Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Linh Mục
Trong Năm Giáo Dục Kitô Giáo 2008

1 2 3

Thánh Gia

 

 

 

LINH MỤC
NHÀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

 

 

ĐGM. Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

 

 

 

V. LINH MỤC, THẦY DẠY THỜ PHƯỢNG CHÚA

 

I. Nhân đức thờ phượng trong thời đại Tân Ước

+ Thờ phượng là một nhân đức mà nhiều người có đạo hôm nay, kể cả tu sĩ và linh mục, nhiều khi quên lăng. “Ư thức về sự linh thánh” cứ mỗi ngày phai nhạt dần trong thế giới càng ngày càng bị tục hoá (x. Rudolf Otto : “Sacré et profane : tremendum et fascinosum). Kitô giáo ngày nay như mất hết vẻ linh thiêng. Thực tế, ngay cả trong hàng giáo sĩ và tu sĩ cũng có không ít người đánh mất chiều kích linh thánh trong đời sống của ḿnh.

+ Theo thánh Tôma, thờ phượng thuộc về phạm vi đức công bằng : chúng ta tôn trọng quyền của Thiên Chúa trên chúng ta, v́ Ngài đă dựng nên chúng ta. Sự sống của chúng ta, vận mệnh của chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta phải phục tùng Ngài cách tuyệt đối. Tương quan giữa chúng ta với Ngài là tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo Hoá. Chúng ta quy hướng mọi sự về Ngài. Ngài là Alpha (nguyên thuỷ) và Omêga (cùng đích). Dù trong thời đại Tân Ước, chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân Lư : “Nhưng giờ đă đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, v́ Chúa Cha t́m kiếm những ai thờ phượng Ngài như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4, 23-24), nhưng thái độ kính sợ vẫn cần phải có.

+ Là linh mục của thời đại Tân Ước, chúng ta có nhiệm vụ phải hướng dẫn giáo dân thực hành “phượng tự của thời đại Tân Ước”. Linh mục, người dạy giáo dân thờ phượng Thiên Chúa, phải noi gương Đức Giêsu là “con người thờ phượng tuyệt hảo” (le parfait adorateur du Père). Chính Người đă khai trương một “phượng tự mới”. Giáo hội đă lănh nhận gia tài phượng tự đó từ Đức Giêsu.

+ Tông huấn “Sacramentum caritatis” (Bí Tích T́nh Yêu) nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự thờ phượng trong chính lúc chúng ta “rước lễ”. Tông huấn trích dẫn lời thánh Augustinô : “Nemo autem illam carnem manducat, nisi prius adoraverit ; peccemus non adorando - Không ai ăn Thịt này mà trước đó đă không thờ lạy; nếu không thờ lạy, chúng ta có tội”. Và “Rước lễ là thờ lạy Đấng chúng ta đón nhận” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Sacramentum caritatis, số 66). Thánh lễ là hành vi thờ phượng tối cao của Hội Thánh.

+ Ngày hôm nay, Giáo hội nhấn mạnh trở lại việc thờ phượng Đức Giêsu Thánh Thể ngoài lúc cử hành thánh lễ (x. ĐGH. Bênêđictô XVI tại Đại hội giới trẻ thế giới năm 2006, tại Köln, Đức quốc). Đó là một phương thế giúp cho chúng ta và giáo dân tái tạo lại “ư thức linh thánh” rất cần thiết cho đời sống đạo, giúp cho giới trẻ tái khám phá “nhu cầu linh thánh” trong thẳm sâu cơi ḷng họ.

+ Thờ phượng trong Kitô giáo đi đôi với t́nh yêu, một t́nh yêu sâu thẳm chứ không phải là t́nh yêu phàm tục. Trong Bí Tích Thánh Thể, Con Thiên Chúa đến thăm chúng ta và khao khát trở nên một với chúng ta. Hành động thờ lạy ngoài thánh lễ kéo dài và làm sâu sắc thêm tất cả những ǵ diễn ra trong chính cử hành thánh lễ.

+ Linh mục hăy tập cho giáo dân thờ phượng Chúa trong thánh lễ và ngoài thánh lễ (Mục vụ : truyền phép, chầu Thánh Thể). Linh mục hăy tập cho giáo dân viếng Chúa, và làm gương cho giáo dân trong việc cầu nguyện trước Thánh Thể.

