họ khó mà cảm nhận được rằng ḿnh đang làm chủ cuộc sống ḿnh. Gánh nặng của hiện tượng thiếu công b́nh xă hội này hiện đang đè lên nhiều người chúng ta, đem lại nhiều căng thẳng hơn nữa cho cuộc hôn nhân của họ. Hậu quả: ly dị và đào ngũ gia tăng hẳn lên.

Tuy nhiên, đối với phần đông chúng ta, lối sống trong hôn nhân không phải chỉ là sản phẩm của các lực lượng bên ngoài. V́ ta luôn ư thức rằng chúng ta mới là tác nhân. Tuy bị nhiều giới hạn, ta vẫn có thể chọn lấy lối sống cho riêng ḿnh. Một số chọn lựa này rất có thể ảo tưởng, chịu ảnh hưởng các yếu tố bên ngoài hơn ḿnh tưởng, tuy thế ta vẫn ư thức rơ chính ta đă đưa ra các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc hôn nhân của chính ḿnh.

Các chọn lựa quan trọng nhất đối với lối sống của ta chính là các chọn lựa liên quan tới việc ta sử dụng các tài nguyên của ḿnh. Các tài nguyên quan tâm, th́ giờ và tiền bạc là các chất liệu chính cho cuộc sống chung của ta. Bởi thế, các lựa chọn của ta liên quan tới các tài nguyên này không phải là phụ thuộc; chúng nằm ngay cạnh chính cốt lơi của hôn nhân. Ḿnh phải quan tâm tới nhau ra sao? Tiền bạc của ḿnh phải dùng làm ǵ? Ḿnh phải dùng th́ giờ đời ḿnh thế nào? Trả lời được các câu hỏi này, ta sẽ khám phá ra các giá trị trong hôn nhân của ḿnh và phát biểu chúng ra qua lối sống của ta.

 

Cầu Nguyện Và Công Lư

  Cầu nguyện là một phần trong lối sống hôn nhân Kitô giáo. Việc này phải bao gồm các phương cách để ta, trong tư cách vợ chồng và gia đ́nh, dự phần vào việc cầu nguyện của Giáo Hội, nhất là việc cử hành Thánh Thể. Nhưng đồng thời, nó cũng liên hệ đến việc phải triển khai ra các phương cách thích hợp để ta cùng cầu nguyện với nhau, cùng chia sẻ cảm nghiệm thân thiết được đến trước nhan thánh Chúa trong cầu nguyện với nhau, đôi lúc như vợ chồng, đôi lúc với các con nữa. Trong nhiều thập niên qua, nhiều gia đ́nh Công Giáo có thói quen lần chuỗi mân côi cũng như tôn sùng Thánh Tâm Chúa trong gia đ́nh. Ngày nay, việc cầu nguyện trong gia đ́nh phần lớn chú tâm nhiều hơn vào việc đọc Thánh Kinh, cùng nhau suy niệm ư nghĩa những bài đọc đó đối với cuộc sống ta và hành động của ta trong thế giới. Trong Chương 24, ta sẽ thảo luận trở lại vai tṛ của việc cầu nguyện trong gia đ́nh và các cử hành tôn giáo.

Trong hôn nhân, việc cầu nguyện đă được khích lệ như phương thế để gia đ́nh tăng cường sự gắn bó nhất trí của ḿnh: “Gia đ́nh cầu nguyện với nhau là gia đ́nh gắn bó với nhau”, phương ngôn từng nói thế. Quả thế, cầu nguyện với nhau như vợ chồng và như gia đ́nh sẽ mạnh mẽ tăng cường cảm nghiệm sống bên nhau một cách hết sức đặc biệt. Nhưng việc cầu nguyện của Kitô hữu không phải chỉ là để ǵn giữ gắn bó nhất trí giữa chúng ta mà thôi; mà nó c̣n nhằm t́nh cộng đoàn của ta với toàn bộ nhân loại trước nhan thánh Chúa. Cầu nguyện theo phụng vụ là loại cầu nguyện đặc biệt cử hành cái ư thức rộng lớn hơn đó. Nó là lời cầu nguyện của cả dân Chúa, nhân danh Chúa Giêsu và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong ta. Nhưng lời cầu nguyện của gia đ́nh cũng phải mở ḷng trí ta vượt quá chính ḿnh. Nhu cầu của thế giới phải là thành phần trong lời cầu nguyện của ta, nói cụ thể hơn, ta phải góp phần giải quyết các đau đớn mất mát và bất công cố hữu của thế giới.

Mùa thu năm 1978, Đức Tổng Giám Mục Jean Jadot đă đọc một bài diễn văn kêu gọi thi hành kế hoạch mục vụ gia đ́nh do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ công bố. Trong diễn văn này, ngài đề cập tới việc cầu nguyện, tới đức tin và công lư v́ những điều này có liên quan tới gia đ́nh. Theo ngài “Cầu nguyện tôi nói ở đây không hẳn là đọc kinh…Mà là cùng nhau đọc Thánh Kinh và quan tâm tới những người khốn khó, tới công lư và ḥa b́nh trên thế giới, tới Nước Chúa ngự đến… Lời cầu nguyện như thế tự nhiên sẽ gợi lên ư thức phục vụ trong sứ mệnh của gia đ́nh. Nó cũng gợi lên ư thức xă hội nơi gia đ́nh nữa”

Xác tín rằng ta không phải chỉ v́ ḿnh ta là một xác tín căn bản trong thế giới quan Kitô giáo. Giá trị này phải được phát biểu qua cầu nguyện mà c̣n qua cả lối sống của ta nữa. Như đă nhắc ở một chương trước đây, phần lớn chúng ta biết rằng cuộc hôn nhân của ta không phải chỉ v́ một ḿnh chúng ta mà thôi. Ta cần hơn là chính ta nếu ta muốn cho cuộc hôn nhân của ḿnh triển nở. Ta biết rơ, trong tư cách là vợ chồng và gia đ́nh, ta tùy thuộc xiết bao các tiếp xúc với thân nhân và nâng đỡ đặc biệt của bạn bè. Nhưng là Kitô hữu, ta vượt quá chúng ta không phải chỉ trong những điều ḿnh cần mà cả trong những điều ḿnh đóng góp nữa.

