Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Linh Mục
Trong Năm Giáo Dục Kitô Giáo 2008

1 2 3

Thánh Gia

 

 

 

LINH MỤC
NHÀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

 

 

ĐGM. Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

 

 

 

III. LINH MỤC, THẦY DẠY HY VỌNG

 

I. Niềm hy vọng Kitô giáo

 

1.

+ Tin, cậy, mến là ba nhân đức “đối thần”, đi chung với nhau, gắn liền với nhau, nói lên ba khía cạnh cơ bản của đời sống kitô hữu. Ba nhân đức này phân biệt, nhưng không tách rời nhau, mỗi nhân đức nhấn mạnh một nội dung. Đức ái nhấn mạnh chỗ đứng của t́nh yêu Kitô giáo. Đức tin là yếu tố nền tảng của đời sống tín hữu, là điều kiện cơ bản để được ơn cứu rỗi. C̣n đức cậy nhấn mạnh khía cạnh lữ thứ của đời sống kitô hữu. Đức cậy hướng chúng ta đến cùng đích của đời sống con người.

+ Con người đă được cứu rỗi hay chưa ? Con người đă đạt đến cùng đích cuối cùng rồi hay chưa ? Con người hạnh phúc rồi hay chưa ? Con người có Chúa rồi hay chưa ? (Chúa là hiện tại hay tương lai của con người ?)

 

2.

+ Nếu đức tin nhấn mạnh khía cạnh “rồi”, th́ đức cậy nhấn mạnh khía cạnh “chưa”. Trong thông điệp mới nhất của Đức Thánh Cha “Được cứu rỗi trong hy vọng” (Rm 8,24), ngài nhắc đến lời của thánh Phaolô cho chúng ta thấy rằng “ơn cứu chuộc không chỉ là một điều đă được ban cho, nhưng được cống hiến cho chúng ta như là điều mà ta hy vọng. Chúng ta hy vọng được cứu rỗi. Nhờ hy vọng đó mà chúng ta có thể đối diện với thực tại cuộc sống rất khó khăn, đầy dẫy những thách thức. Dù cuộc đời lữ thứ có gian nan bao nhiêu, ta vẫn chắc chắn sẽ đạt đến mục đích cuối cùng : “Theo đức tin Kitô giáo, sự “cứu chuộc’, cứu độ không đơn thuần là một sự kiện. Sự cứu chuộc được tặng ban cho chúng ta theo nghĩa là chúng ta đă được ban cho niềm hy vọng, một niềm hy vọng khả tín, nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với hiện tại. Dù là một hiện tại khổ nhọc, chúng ta có thể sống và chấp nhận hiện tại, nếu nó dẫn đến một cùng đích, nếu chúng ta có thể chắc chắn về cùng đích này, và nếu cùng đích này cao cả đến mức có thể biện minh cho những cố gắng trên đường đi” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 1).

+ Đức Thánh Cha cũng cho thấy, tin theo Kinh Thánh thật ra cũng chỉ là hy vọng. Niềm hy vọng Kitô giáo cũng chính là niềm tin Kitô giáo, như thư thứ nhất của thánh Phêrô nhấn mạnh rằng chúng ta hăy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta (1 Pr 3,15). Hy vọng đối lại với thất vọng, hay tuyệt vọng, không có lối thoát. Một cuộc đời không có hy vọng là một cuộc đời không có tương lai, không có lối thoát. Kitô hữu là người có niềm hy vọng, như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI : “Ở đây xuất hiện yếu tố đặc thù của các kitô hữu, đó là họ có một tương lai : không phải họ biết tường tận điều ǵ đang chờ đợi ḿnh, nhưng họ biết một cách tổng quát rằng cuộc đời họ không kết thúc trong hư vô. Chỉ khi tương lai được bảo đảm như một thực tại tích cực, th́ hiện tại mới có thể được sống một cách tích cực. Như thế, giờ đây chúng ta có thể nói rằng : Kitô giáo không chỉ là một “tin mừng” truyền thông một nội dung cho đến nay chưa được biết. Trong ngôn ngữ thời nay, chúng ta có thể nói : sứ điệp Kitô giáo không chỉ “thông tin” mà c̣n “tác động”. Điều đó nghĩa là : Tin Mừng không chỉ truyền thông những yếu tố có thể nhận biết được, nhưng là một sự truyền thông làm phát sinh các sự kiện và làm thay đổi đời sống. Cánh cửa tăm tối của thời gian, của tương lai, đă được rộng mở. Người có niềm hy vọng th́ sống cách khác hẳn; một cuộc sống mới đă được ban tặng” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 2).

+ Khi nói về niềm hy vọng Kitô giáo, chúng ta không muốn nói tới một tương lai trần thế hay một lối thoát theo nghĩa thế gian. Nhưng chúng ta muốn đề cập đến “mục đích cuối cùng” của đời người, đến “sự sống đời đời”.