 

II. Vai tṛ nhiệm huấn của linh mục (Mystagogie)

Phượng tự Kitô giáo là một “môi trường linh thiêng” và đầy sức sống. Môi sinh ấy là Thần Khí của Đức Kitô Tử Nạn - Phục Sinh, Thần Khí là Sự Sống của Thiên Chúa, của Đức Kitô Phục Sinh, trở thành môi trường sống của chúng ta trong phượng tự Kitô giáo (in Spiritu). Nhiệm vụ của linh mục là dẫn đưa các tín hữu vào môi trường đó, để họ có thể tôn thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,23). Đó là vai tṛ nhiệm huấn của linh mục.

Linh mục là “thừa tác viên thánh”, người đưa các tín hữu vào “mầu nhiệm thánh” (sacrum mysterium). Trước hết linh mục dẫn đưa dân Chúa vào mầu nhiệm bằng cách cử hành “mầu nhiệm”. Mầu nhiệm trọng tâm mà linh mục cử hành là mầu nhiệm Tử Nạn - Phục Sinh của Đức Kitô, là kỳ công lớn nhất của t́nh yêu Thiên Chúa, là hy tế cứu độ dâng lên Thiên Chúa làm đẹp ḷng Ngài hơn cả.

Chính việc cử hành của linh mục, với những lời đọc, những cử chỉ thực hiện một cách sốt sắng và nghiêm túc, một cách nào đó đă dẫn đưa dân Chúa vào mầu nhiệm, làm cho họ tiếp xúc với mầu nhiệm, hiểu và yêu mến mầu nhiệm (Verba et Gesta). Trong phụng vụ, các cử chỉ và các lời đọc soi sáng cho nhau. Cả hai đều có giá trị dấu chỉ, một bên là dấu chỉ bằng ngôn ngữ hay tiếng nói, bên kia là dấu chỉ bằng cử điệu hay hành vi. Cả hai bên đều có ư nghĩa và bổ sung cho nhau. Chính v́ thế, linh mục hăy đọc những lời trong phụng vụ cách rơ ràng, khoan thai; thực hiện các cử chỉ, hành vi cách nghiêm túc, và trông thấy được.

Giáo lư nhiệm huấn chia làm nhiều giai đoạn : giai đoạn khai tâm, giai đoạn bổ túc và giai đoạn đào sâu. Trong giai đoạn khai tâm, linh mục hăy giải thích những điều cơ bản của nghi lễ và mầu nhiệm. Trong giai đoạn bổ túc, linh mục cố gắng dạy cho giáo dân biết ư nghĩa tôn vinh Thiên Chúa và cứu độ con người của các bí tích. Trong giai đoạn đào sâu, linh mục giúp cho tín hữu hiểu sâu hơn các mầu nhiệm, để các tín hữu được hiệp thông thật sâu xa vào “mầu nhiệm”.

 

III. Linh mục dạy cho giáo dân biết vai tṛ của Chúa Thánh Thần và Giáo hội trong phụng vụ

 

1.

+ Nhiệm huấn (mystagogie) là giáo huấn về các mầu nhiệm, dẫn đưa vào các mầu nhiệm. Theo kiểu nói của thánh Phaolô và của các giáo phụ, mầu nhiệm cũng chính là bí tích (μυστήριον). V́ chúng ta không những tin các mầu nhiệm, mà c̣n cử hành các mầu nhiệm. Đạo của chúng ta là đạo của các mầu nhiệm, chỉ những ai tin, đă được “dẫn đưa vào” (khai tâm, initiés), mới có thể hiểu được.

Việc dẫn đưa vào mầu nhiệm là một tiến tŕnh tuần tự, chứ không thể là toàn bộ hay trọn vẹn ngay tức khắc. Trong giai đoạn đầu của lịch sử Giáo hội, các dự ṭng, dù đă được học lâu năm, nếu chưa chịu phép Rửa tội, th́ không được phép tham dự phần “Phụng vụ Thánh Thể”.

+ Khi nói tới bí nhiệm, bí tích, mầu nhiệm, không phải chúng ta chỉ nói tới khía cạnh bí mật (bí kiếp, mật mă, thần chú), khó hiểu, nhưng quan trọng hơn, đó c̣n là khía cạnh “siêu nhiên”, siêu phàm, vượt trên tự nhiên, khía cạnh “ân sủng”.

