NGUỒN GỐC VIỆT NAM
của CÁC HỌC THUYẾT Á ĐÔNG

1 2 3 4 5 6 7 8

HolyFamily

 

NGUỒN GỐC VIỆT NAM của Học Thuyết ÂM DƯƠNG TÁM QUẺ

 

        Trên THẠP VÀ TRỐNG ĐỒNG

1. TỔNG QUAN

2. NGUỒN GỐC CHỮ VIẾT, TÊN GỌI, HÀM Ý CỦA ÂM DƯƠNG

3. CHỮ VIẾT, ĐỒ BIỂU, TÊN GỌI CỦA DỊCH, HÀO, QUÁI, QUẺ

4. ĐỒ BIỂU, HÀM Ý, TÊN GỌI CỦA 8 QUẺ

5. NHÌN CHUNG 8 QUẺ

6. ĐẶC TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG

7. THẠP TRỐNG, 8 QUẺ với 4 SỨC SỐNG CON NGƯỜI

8. NGUỒN GỐC VIỆT NAM CỦA ÂM DƯƠNG, 8 QUẺ

1. TỔNG QUAN

1.1 Âm Dương 8 Quẻ theo sách vở Trung Hoa.

Theo sách vở Trung Hoa, Phục Hy, 2879 ttl, đã từ ý niệm và ký hiệu Âm Dương lập ra Bát quái Tiên thiên.

Chu Văn Vương đã nghiên cứu Sách Lạc và viết quyển Kinh Dịch vào những năm trước 1046 ttl, lập ra Bát quái Hậu thiên.

Kinh Dịch là sách bàn luận về Âm Dương và 8 Quẻ. Sách Lạc, Lạc Thư, là đồ biểu trên lưng Rùa Thần, gồm 9 nhóm đốm, từ 1 tới 9. [hình 1.1a, b, c].*1

    *1 - Về Sách Lạc Rùa Thần, đọc bài 1106. Tộc Việt Thời Hùng 3, đoạn 7.1. - Quyển Kinh Dịch được cho là do Chu Văn Vương viết, nên gọi là Chu Dịch.  

                      

Điểm bất thường là trong vòng hơn 1800 năm giữa Phục Hy và Chu Văn Vương, không có dấu vết của việc khai triển thuyết Âm Dương.

*     *

1.2 Hiện nay.

Khảo cổ hiện nay cho thấy trong hơn 5000 chữ đọc được trên các mảnh xương vùng thủ đô An Dương của thời Hậu Thương/Ân, 1300 – 1046 ttl, không hề có dấu vết của Âm Dương Tám Quẻ. An Dương ở vùng Hoàng Hà, Bắc Sông Hoài.

Hơn nữa, cho đến hiện nay, dầu đã có quá nhiều sách vở dựa trên các đồ biểu mà lý luận bàn tán, chưa một người Trung Hoa nào có thể giải thích thỏa đáng về nguồn gốc, tên gọi, ý nghĩa tên gọi, hàm ý thực sự, và đồ biểu của Âm, Dương, Tám Quẻ, Dịch.

Theo các học giả Trung Hoa hiện đại, thuyết Âm Dương chỉ xuất hiện vào cuối thời Thương hoặc đầu thời Chu, tức là vào những năm quanh năm 1046 ttl, và chỉ để coi bói.*2

    *2 - Trung Quốc Triết Học Sử, do Phùng Hữu Lan, xb Hồng Kông 1950, tr 457.

 

*     *

1.3 Trên Thạp và Trống đồng Việt Nam.

Đang khi đó, hiện nay chúng ta có chứng cứ không chỉ về nguồn gốc của chữ Âm chữ Dương, và về nội hàm của ý niệm Âm Dương, mà còn cả đồ biểu và hàm ý của tất cả Tám Quẻ.

Tất cả đều được Tổ Tiên dân Việt Nam vùng Sông Hồng ghi lại trên hoa văn, trang trí, và hình dạng của Thạp đồng Đào ThịnhTrống đồng Ngọc Lũ, vào những năm 1000 ttl.*3

    *3 - Về Thạp và Trống đồng Đông Sơn, đọc bài 1302. Thạp và Trống đồng Việt Nam, đb phần 4.

 

Như vậy cũng có nghĩa là Tổ Tiên Việt Lạc Sông Hồng đã thấu triệt học thuyết Âm Dương không chỉ trước khi ký thác vào Thạp và Trống đồng, mà còn trước cả việc tộc Hoa thành hình ở vùng khô cằn Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu năm 1046 ttl.*4

    *4 - Về việc thành hình tộc Hoa, đọc bài 1107. Việt và Hoa Thời Hùng 4A, đoạn 1.1.

