GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS
60 NĂM HIỆN HỮU

1 2 3 4 5 6 7 8

gxvnparis

 

 

CHƯƠNG 6

 

 

SỨ MỆNH CỦA HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Từ khi được thành lập vào năm 1947 cho đến năm 1983, với những biến chuyển thăng trầm, Giáo xứ Việt nam Paris là một thực thể tôn giáo việt nam ở Paris. Trong suốt thời gian hiện hữu trên 40 năm ấy, Giáo xứ luôn luôn có một Ban Giám Đốc (BGĐ), đại diện giáo quyền để giúp đỡ giáo dân về mặt tinh thần và tôn giáo. Tất cả mọi hoạt động đều do khả năng và nhiệt t́nh của Ban Giám Đốc, với sự cộng tác riêng rẽ của một số giáo dân, hay của một vài hội đoàn, chứ chưa hề bao giờ được thống nhất và điều hợp theo một qui chế hoặc một tổ chức chung. Nhu cầu cần có một Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV), do đó, là một điều cần thiết. Nhưng hoàn cảnh đặc biệt của Ba-lê, v́ là trung tâm văn hóa, tôn giáo và chính trị quan trọng, v́ có nhiều khuynh hướng đối chọi nhau, việc tạo lập một Hội Đồng Mục Vụ vẫn chỉ là một ước mơ. Đă có nhiều lần, những Ban Giám Đốc tiên nhiệm đă toan tính lập Hội Đồng Mục Vụ bao gồm linh mục và giáo dân, nhưng chưa lần nào, những toan tính tốt đẹp ấy đă được thể hiện kết quả, bởi có quánhiềukhó khăn.

Nhưng những khó khăn này, nhờ ơn Chúa và với sự chuẩn bị cũng như đóng góp một cách tích cực và có phương pháp của Ban Giám Đốc cũng như của Cộng Đoàn, Cộng Đoàn công giáo việt nam Paris đă khắc phục được, và kể từ ngày 30.10.1983, một Hội Đồng Mục Vụ, một Ban Thường Vụ (BTV) của Hội Đồng Mục Vụ và một Ban Cố Vấn (BCV) đă chính thức được các đại diện các đơn Vị Mục Vụ (ĐVMV) gồm đại diện của các Hội Đoàn Mục Vụ và đại diện của các Địa Điểm Mục Vụ thành lập. Rồi ngày 11/12/1983, giáo quyền địa phương, là Ṭa Tổng Giám Mục Ba-Lê đă chính thức công nhận Hội Đồng Mục Vụ, Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn, qua sự hiện diện và chúc lành của Đức Cha Michel COLONI, phụ tá tổng giám mục Ba-lê, đặc trách Ngoại Kiều Vụ.

Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ được nội quy xác định một cách vắn tắt rằng : ‘Hội Đồng Mục Vụ là một cơ quan gồm những giáo dân được tuyển chọn để tích cực cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong việc xây dựng cộng đoàn về các pham vi : tôn giáo, văn hoá, xă hội, tài chính’.

 

1 : TIẾN TR̀NH THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Tổ chức được HĐMV là kết tinh của nhiều cố gắng và thiện chí. Những cố gắng ấy đă trải qua ba chặng đường, cũng là ba giai đoạn trong quá tŕnh của HĐMV : giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn phôi thai và giai đoạn sinh hoạt chính thức đầu tiên.

 

11. GIAI ĐOAN CHUẨN BỊ

Việc chuẩn bị có thể là chuẩn bị xa, có thể là chuẩn bị gần. Chuẩn bị xa th́ chắc chắn là HĐMV hôm nay đă được chuẩn bị từ ngày cộng đoàn Việt Nam được thành lập tại Ba lê, do những việc mà cộng đoàn và các Ban Giám Đốc (BGĐ) tiền nhiệm đă thực hiện. Chuẩn bị gần th́ chắc chắn là từ ngày cha Mai Đức Vinh được bổ nhiệm làm gíám đốc giáo xứ năm 1980 và do những hoạt động của BGĐ vào lúc đó, trong đó, sinh hoạt của các nhóm công giáo tiến hành đóng một vai tṛ không nhỏ.

Các BGĐ tiền nhiệm chẳng những đă góp phần chuẩn bị thành lập, mà một số hiện c̣n cộng tác với BTV của HĐMV hiện nay. Tôi có ư nói đến cha Trần Thanh Giản, một trong những khuôn mặt của các cha cựu giám đốc. Trong những năm 80, ngài vẫn hàng tháng đi họp với BTV của HĐMV mới thành lập, với tính cách là cố vấn và vẫn thường xuyên tích cực góp sức vào nhiều hoạt động khác. Cha Toán cũng vậy. C̣n nói đến việc chuẩn bị th́ công lao của các BGĐ tiên nhiệm là việc không thể chối căi. Không kể việc duy tŕ và phát triển Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Đạo Binh Đức Mẹ,.. ., một vài vị giám đốc tiên nhiệm đă rơ rệt muốn lập HĐMV. Năm 1977, cha Trương Đ́nh Hoè đă triệu tập một phiên họp Trí Thức Công Giáo để bàn về vấn đề này. Trước đó, cha Toán và sau đó, cha Hoàng cũng đă có những ư định tương tự.