Chính v́ thế, mà không ai có thể đi vào mầu nhiệm được, nếu không được dẫn đưa bởi ánh sáng, t́nh yêu, và quyền năng của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Linh mục chỉ có thể đưa dẫn người kitô hữu, đưa dẫn dân Chúa vào các mầu nhiệm nhờ Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần.

 

2.

+ Linh mục, cùng với giám mục, thông phần chức Tư Tế của Đức Kitô, là người quản lư các mầu nhiệm (bí tích). Linh mục có quyền và có trách nhiệm phân phát, nhưng chỉ có thể làm được điều đó trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, do quyền năng thánh chức đă lănh nhận (potestas ordinis). Tuy nhiên, linh mục không thi hành quyền năng này theo kiểu phù phép, nhưng phải giảng giải, dạy dỗ và giáo dục dân Chúa về các mầu nhiệm. Linh mục chỉ có thể làm điều đó cách tốt đẹp với Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là “Thầy dạy kỳ diệu nhất”, và linh mục là dụng cụ có ư thức của Chúa Thánh Thần.

 

3.

Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo đă bàn về vai tṛ của Chúa Thánh Thần và Giáo hội trong phụng vụ từ số 1091 đến hết số 1109 (19 số).

“Trong Phụng Vụ, Chúa Thánh Thần là thầy dạy đức tin cho Dân Thiên Chúa, là Đấng thực hiện những kỳ công của Thiên Chúa, những bí tích của Giao Ước Mới. Chúa Thánh Thần mong muốn và hoạt động trong ḷng Hội Thánh để chúng ta sống bằng chính sự sống của Đức Kitô phục sinh. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, chúng ta đáp lại bằng đức tin; lúc ấy, chúng ta thực sự cộng tác với Ngài. Chính v́ thế, Phụng Vụ trở thành công việc chung của Chúa Thánh Thần và Hội Thánh” (GLHTCG, số 1091).

“Khi thông ban mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua các bí tích (dispensation sacramentelle), Chúa Thánh Thần cũng hành động như trong các trường hợp khác của nhiệm cục cứu độ : Người chuẩn bị cho Hội Thánh đón Chúa Kitô, gợi nhớ và biểu lộ Chúa Kitô cho cộng đoàn tín hữu; Người dùng quyền năng làm cho mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện và tác động trong hiện tại; cuối cùng, Người liên kết Hội Thánh với đời sống và sứ mạng của Chúa Kitô” (GLHTCG, số 1092).

 

IV. Vai tṛ nhiệm huấn của linh mục trong mục vụ các bí tích (ngoài bí tích Thánh Thể)

Trong sứ mạng giáo dục đời sống đức tin của người kitô hữu, linh mục cần chú trọng đầy đủ đến việc giáo dục dân Chúa sống bí tích.

Một trong những điều quan trọng cốt yếu mà linh mục thiếu sót là giáo dục cho dân thấy tương quan mật thiết giữa các bí tích với bí tích Thánh Thể, là chóp đỉnh và nguồn mạch của đời sống và sứ vụ của Giáo hội.

Trong tông huấn “Sacramentum Caritatis” (Bí tích T́nh Yêu), Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đă đề cập đến tương quan giữa bí tích Thánh Thể và các bí tích khác trong 14 số (số 16-29). Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của vấn đề này trong đời sống đức tin. Một số người có đạo, v́ hiểu rất ít, và có khi hiểu sai lạc về các bí tích, nên có thái độ coi thường, và dần dần đi tới việc bỏ bê “sự thực hành đạo” (non pratiquant).

Nếu được hướng dẫn kỷ lưỡng, chắc chắn đời sống bí tích sẽ có nhiều hoa trái, và hoa trái đó cũng chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

+ Các bí tích khai tâm : “Như các Nghị Phụ đă nói, chúng ta phải tự hỏi xem cộng đoàn của chúng ta đă ư thức rơ về mối liên hệ chặt chẽ giữa các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể hay chưa. Chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng ta được rửa tội và thêm sức để nhằm vào việc lănh nhận Bí tích Thánh Thể. Điều này đưa đến trách nhiệm mục vụ, phải giúp người ta có một sự hiểu biết thống nhất hơn về tiến tŕnh khai tâm kitô giáo … Bí tích Rửa Tội giúp chúng ta được đồng h́nh đồng dạng với Đức Kitô, được đón nhận vào Hội thánh và trở thành con Thiên Chúa, đó là cửa ngơ để tiến đến các bí tích khác. Với bí tích này, chúng ta được gia nhập vào Thân Thể duy nhất của Đức Kitô (x. 1Cr 12,13), vào dân tư tế. Tuy nhiên, chính việc tham dự vào hy tế Thánh Thể mới kiện toàn trong chúng ta những ǵ bí tích Rửa tội đă ban cho chúng ta” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 17)