“Cầu nguyện tôi nói ở đây không hẳn là đọc kinh…Mà là cùng nhau đọc Thánh Kinh và quan tâm tới những người khốn khó, tới công lư và ḥa b́nh trên thế giới, tới Nước Chúa ngự đến… Lời cầu nguyện như thế tự nhiên sẽ gợi lên ư thức phục vụ trong sứ mệnh của gia đ́nh. Nó cũng gợi lên ư thức xă hội nơi gia đ́nh nữa.

Cuộc sống gia đ́nh và nhất là con cái đă đem chúng ta vào một thế giới rộng lớn hơn. Khi con cái lớn khôn, ta sẽ cảm nhận được việc chúng thuộc về thế giới và tương lai của chúng nhiều hơn là thuộc về ta biết chừng nào. Bởi thế, việc chúng ta quan tâm đến chúng không chấm dứt ở ngưỡng cửa gia đ́nh. Chuyển động đầu hết của chúng ta hướng tới việc góp phần vào thế giới ngoài kia rất có thể là v́ chúng: biến thế giới thành nơi tốt hơn cho chúng, một nơi xứng hợp cho các niềm hy vọng của chúng và là nơi dẫn tới việc chúng tăng trưởng. Nhưng sự thúc đẩy khởi đầu của việc quan tâm có tính máu mủ này, tức mối quan tâm đối với con cái và tương lai của chúng, rất có thể bị đ́nh đốn. Mối quan tâm lo lắng tới lợi ích của gia đ́nh rất có thể mang h́nh thức vị kỷ mới. Biên giới có thể đă được nới rộng đôi chút, nhưng tựu chung vẫn là “chúng ta” trong thế đối lập với “họ”.

Rất may, đối với phần lớn chúng ta, việc quan tâm đến con cái của chính ḿnh đă mời gọi ta quan tâm đến con cái của cả thế giới, v́ tương lai của cả loài người. Tôi ư thức sâu xa hơn được điều này là bằng xúc cảm và hành động, tôi đă can dự nhiều hơn vào cuộc sống người khác. Trong tư cách cha mẹ, người làm việc và công dân, tôi chịu trách nhiệm phần nào, theo cách của riêng tôi, đối với tương lai.Thế giới, cùng với các niềm vui và vấn nạn của nó, quả có quyền đ̣i hỏi đối với tôi.

Là Kitô hữu, ta nghe thấy lời mời gọi bước vào thế giới rộng lớn hơn này được chính Chúa Giêsu củng cố. Tôi không phải chỉ là người chăm sóc anh em tôi mà thôi; phạm trù anh chị em này đă được nới rộng để bao gồm cả bất cứ ai đang cần đến tôi. “Ta là khách lạ, các con đă chào đón Ta; Ta trần truồng, các con đă cho Ta quần áo; Ta ốm đau, các con đă thăm viếng Ta; Ta ngồi tù, các con đă đến thăm Ta” (Mt 25:35-36). Kitô giáo quả đă nới rộng biên giới các quan tâm của ta. Ta thấy ḿnh thuộc một cộng đồng rộng lớn hơn. Ta nắm giữ các tài nguyên của ta với tư cách quản lư viên: chúng không phải là sở hữu của ta mà là phương tiện để ta đóng góp cho một thế giới công chính hơn.

Càng ngày ta càng cảm nhận được rằng các vấn đề giá trị và công bằng xă hội mà ta gặp thấy trong cuộc sống của chính ta hết sức phức tạp. Rất ít vấn đề có được câu trả lời đúng và nhanh chóng. Đối với một vấn đề đặc thù nào đó, những người thiện chí và thông minh có thể đưa ra những kết luận hết sức khác nhau về cách nên giải quyết như thế nào. Khi một vấn đề nêu ra trực tiếp đụng chạm đến cuộc sống ta hay chạm đến phúc lợi của gia đ́nh ta, như trong vấn đề việc làm bảo đảm, giá trị bất động sản hay cải tiến thuế khóa, th́ xác định được câu trả lời đúng quả lại càng khó khăn hơn nhiều.

Trong những t́nh huống ấy, ư thức Kitô giáo không đưa ra được những câu giải đáp dễ dàng, nhưng có thể mang đến cho ta một điểm khởi hành nào đó. Ta không chỉ v́ một ḿnh ḿnh mà thôi. Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đă công bố, hành động cho công lư và biến cải thế giới phải là hiến chương cho đáp ứng của ta đối với Phúc Âm.Ta đứng dưới thách thức của Phúc Âm sẵn sàng chia sẻ gánh nặng của nhân loại và dự phần vào việc giải phóng nhân loại ấy. Rất có thể ta phải tự t́m ra phuơng thức để tham dự vào sứ mệnh này của Chúa Kitô trong tư cách vợ chồng và trong tư cách gia đ́nh. Nhưng mọi người chờ mong sự tăng trưởng trong tư cách Kitô hữu chín chắn của ta sẽ bao gồm việc triển khai ra một lối sống có thể nói lên cái hiểu của ta về sứ mệnh mà Chúa Kitô đă mời gọi ta và nâng đỡ ta trong đáp trả của ḿnh.

 

Ư Nghĩa Tiền Bạc

  Tiền bạc là vấn đề quan trọng trong hôn nhân. Việc ta hiểu tiền bạc ra sao sẽ ảnh hưởng lớn tới mối liên hệ của ḿnh; việc dùng tiền bạc như thế nào cũng khuôn định ra lối sống của ta. Và trong nhiều cuộc hôn nhân, các quyết định về tiền bạc là những quyết định phức tạp nhất của vợ chồng. Các bất đồng về tiền bạc (quản lư nó ra sao; tiêu sài nó thế nào; ai phải quyết định những điều đó) và những buồn bực về tiền bạc (sống quá phương tiện của ḿnh; hoá đơn đến ngày phải thanh toán; không đủ tiền trang trải những chi tiêu bất ngờ) đều là những nguyên cớ đem lại căng thẳng cho cuộc nhân duyên.

Các vấn đề về tiền bạc trong hôn nhân rắc rối một phần v́ tiền bạc mang theo nó thật nhiều ư nghĩa khác nhau. Tiền bạc để làm ǵ? Câu trả lời của tôi ở đây sẽ ảnh hưởng tới cách tôi trả lời các câu hỏi khác. Gia đ́nh ḿnh cần bao nhiêu tiền bạc? Liệu có khi nào ḿnh đủ dùng không? Liệu ḿnh có xác định được bao nhiêu th́ đủ không?