+ Trong Kitô giáo, hy vọng là hướng tới “t́nh yêu tuyệt hảo”, hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn với Ba Ngôi Thiên Chúa trong t́nh yêu. Nhờ hy vọng mà t́nh yêu Kitô giáo không bị ứ đọng, không dừng lại một chỗ, không đầu hàng sự dữ và sự chết, nhờ hy vọng mà t́nh yêu Kitô giáo có tương lai.

+ Cơ sở vững chắc của niềm hy vọng Kitô giáo là “sự Phục Sinh của Chúa Kitô”. V́ sự Phục Sinh của Chúa mà không ai trong chúng ta phải đầu hàng sự chết, không ai phải tuyệt vọng. Thần học về hy vọng cũng là thần học về ư nghĩa cuối cùng của sự Phục Sinh.

 

II. Linh mục, thầy dạy hướng tới tương lai

 

1.

+ Mặc dù sống trong hiện tai và được khuyên sống trọn vẹn giây phút hiện tại, nhưng người kitô hữu không dừng lại ở hiện tại, mà phải “luôn tỉnh thức chờ đợi”, nghĩa là luôn hướng về tương lai, hướng về ngày Chúa Quang Lâm.

+ Không riêng ǵ kitô hữu, mà bất cứ ai, dù trẻ hay già, ít nhiều ǵ cũng hướng tới tương lai, v́ khi không hướng tới tương lai được nữa, mà phải dừng lại vĩnh viễn, th́ cũng là chấm dứt, là hết, là chết. C̣n sống là c̣n hy vọng, c̣n hy vọng là c̣n sống. Chính niềm hy vọng làm cho người ta muốn sống. Cuộc sống con người được dệt bằng những hy vọng trần thế. Con người hướng về một ngày mai xán lạn hơn, con người ước mong được giàu có hơn, sung sướng hơn, có địa vị và danh vọng cao hơn. Con người luôn luôn muốn “cái hơn”, và chính cái hơn đó làm cho con người tiến bộ. Nhưng trong chính ước muốn cái hơn đó, con người chạm trán phải cái chết. Và nếu chết là hết, th́ không c̣n tương lai ǵ nữa, hy vọng ǵ nữa. Những hy vọng trần thế chỉ dẫn con người đến “ngơ cụt”, không c̣n đi tới được nữa.

 

2.

+ Giống như Đức Kitô, linh mục là con người dẫn đường (nhà hiền triết : philosophe). Và linh mục không dẫn con người tới “ngơ cụt”. Linh mục không dừng lại ở những “hy vọng trần thế”, mà hướng con người đến “một tương lai vô biên, vĩnh hằng”, hướng con người đến Thiên Chúa, là Đấng không biên giới.

+ Linh mục không phủ nhận các “niềm hy vọng trần thế”, nhưng hướng chúng đến một tương lai vĩnh hằng, và để được như vậy, chúng cần phải được “tương đối hóa”, đặt lại đúng vị trí của chúng. Linh mục không tôn thờ và không cho phép các kitô hữu tôn thờ chúng. Linh mục phải giống như các tiên tri, luôn phá đổ các ngẫu tượng, để dân Chúa có thể hướng về Thiên Chúa đích thực. Xét về phương diện này, mỗi linh mục là một nhà cách mạng.

 

3.

+ “Thế giới này qua đi”, mọi đau khổ trần gian không thể nào ví được với giây phút vinh quang với Thiên Chúa. Linh mục hướng người tín hữu đến với vinh quang của Thiên Chúa, nhưng không dạy con người thoát tục. Nietzsche đ̣i lên án những người kitô hữu rao giảng sự chết, phủ lên cả thế giới này một tấm màn tang tóc. Nietzsche cho rằng Kitô giáo phủ nhận thế giới, phủ nhận con người và những ǵ cuồng nhiệt nhất nơi con người (eros). Đối tượng của niềm hy vọng Kitô giáo là “sự sống đời đời”. Nhưng sự sống đời đời xem ra không mấy hấp dẫn đối với con người thời nay. Họ chuộng đời này hơn, họ không thích sự sống đời đời. Niềm tin vào sự sống đời đời là một ngăn trở, làm cho hiện tại mất vui. Sự sống đời đời được hiểu như cuộc sống kéo dài bất tận sẽ trở nên rất nhàm chán và không thể chịu đựng nổi. Thiếu sự trợ giúp của ân sủng, sự bất tử là một gánh nặng hơn là một sự chúc phúc : “Bằng tư tưởng, chúng ta chỉ có thể t́m cách ra khỏi thời gian tính đang cầm giữ ḿnh và trong chừng mực nào đó, thấy trước rằng vĩnh cửu không phải là một chuỗi tháng ngày kế tiếp nhau như trong cuốn lịch, nhưng là điều ǵ đó giống như thời điểm măn nguyện đầy tràn. Trong thời điểm này tính toàn thể bao bọc lấy chúng ta và chúng ta ôm choàng lấy tính toàn thể. Đó là khi ngụp lặn vào đại dương của t́nh yêu vô hạn, trong đại dương này, thời gian - trước và sau - không c̣n hiện hữu nữa. Chúng ta chỉ có thể suy nghĩ rằng thời điểm ấy là cuộc sống tṛn đầy ư nghĩa, một cuộc ngụp lặn luôn mới mẻ vào cơi mênh mông của hữu thể, trong khi chúng ta được tràn ngập niềm vui. Đó là điều Đức Giêsu diễn tả trong Tin Mừng theo thánh Gioan : “Thầy sẽ gặp lại anh em, ḷng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (16,22)” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 12).