+ Bí tích Ḥa giải : “Thượng Hội Đồng nhắc nhớ rằng trách nhiệm mục vụ của Giám mục trong địa phận là phải thúc đẩy giáo dục ḷng sám hối xuất phát từ Bí tích Thánh Thể và khuyến khích giáo dân thường xuyên đi xưng tội. Mọi linh mục phải quảng đại trong việc ban bí tích Giao Ḥa. Về vấn đề này, phải chú ư đến việc đặt các ṭa giải tội cách nào để dễ nhận ra và phải làm nổi bật ư nghĩa của bí tích này. Tôi xin các vị mục tử, phải chú ư đến cách thức trao ban Bí tích Giao Ḥa và thu hẹp việc thực hành xá giải chung vào những trường hợp được qui định” ĐGH. Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 21)

+ Bí tích xức dầu : “Nếu Bí tích Thánh Thể cho thấy cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô được biến đổi thành t́nh yêu, th́ Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân nối kết những người đang đau yếu với việc tự hiến của Đức Kitô để mang lại ơn cứu độ cho mọi người, đến độ bệnh nhân trong mầu nhiệm hiệp thông chư thánh cũng được tham gia vào việc cứu độ thế giới”… “Việc rước lấy Của Ăn Đàng khai mở cho bệnh nhân sự viên măn của mầu nhiệm vượt qua, v́ thế phải bảo đảm cho bệnh nhân rước lễ” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 22)

+ Bí tích Hôn Phối : “Trọn cuộc đời người kitô hữu mang dấu ấn t́nh yêu hôn nhân của Đức Kitô đối với Hội Thánh. Bí tích Rửa Tội giúp chúng ta hội nhập vào Dân Chúa, là mầu nhiệm mang tính chất hôn nhân; có thể gọi bí tích này ‘cuộc tắm rửa tân hôn’ đi trước tiệc cưới, là Bí tích Thánh Thể . Bí tích Thánh Thể củng cố liên tục sự duy nhất và t́nh yêu bất khả phân ly của mọi hôn nhân Kitô giáo. Trong bí tích này, nhờ quyền năng bí tích, ràng buộc hôn nhân được nối kết nội tại với sự duy nhất Thánh Thể giữa Đức Kitô là hôn phu và Hội Thánh là hôn thê (x. Ep 5,31-32). Sự ưng thuận lẫn nhau mà vợ chồng thực hiện trong Đức Kitô và làm họ thành một cộng đoàn sự sống và t́nh yêu, cũng mang một chiều kích Thánh Thể” (ĐGH. Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 27)

Nên một với Chúa để nên một với nhau, nên một với nhau để nên một với Chúa. Chính v́ thế, những người bị rối sẽ không được rước lễ.

 

VI. LINH MỤC
VỪA LÀ THẦY DẠY VỪA LÀ MÔN SINH

 

1. Môn đệ và tông đồ

+ Linh mục là tông đồ, tham gia sứ vụ tông đồ của Giáo hội. Cùng với giám mục và dưới sự hướng dẫn của giám mục, linh mục là người được sai đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu.

+ Linh mục cũng như các tông đồ, trước khi được sai đi, đă được kêu gọi, được đào tạo, được chọn. Trước khi là tông đồ, chúng ta phải là môn đệ. Người môn đệ phải không ngừng gần gũi với Thầy, tiếp xúc với Thầy, học hỏi nơi Thầy.

+ Chúa Giêsu không những là Thầy, mà c̣n là Chúa của chúng ta, nên việc chúng ta học hỏi nơi Người, là môn sinh của Người, không dừng lại ở một giai đoạn. Khoa học mà chúng ta học với Chúa Giêsu không là khoa học theo nghĩa trần gian, nhưng là khoa học thần linh (science divine), khoa học về sự sống, về t́nh yêu của Thiên Chúa. Chính v́ thế mà “ngừng học” là “không biết ǵ nữa”, không nói được ǵ nữa. Ngưng là môn đệ cũng là chấm dứt công việc tông đồ. Trường hợp Giuđa thực là rơ ràng : khi không muốn nghe Chúa nữa, ông bắt đầu bỏ Chúa, và sau đó là nộp Chúa.