Nhưng cha Vinh mới thực là người đă trực tiếp chuẩn bị thiết lập HĐMV. Nếu trí nhớ tôi có thể tin được th́ vào những năm 1979, 1980, cha Vinh đă nói truyện với tôi về vấn đề này. Lúc vừa nhận trách nhiệm giám đốc, hai vấn đề mà cha Vinh đă thông cảm với tôi và chắc chắn với nhiều người khác nữa, là làm sao để cho cộng đoàn được có tổ chức hơn, nói khác đi, làm sao thiết lập được HĐMV và làm sao tạo cho cộng đoàn một cơ sở thích hợp hơn. Tôi nhớ, lúc đó chúng tôi đàm đạo nhiều về những căn bản thần học, pháp lư, pháp lư đời cũng như pháp lư đạo, của HĐMV. Có lẽ có hai lư do khiến chúng tôi đề cập nhiều về vấn đề này. Thứ nhất v́ đó là một vấn đề rất được cha Vinh lưu ư. Một trong hai luận án tiến sĩ mà cha đă đệ tŕnh tại Roma là luận án ‘Thần học mục vụ’. Luận án này đề cập đến ‘Ban hành giáo tại các họ đạo ở Việt Nam’. Lư do thứ hai v́ đó là đề tài thời sự công giáo cho những năm 79, 80. Tôi nhớ lúc đó đă đọc một số tài liệu của Đức Thánh Cha về vấn đề HĐMV này.

Ngoài sự đóng góp của các ban giám đốc tiên nhiệm, sự góp phần của các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành vào việc thành lập Hội Đồng mục vụ cũng thật là quan trọng. Cái khéo của cha Vinh là ở chỗ đó. Ư th́ đến từ cha, nhưng cha làm thế nào để ư đó được ư thức và được phát biểu nơi giáo dân. Sau nhiều xáo trộn và ồn ào, với những dư luận mà nhiều kẻ xấu miệng đă tung ra, không mấy hấp dẫn cho Giáo Xứ, nhiều địa điểm mục vụ lúc đó đă cảm thấy nhu cầu cần có một tổ chức để bảo tồn giáo xứ, để cộng tác với các cha. Sau một thời gian làm việc riêng rẽ, nhiều hội đoàn công giáo tiến hành đă cảm thấy nhu cầu cần có một cơ cấu để thống nhất các hoạt động. Những hội đoàn mà tôi đă từng tham dự, như nhóm Cầu Nguyện, nhóm Emmau, nhóm Ca đoàn, nhóm Thần Học Giáo Dân,...tất cả đều ư thức đến những nhu cầu mà tôi vừa nêu trên : nhu cầu sinh tồn, nhu cầu có tổ chức, nhu cầu thống nhất, nhu cầu cộng tác,..Một khi nhu cầu đă được ư thức, việc thực hiện trở thành dễ dàng.

 

12. GIAI ĐOAN PHÔI THAI

Sau thời gian chuẩn bị, một loạt các hoạt động phôi thai đă được thực hiện. Tôi muốn nói đến việc thành lập và phát triển các hội đoàn, việc lập bản nội quy và việc bầu Ban Thường Vụ. Tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong một giai đoạn mà tôi mạn phép đặt tên là giai đoạn phôi thai của HĐMV.

Có nhiều ư kiến về HĐMV, nhưng ư kiến hay hơn cả có lẽ là ư kiến, theo đó, HĐMV phải được tạo thành do các cán bộ công giáo tiến hành, và đặc biệt là các cán bộ đang tại chức, đang làm việc. Đơn vị mục vụ gồm các địa điểm mục vụ và các hội đoàn mục vụ. Thực ra th́ trong thời gian này, từ khoảng 1981 đến 1983, Cộng Đoàn Công Giáo Balê đă không lập thêm được một địa điểm mục vụ nào mới, mà chỉ lập được một số hội đoàn mục vụ mới. Nhưng ngay cả với những đơn vị đă hiện hữu, làm thế nào để mỗi đơn vị đều có được một ban đại diện không phải là một việc dễ. Lập được một ban đại diện, nhưng chính thức hoá và làm sao cho ban đại diện ấy được công nhận cũng là một việc không dễ khác, cần phải được thực hiện.

Từ việc thành lập đại diện của các đơn vị mục vụ sang việc lập HĐMV, đó không phải là việc đương nhiên ! V́ c̣n hai trở ngại lớn, trở ngại tâm lư và trở ngại pháp lư. Trở ngại tâm lư, tôi có ư nói đến việc hiểu biết nhau, việc làm việc chung với nhau. Hội đồng là nơi mà các đại diện làm việc chung với nhau. Làm thế nào họ có thể làm việc chung, nếu họ không biết có những ai. Do đó, việc đầu tiên phải làm là tạo dịp để các đại diện gặp gỡ và thông cảm nhau, nếu không nói là nhận diện nhau. Dĩ nhiên, lễ chủ nhật là dịp để họ nhận diện nhau, một vài hoạt động đặc biệt, như hai ngày thân hữu, cũng là dịp khác để họ làm việc chung với nhau. Những việc này đă được lưu ư. Nhưng, tổ chức một vài buổi họp để họ ngồi chung lại với nhau, cũng là một việc khác phải làm. Đó là lư do đă có những buổi họp rộng lớn vào năm 1983, đặc biệt là buổi họp đầu tiên, sôi nổi, hào hứng, vào ngày 27/02/1983.

Khó khăn thứ hai là khó khăn pháp lư, hay đúng hơn, có tính cách pháp lư. Dùng từ pháp lư th́ hơi to. V́ đơn giản, nó là một bản văn qui định mục tiêu, thành phần, tổ chức, sinh hoạt của HĐMV, mà chúng ta có thể gọi là nội quy đơn giản. Đây là việc căn bản của bất cứ một tổ chức nào, huống hồ là của một tổ chức to lớn và phức tạp như giáo xứ Việt Nam Paris. Hai buổi đại hội đă được triệu tập, dành riêng cho việc này, đặc biệt là đại hội ngày 10/04/1983.