Câu Cá

Đối với một số chúng ta, tiền bạc chủ yếu là để cung ứng những nhu cầu thực tiễn của đời sống: cơm ăn, quần áo, nhà cửa. Đối với người khác, nó dùng để vui chơi, hưởng nhàn, sống xa xỉ hay tiêu khiển. Đôi khi, tiền bạc là v́ tương lai con cái, để giáo dục chúng hay tạo an toàn tài chánh cho chúng. Cũng có khi dùng nó để tăng giá trị bản thân: “Chắc chắn tôi là người có giá trị, chỉ cần nh́n số tiền tôi kiếm được”. Tiền bạc cũng có khi để chứng tỏ quyền lực: “Tôi có thể mua bất cứ điều ǵ và bất cứ người nào tôi muốn”. Và cũng có khi nó là tài nguyên ta phải sử dụng để phục vụ lợi ích thế giới.

Phần lớn các quyết định thực tiễn về tiền bạc mang theo chúng tầm quan trọng lớn hơn về xúc cảm. Chúng nói lên điều ǵ đó quan trọng đối với ta về con người thực của ḿnh ở trên đời. Nếu chúng ta, trong tư cách vợ chồng, nh́n tiền bạc cách khác nhau, nếu mỗi người chúng ta hành động v́ những cảm nhận khác nhau về mục tiêu của nó, ta có thể đoán chắc vấn đề tiền bạc sẽ đem lại xáo trộn giữa chúng ta, những xáo trộn khó ḷng giải quyết được.

Tầm quan trọng về xúc cảm của tiền bạc không phải là nguồn duy nhất tạo ra căng thẳng. Lạm phát và đe dọa suy thoái kinh tế cũng là những yếu tố có thực trong lối sống của nhiều gia đ́nh. Các cặp vợ chồng trẻ thấy ḿnh không đủ sức mua nhà, thế là đành phải tŕ hoăn việc có con. Các cặp đă có con nhận thấy muốn gửi con tới đại học hay cao đẳng, th́ cả hai phải đem chi phiếu trả lương về nhà. Các cặp muốn về hưu sớm giờ đây phải tiếp tục làm việc v́ không chắc tiền hưu trí của ḿnh có đủ thoả măn các nhu cầu chi tiêu hay không. Đương đầu với vật giá leo thang, lăi xuất cao và nhiều khi bị thất nghiệp, nhiều gia đ́nh buộc phải đưa ra các quyết định khó khăn về tiền bạc, những quyết định có ảnh hưởng lớn lao đến lối sống trong cuộc hôn nhân của ḿnh.

Nhưng dù nh́n nhận thực tại của những thời điểm tài chánh bấp bên trên, việc căng thẳng về tiền bạc trong nhiều cuộc hôn nhân cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ chủ nghĩa tiêu thụ y như lạm phát vậy. Ngay trong thời lạm phát hiện nay, nhiều gia đ́nh của chúng ta vẫn hưởng được một mức thịnh vượng rất cao trên thế giới.Ta muốn và mong chờ “những cái tốt nhất tiền bạc có thể mua được” cho chính ta và gia đ́nh ta. Quảng cáo nới rộng cảm thức của ta về những điều ta cần, khiến ta thực sự tin rằng “ta nợ chính ḿnh nhu cầu ấy” v́ “ta thực đáng được nhu cầu ấy”. Là người thuộc các nước phát triển, h́nh như ta dễ bị cám dỗ căn cứ vào những điều ḿnh sở hữu được, của cải vật chất, mức sống, măi lực, mà phán đoán giá trị của ḿnh. Cảm thức lo lắng tới “những sự thế gian” này luôn luôn ḱnh chống lại các trực quan tôn giáo sâu sắc hơn của ta: hiện hữu giá trị hơn chiếm hữu; giá trị của ta đâu có đặt cơ sở trên của cải. Là tín hữu, ta biết ta giữ của cải trần gian như các quản lư viên. Trách nhiệm của ta là chăm sóc người túng thiếu, có khi bằng cả của cải sinh tồn của ḿnh. Ngày nay, ta thấy thách thức trên c̣n được nới rộng phạm vi hơn nữa. Ta có ư thức hơn về mối liên kết giữa sự thịnh vượng của các nước phát triển và cảnh đói khổ đang hiện diện ở những nơi khác. Việc xưa nay ta, trong tư cách một quốc gia, được hưởng dùng những nguồn tài nguyên dư thừa về thực phẩm, năng lượng và kỹ thuật vốn tạo ra “một đời sống dễ chịu” có khi gây hại tới người khác. Dĩ nhiên các khuôn mẫu bất công có tính cơ cấu này hết sức phức tạp. Không dễ ǵ t́m ra vết tích trách nhiệm bản thân của ta trong đó hay xác định được điều ta, với tư cách gia đ́nh, có thể làm để chỉnh đốn lại thế quân b́nh kinh tế của thế giới. Nhưng tính phức tạp của vấn đề không trút bỏ được trách nhiệm của chúng ta. Là Kitô hữu, ta cần phải xem sét tiêu chuẩn sống của gia đ́nh ta không những theo mức mất giá của đồng tiền nhưng c̣n v́ trách nhiệm của ta trong thế giới nữa. Đối với Kitô hữu ngày nay, các câu hỏi như: phải tiêu tiền ra sao và đầu tư tiền để dành của ḿnh vào chỗ nào, không hẳn chỉ là những câu hỏi thực tiễn về tài chánh cần được giải quyết căn cứ vào giá cả và lăi xuất mà thôi. Chúng là các vấn đề có ư nghĩa tôn giáo giúp khuôn định ra lối sống Kitô giáo.