    Ở những thời sau, sau khi cướp phá, soán đoạt và hủy hoại chứng tích của phương Nam, ‘thiên triều’ Trung Hoa đã ‘dâng’ Kinh Dịch cho ông tổ của tộc Hoa là Chu Văn Vương, để thần thánh hóa ông.

*     *

             

 Thạp Đào Thịnh                                        Trống Ngọc Lũ

*     *     *     *

2. NGUỒN GỐC CHỮ VIẾT, TÊN GỌI, HÀM Ý Của ÂM DƯƠNG

2.1 Nguồn Gốc chữ Âm, chữ Dương.

Thực ra, nguồn gốc của đường nét chữ Âm  và chữ Dương  là do hình vẽ của Thạp và Trống Đông Sơn, đặc biệt của Thạp đồng Đào Thịnh, và của Trống đồng Ngọc Lũ. 

Tổ Tiên Việt Nam vùng Sông Hồng đã đặc biệt sáng tác Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ để ký thác và lưu truyền học thuyết Âm Dương Tám Quẻ.

a. Thạp Đồng chữ ÂM .

Chữ Âm  phát sinh từ hình vẽ chiếc Thạp đồng, với nắp thạp, thân thạp trang trí thành 3 phần, và đáy thạp. [hình 2.1a].

Các nét là nắp thạp.

3 nét  là thân thạp với 3 phần trang trí.

Nét  là hông phải của thạp.

Các nét  là hông trái và đáy thạp.

b. Trống Đồng chữ DƯƠNG .

Chữ Dương  cũng là hình vẽ chiếc Trống đồng. [hình 2.1b].

Nét  là Mặt Trời nổi, trên mặt trống nét . [Chữ Nhật  là hình mặt trời, và có nghĩa là Mặt Trời].

Các nét  là thân trống và 2 quai, không có đáy.

* Hình dạng và trang trí của Thạp và Trống Đông Sơn có những đặc điểm đích xác của các nét chữ Âm và chữ Dương, mà không một vật dụng nào khác có thể có.

*     *

2.2 Nguồn gốc Tên Âm, Tên Dương.

a. Om / Âm.

Từ thời xưa, người Việt Lạc gọi cái Thạp là Om. Ngày nay, ta còn gọi cái nồi nhỏ, cái thạp nhỏ, cái hũ nhỏ, là cái om, hoặc cái ‘cà om'.

Do đó, hình cái Om, cái Thạp, đã trở thành đường nét của chữ Om . Đọc trại Om thành Âm.*5

    *5 - Âm tiếng Việt là âm Việt nay, (trước đây gọi là ‘âm nôm’). Âm Việt đọc chữ nho là Việt đọc trại, hoặc là âm Việt xưa, (trước đây gọi là âm ‘hán việt’).

    - Thứ chữ được gọi là chữ nho, nguyên gốc là chữ Việt. Vì vậy, trên thực tế, ta đọc chữ Việt (theo kiểu viết trước đây) theo âm Việt, còn người Trung Hoa đang đọc chữ Việt theo âm hán. - Đọc bài 1106. Tộc Việt Thời Hùng 3, đoạn 5.2.

b. Rưng / Dương.

Cũng vậy, cho đến hiện nay, dân ta luôn có đội trống ‘Cà Rưng’ trong các nghi lễ rước Thần truyền thống. Đội trống Cà Rưng đã theo âm địa phương thành cà Dưng, cà Rừng, cà Rầng.*6

    *6 - Đây là nghi thức lưu truyền từ hơn 3000 năm qua. Hiện nay, đội trống cà rưng chỉ để dùng trong Nghi lễ Rước Thần, không dùng trong những đám rước khác. - Tiếng Rưng, Rừng, cũng được phát âm là Lừng, trong ‘vang lừng, lừng lẫy’.

Rưng là cái Trống. Vì vậy, hình cái Rưng, cái Trống, đã trở thành đường nét chữ Rưng . Đọc trại Rưng, Dưng, thành Dương.*7

    *7 - Đây chỉ do âm đọc của cùng một chữ viết (kiểu xưa). Khi dùng âm chính, ý nghĩa nguyên thủy hiện ra đích xác hơn.

    Có thể dùng Om thay cho Âm, Thạp, và dùng Rưng thay cho Dương, Trống. - Các tên khác cũng vậy.