Có thể nói được rằng bản nội quy hiện nay là cô đọng ư kiến của tất cả các đại diện của tất cả các đơn vị mục vụ. Tôi nhớ, hồi đó, cha Vinh và tôi đă làm việc nhiều cho bản nội quy này. Chúng tôi đă phải viết đi viết lại đến ba lần. Lần thứ nhất, xong vào ngày 27/02/1983, sau khi đă cân nhắc từng chữ, từng câu, từng khoản, và đă so sánh với các bản nội quy khác của các ban hành giáo ở Việt Nam. Đại hội ngày 27/03/1983 đă sửa một số điều. Chúng tôi đă ngồi lại với nhau hai ngày để viết một bản mới, sửa theo những tiêu chuẩn mà đại hội đă đề ra. Bản thứ hai này đă được đại hội ngày 10/04/1983 nghiên cứu rất kỹ lưỡng : một số câu và chữ đă được sửa lại nữa. Chúng tôi lại phải ngồi lại viết bản thứ ba, để đệ tŕnh vào đại hội ngày 30/10/1983. Lần này, đại hội đă chấp nhận toàn thể bản nội quy. Đó là bản nội quy đang được áp dụng hiện nay, với một vài tu chính do các đại hội ngày 23/06/1985, 13/12/1992, 12/10/1997 và 09/12/2001.

C̣n một cơ quan quan trọng của HĐMV chưa được thành lập, đó là Ban Thường Vụ của HĐMV. Các thành viên của HĐMV là các đại diện của các đơn vị mục vụ, đẵ có đó. Nhưng các đại diện đông đảo quá, và mỗi lần tổ chức một phiên họp, thật là khó. Vả nữa, ai sẽ là người giải quyết các vấn đề thường ngày ? Đó là vấn đề quan trọng phải được thực hiện. Qua một ngày đại hội rất sôi nổi, ngày 30/10/1983, một Ban Thường Vụ tiên khởi đă được bầu ra. Yếu tố cuối cùng, nhưng quan trọng nhất, đă được hoàn tất. Từ đây, cụ thể mà nói, ta có thể bảo HĐMV đă được thành lập.

 

13. GIAI ĐOAN SINH HOẠT CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN 1983-1985

Tổ chức của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris là một tổ chức công giáo, trong dó, yếu tố pháp lư dân cử là quan trọng, nhưng không phải là quyết định. Sự quyết định đ̣i phải có sự hiệp thông của giáo hội địa phương, mà giám mục là đại diện chính thức. Báo Dân Chúa, số tháng 12/1985 có đăng bài của cha Phan tấn Thành, nói rơ về điều này như sau : « Tiếng hiệp thông nhấn mạnh đến các yếu tố nội tại tạo nên Giáo Hội. Các phần tử giáo hội đă được gắn bó với nhau, không phải bằng các cơ chế luật lệ bề ngoài, nhưng bằng các sợi dây liên kết bên trong. Tất cả các phần tử gắn bó với nhau v́ cùng chia sẻ một gia sản chung, một sức sống chung, một vận mạng chung,..Sự hiệp thông trong cộng đồng dịa phương đ̣i hỏi sự hiệp thông với giám mục ».

Tôi vừa dùng chữ ‘cụ thể mà nóĩ’, chứ không dám dùng chữ ‘chính thức mà nóĩ‘, v́ BTV cũng như HĐMV chưa chính thức được giáo quyền địa phương công nhận. Phải đợi tới ngày 11/12/1983, khi đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá Paris, thay mặt đức hồng y J.M. LUSTIGER, đến giáo xứ, chủ lễ ra mắt của BTV, cũng như của HĐMV, ngày đó HĐMV mới chính thức được thành lập. Và từ đó, ta có thể nói rằng HĐMV đă bước vào giai đoạn thứ ba, giai đoạn sinh hoạt chính thức đàu tiên.

Từ ngày chính thức được công nhận, HĐMV tiên khởi đă làm được ǵ trong hai năm 1983-1985 ?

Trong bản phúc tŕnh cho đại hội ngày 23/06/1985, đăng trong báo Giáo Xứ số 16, ông chủ tịch BTV-HĐMV đă trả lời vấn đề này. Phần tôi, tôi gợi lại vài yếu tố góp phần trả lời, cũng đă được đăng trong Báo Giáo Xứ số 11, ngày 01/12/1985, và sửa lại đôi chút như sau :

Sau hai năm sinh hoạt, HĐMV đă làm được ǵ ? Để trả lời câu hỏi này, người hời hợt và phiến diện sẽ nông nổi nói ngay rằng ‘Chưa được ǵ cả, chưa xây được nhà thờ, chưa gây được quỹ ‘. Trả lời như vậy tức là chối bỏ cái quỹ xây nhà thờ là to lớn, cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cần có kế hoạch, cần hiểu biết về pháp luật và giáo luật đến chi tiết, cần quản trị nghiêm chỉnh. Một gia đ́nh, nhất là một gia đ́nh trẻ, tay trắng, muốn mua một căn nhà, và mua chịu, cũng c̣n cần phải làm một kế hoạch tiết kiệm năm năm. Huống hồ việc gây quỹ cho một cộng đoàn, một quỹ to, đủ để xây một nhà thờ, có phải một sớm một chiều, một năm một tháng mà làm được đâu.

Người khác lại trả lời rằng : ‘Được nhiều việc lắm : ra được báo, xây được sân xi-măng, giúp các cha tổ chức được hai ngày thân hữu, giúp các cha tổ chức được những lễ lạc lớn,...’ Câu trả lời này cũng hời hợt và nhất diện không kém ǵ câu trả lời trên. Như chúng ta vừa thấy ở trên, HĐMV này là HĐMV tiên khởi của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris, một cộng đoàn có nhiều vấn đề đa tạp cần giải quyết, và sự hiện diện ở đây có lẽ c̣n kéo dài thế hệ này qua thế hệ nọ.