+ Trong lịch sử Giáo hội, các nhà truyền giáo nhiệt thành nhất, các vị thầy lỗi lạc nhất (các giáo phụ, các thánh tiến sĩ) thường là những môn sinh chăm chỉ nhất, là những môn đệ gần gũi nhất của Chúa. Các vị thánh đều là những thầy dạy rất rơ ràng, rất chắc chắn cho nhiều thế hệ, v́ các ngài là những học tṛ chăm chỉ nhất, xuất sắc nhất của Chúa. Theo quan điểm đức tin và cái nh́n của Kinh Thánh, “đời sống chiêm niệm” thực sự là một tương quan “thầy tṛ” đẹp đẽ nhất, thắm thiết nhất với Chúa.

+ Một điều hết sức cơ bản trong đời sống tu đức là : linh hồn nào cũng cần người “mục tử” hướng dẫn chăm sóc. Ngoại trừ Chúa Giêsu ra, người mục tử nào cũng vừa là mục tử, vừa là con chiên. Nếu ta không là con chiên, không được chăm sóc, th́ ta sẽ không biết cách chăm sóc người khác.

 

2. Linh mục vừa là thầy, vừa là học tṛ

+ Có lẽ mỗi người trong chúng ta có chút ít kinh nghiệm về dạy học. Những người thầy dù đă khá quen thuộc, nhuần nhuyễn với việc dạy học, dù đă dạy nhiều lần cùng một môn học, vẫn không thể dạy tốt nếu hoàn toàn không có chuẩn bị. Làm thầy chưa quen th́ cần chuẩn bị nhiều hơn, làm thầy thật giỏi hay quen rồi th́ cần chuẩn bị ít hơn. Chính v́ thế mà khi dạy, bao giờ thầy cũng học được một điều ǵ đó.

+ Có những trường hợp rơ ràng : cách học hay nhất là dạy. Một người vừa hiếu học, vừa khiêm tốn, th́ sẽ tiến rất nhanh và rất xa trong công việc của ḿnh. Có những linh mục luôn thao thức trau dồi kiến thức thần học Kinh Thánh cho ḿnh, đă mở những lớp thần học giáo dân, những lớp Kinh Thánh cho người lớn. Thế là cả thầy lẫn tṛ đều được nhờ : thầy trau dồi không ngừng nên lớp học hấp dẫn sinh động. Các “môn sinh” đă lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm, có kiến thức, có thể đặt những câu hỏi khiến thầy phải động năo và phải nghiên cứu thêm.

+ Cũng có những trường hợp ngược lại : cách dạy tốt nhất là học. Kinh nghiệm cho thấy, dù dạy bất cứ môn ǵ, nếu không học thật kỷ càng, không biết thật rơ, th́ người dạy sẽ không “vững chắc”. Chính v́ thế, muốn cho học tṛ và sinh viên giỏi, thầy phải học hỏi không ngừng. Càng học, càng đọc sách nhiều th́ dạy càng hay, càng chắc chắn. Chỉ có thể là một thầy dạy vừa sâu vừa rộng khi không ngừng học hỏi suy tư.

+ Chúng ta không thể nào là những thầy dạy đức tin, thầy dạy sống đạo tốt được nếu chúng ta không trau dồi bằng đọc sách, học hỏi và suy tư. Đó là ư nghĩa của việc “thường huấn” mà Giáo hội hôm nay không ngừng nhắc nhở chúng ta. Linh mục là người mục tử, và công việc chính yếu của linh mục là công việc mục vụ. Khoa mục vụ là một nghệ thuật trên hết mọi nghệ thuật (Ars artium – thánh Grêgôriô Cả). Một linh mục thành công là một nghệ sĩ tài ba.