 

*     *

2.3 Hàm Ý Thạp/Om/Âm, Trống/Rưng/Dương.

Không chỉ hình dạng và tên của Om và của Rưng trở thành chữ viết và âm của  Âm, của  Dương, mà cấu trúc, trang trí, đặc tính và công dụng của Om Đào Thịnh và Rưng Ngọc Lũ còn hàm chứa nội dung súc tích của hai ý niệm Âm, Dương.

Thạp là Om/Âm, nên đặc tính của Thạp/Om bộc lộ nội dung của chữ Om/Âmcủa ý niệm Om/Âm.

Cũng vậy, Trống là Rưng/Dương, nên đặc điểm của Trống/Rưng cũng chính là nội dung của chữ Rưng/Dương và của ý niệm Rưng/Dương.

- Cái Thạp/Om/Âm nằm yên, bất động, tĩnh. Cái Trống/Rưng/Dương rung chuyển, vang vọng, động.

- Cái Thạp/Om/Âm chứa trong bụng, cái Trống/ Rưng/Dương động trên mặt.

- Thạp/Om/Âm cất giữ, bảo thủ, kéo dài. Trống/Rưng/Dương truyền bá, năng động, thay đổi.

- Thạp/Om/Âm bụng bầu, Trống/Rưng/Dương bụng eo.

- Thạp/Om/Âm nắp rời, Trống/Rưng/Dương nắp dính.

- Thạp/Om/Âm có đáy, Trống/Rưng/Dương không đáy...

*     *     *     *

3. CHỮ VIẾT, ĐỒ BIỂU, TÊN GỌI Của DỊCH, HÀO, QUÁI, QUẺ

3.1 Chữ viết, Tên gọi, và Hàm ý của DỊCH.

a. Chữ Dịch.

Chữ Dịch là do hình cái Om/Âm  nằm trên cái Rưng/Dương . Hình cái Rưng có 2 quai. [hình 3.1].

Om/Âm và Rưng/Dương hiệp nhất thành chữ Dịch 易, đã diễn tả mối liên hệ mật thiết giữa Om/Âm và Rưng/ Dương. Mối liên hệ nầy chỉ có thể là kết hiệp, không thể là đối lập, không thể mâu thuẫn.

b. Tên gọi và Hàm ý của Dịch.

Om/Âm  Rưng/Dương  kết hiệp thành một trong chữ Dịch , hàm ý biến dịch trong hiệp nhất, Om/Âm Rưng/Dương biến dịch trong một cá thể.

Vì vậy, chữ Dịch không chỉ có nghĩa là di chuyển, biến đổi, xê dịch, biến dịch, mà còn là biến đổi trong liên hệ mật thiết, trong hiệp nhất với nhau.

 Chữ Dịch hàm ý Âm Dương Hoán Dịch.

*     *

3.2 Chữ viết, Đồ biểu, Tên gọi HÀO, QUÁI, QUẺ.

a. Hèo/Hào .

Ngày nay ta vẫn dùng tiếng Hèo để chỉ cây roi mây, cây gậy nhỏ. Âm trại của Hèo  là Hào. Chữ Hèo/Hào là hình các cây hèo.

b. Quảy/Quái .

Ngày nay tiếng Quảy vẫn còn có nghĩa là cây đòn gánh, vác bằng cây đòn. Quảy, đòn gánh, lớn hơn hèo. Quảy còn có âm là Quái.

Chữ Quảy/Quái là do hình cây đòn gánh với 2 bó củi hai đầu. Bó củi có sợi dây cột ngang các hèo củi.[hình 3.3].*8

    *8 - ‘Một Gánh càn khôn Quảy xuống ngàn’ thơ Trần Khánh Dư, t. 1340 dl.

c. Que/Quẻ.

Tiếng Que có nghĩa là thanh tre, thanh gỗ. Que gỗ. Que biến thanh thành Quẻ. Quẻ xăm.

Vì vậy, bộ 3 hèo/hào được kêu là một quảy/quái , hoặc một quẻ. Quẻ dịch.*9

    *9 - Các Que tre trong ống Quẻ, để lắc xin xăm.

*     *

3.3 Đồ biểu và Tên gọi của HÀO ÂM, HÀO DƯƠNG.

Om/Âm/Thạp có hai phần Nắp và Thân rời nhau, phát sinh đồ biểu của Om/Âm, Hào Om/Âm, là đường có 2 phần .

Rưng/Dương/TrốngMặt và Thân dính liền, nên đồ biểu của Rưng/Dương, Hào Rưng/Dương, là một đường thẳng liền . [hình 3.2a, b].