 

Hôn Nhân Và Thừa Tác Vụ

  Đối với Kitô hữu chúng ta, vấn đề lối sống cuối cùng rồi cũng dẫn đến việc thảo luận về thừa tác vụ. Thừa tác vụ là hành động của tín hữu trong việc theo đuổi sứ mệnh mà Chúa Kitô đă ủy thác cho Giáo Hội, nhằm cho Nước Chúa trị đến. Trước nhất, ta có thừa tác vụ chính thức, tức thừa tác vụ được cộng đồng đức tin nh́n nhận và ủy nhiệm. Song song với loại thừa tác vụ chính thức ấy là h́nh thức thừa tác vụ người ta đang chờ mong nơi mọi tín hữu, tức các cố gắnh hàng ngày nhằm biến cải thế giới theo các giá trị yêu thương và nhân hậu của Kitô giáo. Ngày nay, nhiều người Công Giáo có gia đ́nh đă đảm nhiệm loại thừa tác vụ chính thức của Giáo Hội. Việc ấy có được là nhờ sinh khí do Công Đồng Vatican II đem lại. Ta thấy nhiều giáo dân, nam cũng như nữ, tham gia các thừa tác vụ phụng vụ nơi các giáo xứ, như đọc sách, âm nhạc và thừa tác Thánh Thể. Càng ngày, thừa tác vụ giảng dạy trong các giáo xứ và giáo phận càng được các giáo dân đảm nhiệm nhiều hơn. Một số đảm nhiệm những công việc chuyên môn toàn thời gian trong các chương tŕnh giáo dục tôn giáo thuộc hệ thống các trường Công Giáo. Số đông hơn phục vụ trong tư cách thiện nguyện làm giáo lư viên, phối hợp viên các nhóm thảo luận dành cho người lớn hay là thành viên cho hội đồng nhà trường của giáo xứ. Cũng có sự gia tăng tương tự con số các giáo dân làm việc tại các cơ sở dịch vụ cũng như các chương tŕnh xă hội do thẩm quyền Giáo Hội điều hướng hay yểm trợ.

Việc mở rộng các thừa tác vụ “được chấp thuận” hay “được công nhận” này trong mấy thập niên qua đă làm mờ nhạt khá nhiều sự phân biệt trước đây trong Giáo Hội giữa tu sĩ, giáo sĩ và giáo dân. Các ông có gia đ́nh chịu chức sáu vĩnh viễn, các nữ tu phục vụ trong tư cách phụ tá giáo xứ, các ông và các bà có gia đ́nh đang theo học tại các đại chủng viện Công Giáo để chuẩn bị đảm nhận các công việc thuộc thừa tác vụ toàn thời gian, rơ ràng đều là thành phần của loại thừa tác vụ chính thức. Trong nhiều trường hợp, việc mở cửa chào đón các giáo dân vào các vai tṛ phục vụ và lănh đạo chỉ là v́ để giải quyết t́nh trạng thiếu người (không c̣n đủ các sư huynh, các nữ tu và các linh mục đảm nhiệm những công viêc ấy nữa!), hơn là một am hiểu sâu sắc hơn về phạm vi của ơn gọi thừa tác vụ Kitô giáo. Nhưng dù ǵ chăng nữa, hiện có khá nhiều giáo dân Công Giáo, có gia đ́nh hay độc thân, đă hiểu ra ơn gọi ở đời của ḿnh là tham gia vào thừa tác vụ chính thức của Giáo Hội.

Con số các giáo dân Công Giáo có gia đ́nh làm các thừa tác viên chính thức trong thừa tác vụ hôn nhân của Giáo Hội, như soạn thảo hay dẫn dắt các chương tŕnh chuẩn bị hôn nhân, phong phú hóa hôn nhân, huấn đạo hôn nhân và cử hành phụng vụ hôn nhân, hiện đang gia tăng và rất tốt. Tuy nhiên, trong cuộc thảo luận ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói tới mối liên hệ của hôn nhân và ơn gọi thừa tác vụ tổng quát của Kitô hữu.

Tính tạo sinh tôn giáo cũng dẫn tôi vượt quá việc cử hành “Tin Mừng” cho chính tôi mà hành động về tôn giáo, tức làm thừa tác vụ, nhằm phục vụ thế giới ở bên ngoài ḿnh và bên ngoài những người thân cận về phương diện tôn giáo của ḿnh.

Với một số Kitô hữu, được thụ phong hay không, chú tâm tức khắc trong hành động tôn giáo của họ là ở bên trong cộng đoàn đức tin, một thừa tác vụ đối với Giáo Hội chính thức và qua Giáo Hội này. C̣n phần đông tín hữu, ơn gọi sống và hành động để đáp ứng quan điểm Kitô giáo này thường được phát biểu ngay trong gia đ́nh, nơi sở làm hay trong những can dự khác vào xă hội nói chung. Kinh nghiệm tôn giáo của hôn nhân quan hệ thế nào với hành động tôn giáo hay thừa tác vụ của đời sống Kitô hữu trưởng thành? Ở nhiều chỗ trong sách này, chúng tôi từng nói về thừa tác vụ của người Kitô hữu trưởng thành căn cứ vào tính tạo sinh tôn giáo rồi (religious generativity). Sự chín chắn về tâm lư giúp tôi vượt quá chính tôi và người thân cận để quan tâm đúng mức đến thế giới. Cũng thế, tính tạo sinh tôn giáo cũng dẫn tôi vượt quá việc cử hành “Tin Mừng” cho chính tôi mà hành động về tôn giáo, tức làm thừa tác vụ, nhằm phục vụ thế giới ở bên ngoài ḿnh và bên ngoài những người thân cận về phương diện tôn giáo của ḿnh. Ta đă thấy sự thân mật có thể vừa góp phần vào tính tạo sinh (khi kinh nghiệm yêu thương giải toả trong mỗi người chúng ta các tài nguyên tâm lư cần thiết để ta độ lượng và vượt quá chính ḿnh) mà cũng có thể quay mặt khỏi tính tạo sinh ấy (khi t́nh yêu của ta tỏ ra yếu ớt đến độ ta phải sử dụng năng lực của ta cũng như các tài nguyên khác của ta cho chính chúng ta, chẳng chừa được chút nào cho thế giới bên ngoài). Như thế, hôn nhân có thể có hiệu quả hàm hồ đối với diễn tŕnh trưởng thành và làm thừa tác vụ của Kitô hữu. Có những Kitô hữu chỉ có khả năng loay hoay với chính cuộc hôn nhân và gia đ́nh họ mà thôi, không phải chỉ trong những lúc khẩn trương như bị bệnh nặng hay mất việc, cũng không phải chỉ trong những thời kỳ căng thẳng có thể đoán trước như việc chào đời của một đứa con hoặc việc về hưu, mà tính t́nh họ là như thế. “Chúng tôi phải lo cho chúng tôi, tự ḿnh ên!” Có thể v́ họ quá đặt nặng trách nhiệm làm vợ làm chồng, làm cha mẹ của họ chăng. Cuộc hôn nhân của họ yên ổn, con cái họ có thật nhiều cơ hội học hành và lợi thế xă hội theo khả năng của họ. Họ tham gia tích cực vào sinh hoạt giáo xứ, đi nhà thờ đều đặn và đóng góp tài chánh cũng như lo liệu để con cái tham dự các chương tŕnh giáo lư. Nhưng họ làm thế, chỉ v́ ḿnh. Họ nh́n giáo xứ theo những ǵ giáo xứ có thể đem lại cho họ, một kinh nghiệm thờ phượng thỏa đáng, một chương tŕnh đào tạo luân lư cho con cái, có thể là sự an toàn và một chút tư thế nào đó trong cộng đoàn nữa. Đối với họ, ư niệm làm người Kitô hữu chín chắn không đem theo nó bất cứ xác tín làm nguyên động lực nào: tôi và gia đ́nh tôi v́ một cái ǵ đó hơn là v́ chính bản thân ḿnh.