 

4.

+ Niềm hy vọng mà Tin Mừng Phục sinh mang đến, niềm hy vọng mà linh mục rao giảng không là một hạnh phúc cá nhân, riêng tư không có liên hệ ǵ với xă hội và lịch sử; mỗi người có một số phận riêng của ḿnh, không dính dáng đến người khác. Đức Thánh Cha Bênêđíctô nhắc lại giáo lư của Công đồng Vaticanô II về ơn cứu rỗi của nhân loại, của Dân Chúa. Thiên Chúa không muốn cứu độ con người một cách riêng lẽ, mà đă quy tụ họ thành một dân.

+ Niềm hy vọng cứu rỗi hướng về sự sống đời đời không làm cho người kitô hữu quên các bổn phận trần thế, quên xây dựng xă hội, trái lại nó vừa là ánh sáng, vừa là chất xúc tác, giúp cho nhân loại xây dựng xă hội trần thế cách đúng đắn và khôn ngoan hơn, phù hợp với thiên chức con người hơn.

 

5.

+ Ngày nay hơn bao giờ hết, Giáo hội đề cao vai tṛ của Học thuyết Xă hội Công giáo, minh định ư nghĩa của con người và xă hội, điều đó có thể giúp ích để định hướng cho một nền chính trị lành mạnh.

+ Chúng ta c̣n ở trong một thế giới đầy những bất công, chia rẽ, hận thù, xung đột, dù đó là một thế giới đầy những khám phá khoa học kỹ thuật mang lại cho con người một nếp sống văn minh, tiện nghi và tiến bộ không ngừng.

 

6.

+ Giáo hội đề cao “sự liên đới” như “một nhân đức xă hội” rất cần thiết để xây dựng một nền văn minh t́nh thương. Người có nhân đức liên đới luôn hướng đến công lư và ước ao thiết lập công lư trên khắp mặt địa cầu, đặc biệt là công lư cho những người nghèo khổ, không quyền lực, không tiếng nói (x. Gm. Bùi Văn Đọc, “Xây dựng xă hội công bằng theo học thuyết xă hội công giáo”, trong Hội thảo khoa học quốc tế : Công bằng xă hội, trách nhiệm xă hội và liên đới xă hội, Hà Nội, 15-16/10/2007, tr. 511-537).

+ Huấn quyền của Giáo hội định nghĩa sự liên đới một cách hết sức rơ ràng, và hoàn toàn dựa trên Tin Mừng. Liên đới không chỉ là một đồng cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những đau khổ của bao người xa gần. Nhưng đó là quyết tâm chắc chắn và bền vững lo cho công ích, lợi ích của tất cả và từng người, bởi v́ tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm về mọi người.

+ Thay v́ nói như Đức Giáo hoàng Phaolô VI : “Phát triển là danh xưng mới của ḥa b́nh” (x. ĐGH. Phaolô VI, Populorum progressio, số 76-80), Giáo hội hôm nay nhấn mạnh rằng : “Liên đới là danh xưng mới của ḥa b́nh” (x. ĐGH. Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày hoà b́nh thế giới - Phát triển và liên đới : hai ch́a khoá cho hoà b́nh, ngày 1 tháng 1 năm 1987). Giáo hội liên đới với mọi người, nhưng khi cần phải chọn lựa, Giáo hội đứng về phía những người nghèo, người bị áp bức. Giáo hội rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhưng đặc biệt là cho người nghèo. Chúng ta hăy mang Tin Mừng hy vọng tới cho những người không có hy vọng.

 

III. Linh mục, thầy dạy cậy trông và phó thác

 

1.

+ Theo thánh Tôma, chúng ta hy vọng một điều ǵ khi điều ấy rất khó đạt được, nhưng có thể đạt được. Tất cả những ǵ khó đạt được nhưng có thể đạt được đều là đối tượng hy vọng của con người. Nhưng mọi sự đều có thể xảy đến và qua đi, những ǵ khó mấy đi nữa hầu như con người rồi cũng sẽ đạt được, trên b́nh diện tự nhiên, nhờ khả năng trí tuệ của con người. Đó là những “hy vọng từng phần” mà con người thường nghĩ rằng có thể lắp đầy cuộc sống.