*     *     *     *

4.  ĐỒ BIỂU, HÀM Ý, TÊN GỌI Của 8 QUẺ

Thạp và Trống, Om và Rưng, không chỉ phát sinh chữ viết, tên gọi, và hàm ý của Âm, của Dương, của Dịch, mà còn nguồn gốc của đồ biểu, hàm ý, và tên gọi của 8 Quẻ Om/Âm Rưng/Dương.

4.1 Quẻ KHẢM, Quẻ LY.

a. Đồ biểu quẻ Khảm Thân Thạp.

Thân Thạp có bụng giữa phình ra, còn miệng và đáy tóp lại.

Thân Thạp còn được trang trí bằng 3 lằn. Lằn giữa có nhiều hình thuyền, hai lằn trên dưới là những đường vòng dày đặc.

Như thế, ở giữa phình rộng và sáng là hào dương, ở dưới và trên tóp lại và đen là 2 hào âm. Hào dương ở giữa 2 hào âm, là Quẻ Khảm . [hình 4.1a]. 

b. Đồ biểu quẻ Ly Thân Trống.

Dạng đặc thù của Trống Đồng Đông Sơn thời tuyệt kỹ là Thân Trống gồm 3 phần : tang và chân trống phình lớn, còn lưng trống thì eo nhỏ lại.*10

    *10 - Thân trống gỗ luôn phình ra.

Trên và dưới lớn là dương, giữa eo nhỏ là âm, tạo thành Quẻ Ly . [hình 4.1b].

c. Hàm ý Khảm Thân phình, Ly Thân eo.

Cùng là Thân, nhưng Thân Thạp/Om/Âm, phình ra, để thêm sức chứa, thêm sức chịu đựng, bảo bọc... Quẻ Khảm.

Thân Trống/Rưng/Dương, thì eo lại, để dội tiếng vang, để thêm vang vọng, thêm mạnh thêm xa... Quẻ Ly.

d. Tên gọi Khẳm đầy nước, Lỳ khô mặt.

- Thân Thạp quẻ Khảm, và được trang trí bằng thuyền vượt biển, ra khơi... Hiện ta có chữ Khẳm, đầy ắp, nhiều nước gần chìm. Thuyền khẳm : trên đầy nước/âm, dưới là nước/âm, giữa là thuyền/dương . Khẳm biến thanh thành Khảm.

- Thân Trống có trang trí hình người múa với những khung chấm, tang trống lại có thuyền nhỏ đang đi trên sông ngòi, với các khung là bờ ruộng. Như thế, đây là trên cạn, đất ruộng.

Ta có chữ Lỳ chỉ mặt đất khô cứng, chai mặt. Hai mặt ngoài chai lỳ cứng/dương, trong ruột mềm/âm ... Lỳ biến thanh thành Ly.

*     *

4.2 Quẻ CHẤN, Quẻ CẤN.

a. Đồ biểu quẻ Chấn Lòng Thạp.

Nhìn vào Lòng Thạp, trong hệ thống 3 vạch, 3 hào, ta có : Đáy kín là hào dương, lòng rỗng và miệng rỗng là 2 hào âm.

Dưới là hào dương, trên có 2 hào âm, là Quẻ Chấn . [hình 4.2a].

b. Đồ biểu quẻ Cấn Lòng Trống.

Ngược lại, Trống có mặt kín, nhưng Lòng Trống và đáy rỗng.

Hai hào âm ở dưới, trên là hào dương, là Quẻ Cấn . [hình 4.2b].

c. Hàm ý Chấn Lòng lõm, Cấn Lòng lồi.

Cùng là Lòng, nhưng Lòng Om/Âm thì lõm, miệng hở đáy kín, dùng để chứa đựng, tích trữ... gìn giữ lâu ngày, kéo dài với thời gian... Quẻ Chấn.

Đang khi đó, Lòng Rưng/Dương thì lồi, mặt kín đáy hở, dùng để khuếch âm, tăng triển chấn động, vang vọng... và vụt vang vụt biến... Quẻ Cấn*11

    *11 - Khi có sự khác biệt, cần căn cứ trên chứng cứ hiện thực, hơn là trên suy luận.

d. Tên gọi Chấn lõm, Cấn lồi.

- Tiếng Việt, Chấncắt bớt phần dư, chấn góc. Cái Chấn là dụng cụ để khoét lõm. Thợ rèn ngày nay còn dùng cái Chấn để dập dấu hiệu lõm xuống đồ sắt... Chấn là gọt bớt, lõm xuống, Lòng Om, .