Đối với một số Kitô hữu khác, hôn nhân, trái lại, là cửa ngơ hướng họ về Chúa và thế giới. Các bài họ học được từ cuộc hôn nhân dạy họ phải quan tâm quá bản thân ḿnh; các quan tâm của ta đối với con cái liên kết ta với các quan tâm đến thế giới. Ta nhận ra cuộc sống chung như gia đ́nh không được “dùng cho hết” các tài nguyên của ta, nhưng phải sản sinh ra các tài nguyên mới mà ta có thể chia sẻ và sử dụng quá cả bản thân ta. Nhà cửa của ta, t́nh yêu của ta, niềm vui với nhau của ta, th́ giờ của ta, cái nh́n thông sáng của ta, các quan tâm của ta, ngay cả tiền bạc của ta nữa, tất cả các tài nguyên của cuộc sống chung này không phải có đó cho một ḿnh ta mà thôi. Có những thời điểm trong cuộc hôn nhân, trong đó ta bị tràn ngập bởi cảm thức cho rằng ta không có đủ để phân phối, các tài nguyên của ta thật thiếu thốn, không phải chỉ v́ nhu cầu của thế giới mà ngay đối với nhu cầu của chính gia đ́nh ta nữa. Nhưng trong suốt hành tŕnh lâu dài, nếu không phải là trong mọi giây phút, của nó, cuộc hôn nhân của người Kitô hữu trưởng thành chúng ta phải được đánh dấu bằng sự cởi mở đón nhận nhu cầu người khác bên ngoài gia đ́nh ḿnh và một cảm thức tích cực góp phần vào việc Nước Chúa trị đến, hay sự hiện diện của Chúa trong công lư và yêu thương.

Dĩ nhiên, có nhiều cách khác nhau có thể nói lên h́nh thức thừa tác vụ trên của người Kitô hữu trưởng thành, và nh́n ra mối liên hệ giữa hôn nhân và thừa tác vụ ấy. Đối với một số cặp, thừa tác vụ của họ chính là qua cuộc sống gia đ́nh. Họ mở cửa chào đón con nuôi hay nhận nuôi một trẻ tật nguyền. Ở gia đ́nh khác, bếp núc của họ luôn mở cửa chào đón các thiếu niên trong khu phố, hay dành th́ giờ lắng nghe các lo lắng quan tâm của hàng xóm và bạn bè. Cặp thứ ba quyết định lúc về hưu sẽ dành mỗi tuần hai ngày đi với nhau thăm viếng những người liệt giường liệt chiếu hay chào đón người hàng xóm mới góa bụa đến sống với ḿnh cho đến khi bà ta có thể có kế hoạch khác. Nhiều cặp khác có thể nghĩ việc can dự của họ vào các vấn đề xă hội là chủ yếu để giáo dục tôn giáo cho con cái họ. Đưa ra quan điểm không mấy hợp dư luận về vấn đề công lư sắc tộc, hay tích cực tham gia một chiến dịch chính trị, dùng một phần số tiền đi nghỉ của gia đ́nh để trợ giúp những ai gặp tai ương, tất cả những hành động này đều là những hành động có ư nghĩa tôn giáo và khích lệ được con cái họ biết chia sẻ cái hiểu đầy thực tiễn về đức tin.

Đối với nhiều giáo dân Kitô giáo khác, lănh vực thừa tác vụ của họ chính là thế giới nhân dụng. Qua trách nhiệm nghề nghiệp, qua các sinh hoạt nghiệp đoàn, qua các quyết định làm ăn, tôi có thể gây ảnh hưởng trong cách cư xử với người dưới và người trên trong công ty của ḿnh, tôi có thể ráng gây ảnh hưởng để người ta nh́n nhận các xác tín tôn giáo của tôi. Khi làm việc, tôi đưa ra quan điểm tôi biết là đúng, dù có thể bị phản ứng ngược lại. Hay trong tư cách vợ chồng, chúng tôi quyết định đổi việc và đi về miền quê để tham gia dự án tranh đấu cho công bằng kinh tế. Như thế, đối với nhiều người chúng ta, các cố gắng đóng góp cho thế giới và công b́nh xă hội chính là ở lănh vực này, trong công việc ḿnh làm giữa trần gian. Chính tại đó, cảm thức ơn gọi bản thân đă lên h́nh lên dạng. Chính tại đó, ta cộng tác để làm nhanh hơn diễn tŕnh Nước Chúa trị đến.

 

Hôn Nhân Vui Chơi

  Lối sống trong hôn nhân của ta phần lớn liên quan đến cách ta can dự vượt quá bên kia bản thân ḿnh. Tuy nhiên lối sống ấy cũng ảnh hưởng và nói lên cách chúng ta chung sống với nhau như thế nào. Nhiều giá trị Kitô giáo góp phần vào cách chung sống của ta bằng cách thúc giục ta phải coi trọng cuộc hôn nhân của ḿnh. Hôn nhân là việc của người trưởng thành; các trách nhiệm của nó hết sức nặng nề; tuần trăng mật không thể kéo dài măi. Những sự thật làm tỉnh ḷng người ấy rất quan trọng buộc chúng ta phải nghe và Giáo Hội cũng giúp ta rất nhiều bằng cách góp tiếng, nói lên sự khôn ngoan ấy. Nhưng sự khôn ngoan Kitô giáo cũng đề cập tới một khía cạnh khác nữa của hôn nhân: đó là mối liên kết mật thiết giữa yêu thương và vui chơi. Cuộc hôn nhân của ta càng chín mùi, nó càng trở nên vui chơi hơn. Ở đây, ta thử xem sét một vài yếu tố trong lối sống hôn nhân đầy vui chơi của ḿnh.