 

3. Các lănh vực cần học hỏi (thường huấn)

+ Linh mục là “thầy cả”, là một “trưởng lăo”, nên phải là một người trưởng thành về mọi mặt. Nhưng đó chỉ là nguyên tắc, là lư tưởng mà mỗi người trong chúng ta chưa đạt được. Vả lại, sự trưởng thành của một con người là một trạng thái động, một tiến tŕnh, chứ không là một trạng thái tĩnh, một điểm dừng. Chính v́ thế, con người vẫn có thể mỗi ngày trưởng thành hơn, nhất là trong đời sống đức tin, đức cậy và đức ái.

+ Người kitô hữu không ngừng được Thiên Chúa giáo dục, dạy dỗ th́ mới xứng đáng trở nên con cái của Thiên Chúa. Linh mục không là một ngoại lệ, mà c̣n cần được giáo dục nhiều hơn nữa. Các lănh vực chính trong công việc đào tạo linh mục vẫn phải được tiếp tục trong đời sống của mỗi người chúng ta.

- Lănh vực nhân bản : Một phần lớn những thất bại trong công việc mục vụ của linh mục là v́ những lư do con người (nguồn gốc nhân bản) : tính t́nh, tâm lư, cách xử thế. Theo tông huấn “Pastores dabo vobis”, linh mục phải là người có khả năng mở ra những tương quan với người khác. Nếu không có khả năng tạo ra những tương quan tốt với người khác, linh mục không thể nào giúp đỡ, phục vụ người khác được (thầy dạy). Linh mục c̣n có nhiệm vụ “nối kết”, tạo các nhịp cầu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau. Một phần khá lớn trong công việc của linh mục là điều chỉnh các tương quan của giáo dân với nhau, để họ có được sự b́nh an và có khả năng bước theo Đức Kitô.

Linh mục hăy không ngừng học cách sống (savoir-vivre), và đừng bao giờ nghĩ rằng ḿnh đă trọn vẹn. Linh mục học sống từ kinh nghiệm. Có những bài học kinh nghiệm rất đắt giá. Linh mục có thể học với giám mục, với anh em linh mục khác, với giáo dân, và có khi phải học với cả người ngoại đạo. Hăy cố gắng thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô : “Những ǵ là chân thật, cao quư, những ǵ là chính trực tinh tuyền, những ǵ là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những ǵ là đức hạnh, đáng khen, th́ xin anh em hăy để ư” (Pl 4,8).

- Lănh vực trí thức : Một linh mục không trau dồi, không học hỏi thêm, sẽ chóng tụt hậu, và sẽ không đáp ứng được nhu cầu mục vụ. Việc đọc sách thần học và Kinh Thánh là điều không thể thiếu, để linh mục có thể hoàn thành sứ mạng “rao giảng Lời Chúa”, giúp giáo dân đưa Lời Chúa vào cuộc sống. Linh mục phải không ngừng cập nhật hoá mới có thể giải đáp những vấn đề của thời đại, cho ḿnh và cho giáo dân, đặc biệt là những vấn đề luân lư… Linh mục không trau dồi về phương diện trí thức sẽ không có chất liệu để nuôi dưỡng giáo dân, và hệ quả là đàn chiên ốm đói, suy dinh dưỡng.

- Lănh vực thiêng liêng : Con người linh mục phải được canh tân đổi mới không ngừng. Chúa Thánh Thần mà linh mục nhận lănh khi chịu chức thánh sẽ không ngừng hoạt động hiến thánh con người linh mục, để linh mục trở nên đồng h́nh đồng dạng với Đức Kitô, người mục tử nhân lành. Tương quan mật thiết với Đức Kitô là điều mà linh mục phải tự do đảm nhận và sống. Linh mục phải tự nguyện “sống trong Chúa Thánh Thần”, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để có được một sự gắn kết vừa hữu thể, vừa tâm linh, vừa bí tích, vừa đạo đức với Chúa và Giáo hội (lien ontologique et psychologique, sacramentel et moral).

- Lănh vực mục vụ : “Ơn riêng Thiên Chúa đă ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lư ân huệ thiên h́nh vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr 4,10).

“Linh hồn” của công việc mục vụ là “đức ái mục tử”. Chính đức ái mục tử làm cho công việc mục vụ sinh nhiều hoa trái của Thánh Thần. Tâm hồn linh mục phải không ngừng rộng mở với ân sủng, để “đức ái mục tử” của chính Chúa Giêsu tràn sang cho linh mục, nhờ Chúa Thánh Thần mà linh mục đă nhận lănh trong bí tích Truyền Chức.