- Cấn là cộm, lồi ra. Lấn cấn, cấn cái. ‘Cấn thai’, bụng lồi ra. Cấn là đắp thêm, lồi lên, hình của Lòng Rưng, .

*     *

4.3 Quẻ CÀN, Quẻ KHÔN.

a. Quẻ Càn và Quẻ Khôn trên Mặt Trống.

Mặt Trống, tấm nắp tròn của trống, giữa có Mặt Trời. Tấm tròn nhắc nhớ ý niệm Trời tròn. Tấm tròn ở giữa có Mặt Trời đang tỏa sáng, chính là bầu trời. 

Mặt Trời, Bầu Trời là tượng của Quẻ Càn .

Vì quẻ Càn nầy nằm trên Trống/Rưng/Dương, nên là Càn Dương . [hình 4.3a].

Cũng trên Mặt Trống, quanh Mặt Trời lại có các vòng ghi lại sinh hoạt của con người trên Mặt Đất, dưới ánh Mặt Trời, ban ngày. Mặt Đất là tượng của Quẻ Khôn .

Vì quẻ Khôn nầy nằm trên Trống/Rưng/Dương, nên là Khôn Dương . [hình 4.3b].

b. Quẻ Càn và Quẻ Khôn trên Nắp Thạp.

Nắp Thạp nổi cao hình núi. Giữa đỉnh núi của Nắp Thạp có hình tỏa sáng 12 tia. Vì Thạp là Om/Âm, nên hình tỏa sáng là ‘mặt trời’ âm, tức là Mặt Trăng.

Mặt Trăng tỏa ánh sáng nằm trên Nắp Thạp/Om/Âm là quẻ Càn Âm . [hình 4.3c].

Dưới ánh Trăng, ban đêm, hình ảnh rõ nhất trên Mặt Đất là núi ở chân trời, mọi vật khác đều lờ mờ. Cũng vậy, trên Nắp Thạp, dưới ánh Mặt Trăng trên đỉnh Núi, Mặt Đất chỉ là những đường vòng. Sinh hoạt về đêm nổi bật nhất của con người thời xưa, thời không đèn không điện,  được ghi thành 4 tượng ở 4 góc Nắp Thạp/Om/Âm.

Mặt Đất, Núi, dưới ánh Trăng, về đêm, trên Nắp Thạp/Om/Âm, là quẻ Khôn Âm . [hình 4.3d].

(Đáng tiếc, nay chỉ còn mấy dấu vết của một tượng nổi trên đỉnh Nắp Thạp. Đây là một mất mát lớn trong việc tìm hiểu di tích của Tổ Tiên).

c. Hàm ý Càn và Khôn vừa trên Nắp Thạp vừa trên Mặt Trống.

Đồng thời trên Nắp Thạp và trên Mặt Trống đều có Mặt Trăng / Mặt Trời, quẻ Càn.

Cũng vậy, đồng thời trên Nắp ThạpMặt Trống đều có Mặt Đất, quẻ Khôn.

Đây là điểm nhấn mạnh đặc biệt tới ảnh hưởng súc tích của Đất Trời, của Ngày Đêm, trong cuộc sống con người. Đặc điểm nầy cũng nói lên tính cách quan trọng và đa dạng của hai Quẻ KhônCàn trong 8 Quẻ.

d. Tên gọi Khung chở và Cản che.

Thời trước quan niệm Đất là cái Khung Vuông chở vạn vật.  Khung còn có âm Khuôn. Khung ảnh, khuôn cửa.

Khung, Khuôn đọc trại thành Khôn.

Càn còn có âm Can. Can, Cản là chận, ngănche. Cái cản xe, ngăn cản, can ngăn. Can còn có nghĩa là cái thuẩn để che. Can qua. Theo thời trước, Trời là cái bầu che chở bảo bọc vạn vật. Bầu trời. Trời che Đất chở.

Cản, Can biến thanh thành Càn, Can.

*     *

4.4 Quẻ ĐOÀI, Quẻ TỐN.

a. Đồ biểu quẻ Đoài Thạp chứa.

Thạp đang chứa gồm 3 phần : nắp đang đậy, lòng thạp đầy và đáy Thạp kín. Mỗi phần là một hào :

Nắp đậy nhọn là hào âm.

Lòng thạp đầy là hào dương.

Đáy thạp kín, để giữ đồ vật, là hào dương.

Dưới 2 hào dương và trên hào âm, là Quẻ Đoài . [hình 4.4a].

b. Đồ biểu quẻ Tốn Trống vang.