 

Th́ Giờ Đời Ta

  Một hôn nhân đầy vui chơi tùy thuộc cách ta dùng th́ giờ với nhau ra sao. Các đ̣i hỏi của nghề nghiệp, con cái và các cam kết khác có thể dễ dàng tràn ngập liên hệ hôn nhân của ta. Mệt mỏi và chán chường lăng trí, do nó phát sinh, có thể sói ṃn cách nghiêm trọng sự hiện diện với nhau của ta. Ta đă học thấy rằng tính vui chơi từng đánh dấu mối liên hệ vô tư thời đầu mới lấy nhau của ta không dễ dàng hay tự động kéo dài. Và một cách nghịch lư ta cũng học thấy điều này nữa: nếu muốn cho cuộc hôn nhân của ḿnh có tính vui chơi, ta phải cố mà tạo ra điều ấy. Giống như cảm nghiệm của ta về thân mật, tính vui chơi giữa chúng ta cũng phải được vun sới. Nó đ̣i một kỷ luật trong lối sống, nhất là kỷ luật dùng th́ giờ.

Giao duyên

Nếu hôn nhân là một ơn gọi bắt đầu bằng lời thưa “có” đầy vang vọng, th́ khi chín mùi nó lại gồm khá nhiều lời thưa “không”. Muốn có th́ giờ giá trị cho người bạn đời và gia đ́nh ḿnh, tôi phải nói “không” với thật nhiều đ̣i hỏi và yêu cầu từ bên ngoài. Kỷ luật này, như sẽ đề cập ở một chương sau như là “khổ hạnh về th́ giờ” (ascetism of time), sẽ giúp ta tổ chức được th́ giờ dành cho các cam kết chính của đời ḿnh. Việc dự tính th́ giờ có kế sách ấy có thể bị coi là những tính toán lạnh lùng hay như những đáp ứng đầy mưu mẹo đối với các đ̣i hỏi muôn mặt của đời sống. Không có sự nhiệm nhặt này, ta sẽ trở thành lệ thuộc đối với các đ̣i hỏi không bao giờ cùng (mà đ̣i hỏi nào cũng đáng cả) của cuộc sống hôn nhân hiện đại. Dần dà, kiệt lực sẽ lấy mất hết tính vui chơi khỏi cuộc hôn nhân của ta, cả tính co dăn lẫn tính vui đùa của nó. Tính vui chơi ấy có thể được thăng tiến nhờ biết dự tính những th́ giờ đặc biệt cho riêng hai đứa bọn ḿnh. Chúng ḿnh để riêng ra những th́ giờ và nơi chốn có biên cương đàng hoàng. Vào dịp đi nghỉ, vào những ngày nhàn nhă hay tĩnh tâm, chúng ḿnh tự cho phép ḿnh vui chơi trở lại. Bên cạnh tính nghiêm chỉnh của quăng đời c̣n lại, các dịp này mời gọi ta vui chơi với nhau và làm cho t́nh yêu bọn ḿnh lên men trở lại.

 

Đua Tranh Và Vui Chơi

  Một cuộc hôn nhân đầy tính vui chơi vẫn nh́n nhận mối liên hệ giữa đua tranh và vui chơi ấy. Tính đua tranh là điều cần được nh́n nhận. Ta phải chấp nhận sự kiện này: hôn nhân là một môn thể thao đụng chạm (contact sport), một môn thể thao trong đó, có lúc ta bị thương tích, giận dữ và cả thua cuộc nữa. Nhưng tính đua tranh cũng có thể lên men chúng ta. Khi ta cùng nhau nhận ra ḿnh đang đua tranh với nhau ra sao và lúc nào, th́ h́nh như sự đua tranh này giảm sức đi nhiều lắm đối với chúng ta, nhờ ta biết chia sẻ một cách cụ thể hơn một số những sợ sệt chung quanh sự tranh chấp ấy và có khi c̣n thấy được cả sự phấn chấn trong các tranh chấp ấy nữa.

Như đă thấy ở một chương trước đây, đua tranh thường là hành vi của thân mật. Nó đem ta lại thật gần nhau và buộc ta phải dàn xếp với nhau, dù cho là mơ hồ đến thế nào đi nữa. Khi đua tranh, như đô vật chẳng hạn, ta giáp mặt nhau một cách vừa phấn khích vừa đe dọa. Nhờ giáp mặt đua tranh như thế, ta học được nhiều điều về chính ḿnh và về nhau. Ta có thể khám phá ra những điểm mạnh không ngờ; và dĩ nhiên ta cũng có thể khám phá ra nhiều điểm yếu chưa bao giờ nghĩ tới nữa. Đua tranh không có nghĩa là dùng các điểm mạnh này để khống chế hay khai thác các điểm yếu kia. Việc anh khám phá ra điểm yếu của em có thể giúp anh yêu tính yếu đuối của em hơn, hay khiến anh quyết tâm bảo vệ tính yếu đuối ấy hay ít nhất cũng đừng lợi dụng nó. Khám phá ra điểm mạnh có thể giúp anh biết yêu thương nhiều hơn, giúp anh biết dùng nó mà thăng tiến chứ không kiểm soát cuộc hôn nhân của bọn ḿnh.

Cuộc đua tranh của ta trong hôn nhân không nhất thiết là cuộc chạm trán nẩy lửa giữa vợ chồng ḿnh nhưng là một cuộc đưa đẩy để chúng ḿnh lại gần nhau hơn.

Tuy nhiên, ư niệm đua tranh trong hôn nhân vẫn làm ta bối rối. Nó vẫn có thể gợi ra các h́nh ảnh trong thể thao chuyên nghiệp, chỉ biết chú trọng tới tŕnh diễn và xếp hạng, làm thế nào để dẫn đầu cho bằng được trong cuộc đua tranh này. Nhưng đó chỉ là một giải nghĩa chật hẹp về đua tranh. Ta vẫn có thể quan niệm cuộc đua tranh của ta trong hôn nhân không nhất thiết là cuộc chạm trán nẩy lửa giữa vợ chồng ḿnh nhưng là một cuộc đưa đẩy để chúng ḿnh lại gần nhau hơn. Dĩ nhiên, việc lại gần nhau hơn này có tính đe dọa. Đôi khi nó có thể gây ra thương tích, đau đớn.Trong t́nh yêu và trong đua tranh, ta chấp nhận rủi ro do chính cuộc giáp mặt này mang lại, chỉ tin tưởng rằng hai đứa bọn ḿnh đều chơi ṣng phẳng. Nhưng khi chấp nhận như thế, nghĩa là thắng vượt được nỗi sợ bị đè bẹp cũng như nhu cầu phải khống chế, ta quả đă cùng nhau phấn chấn; người thắng chính là cuộc hôn nhân của ta và lối sống thân mật của ḿnh.