+ Trong thực chất, cuộc sống viên măn của con người không thể đồng hóa với những niềm hy vọng từng phần ấy. V́ đó là điều chỉ có Chúa mới có thể đáp ứng, v́ Chúa đă đến thế gian để cho con người được sống và sống viên măn.

+ Sự sống viên măn là điều con người ước mơ, con người cần, v́ đó là hạnh phúc trọn vẹn của con người, nó vượt lên trên sức lực tự nhiên của con người. Nhưng có thể đạt được, v́ là ư muốn của Thiên Chúa, do t́nh thương của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được. Và khi chúng ta tin ở quyền năng và t́nh thương của Thiên Chúa, th́ chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng ấy là niềm hy vọng Kitô giáo, và đó là niềm hy vọng bao trùm tất cả, vượt trên tất cả, nhưng cũng là nền tảng của tất cả. Không có niềm hy vọng này, con người sẽ nhanh chóng thất vọng, và thậm chí tuyệt vọng, vô vọng v́ chạm trán phải sự dữ và sự chết.

 

2.

+ Chúa Giêsu là vị ngôn sứ được Chúa Cha sai đến trần gian để dạy cho con người đừng để cho sự dữ và sự chết đè bẹp. Chúa Giêsu dạy cho con người phản kháng, phản kháng sự dữ và sự chết, phản kháng không bằng bạo động, mà bằng t́nh thương. T́nh thương không chấp nhận cho con người nô lệ sự dữ và sự chết (Ư nghĩa “xuất hành”). T́nh thương mang tính “phản kháng”.

+ T́nh thương không dừng lại ở phản kháng, nhưng c̣n hướng tới giải phóng : giải thoát con người khỏi sự dữ và sự chết, đưa con người vào vương quốc của sự sống và t́nh yêu.

+ Đó là những điều mà mọi người ước mong, nhưng người ta chỉ đạt được “một phần”, chỉ đạt được trong hy vọng (in spe). Con người chưa nắm chắc đối tượng, nên vẫn lo âu xao xuyến không biết ḿnh có đạt được đối tượng hay không ? Con người sợ hăi v́ nguy cơ trước mắt. Con người bị cám dỗ thất vọng, v́ thực tế trước mắt, v́ có quá nhiều khó khăn để đạt mục đích ḿnh muốn.

 

3.

+ Nói như thánh Phaolô, điều thiện hảo mà chúng ta muốn, ta lại không làm được; điều ác ta không muốn th́ ta lại làm. Con người của ta gần như bất lực trước sự dữ trong ta và bên ngoài ta. Nhiều lúc ta bị cám dỗ buông xuôi. Đức Giêsu là vị thầy dạy nhân loại chiến đấu chống sự dữ, chống ác thần. Chính Đức Giêsu, với tư cách là người, cũng đă phải chiến đấu quyết liệt : trong hoang địa, trong vườn cây dầu, trên thập giá. Sự dữ và bóng tối mà Người phải đối đầu, ghê gớm đến nỗi có lúc Người phải thốt lên “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mt 27,46). Nhưng rồi sau khi chiến đấu hết ḿnh, Người đă hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

+ Linh mục cũng là vị thầy giống như Chúa Giêsu, dạy chiến đấu và phó thác. Khoa tu đức học có mục đích dạy cho linh mục cách chiến đấu với bản thân ḿnh, cách chống trả lại các cơn cám dỗ, chống trả lại sự dữ và ác thần. Nó rất cần cho linh mục và cho giáo dân mà linh mục hướng dẫn. Linh mục không học qua chiến đấu, th́ làm sao có thể dạy dỗ giáo dân chống trả sự dữ ? (Một số linh mục có khuynh hướng sống buông thả, không chiến đấu, không hăm ḿnh, không hy sinh).

+ Đức Giêsu đă nói : “Ta đến không phải đem b́nh an, mà đem gươm giáo” (Mt 10,34) là cách nói đến “cuộc chiến của người kitô hữu”. Lời mời gọi “tỉnh thức và cầu nguyện” cũng là lời kêu gọi chiến đấu để khỏi sa chước cám dỗ. Câu nói “vác thập giá mà theo Ta” (Mt 10,38) chỉ những hy sinh trong đời sống hằng ngày, và những phấn đấu lao nhọc để có thể là môn đệ của Chúa.

+ Kitô giáo gắn liền với “chiến đấu”. Bỏ “chiến đấu” không c̣n Kitô giáo nữa. Người ta chỉ có thể chiếm hữu Nước Trời bằng bạo lực. Dĩ nhiên cuộc chiến Kitô giáo không phải là “bạo động” bằng sức mạnh thể lư và trần gian, nhưng là một cuộc chiến v́ t́nh yêu (lotta amorosa).