Chính đức ái mục tử thúc đẩy linh mục không ngừng t́m hiểu các con chiên, t́m hiểu hoàn cảnh sống của họ; phân định những lời mời gọi của Chúa Thánh Thần trong các hoàn cảnh lịch sử; t́m ra những phương pháp thích hợp nhất, những cách thức hữu ích nhất để thi hành sứ vụ. Đức ái mục tử linh hoạt và nâng đỡ các nỗ lực của linh mục, để cho công việc mục vụ trở nên “phù hợp, khả tín và hữu hiệu hơn”.

 

4. Linh mục học với ai ?

 

+ Trước hết là học với Chúa :

Người linh mục sẽ không bao giờ thực hiện được cách tốt đẹp các chức năng của ḿnh nếu dừng lại, chấm dứt việc học hỏi với Chúa. Chính Chúa là Thầy dạy sự khôn ngoan, Thầy dạy con đường nên thánh. Chúa dạy cho chúng ta biết Chúa, biết chính ḿnh và biết người khác.

Chúa luôn ban ánh sáng cho tâm trí chúng ta. Chúng ta có thể có được những “trực giác thiêng liêng” rất sâu xa và rất đúng nhờ học với Chúa.

Chúng ta học trực tiếp với Chúa bằng sự cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa. Chúng ta có thể học những bài học hết sức hữu ích và đầy tràn sự sống với Chúa trong thinh lặng.

 

+ Học với giám mục và anh em linh mục :

V́ cương vị linh mục là thầy dạy, nên ít có ai dám làm thầy dạy của linh mục. Đó là một thiệt tḥi lớn cho linh mục! Chỉ có giám mục nào can đảm mới dám “nhắc nhở” linh mục. Trong ba chức năng của giám mục, tiên tri, tư tế và mục tử, chức năng nào cũng quan trọng. Giáo huấn là nghĩa vụ của giám mục, giám mục phải thi hành không những đối với Dân Chúa, mà đối với cả linh mục nữa.

Người linh mục nào khiêm nhường lắng nghe giám mục th́ sẽ được “b́nh an” và làm việc hiệu quả (những hoa trái của Chúa Thánh Thần).

Các linh mục cũng nên lắng nghe nhau, học hỏi với nhau. Đừng ai tự hào v́ hơn người khác. Linh mục nào hay hỏi ư kiến anh em th́ bao giờ cũng là linh mục tốt, và công việc mục vụ sẽ sinh động, phong phú đa dạng. Hăy học những kinh nghiệm mục vụ với nhau, trao đổi kiến thức thần học, Kinh Thánh với nhau. Linh mục nào làm việc một ḿnh, không hợp tác với ai sẽ phải kéo dài cuộc đời linh mục trong cô đơn, buồn tẻ, và có khi thất vọng nữa.

 

+ Học với giáo dân và người ngoại đạo :

Linh mục cũng cần tham khảo giáo dân trong nhiều lănh vực, nhất là những lănh vực mà họ hiểu biết nhiều hơn, có kinh nghiệm hơn. Người giáo dân có tiếng nói của họ. Linh mục cần phải lắng nghe, ít nhất là để biết nguyện vọng của họ.

Linh mục cũng có thể học với những người khác tôn giáo, những người không có đạo, đặc biệt là những nét nhân bản tích cực nơi họ.

 

+ Học với cuộc đời :

Một bài học cũng đáng giá cho linh mục, đó là bài học với cuộc đời. Những thành công hay thất bại, những đau khổ và thất vọng đều có thể dạy cho linh mục những bài học để đời. Trong cuộc đời linh mục, thế nào cũng có một số “vụ việc” dạy cho những bài học không thể quên. Những bài học ấy có thể đem ra ứng dụng nhiều lần mà vẫn không hết tác dụng.

Một linh mục thường xuyên “phản tỉnh”, biết nh́n lại, nghĩ lại, xét lại, sẽ là một linh mục học được nhiều bài học nhất với cuộc đời. Theo K. Rahner, “Kinh nghiệm bao giờ cũng là kinh nghiệm của chủ thể”.

Việc đọc báo chí và xem tin tức truyền h́nh cũng có thể rất hữu ích cho công việc mục vụ của linh mục

 

 


1 2 3

Xem các bài viết khác trong Rev. Trần Minh Tiến, Khoá 7 GHHV Đà Lạt Việt Nam.