Bởi vậy, tiêu chuẩn đàu tiên cần đặt ra là hỏi xem HĐMV có ư thức được sứ mệnh của ḿnh và những vấn đề phải được giải quyết không. Không dám nói rằng HĐMV đă ư thức hoàn toàn được những vấn đề của cộng đoàn, nhưng có những dấu chỉ để bảo rằng HĐMV đă có thiện chí muốn nhận định những vấn đề ấy. Năm đề tài được đưa ra để thảo luận trong đại hội mục vụ ngày 17/06/1984, liên hệ đến năm việc quan trọng của cộng đoàn : 1. sự sinh tồn của cộng đoàn, 2. điều kiện phát triển cộng đoàn, 3. sứ mệnh tôn giáo và văn hoá của cộng đoàn, 4. tạo dựng cơ sở cho cộng đoàn, 5. những phương pháp gây quỹ cho cộng đoàn, là một biểu lộ của thiện chí ấy.

Tiêu chuẩn thứ hai cần đưa ra là hỏi xem « cách làm việc của HĐMV có phương pháp không ? » Để trả lời câu hỏi này, cần phải nh́n xem BTV và HĐMV làm việc thế nào. Ở điểm này, tôi xin mô tả cách làm việc của HĐMV như sau : BTV đă tạo được một sinh hoạt đều đặn là buổi họp hàng tháng. Kể từ ngày được thành lập đến nay, tháng nào Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn cũng giữ được phiên họp hàng tháng này, và đa số các phiên họp đă đều được sự tham dự đày đủ của BTV và sự tham dự đông đảo của BCV. Do đó, sự trao đổi trong các phiên họp tương đói hào hứng và đa số tích cực. Riêng Đại Hội Mục Vụ th́ nhiệm kỳ vừa qua chỉ tổ chức được hai lần. Đó cũng là lư do khiến việc tiếp sức với các đơn vị mục vụ chưa được dồi dào cho lắm.

Cũng ở trong phương pháp làm việc, đại để cách thức sau đây đă được BTV và BCV áp dụng để giải quyết các vấn đề. Truớc nhất, nhận định vấn đề. Nếu là vấn đề ngắn hạn cần được giải quyết ngay, th́ nhận định xem có nên làm hay không, nên làm thế nào. Rồi phân công, rồi thực hiện. Nếu là vấn đề dài hạn, trường kỳ và phức tạp, th́ mổ xẻ sự cần thiết, điều kiện pháp luặt, khả năng có thể và kế hoạch thực hiện. Nhiều khi, sau một chuỗi làm việc, ở giai đoạn kế hoạch, một vài khó khăn mới lại nảy ra, đôi khi lại là những khó khăn ngoài khả năng, việc thực hiện lại được xét lại. Đại để đó là hai điều chính yếu trong phương pháp làm việc hiện nay của BTV - HĐMV. Cái giá trị của phương pháp ấy ra sao, tôi xin nhường lời cho mọi người phê phán.

Tiêu chuẩn thứ ba cần đưa ra là hỏi xem « HĐMV có đă t́m ra được những giải đáp tương ứng với những vấn đề của cộng đoàn chưa ? ». Câu hỏi này tương đối tế nhị, v́ sứ mệnh của HĐMV chỉ là cộng tác với ban Giám đốc Giáo Xứ, chứ không bao giờ được vượt quyền của ban này. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là HĐMV chỉ thụ động vâng lời BGĐ, nhưng chỉ có ư xác định một nguyên tắc rằng trong các giải pháp được đưa ra, trong các quyết định được lựa chọn, tất cả đều phải được BGĐ, người trách nhiệm thực sự về tinh thần của cộng đoàn chấp nhận. Điều tế nhị thứ hai của tiêu chuẩn thứ ba này là tính cách liên tục và trường kỳ của nhiều vấn đề của cộng đoàn, đặc biệt là những vấn đề có tính cách tâm lư xă hội, như vấn đề đoàn kết, vấn đề tin tưởng, vấn đề tương trợ. Muốn đoàn kết các thành phần của cộng đoàn, đâu phải chỉ có một giải đáp chung, hữu hiệu cho hết mọi người, đâu phải chỉ cần làm một lúc. Nhưng phải linh động và thích ứng, tuỳ người và liên tục.

Như vậy là HĐMV đă đi được một chặng đường dài ? Quăng đường c̣n lại phải đi c̣n nhiều việc phải làm và c̣n nhiều khó khăn phải vượt qua ? Câu hỏi này gồm ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất : HĐMV đă đi được một quăng đường dài ? Dài được bao nhiêu, tôi không dám xác định. Tôi chỉ dám nói rằng HĐMV đă đi được một quăng đường. Quăng đường c̣n lại chắc chắn là dài lắm. Vấn đề thứ hai liên hệ đến những việc sẽ phải làm. Về điểm này, xin mọi người tin tưởng vào BGĐ, HĐMV, BCV và BTV. Quí vị là những người sáng suốt, chắc chắn đă, đang và sẽ nh́n ra những việc phải làm. Không ở trong HĐMV, nhiều khi ḿnh tưởng việc này phải làm gấp, có thể làm ngay. Nhưng ở trong HĐMV, hiểu biết cụ thể về khả năng của cộng đoàn, về nhu cầu của cộng đoàn, một cái nh́n khác lại nảy ra. C̣n vấn đề thứ ba liên hệ đến các khó khăn, có lẽ khó khăn lớn nhất là phương tiện : phương tiện tài chánh, phương tiện thời giờ, phương tiện nhân sự. Xin Chúa dàn xếp, để thiện chí chúng ta được đền bù phần nào cho những khó khăn về phương tiện.