 

Tính Dục Có Tính Vui Chơi

  Cuộc sống tính dục với nhau phải là thành phần của một hôn nhân có tính vui chơi. Ở đây, truyền thống Kitô giáo luôn luôn hỗ trợ ta. Đặc điểm chính của tính vui chơi là nét không hữu dụng của nó; nó chỉ để vui chơi. Mặt khác, người Kitô hữu cũng học thấy rằng tính dục là chuyện nghiêm chỉnh. Nó có mục tiêu chuyên biệt và độc hữu (exclusive): sinh sản con cái. Chỉ khi nào mục tiêu này được mưu t́m một cách đúng bổn phận, ta mới được thụ hưởng sinh hoạt tính dục. Như thế, đối với các Kitô hữu, tính nghiêm chỉnh và thánh thiêng của tính dục đứng trên tính vui chơi của nó. Há “tính dục vui chơi” không phải là bận tâm của khách làng chơi và người phóng đăng đó sao? Sự hàm hồ ở đây khá song hành với sự hàm hồ của đua tranh. Đua tranh tự nó không phá hoại mà cũng không sáng tạo như thế nào, th́ sinh hoạt tính dục nhân bản tự nó cũng chẳng để phục vụ mục tiêu mà cũng chẳng để vui chơi như thế. Là Kitô hữu, ta biết rằng tính dục khá thánh thiêng: khi chia sẻ tính dục, ta tạo thêm sự sống; nhờ tính dục, ta củng cố và gia tăng t́nh yêu đối với nhau. Nhưng tính thánh thiêng này không loại bỏ tính vui chơi. Đối với Kitô hữu, tính dục là một tṛ chơi có trách nhiệm. Giao hợp tính dục, đôi khi có tính tạo sinh, đem lại sự sống mới và thường hơn có tính tạo sinh, theo nghĩa đem lại nhiều yêu thương với nhau hơn, đồng thời cũng là một tṛ vui thích (fun). Điều chắc là Kitô giáo vốn thận trọng trong việc nh́n nhận giá trị của vui chơi trong tính dục. Chỉ mới gần đây và cả lúc đó nữa, nhiều tiếng nói chính thức trong Giáo Hội vẫn ngần ngại không muốn nh́n nhận tính chính đáng của một t́nh yêu tính dục mà không phải bất cứ tác động nào cũng nhằm để đem thêm con cái vào trần gian. Nhưng các triển khai này đang xẩy ra ở thời ta, một phần là nhờ chứng tá của các Kitô hữu có gia đ́nh. Và với những triển khai ấy, ngày nay ta dễ dàng hơn trong việc vinh danh cả sự đa dạng lẫn tính vui chơi trong t́nh yêu tính dục của cuộc sống hôn nhân Kitô giáo. Tính dục không phải là nơi duy nhất để vui chơi trong một cuộc hôn nhân chín chắn. Nhưng nếu có ít và nhất là không có vui chơi chút nào trong chia sẻ tính dục, ta khó mà vui chơi trong các lănh vực khác của cuộc sống chung.

 

Học Biết Chơi Ṣng Phẳng

  Một yếu tố khác trong hôn nhân có tính vui chơi là học biết chơi ṣng phẳng. Có nghĩa là học các luật chơi giúp việc đua tranh và cuộc sống thân mật góp phần vào hôn nhân ta, chứ không hủy diệt nó. Luật chơi đầu tiên là ta cần phải đua tranh với nhau. Nếu cơn giận của ta thường xuyên bị ức chế, sự mơ hồ và bất đồng của ta không những không giảm thiểu được xúc cảm kia mà c̣n cất kỹ nó đi để dùng về sau. Trong hôn nhân, khéo biết chơi thể thao không có nghĩa là quyết định không đua tranh với hay không thi đấu với người bạn đời của ḿnh. Nó có nghĩa là phải tích cực thi đấu trong mối liên hệ này. Không biết chơi thể thao chính là những người chọn đứng bên lề, kêu ca đủ thứ và nhất quyết không thi đấu. Có thể gọi bất cứ cuộc hôn nhân nào trong đó vợ chồng hết đua tranh, không c̣n ganh đua với nhau một cách đáng kể nữa, là một bế tắc, một thế bí (stalemate). Và cá nhân cặp vợ chồng ấy chắc chắn sẽ cảm nhận nhau như là những người bạn ṃn chán, cũ rích (stale mates).

Luật chơi thứ hai là phải chơi ṣng phẳng (play fair). Có nghĩa là chơi có kỹ năng, biết phải “nghinh chiến” người bạn đời ḿnh lúc nào và thế nào. Trong hôn nhân, cũng như trong mọi môn chơi khác, đúng lúc là điều quan trọng. Kinh nghiệm sống chung với nhau trong hôn nhân, nhiều năm tháng ngày giờ chơi chung với nhau hiển nhiên sẽ giúp ta xác định được thời điểm nào nên “nghinh chiến”. Anh sẽ nêu ra một vấn đề tế nhị khi anh thấy đúng lúc: nghĩa là lúc hai đứa ḿnh có thể đương đầu với nó, chứ không phải là lúc anh muốn nêu nó ra. Chơi ṣng phẳng sẽ trở thành một phần trong lối sống hôn nhân của ta, khi mỗi chúng ta có khả năng hơn trong việc biểu lộ được các tác phong đầy kỹ năng của đối thoại và giải quyết tranh chấp mà ta đă thảo luận ở một chương trước đây.