 

4.

+ Linh mục dạy cho kitô hữu chiến đấu hết ḿnh, nhưng rồi lại dạy cho họ biết “phó thác”, biết nương tựa vào Chúa, biết tin tưởng, không quá lo lắng v́ chỉ dựa vào sức mạnh của riêng ḿnh. Hệ luận của việc “phó thác” là “b́nh an”. Phó thác là “trao phó cho Chúa, để mặc cho Chúa định liệu”; “kư gởi cho Chúa sự sống của ḿnh, sinh mạng, vận mệnh của ḿnh”.

+ Trong lịch sử linh đạo, có những linh đạo nghiêng về phó thác, có những linh đạo nghiêng về chiến đấu. Nhưng hai bên không loại trừ nhau, mà luôn bao hàm nhau. Chúng ta nhấn mạnh “phó thác” dựa vào “sự quan pḥng của Thiên Chúa”, ta tin Chúa thương ta. Chúng ta nhấn mạnh vào sự chiến đấu, để biểu lộ sự cương quyết bước theo Đức Kitô, đi qua khung cửa hẹp. Phaolô đă dùng h́nh ảnh “người lính chiến của Chúa Kitô” (2Tm 2,3), người “lực sĩ điền kinh” (2 Tm 2,5) để diễn tả sự chiến đấu cần thiết trong cuộc đời kitô hữu.

+ Cuộc đời của người kitô hữu có nhiều giai đoạn khác nhau. Có nhũng lúc phải chiến đấu nhiều hơn, có lúc khác th́ phó thác nhiều hơn. Có khi vừa chiến đấu, vừa phó thác. Nhưng cả sự chiến đấu lẫn sự phó thác của người kitô hữu đều có chung một điểm tựa là “ḷng trông cậy” vào t́nh yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Người kitô hữu chiến đấu dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa (Chúa Thánh Thần), cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Người kitô hữu phó thác hoàn toàn cho Chúa, dựa vào sức mạnh của Chúa, trông cậy vào t́nh thương và quyền năng của Chúa.

 

5.

+ Linh mục là “người của cậy trông”, tất cả những ǵ linh mục làm là v́ đặt hy vọng vào Chúa. Nếu không đặt hy vọng vào Chúa, th́ linh mục chẳng làm ǵ cả, v́ không thấy điều ǵ có ích lợi trước mắt. Vả lại, linh mục không thể ép buộc ai, không thể ép buộc người giáo dân yêu Chúa, tin Chúa, v́ đó là những hành vi tự do. Nếu người giáo dân không làm, linh mục cũng chẳng làm ǵ được, chỉ có cậy trông vào Chúa : việc Chúa làm.

+ Tất cả thừa tác vụ của linh mục đều được thực hiện v́ hy vọng và trong hy vọng. Linh mục tin tưởng vào Chúa, cầu xin Chúa cho được như ư Chúa muốn. Linh mục không có một sự bảo đảm trần thế nào, chỉ có sự bảo đảo của Chúa, sự bảo đảm của lời Chúa hứa. Sự bảo đảm của quyền năng và t́nh yêu của Thiên Chúa thể hiện cách trọn vẹn nơi sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

+ V́ linh mục là “người của hy vọng”, nên linh mục là “thầy dạy cậy trông”, thầy dạy đặt hy vọng vào Chúa, thầy dạy tin vững vàng vào lời Chúa hứa, thầy dạy nương tựa vào Chúa, bám vào Chúa.

 

IV. LINH MỤC, THẦY DẠY CẦU NGUYỆN

 

I. Học cậy trông nhờ cầu nguyện

Là thầy dạy cậy trông vào Chúa, linh mục c̣n là thầy dạy cầu nguyện. Chính nhờ cầu nguyện, mà người kitô hữu học “cậy trông”. Chính nhờ cầu nguyện mà người kitô hữu quen đặt hy vọng vào Chúa, quen tin tưởng nơi Chúa.

 

1.

+ Như Đức Thánh Cha Benêđictô XVI viết : “Nếu không c̣n ai lắng nghe tôi nữa, th́ vẫn c̣n Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không c̣n có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không c̣n có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện cùng Chúa. Nếu không c̣n ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, th́ Thiên Chúa vẫn có thể giúp tôi” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 32).

+ Đức Thánh Cha đă trích dẫn trường hợp Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, với 13 năm tù, trong một hoàn cảnh gần như tuyệt vọng, nhờ cầu nguyện mà đă có thể lắng nghe Thiên Chúa và đàm đạo với Thiên Chúa. Điều đó đă làm cho ḷng trông cậy của người trở nên mạnh mẽ; Người trở thành “chứng nhân hy vọng cho mọi người trên toàn thế giới” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Spe salvi, số 32).