Trống đang vang cũng có 3 phần : mặt trống động, lòng trống dội, và đáy trống rỗng.

Mặt trời động, là hào dương.

Lòng trống đang dội đầy chấn động từ Mặt Trời, là hào dương.

Đáy trống rỗng, để thoát tiếng vang, là hào âm.

Dưới hào âm, trên 2 hào dương, là Quẻ Tốn . [hình 4.4b].

c. Hàm ý Đoài Thạp chứa, Tốn Trống vang.

Thạp/Om/Âm đang chứa đồ vật trong Lòng, đang được xử dụng, đang chứa thức uống thức ăn, đặc lỏng... Quẻ Đoài.

Trống/Rưng/Dương đang được đánh, trong Lòng đang đầy tiếng dội, âm vang, loan truyền, đang ở thể dụng, đầy khí động vang ra, tỏa lan... Quẻ Tốn.

d. Tên gọi Đòi lấy lại, Tốn đưa ra.

- Đoài là âm trại của Đòi. Đòi là lấy lại, muốn có lại, cất lại vật của mình. Đòi nợ, đòi hỏi. Cất giữ lại là dụng của Thạp/Om/Âm. 

Ngược lại, Tốn là đưa ra, phát ra, tiêu xài. Tốn hao, tốn kém. Tốn cũng có âm Tổn, tổn phí, tổn hại. Phát ra, âm vang, là dụng của Trống/Rưng/Dương.

*     *     *     *

5. NHÌN CHUNG 8 QUẺ.

5.1 Tương ứng thành từng Cặp.

- Hình dạngtên gọi của Thạp/Om Đào Thịnh trở thành nét chữ, tên gọi, và hàm chứa nội dung của ý niệm Om/Âm. Do cấu trúccông dụng của Thạp/Om, ta có đồ biểuhàm ý của các quẻ Om/Âm. Do tên gọi, ta có thêm ý nghĩa của KhungKhẳmChấnĐòi.

- Cũng vậy, do hình dạng, cấu trúc, công dụng, và tên gọi của Trống/Rưng Ngọc Lũ, ta có nét chữ, đồ biểu, tên gọi, ý nghĩa, và nội dung của ý niệm Rưng/Dương và của 4 quẻ Rưng/Dương : CảnLỳCấnTốn.

* Om/Thạp và Rưng/Trống tương ứng thành một cặp. Bốn Quẻ Om/Âm và 4 Quẻ Rưng/Dương cũng hợp thành 4 cặp quẻ tương ứng : Khung Cản, Khẳm Lỳ, Chấn Cấn, Đòi Tốn.

*     *

*     *     *     *

6. ĐẶC TÍNH Của ÂM DƯƠNG

6.1 Sóng đôi ở Thạp và Trống.

Tổ Tiên Việt Nam đã diễn đạt sóng đôi, ở Thạp/Om và Trống/Rưng, mọi đặc tính của Âm, Dương, Dịch, và của 8 Quẻ.

Thạp/Om/Âm sóng đôi với Trống/Rưng/Dương. Hình Thạp/Om/Âm và hình Trống/Rưng/Dương  hợp thành Chữ Dịch.

Quẻ Khôn om/âm sóng đôi với quẻ Khôn rưng/dương, thành Quẻ Khôn.

Quẻ Càn om/âm sóng đôi với quẻ Càn rưng/dương, thành Quẻ Càn.

*     *

6.2 Âm Dương Tương Ứng.

Cách trình bày sóng đôi ở Thạp và Trống đã nhấn mạnh đặc tính Tương ứng, kết hiệp và bổ túc, của Âm Dương và của các Quẻ.

Thực vậy, tuy trừu tượng, Âm Dương lại là kết quả của kinh nghiệm sống thực tại của con người.

Trong cuộc sống thực tại, chỉ có tương ứng, không có đối lập, giữa hai thành tố tác tạo một thực thể. Mẹ Cha không đối lập, mà tương ứng, kết hiệp và bổ túc, để sinh thành đứa con.

Cũng vậy, Đất Trời, hai phần sáng tối Ngày Đêm, cũng hiệp nhau tăng triển sự sống trên trái đất...

Vì vậy, Âm Dương, và 8 Quẻ, tương ứng, kết hiệp và bổ túc, trong mọi khía cạnh và mọi ứng dụng.

Âm tương ứng với Dương.

Quẻ Khôn tương ứng với quẻ Càn,

Quẻ Khảm tương ứng với quẻ Ly .