 

2. SỨ MỆNH VÀ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Được thành lập vào năm 1983, đến năm nay, 2007, Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ Việt Nam Paris đă tṛn 25 tuổi. Bản nội qui dầu tiên viết xong và được chấp nhận ngày 30.10.1983, đă được tu chính 4 lần vào ngày 20.06.1985, 13.12.1992, 12.10.1997 và 09.02.2001. Hội đồng mục vụ khoá X hiện nay, được bầu ngày 13.06.2004, đă được Dại Hội 17.12.2006 lưu nhiệm thêm một năm, sẽ chám dứt nhiệm kỳ vào tháng 6 năm 2008, gồm 79 thành viên. Hội Đồng Mục Vụ, theo nội qui tu chính lần thứ tư vào ngày 09.12.2001, gồm 4 thành phần : Đại biểu của 7 địa điểm mục vụ, Đại biểu của 36 Hội đoàn mục vụ, Ban thường vụ với 12 nhân viên và Ban Cố vấn gồm 6 vị. Tất cả bốn thành phấn của Hội Đồng Mục vụ đếu chung nhau giúp Ban Giám Đốc thực hiện công việc mục vụ của giáo xứ cho tốt đẹp, trong ba sứ mệnh chính yếu sau đây : 1- Tư vấn BGĐ trong những quyết định mục vụ ; 2- Cộng tác với BGĐ trong việc soạn thảo chương tŕnh và kế hoạch hoạt động mục vụ ; và 3- Cộng tác với BGĐ trong việc thực hiện công tác mục vụ qua khắp các phạm vi tôn giáo, văn hoá, xă hội và tài chánh.

 

21. TƯ VẤN BAN GIÁM ĐỐC TRONG NHỮNG QUYÉT ĐỊNH MỤC VỤ

Tư vấn BGĐ trong những quyết định mục vụ, HĐMV không làm thay, cũng không lấn quyền của BGĐ. Giáo luật khoản 536 xác định rất rơ về điểm này "Nếu Giám Mục giáo phận xét là thuận lợi, sau khi đă tham khảo ư kiến của Hội đồng Linh mục, th́ trong mỗi giáo xứ nên thành lập Hội đồng Mục vụ, do Cha Sở chủ tọa, và trong đó các tín hữu cùng với những người, chiếu theo chức vụ tham gia vào việc săn sóc mục vụ trong giáo xứ cùng đóng góp sự cộng tác của ḿnh vào việc cổ vơ sinh hoạt mục vụ. Hội đồng Mục vụ chỉ có quyền tư vấn, và được điều hành theo các quy tắc do Giám Mục giáo phận đă ấn định. Nguyên tắc chung được Giáo luật qui định đó là Hội đồng Mục vụ chỉ có quyền tư vấn mà thôi, nghĩa là Cha Sở không bị bó buộc vâng theo ư kiến của Hội đồng Mục vụ, nhưng tùy thẩm định khôn ngoan của ngài. Tuy nhiên, khi tất cả các thành viên trong Hội đồng đều nhất trí về một vấn đề, Cha Sở không nên đi ngược lại nếu không có một lư do thật quan trọng để làm như thế ».

Tư vấn BGĐ là sứ mệnh chính yếu của mọi thành phần của HĐMV, nhưng Ban Cố Vấn có một trách nh́ệm đặc biệt về sứ mệnh cố vấn này. Công việc cố vấn thực ra không đơn giản và không chỉ giới hạn vào việc cho ư kiến, như nhiều người lầm tưởng. Sau nhiều năm làm cố vấn cho các chủ xí nghiệp và tổ chức về quản lư chất lượng, tôi nhận ra những công việc chính yếu sau đây của một cố vấn, mà ở xí nghiệp họ gọi là tư vấn. Những công việc tư vấn này cũng đă được các vị trong Ban Cố Vấn thực hiện cho Ban Giám Đốc, Ban Thường Vụ và cho Hội Đồng Mục Vụ :
1. chỉ lắng nghe, quyết định tự khắc nh́n ra ;
2. lắng nghe và gợi ư phân tâm, quyết định tụ khắc t́m ra ;
3. đặt vấn đề, cho thông tin, hoặc tạo dịp quan sát vấn đề và từ từ hướng đến một quyết định ;
4. giúp thảo luận nhóm, để nhóm tự t́m lấy quyết định ;
5. quyết định gần như đă lấy, nhưng c̣n nghi ngại, giúp nh́n ra vấn đề minh bạch, giúp lấy quyết định rơ rệt và t́m ra cách hành động hữu hiệu ;
6. quyết định đă lấy, nhưng mục tiêu không xác định rơ rệt, chương tŕnh không minh bạch, tiêu chuẩn không xác định, phương tiện, phương pháp và dụng cụ không đầy đủ, tóm lại không biết làm làm sao, chỉ bày cho làm, đào tạo người làm ;
7. quyết định đă lấy, nhưng không biết làm, không có người làm và cũng không có giờ làm, xin làm giùm.

Ban Cố Vấn tiên khởi của Hội Đồng Mục Vụ, trong thực tế đă được thành lập trước khi có Hội Đồng Mục Vụ. Cha Trần Thanh Giản, Cha Tín, Sư Huynh Trần Văn Nghiêm, Bác Sĩ Hoàn, Bác Sĩ Phán, Giáo Sư Bảo, Bs Tạ Thanh Minh, Gs Tạ Thanh Minh Khánh, Giáo sư Cảnh, Bà Lan Bằng là những vị cố vấn đầu tiên đă giúp Ban Giám Đốc Giáo xứ từ những năm 1980 lấy quyết định lập Hội Đồng Mục Vụ và tham gia tích cực vào việc chuẩn bị, đào tạo, tổ chức và thành lập Hội Đồng Mục Vụ vào năm 1983, cũng như theo dơi và giúp đỡ HĐMV trong những năm đầu tiên, nhất là 3 nhiệm kỳ đầu, từ 1983 đến 1989.