 

2.

+ Theo thánh Augustinô, cầu nguyện làm cho trái tim của chúng ta “giản nở”. Cầu nguyện nuôi dưỡng ḷng khao khát Chúa nơi chúng ta. Có khi Chúa chưa nhậm lời chúng ta, là để làm tăng thêm ḷng khao khát của chúng ta. Chúa chưa vội nhậm lời để ḷng trông cậy của chúng ta thêm mănh liệt.

+ Khi ta cầu nguyện, Chúa cũng thanh tẩy tâm hồn ta. Người như gạn đục khơi trong cho ḍng suối tâm hồn ta. Nhiều “dối trá” c̣n dấu ẩn nơi ta (tự lừa dối) được đưa ra ánh sáng. Ḷng khao khát Chúa nơi chúng ta càng thêm tinh tuyền. Ḷng ta càng ngày càng hướng về Chúa như là tương lai cuối cùng của cuộc đời ta, như là Thiên Đàng đích thực của chúng ta.

+ Cầu nguyện c̣n mở ḷng ta ra với tha nhân. Cầu nguyện là đưa “mọi sự và mọi người” vào tâm hồn ta, để tất cả được xuất hiện dưới ánh sáng của Chúa. Khi cầu nguyện, ta không chỉ trông cậy Chúa cho ta, mà cho mọi người có quan hệ với ta. Tương quan cá nhân với Chúa, tương quan cộng đoàn với Chúa xen kẻ nhau trong đời sống cầu nguyện của ta.

+ Khi cầu nguyện, ḷng ta vừa cởi mở với Chúa, vừa cởi mở với thế giới. Cầu nguyện nhiều, chúng ta dần dần trở nên “những con người hy vọng” (cho xă hội, cho thế giới), có khả năng hy vọng và có thể trở thành thầy dạy hy vọng cho những người khác.

 

3.

+ Linh mục dạy cho giáo dân cầu nguyện là tập cho giáo dân đặt niềm hy vọng vào Chúa, trông cậy vào Chúa, tin tưởng vào t́nh thương và quyền năng của Chúa. Tập cho giáo dân hướng về Chúa và khẩn cầu Chúa, chờ đợi Chúa nhậm lời.

+ Hoàn cảnh càng khó khăn bao nhiêu, lời cầu nguyện càng tha thiết, và ḷng trông cậy càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Và nhờ tin tưởng Chúa mà ḷng trông cậy vào Chúa trở nên vững vàng. Linh mục là thầy dạy đức tin, cũng là thầy dạy cầu nguyện, thầy dạy trông cậy vào Chúa.

 

II. Linh mục, thầy dạy cầu nguyện, cũng là thầy dạy đón nhận và đáp trả ơn Chúa

 

1.

+ Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo dạy rằng : cầu nguyện là một hồng ân, v́ cầu nguyện Kitô giáo không là một hành vi tự nhiên, mà là một hành vi siêu nhiên. Tự sức ḿnh, ta không thể cầu nguyện đựơc. Ta cầu nguyện được là do Chúa ban ơn cho ta. Chính những lúc khô khan, càng làm cho ta xác tín, cầu nguyện là một hồng ân như Chúa Giêsu đă nói : “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65).

+ Linh mục hăy dạy cho giáo dân biết cầu nguyện là một hồng ân, để giáo dân biết quư trọng sự cầu nguyện, và không ngă ḷng nản chí gặp lúc khô khan, mà cần ư thức mạnh mẽ hơn nữa : cầu nguyện là một ơn huệ của Chúa và hăy nài xin cho được ân huệ đó (Xin dạy con cầu nguyện).

Kiên tŕ trong đời sống cầu nguyện cũng là một bài học “đức cậy”. Chính Chúa Giêsu đă dạy rằng : “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22).

 

2.

+ Thánh Tôma định nghĩa “cầu nguyện là cầu xin Thiên Chúa những điều phải lẽ”. Nhưng theo thánh Phaolô : “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta” (Rm 8,26). Chúa Thánh Thần điều chỉnh tâm t́nh và tư tưởng của chúng ta rập theo thánh ư của Thiên Chúa khi chúng ta cầu nguyện (lúc Chúa Thánh Thần hành động). Cầu nguyện là môi trường giáo dục đức tin, đức cậy, đức mến rất tốt.

+ Chính v́ thế trước hết, bản thân linh mục hăy biết để dành th́ giờ cho việc cầu nguyện để không ngừng được Thiên Chúa giáo dục, không ngừng là môn sinh của Thiên Chúa (như lời tiên tri Isaia). Bấy giờ linh mục mới có thể dạy bảo giáo dân cầu nguyện. Một số đông linh mục không c̣n dạy giáo dân cầu nguyện nữa, dù đó là một nghĩa vụ quan trọng nhất của linh mục đối với giáo dân.