Quẻ Chấn tương ứng với quẻ Cấn.

Quẻ Đoài tương ứng với quẻ Tốn.*12

    *12 - Vòng Thái cực  mới có từ thời Hán, sau 206 ttl. 

    - Cách phát âm nguyên thủy giúp rõ nghĩa hơn. Nhưng trong bài, thường dùng cách phát âm hiện có, cho dễ theo dõi.

*     *

6.3 Âm Dương Hoán Dịch.

a. Dịch là Hoán dịch.

Hơn nữa, cuộc sống cũng là một cuộc điều chỉnh liên tục giữa cá thể và ảnh hưởng của ngoại vật. Nhờ đó, con người bộc lộ và phát triển các Sức sống, tăng trưởng cuộc sống, cách thích đáng nhất.

Vì vậy, trong cuộc sống, việc kết hiệp và bổ túc giữa cá thể với ảnh hưởng của Đất Trời, của Năm Hành, cũng không ngừng chuyển động, điều chỉnh, đắp đổi.

Để diễn đạt nhận thức tuyệt vời nầy, Tổ Tiên đã kết hiệp hình Thạp  (hình Thạp cũng là chữ Âm ), với hình Trống  (hình Trống cũng là chữ Dương ), thành chữ Dịch 易.

Chữ Dịch bao gồm Âm Dương là để nhấn mạnh sự chuyển đổi của Âm Dương trong Một Cá Thể. Dịch là hoán chuyển giữa Âm và Dương trong một thực thể, là hoán dịch.

b. Hoán Dịch Âm Dương trong 8 Quẻ.

Trong 8 Quẻ, mỗi cặp tương ứng luôn chuyển đổi, hoán chuyển giữa Âm và Dương. Có thể được tính theo tỷ lệ :

1% âm và 99% dương, 2% âm và 98% dương, 3% âm và 97% dương... cho tới 50% âm và 50% dương, rồi 49% âm và 51% dương... cho tới 99% âm và 1% dương.

*     *

6.4  Phổ cập trong Văn hóa Việt.

Như thế, trước khi ký thác vào Thạp và Trống, Tổ Tiên Việt Nam đã nhận thức thấu suốt đặc tính Sóng đôi, Tương Ứng và Hoán Dịch nơi vạn vật, nơi mỗi cá thể. (Vì được ký thác vào Thạp/Om và Trống/Rưng, nên ý niệm nầy mang tên Om Rưng / Âm Dương, Dịch).

Thực vậy,  Sóng đôi, tương ứng, và hoán dịch, cũng là đặc tính phổ cập thống hợp của toàn bộ Tư tưởng và của nền Văn hóa Việt.*13

    *13 - Được khai triển nơi học thuyết Tiên Rồng Song Hiệp. - Đọc bài 2102. Nền Tảng Cuộc Sống Con Người và Xã Hội, đb đoạn 4.6, và phần 6.

* Thực kỳ diệu khi Tổ Tiên đã có thể dùng vật dụng hiện thực như Thạp và Trống để diễn đạt trọn vẹn những ý niệm Âm Dương thuần trừu tượng nầy.

*     *     *     *

7. THẠP TRỐNG, 8 QUẺ với 4 SỨC SỐNG CON NGƯỜI

7.1 Với 4 Sức Sống Con Người.

Việc khám phá những đặc tính tương ứng và hoán dịch giữa Âm Dương, giữa từng cặp, và giữa 4 cặp Quẻ, đã bộc lộ và thể hiện tuyệt vời khả năng trừu tượng hóa và ứng dụng của Sức sống Trí Tài của Tổ Tiên Việt.

Tuyệt diệu hơn nữa, từng cặp của 8 Quẻ cũng được Tổ Tiên nhận thức và trình bày ứng với 4 Sức Sống bất khả phân của Con người. Tất cả đều đồng nhất và thống hợp trong toàn bộ hệ thống Tư Tưởng Việt Nam.*14

    *14 - Về 4 Sức Sống, đọc bài 2205. Bốn Sức sống Con Người.

1. Cặp Khảm Ly, được diễn đạt qua Thân Thạp và Thân Trống, ứng với Sức sống Thân Lực của Con Người.

[Sức sống Thân Lực là sức sống thể hiện qua Thân thể của con người và chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại vật, với thực tại].*15

    *15 - Đọc bài trên, đb đoạn 2.4.