Ban Cố Vấn đă cố vấn trong tất cả những mức độ quyết định, mà quan trọng và tổng quát nhất là những quyết định chiến lược (décisions stratégiques) để tạo những sinh hoạt mới, như tạo lập hội đồng mục vụ vào năm 1983 ; tạo lập việc gây quĩ tài chánh và t́m kiếm cơ sở từ năm 1983 ; tạo lập mục vụ văn hoá : thuyết tŕnh vào năm 1981, báo chí vào năm 1984, tu thư vào năm 1997 ; tạo lập mục vụ giáo dục : giáo lư và tiếng việt từ năm 1983, gia đ́nh vào năm 1995 ; tạo lập liên đới nghề nghiệp vào năm 2000,…Về những quyết định chức vụ (décisions fonctionnelles), BCV đă góp phần vào những quyết định liên hệ đến việc dùng phương tiện, hoặc tổ chức, như tổ chức lại cơ cấu của HĐMV : nâng vai tṛ của BTV lên quan trọng hơn BCV, tổ chức BTV theo mô h́nh một chính phủ với việc lập các ủy viên, giảm trách nhiệm cho tổng thư kư và tăng trách nhiệm cho chủ tịch,... Và sau cùng, về những quyết định hành sự (décisions opérationnelles), BCV đă tích cực tham gia vào những quyết định liên hệ đến công việc mục vụ hàng ngày, mà cụ thể và rơ rệt nhất là quí vị đích thân làm những việc mục vụ ấy.

Ban Cố Vấn hiện nay gồm 6 vị sau đây : Bs Nguyễn Văn Ái, cố vấn văn hoá ; Gs Trần Văn Cảnh, cố vấn giáo dục ; Bs Nguyễn Ngọc Đỉnh, cố vấn ngoại vụ ; Ông Nguyễn Văn Hộ, cố vấn mục vụ cao niên ; Bs Tạ Thanh Minh, cố vấn y tế xă hội và Gs Tạ Thanh Minh Khánh, cố vấn gia đ́nh và thanh niên. Mỗi vị cố vấn trên đây, ngoài công việc cố vấn, c̣n tham gia vào việc thực hiện các công việc mục vụ một cách tích cực, trong các đoàn thể, phong trào và ban nhóm khác nhau. Đa số các vị đều là giảng viên trong Ban Mục Vụ gia đ́nh, và thành viên trong ban biên tập báo Giáo Xứ và ban tu thư Văn hoá.

 

22. CỘNG TÁC VỚI BGĐ ĐỂ SOẠN THẢO CHƯƠNG TR̀NH VÀ KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ

Tất cả các linh mục và tu sĩ đều xuất thân từ giáo dân. Đó là một sự thật hiển nhiên thứ nhất. Đa số các linh mục và tu sĩ việt nam đều gốc gác từ những gia đ́nh giáo dân nghèo. Đó là sự thật hiển nhiên thứ hai. Nhưng một số giáo sĩ và tu sĩ, khi trở thành giáo sĩ, được chọn vào hàng lănh đạo của Giáo hội, đă quên hẳn xuất xứ và gốc gác của ḿnh, tự cao tự đại, khinh khi giáo dân, xa tránh người nghèo hèn. May thay các linh mục, thầy sáu và nữ tu ở Giáo Xứ Việt Nam Paris không có cách cư xử khinh khi và xa tránh ấy. Đường như Ban Giám đốc giáo xứ đă được nhiều hồng ân, đă cầu nguyện nhiều, có tinh thần làm việc theo đức ái chia sẻ, đức mến kính trọng, đức cậy tin tưởng và đức tin phó thác. Ban Giám Đốc rơ rệt có cách cư xử chăm chỉ và khiêm tốn nhă nhặn. Họ lănh đạo giáo xứ có tổ chức và phương pháp và họ không ngần ngại mời gọi các giáo dân cộng tác. Sự cộng tác mà BGĐ mới gọi giáo dân đóng góp không chỉ ở lănh vực thực hiện, nhưng ở cả lănh vực soạn thảo chương tŕnh và kế hoạch. Trao trách nhiệm một cách tin tưởng, trong tâm t́nh kính trọng vào giáo dân đến nỗi tất cả các chức vụ trong Hội Đồng Mục Vụ đều trao cho giáo dân, ngay cả chức chủ tích. Chỉ giữ cho ḿnh trách nhiệm tuyên úy và đồng hành, là những trách nhiệm tối thiểu của các cha sở và cha phó đối với các đoàn thể của giáo xứ. Vai tṛ của giáo dân được nâng cao đến múc ấy thực là ít thấy, không chỉ ở những xứ đạo Việt Nam, mà ngay cả ở những xứ đạo Pháp !

Nếu cöng việc tư vấn là công việc ưu tiên của Ban Cố Vấn, th́ công việc soạn thảo chương tŕnh và kế hoạch là lănh vực chuyên biệt của Ban Thường Vụ. Họp với Cha Giám Đốc mỗi tháng một lần, với BGĐ mỗi khi cần thiết, trách nhiệm căn bản của BTV là soạn thảo chương tŕnh và kế hoạch chung, phối hợp và theo dơi, rồi tổng kết và cải thiện sự thực hiện các sinh hoạt ấy nơi các đơn vị mục vụ. Cụ thể mỗi năm hai lần, BTV có trách nhiệm tổ chức 2 đại hội mục vụ vào tháng sáu và tháng mười hai để xem xét sinh hoạt trong thời gian qua và đưa ra các định hướng mục vụ cho thời gian tương lai sắp tới.