 

3.

+ Linh mục là “thầy dạy tiếp xúc với Chúa”. Mà nếu linh mục không có tiếp xúc với Chúa, th́ làm sao mà dạy giáo dân tiếp xúc với Chúa được. Dĩ nhiên, “dạy cầu nguyện là một điều rất khó, nên nhiều linh mục e ngại, không muốn làm. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể dạy ta cầu nguyện, nên linh mục chỉ có thể dạy cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần. Nếu linh mục chỉ có thể rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô cùng với Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần, th́ linh mục cũng chỉ có thể dạy giáo dân cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần và cùng với Chúa Thánh Thần.

+ Linh mục có thể dùng Thánh Kinh, thánh ca, thánh vịnh để tập cho giáo dân cầu nguyện. Nhưng trước hết linh mục phải dạy cho giáo dân biết cầu nguyện là ǵ. Đôi khi linh mục chỉ biết một vài định nghĩa lư thuyết về cầu nguyện, mà trong thực tế không cầu nguyện hay ít cầu nguyện, nên không có kinh nghiệm về cầu nguyện, và không thể dạy lại cho giáo dân.

+ Nhưng dầu sao, đó là một bổn phận không thể bỏ qua, nên linh mục cứ phải dạy cho giáo dân cầu nguyện. Chính linh mục, khi đă ư thức nghĩa vụ phải dạy cho giáo dân cầu nguyện, th́ sẽ tha thiết nài xin Thiên Chúa ban cho chính ḿnh “ơn biết cầu nguyện”. Linh mục cùng với giáo dân tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban ơn cầu nguyện, th́ chắc chắn Ngài sẽ ban cho. Linh mục hăy xác tín rằng không khi nào Thiên Chúa không nhậm lời. Ngài luôn nhậm lời và ban cho ta c̣n hơn điều ta xin : “Ngài sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài” (Lc 11,13). Linh mục cũng phải tập cho giáo dân dần dần xác tín như thế.

+ Linh mục hăy dạy cho giáo dân “biết thuận theo Chúa Thánh Thần”, nhờ đó họ mới có một đời sống thiêng liêng, đời sống nội tâm đích thực, v́ đời sống nội tâm là đời sống thuận theo Chúa Thánh Thần. Linh mục hăy tập cho giáo dân cởi mở tâm hồn ra với Chúa, biết đón nhận ơn Chúa, để cho ơn Chúa tác động biến đổi ḿnh.

+ Ta có được sự cầu nguyện là v́ Chúa đến với ta. Chúa dùng nhiều cách để mở cửa tâm hồn ta. Chúa khơi dậy t́nh yêu nơi ta, khơi dậy ḷng khao khát nơi ta. Ta có được sự cầu nguyện là v́ “Chúa khao khát ta”. Chúa biểu lộ điều đó tại bờ giếng Giacóp và trên thập giá : “Ta khát” (Ga 19,28). Theo Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo, cầu nguyện là sự gặp gỡ giữa hai sự khao khát (la rencontre des deux soifs) : Chúa khao khát ta và ta khao khát Chúa (x. GLHTCG, số 2560). Đó là sự gặp gỡ giữa hai trái tim, hai t́nh yêu. Cầu nguyện là t́nh yêu được T́nh Yêu khơi dậy (t́nh yêu đáp trả lại T́nh Yêu). Do đó dạy cầu nguyện chính là dạy yêu Chúa (Ví dụ : người mẹ dạy con cầu nguyện), dạy đón nhận và đáp trả t́nh yêu của Chúa, dạy đón nhận và đáp trả ơn Chúa.

 

III. Linh mục là thầy dạy nội tâm hóa giao ước bằng cầu nguyện

 

1.

+ Khi nói cầu nguyện là “tiếp xúc với Chúa”, chúng ta phải nói tới ư nghĩa của Giao Ước. Lịch sử của Giao Ứơc vừa là lịch sử của Mạc Khải, vừa là lịch sử của cầu nguyện (đáp trả).

+ Cầu nguyện giúp h́nh thành và triển nở Giao Ước khắc ghi trong trái tim. Cầu nguyện là thiết lập tương giao với Chúa, gặp gỡ Chúa trong tâm hồn. Tương giao này không bắt đầu từ chúng ta, mà bắt đầu từ Thiên Chúa. Thiên Chúa thiết lập tương giao trước. Thiên Chúa yêu chúng ta trước. Người mời gọi và lôi kéo chúng ta vào trong t́nh yêu của Ngài, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.

 

2.