Học biết chơi ṣng phẳng là một nhân đức phức tạp, một nhân đức phần đông chúng ta chỉ đạt được từ từ trong diễn tŕnh tăng trưởng của ḿnh. Việc lớn mạnh của nó chắc chắn lệ thuộc kỷ luật biết nhận dạng và cắt bỏ các thói quen phá hoại trong hôn nhân của ta, như hạ giá người kia, gián tiếp đánh trả hơn là trực diện giáp mặt với một vấn đề gây rắc rối, dùng con cái làm vũ khí trong cố gắng thắng cuộc hay cho là ḿnh đúng. Sau cùng, môn chơi cũng dạy ta tầm quan trọng của thỏa hiệp và giá trị của một người thua cuộc tốt. Thỏa hiệp có nghĩa là t́m ra đường đi quanh các vấn đề và các lắng lo liều ḿnh bị bế tắc hay xem ra không thể giải quyết được. Các chiến thuật đổi chác và thương thảo đôi khi có thể giúp ta duy tŕ được t́nh yêu và cam kết của ḿnh. Học biết làm người thua cuộc tốt cũng là dấu hiệu của chín chắn, trưởng thành. Mỗi người chúng ta đều có thể thất bại, có khi thất bại đi thất bại lại, trong các cố gắng yêu thương và hỗ tương nhau. Tính cách vui chơi nhắc ta nhớ rằng chả có chi phải xấu hổ cả. T́nh yêu đâu có nghĩa không bao giờ phải nói lời xin lỗi; nó chỉ có nghĩa ḿnh phải sống tốt với việc xin lỗi ấy.

Trong tṛ chơi, ta phải tín thác đủ và yêu thương đủ th́ mới dám liều thua mà không thất vọng, mang chiến thắng mà không cần mặc cảm tội lỗi, và sẵn sàng cười lúc phạm lỗi mà không chế diễu.

Nhờ các phương cách ấy mà ta chín mùi trong t́nh yêu. Ta học thấy rằng tṛ chơi không phải chỉ dành cho con nít, rằng có khả năng tín thác lẫn nhau c̣n quan trọng hơn là việc lúc nào cũng đúng. Trong nghiên cứu của ḿnh về sự trưởng thành của người lớn, tức cuốn Adaptation to Life, George Vaillant tóm kết các mối liên kết giữa t́nh yêu, tín thác và vui chơi như sau:

Khó mà tách biệt được khả năng tín thác với khả năng vui chơi, v́ vui chơi rất nguy hiểm cho tới khi ta tín thác cả chính ta lẫn địch thủ của ta… Trong tṛ chơi, ta phải tín thác đủ và yêu thương đủ th́ mới dám liều thua mà không thất vọng, mang chiến thắng mà không cần mặc cảm tội lỗi, và sẵn sàng cười lúc phạm lỗi mà không chế diễu (tr.309)

Trong hôn nhân của chính chúng ta, chắc chắn ta sẽ học được cách biết thắng biết thua, biết rủi biết lầm, biết cười biết yêu. Thẩy đều là chất liệu của một cuộc hôn nhân đầy tính vui chơi, những viên đá tảng xây lối sống suốt đời cho cuộc hôn nhân của ḿnh.

 

Đọc Thêm

  Các giám mục Mỹ tại phiên họp Mùa Thu năm 1980 đă ban hành một “Tuyên Bố Mục Vụ Về Giáo Dân” để kỷ niệm 15 năm Sắc Lệnh của Công Đồng Vatican II về Tông Đồ Giáo Dân.Trong tuyên bố này, các giám mục nhắc lại cái hiểu của các ngài về các thừa tác vụ khác nhau dành cho các Kitô hữu trưởng thành cả bên trong gia đ́nh họ lẫn bên ngoài gia đ́nh ấy.

Càng ngày càng có nhiều tài nguyên giúp vợ chồng và gia đ́nh nào muốn thăm ḍ các chiều kích công lư trong lối sống của họ. “Parenting for Peace and Justice” (Làm Cha Mẹ Để Phục Vụ Ḥa B́nh và Công Lư) của Kathleen McGinnis hiện có dưới dạng băng nhựa do nhà NCR Cassettes, Kansas City, Missouri xuất bản, và không lâu nữa sẽ được xuất bản thành sách do nhà Orbis Press ấn hành. Cùng với phong trào liên phái Kitô giáo Bread for the World (Bánh Cho Đời), Ronald Sider đă chủ biên Cry Justice: The Bible on Hunger and Poverty (Hăy Kêu Gào Công Lư: Thánh Kinh Về Đói Nghèo), do nhà Paulist ấn hành năm 1980, như sách cầu nguyện và hướng dẫn các cá nhân, các gia đ́nh và các nhóm cầu nguyện. Nhóm Đặc Nhiệm Liên Tôn Phân Tích Xă Hội đă chuẩn bị tài liệu Must We Choose Sides? (Ta Có Phải Chọn Bên Không?) như tài liệu học hỏi và hành động khá hữu ích về phương diện thực tiễn đối với cam kết Kitô giáo trong thập niên 1980. Hai cơ quan đặt cơ sở tại Washington D.C. cung cấp phân tích dựa trên quan điểm Kitô giáo đối với các vấn đề xă hội quan trọng hiện nay là Trung Tâm Quan Tâm (chú tâm đến các vấn đề quốc tế) và Hệ Thống (chú tâm đến việc ban hành luật lệ quốc gia). Hai cơ quan này đều có bản tin tam cá nguyệt cũng như các ấn phẩm khác với lệ phí hội viên rất khiêm tốn.

Các tài nguyên trong lănh vực thăng tiến hôn nhân và gia đ́nh cũng không thiếu. David và Vera Mace đă làm việc lâu năm với các giáo hội Kitô giáo nhằm một thừa tác vụ hữu hiệu hơn. Một thí dụ điển h́nh cho thấy sự đóng góp liên tục của họ là cuốn How to Have a Happy Marriage: A Step-by-Step Guide to an Enriched Relationship (Làm Thế Nào Có Được Một Cuộc Hôn Nhân Hạnh Phúc: Từng Bước Hướng Dẫn Để Đạt Một Liên Hệ Phong Phú) do nhà Abingdon ấn hành năm 1977, có mục tiêu để các cặp vợ chồng sử dụng hay để thảo luận nhóm. Herbert Otto đă chủ biên Marriage and Family Enrichment: New Perspectives and Programs (Thăng Tiến Hôn Nhân Và Gia Đ́nh: Cái Nh́n Và Chương Tŕnh Mới) cũng do nhà Abingdon ấn hành năm1976, là một sách hướng dẫn tuyệt hảo để t́m thấy các tài nguyên, các chương tŕnh và cơ quan vốn ủng hộ hôn nhân. M.C. Howell đă chú tâm trở lại với các tài nguyên có sẵn trong gia đ́nh với cuốn Helping Ourselves: Families and the Human Network (Giúp Ḿnh: Các Gia Đ́nh Và Mạng Lưới Nhân Bản) do nhà Beacon xuất bản năm 1975.

 

Vinc. Vũ Văn An

 

Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.