Bên cạnh những công việc có tính chất điều hành trên, BTV c̣n có bổn phận làm nhiều việc mang tính cách đại diên, như đại diện cộng đoàn tham dự những sinh hoạt mục vụ ở Tổng Giáo Phận Paris, tham dự những sinh hoạt mục vụ công giáo việt nam ở cấp quốc gia pháp, lục địa âu châu hay toàn thế giới ; đại diện cộng đoàn đọc diễn văn, tiếp đón, chúc mừng các quan khách đạo đời pháp việt, đại diện cộng đoàn và HĐMV thăm viếng các đơn vị mục vụ, chúc mừng các linh mục, các giáo dân hoặc các đoàn thể vào những dịp đặc biệt, như tết nhất, thượng thọ, sinh nhật, tang chế,…Cũng trong lănh vực đại diện này, mỗi vị trong BTV đều là đồng hành của một hoặc nhiều đơn vị mục vụ, nhóm, hội đoàn, phong trào,…Mỗi nhóm Liên Đới nghề nghiệp đều có ít nhất một nhân viên của BGĐ và một nhân viên của BTV là đồng hành.

Song song với những công việc điều hành và đại diện trên, BTV c̣n đích thân dảm nhiệm nhiều công việc cụ thể, như hàng năm tổ chức tiệc tân niên cho cộng đoàn vào dịp tết nguyên đán, đảm nhiệm thực hiện hai ngày thân hữu giáo xứ vào tháng năm ; tổ chức những công việc đặc biệt, như thi hang đá, huấn luyện và tŕnh diễn thánh ca cho các ca đoàn, điều hành và quảng diễn những thánh lễ quan trọng, chỉnh trang cơ sở, triển lăm truyền giáo, truyền h́nh thánh lễ, chiếu phim truyền giáo,…Cũng trong lănh vực những công việc cụ thể, mỗi vị trong BTV đều là thành viên của một hay nhiều đơn vị, hội đoàn, ban nhóm mục vụ.

Ban Thường Vụ hiện nay gồm 12 vị sau đây, được bầu vào Đại hội Mục vụ ngày 13.06.2004 :
1. Chủ tịch : Luật sư Lê Đ́nh Thông
2. Phó chủ tịch : Ông Bùi Trọng Khang
3. Tổng thơ kư : Ông Trần Khắc Đạt
4. Phó tổng thơ kư : Dược sĩ Trần Thị Kim Chi
5. Uỷ viên Giáo lư : Chị Nguyễn Thị Mỹ Phước
6. Ủy viên Phụng Vụ và thánh ca : Bà Huỳnh Thị Anh Thư
7. Uỷ viên Tài chánh : Ông Ngô Triệu Hùng
8. Ủy viên Văn hoá : Ông Nguyễn Đức Minh
9. Ủy viên Thiếu niên : Anh Nguyễn Nha Ty
10. Ủy viên Thanh niên : Kỹ sư Vơ Thành Nhân
11. Ủy viên Thông tin liên lạc : Ông Nguyễn Anh Hải
12. Ủy viên Xây dựng : Ông Nguyễn Văn Thơm

 

23. CỘNG TÁC VỚI BGĐ ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG TÁC MỤC VỤ TRONG KHẮP CÁC PHẠM VI TÔN GIÁO, VĂN HOÁ, XĂ HỘI VÀ TÀI CHÍNH

Công tác mục vụ của BGĐ thật rất bao la, trải dài rộng trên 12072 cây số vuông, với 11491000 dân số của 8 tỉnh vùng Ile-de-France : Essonne, Hauts-de-Seine, Paris, Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne, Val-d’Oise và Yvelynes, trong đó có từ 42 đến 47 ngàn người việt nam và từ 13 đến 16 ngàn người việt nam công giáo. Tính trung b́nh, mỗi một trong 9 vị BGĐ có trách nhiệm mục vụ trên 1341 km2, có trách nhiệm lo giữ đạo cho từ 1444 đến 1888 giáo dân việt nam, có trách nhiệm lo truyền đạo cho 4666 đến 5222 lương dân việt nam. Công tác mục này sẽ rất hạn hẹp, nếu các cha, các thầy sáu và các chị nữ tu không được giáo dân cộng tác.

Một cách nào đó, dù muốn dù không, BGD cần đến giáo dân. Và giáo dân, vói tính cách là thành phần dân Chúa, với ơn gọi làm tông đồ giáo dân có bổn phận giữ đạo và truyền đạo cũng cần phải liên lạc với hàng giáo phẩm và sự giúp đỡ của các linh mục và tu sĩ . Từ nhu cầu hỗ tương trên, Ban giám đốc đă cổ động và mời gọi các giáo dân cộng tác để tích cực và trực tiếp tham dự vào công tác mục vụ. Giáo dân đă nghe tiếng gọi của các giáo sĩ và đă gia nhập các hội đoàn công giáo tiến hành có sẵn, hoặc lập ra những nhóm, phong trào, hội đoàn mới. Tư vấn là công tác mục vụ chuyên biệt của các vị cố vấn : Định hướng, phối hợp, kiệm tra tổng kết là hành động mục vụ độc đáo của ban thường vụ ; trực tiếp tham gia mục vụ dể giữ đạo và truyền đạo là ơn gọi và sứ mệnh của toàn giáo dân. Rất nhiều giáo dân đă tham gia vào các công tác mục vụ trực tiếp này bằng cách hoặc tham gia vào Ban Đại Diện các đon vị mục vu địa phương, hoặc tham gia vào các đoàn thể công giáo tiến hành địa phương và trung ương Paris. Mỗi người chọn lấy sinh hoạt và đơn vị, tùy theo khả năng, thời giờ, sức khoẻ. Dẫu là công tác t́nh nguyện, nhưng v́ tự do chọn lựa, đa số các giáo dân sinh hoạt với tinh thần trách nhiệm và với những kết quả đáng kính phục.