+ Đạo của chúng ta là “đạo của Giao Ước Mới”. Giống như các tiên tri trong Cựu Ước, các linh mục là người giáo dục Dân Chúa sống Giao Ước và thực hành Giao Ước. Linh mục giúp cho giáo dân “nội tâm hóa” Giao Ước. Cơ bản của Giao Ước là “đồng ư thuộc về nhau”. Thiên Chúa thuộc về chúng ta, v́ Ngài tự hiến cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô (khi ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta). Chúng ta thuộc về Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.

+ Chính Đức Giêsu Kitô là Giao Ước Mới ghi khắc trong tim mỗi tín hữu. Cầu nguyện là làm cho Đức Giêsu Kitô tỏ hiện trong tâm hồn ta, là gặp gỡ Chúa trong tâm hồn.

+ Trong Giao Ước nội tâm này, Danh Xưng quan trọng nhất là “Chúa” (Κύριος) và “Giêsu-Kitô” (Ιησούς Χριστος). Cầu nguyện là ghi khắc danh Chúa trong trái tim, để không bao giờ quên nữa. Linh mục phải dạy cho giáo dân biết kêu cầu danh Chúa để được cứu rỗi : “V́ tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,13).

+ Giao Ước không là giao kèo bằng chữ chết, nhưng là một giao kèo sống động, một đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với chúng ta. Do đó có một định nghĩa khác về việc cầu nguyện cũng rất gần gũi và thực tế : “Cầu nguyện là chuyện văn với Chúa”. Linh mục hăy tập cho giáo dân nói chuyện với Chúa, lắng nghe lời Chúa và đáp trả lời Chúa. Trong khi đáp trả, chúng ta tâm sự với Chúa, kêu xin Chúa, cảm tạ Chúa, ngợi khen và chúc tụng Chúa, bày tỏ t́nh yêu đối với Chúa. Tương quan giữa chúng ta với Chúa là tương quan giữa người bạn với người bạn (tương quan bằng hữu). Đấng thiết lập tương quan bằng hữu là Chúa Thánh Thần.

 

IV. Linh mục là thầy dạy kết hợp với Chúa, nên một với Chúa trong cầu nguyện

 

1.

+ Một định nghĩa khác về cầu nguyện cũng rất sâu xa, nhưng cũng dễ hiểu : “Cầu nguyện là kết hợp với Chúa, gắn bó với Chúa, và nên một với Ngài”. Chúng ta chỉ có thể kết hợp với Chúa trong Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Thánh Thần.

+ Linh mục phải dạy cho giáo dân “sống kết hợp với Chúa, v́ kết hợp với Chúa là “cốt lơi” của đời sống nội tâm của người kitô hữu (Ví dụ : cành nho - thân nho, cành nào ĺa cây sẽ khô héo liền). Chỉ khi nào kết hợp với Chúa, gắn bó với Chúa và nên một với Ngài, người kitô hữu mới được thông phần vào sự sống của Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Chúng ta chỉ có thể kết hợp với Chúa trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần.

 

2.

+ Cầu nguyện là một sự hiệp thông, mà Chúa Thánh Thần là ơn thông hiệp. Hạnh phúc và niềm vui của ta nẩy sinh từ việc ta kết hợp với Chúa, nên một với Chúa, ở trong ḷng Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là thiên đàng của chúng ta. Cầu nguyện, theo một nghĩa nào đó, là ở “trong thiên đàng”, v́ đạt tới mục tiêu của đời sống kitô hữu.

+ Dĩ nhiên, sự kết hợp với Chúa, hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa là “cầu nguyện ở tŕnh độ rất cao, mà linh mục ít khi đạt tới tŕnh độ ấy, nhưng linh mục vẫn phải giải thích cho giáo dân biết về ư nghĩa sâu xa ấy của việc cầu nguyện. Nếu không thực hiện, linh mục thực sự lỗi bổn phận trong chức vụ linh mục. Linh mục nên xác tín rằng Chúa Thánh Thần vẫn có thể làm việc qua con người bất xứng của ḿnh như một dụng cụ trong tay Ngài, để giúp người kitô hữu kết hợp với Đức Kitô và nên một với Người.

 

3.

+ Hiệp thông cũng có thể là chia sẻ. Chúng ta được thông phần, được chia sẻ sự sống của Chúa, t́nh yêu của Chúa, chương tŕnh của Chúa, lương thực của Chúa. V́ cầu nguyện là hiệp thông, nên cầu nguyện đích thực luôn hướng về hiệp thông bí tích trong mầu nhiệm Thánh Thể. Hiệp thông là đón rước Chúa vào trong tâm hồn, trong cuộc sống, để Chúa sống trong ta. Hiệp thông trọn vẹn sẽ đưa đến trạng thái như thánh Phaolô đề cập : “Tôi sống, nhưng không c̣n phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

 

 


1 2 3

Xem các bài viết khác trong Rev. Trần Minh Tiến, Khoá 7 GHHV Đà Lạt Việt Nam.