2. Cặp Chấn Cấn, được ghi nhận ở phần Lòng Thạp và Lòng Trống, ứng với Sức sống Tâm Tình của Con Người.

[Sức sống Tâm Tình là tấm Lòng con người trong cuộc sống mỗi ngày, là Tình, sẵn sàng cảm thông và sống chết cho Tình, thông hiến, là Sức sống thúc đẩy con người Sinh hoạt chung, giúp nhau phát triển cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn của nhau].*16

    *16 - Đọc bài trên, đb đoạn 4.3.

3. Cặp Đoài Tốn ứng với thể dụng của Thạp Trống, với chiếc Thạp đang chứa đồ vật, và chiếc Trống đang đầy âm vang, và cũng ứng với Sức sống Trí Tài của Con Người.

[Sức sống Trí Tài là khả năng nhận định, suy luận, sáng tạo... và tài cải tiến, ứng dụng vào cuộc sống thực tế, - tinh biến].*17

    *17 - Đọc bài trên, đb đoạn 3.3.

4. Cặp Khôn Càn, Đất Trời, được ký thác nơi Nắp Thạp và Mặt Trống. Đất Trời to lớn, vượt ra ngoài cuộc sống thường ngày, và hướng con người tới tầm vóc vô tận... Qua việc hiệp thông với Đất Trời, con người sống thực Sức sống Tuệ Linh của mình.

[Sức sống Tuệ Linh là Sức sống trường cửu, và khả năng liên lạc và hiệp thông với thế giới linh thiêng, - vĩnh hiệp].*18

    *18 - Đọc bài trên, đb đoạn 5.3.

*     *

 

*     *     *     *

8. NGUỒN GỐC VIỆT NAM Của ÂM DƯƠNG, 8 QUẺ

8.1 Nguồn gốc Việt Nam.

Thạp/Om và Trống/Rưng Đông Sơn, đặc biệt Thạp Đào Thịnh và Trống Ngọc Lũ, được Tổ Tiên Việt Nam sáng tác cách đây hơn 3000 năm, đã là những chứng cứ về cội nguồn phát xuất của Om/Âm, Rưng/Dương, Dịch, và 8 Quẻ.

1. Chữ viết ‘Âm', 'Dương’ là hình vẽ của Om, Rưng của Việt Nam.

2. Tên gọi ‘Âm', 'Dương’ là tiếng Om, Rưng của Việt Nam.

3. Chữ 'Dịch' là hình Om nằm trên hình Rưng của Việt Nam.

4. Chữ viết, Tên gọi và Ý nghĩa của Dịch, Hào, Quái, Quẻ, là của Việt Nam.

5. Nội dung ý niệm Âm, Dương rút tỉa từ những đặc điểm súc tích và bổ túc của Om/Thạp và của Rưng/Trống Việt Nam.

6. Đồ biểu và hàm ý của 8 Quẻ là cấu trúc, trang trí, đặc tính, và công dụng của Om/Thạp và Rưng/Trống Việt Nam.

7. Tất cả các Tên của 8 quẻ đều là tên và nghĩa của Việt Nam.

8. Đặc tính Tương ứngHoán dịch của Âm Dương, và của 8 Quẻ, cũng là tương quan hiệp nhất toàn bộ giữa Om/Thạp và Rưng/Trống Việt Nam.

9. Học thuyết về Âm Dương và 8 Quẻ cũng đã được khai triển thống hợp trong toàn bộ Tư Tưởng, cùng với các Học thuyết khác, của Việt Nam.

10. Ngoài ra, hai chữ Âm Dương luôn là Âm trước Dương, là cách nói của dân Việt. [Tiếng Hoa đặt nam trước nữ, hoặc dương âm].

*     *

8.2 Phương Bắc lạc hậu.

Từ hơn 3000 năm trước, dân Việt Nam, vùng Sông Hồng, đã thấu triệt những ý niệm cao siêu và súc tích bậc nhất của nhân loại. Và càng siêu việt hơn, khi Tổ Tiên đã có thể ký thác những ý niệm trác tuyệt nầy vào những vật dụng đồ đồng, để lưu truyền đến chúng ta hôm nay.

Đang khi đó, đồng thời với việc Dân Nam đúc Thạp và Trống đồng để ký thác những học thuyết cao siêu, người tộc Hoa phương Bắc vừa được thành hình bởi các nhóm du mục ở vùng thung lũng Sông Vị, và đang ở trong thời kỳ sơ khai, lạc hậu.

_____________________

Nguyễn Thanh Đức 2013.

Trở về Đầu Bài

 

 


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Paul Nguyễn Đức Sách , Khoá 7 GHHV Đà Lạt Việt Nam.