Cho đến năm 1980, theo những nghiên cứu được ghi lại trong « Kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris 1947-1997 », giáo xứ có 2 điạ điểm mục vụ là Paris (1947) và Sarcelles (1977) và 6 hội đoàn, ban nhóm mục vụ : Hội Sinh viên công giáo (1946), Hội Đạo binh Đức Mẹ (1970), Hội Các bà mẹ công giáo (1971), Giới trẻ (1977), Ca đoàn (1978) và Nhóm Xă hội (1978).

Hôm nay, 22.03.2007, nếu nh́n vào các báo cáo mục vụ hàng năm của BGĐ và BTV, giáo xứ hiện có tất cả 7 địa điểm mục vụ :
1. Paris (1947)
2. Sarcelles (1977)
3. Villiers-Le-Bel (1979)
4. Marnes-La-Vallée (1981)
5. Cergy-Pontoise (1993)
6. Ermont-Montigny-Franconville (1993) và
7. Antony (2006)

C̣n như các hội đoàn và phong trào, ban, nhóm công giáo tiến hành, thi hiện nay tại Giáo Xứ Việt Nam, địa điểm trung ương Paris, có 36 đơn vị chính :
1. Hội các bà mẹ công giáo
2. Hội Đạo binh Đức Mẹ (15 tiểu đội)
3. Hội yểm trợ ơn gọi
4. Phong trào Thiếu nhi thánh thể : 269 ấu, thiếu, sĩ
5. Phong trào Cursillo
6. Liên đới nghề nghiệp Nha Y Dược
7. Liên đới nghề nghiệp Kỹ nghệ, kỹ thuật
8. Liên đới nghề nghiệp Lu ật qu ản tr ị, nhân v ăn
9. Liên đới nghề nghiệp Taxi,
10. Liên đới nghề nghiệp Doanh thương,
11. Liên đới nghề nghiệp Dịch vụ,
12. Liên đới nghề nghiệp Xây dựng
13. Ca đoàn Giáo xứ
14. Ca đoàn Trinh vương
15. Ca đoàn Triều dâng
16. Ca đoàn Thiếu nhi Thánh thể
17. Ca đoàn Lê bảo Tịnh
18. Nhóm nhạc dân tộc
19. Nhóm trẻ và Sinh viên khoảng 300 người
20. Nhóm Gia đ́nh trẻ
21. Nhóm Sống đạo
22. Nhóm T́m hiểu ơn gọi
23. Nhóm Thánh kinh
24. Nhóm Giáo lư tân ṭng
25. Nhóm bữa cơm chủ nhật
26. Nhóm Thư viện
27. Nhóm trẻ
28. Lớp Giáo lư cho 269 trẻ em
29. Lớp Pháp văn : 8 lớp ban ngày cho 168 học viên
30. Lớp tiếng việt cho 269 trẻ em
31. Lớp đàn tranh
32. lớp nghệ thuật ca kịch
33. Ban giúp lễ
34. Ban báo giao xứ và tu thư
35. Ban Mục vụ hôn nhân
36. Ban Tiền giúp Giáo Hội

Tất cả những địa điểm và hội đoàn mục vụ trên đây của Giáo Xứ đều đă được tŕnh bày tóm lược trong sơ đồ tổ chức sau đây, đơn sơ và trong sáng, cho thấy những sinh hoạt nội bộ của Giáo Xứ, được cha Mai Đức Vinh và giáo sư Trần văn Cảnh phác họa vào năm 1997 .

 

LỜI KẾT

Ngày 22.08.2006 vừa qua, tại Toà Giám Mục Thanh Hoá, Ủy Ban Giáo Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt nam đă tổ chức một cuộc Hội Nghị để bàn về chương tŕnh hoạt động cho năm 2007 với sự chủ toạ của Đức Cha Chủ tịch Giuse Nguyễn Chí Linh. Trong bản đúc kết, Hội Nghị viết « Để cụ thể hóa cho hoạt động của Ủy ban, Hội nghị đă đề ra đường hướng sinh hoạt cho Năm Sống Đạo 2007 do HĐGM đề xướng, chủ yếu nhằm vào 3 đối tượng ưu tiên : Hội Đồng Giáo Xứ (HĐGX), Đoàn thể, Gia đ́nh ». Ngày 08.09.2006, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đă gởi một THƯ MỤC VỤ năm 2006, « Chọn chủ đề sống đạo hôm nay để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê Tông đồ viết : “Đức tin không có hành động th́ quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi lời nhập thể và nhập thế đă nêu gương cho chúng ta ». Dơi theo hai tài liệu căn bản và hiện đại này, chúng ta có thể bảo rằng Giáo dân của Giáo Xứ Việt Nam Paris đang lắng nghe và sống thư mục vụ của các vị chủ chăn là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đang sinh hoạt theo đối tượng ưu tiên của Ủy Ban Giáo Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt nam qua việc thực hiện ba sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ mà họ đă thành lập từ 1983 và hằng luôn cải tiến. Ba sứ mệnh đó là :

• Tư vấn các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo xứ về những quyết định mục vụ,

• Cộng tác với các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ để soạn thảo chương tŕnh và kế hoạch hoạt động mục vụ,

• Cộng tác với các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ để thực hiện công tác mục vụ trong khắp các phạm vi tôn giáo, văn hoá, xă hội và tài chính.

 

 

 

Paris, ngày 22.03.2007
Trần Văn Cảnh

 


Ghi Chú

18- Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, chương 1 ; 2-4

19- Ibd., chương 5 ; 24-25

20- Xin xem sơ đồ ơ chương 5

21- http://www.thanhlinh.net/tailieu/HoiNghiUyBanGiaoDanHDGMVN2006.htm

22- http://www.thanhlinh.net/tailieu/ThuMucVuHDGiamMucVN2006.htm


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.