" MỪNG 25 NĂM TUYÊN PHONG
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT-NAM 1988-2013,
ĐỌC LẠI
«LỊCH SỬ CÔNG GIÁO VIỆT NAM BỊ CẤM VÀ BÁCH HẠI»

1 2 3 4 5 6

 

 

LTS : Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp bày tỏ ḷng mộ mến Các Thánh Tử Đạo Việt Nam một cách đặc biệt bằng cách cùng nhau tổ chức Đại Hội Lộ Đức từ 01 đến 05 tháng 08 năm 2013 để « Mừng 25 năm tuyên phong các thánh Tử Đạo Việt Nam - Sống Đức Tin theo gương tiền nhân »

Để góp phần chia sẻ long mộ mến này, chúng tôi xin giới thiệu loạt bài sau đây của Gs Trần Văn Cảnh.

"Mừng 25 năm tuyên phong các Thánh Tử Đạo Việt Nam 1988-2013,

đọc lại "Lịch sử Công Giáo Việt Nam bị cấm và bách hại "

a. Lịch sử những lư do và sắc chỉ cấm đạo_160713

b. Chính sách cấm đạo của vua Minh Mệnh_260713

c. Các Thánh Tử Đạo đích thực là tử đạo kytô hữu

d. Gương đốt sáng văn hóa Việt Nam của các Thánh Tử Đạo Việt Nam

e. Gương thăng hoa văn hóa Việt Nam của các Thánh Tử Đạo Việt Nam

f. Cộng sản quản lư Công Giáo Việt Nam thế nào? Công Giáo Việt Nam chinh phục Cộng Sản ra sao?

   

 

Bài 1 : LỊCH SỬ NHỮNG LƯ DO VÀ SẮC CHỈ CẤM ĐẠO [1]

Đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam là do hoàn cảnh mà các vua quan Việt Nam đă tạo ra là họ muốn tiếp đón và có khi mời gọi người Âu Châu vào Việt Nam, hầu giao thương, buôn bán với ḿnh. Trong thế kỷ XVI, lịch sử Việt Nam loạn lạc với những tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê (1527-1592). Bắc triều nhà Mạc, cũng như Nam triều nhà Lê đều mời đón người Âu châu vào buôn bán với ḿnh. Sang thế kỷ XVII, với phân tranh Trịnh Nguyễn (1570-1786), Chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn, ai cũng muốn tiếp xúc với người Âu Châu để vơ trang cho ḿnh [2]. Dưới thời Tây Sơn (1788-1802), năm 1789, Nguyễn Vương Ánh lấy được thành Gia Định ; lại xin được sự giúp đỡ của người Pháp, nhất là của Đức Cha Bá Đa Lộc, người đă mang về, từ Pháp, mấy chiến thuyền, đạn dược và những cố vấn, tăng cường vơ trang quân sự [3]. Nhờ vậy, năm 1802, Nguyễn Vương mới thống nhất được giang sơn, mà xưng đế hiệu là Thế Tổ, lập lên một triều đại mới cho nhà Nguyễn.

Trong những người Việt Nam đầu tiên đă trở lại đạo Công Giáo, có nhiều người quan quyền hay hoàng tộc, có hiểu biết. Công tử Đỗ Hưng Viễn, con quan đại thần triều Lê trung hưng, là người công giáo đầu tiên vào khoảng những năm 1560-1570. Người thứ hai là công chúa Mai Hoa, chị của Hoàng Tử Lê Thái Tông, được rửa tội vào năm 1591[4]. Sau đó, Năm 1624, tại Thuận Hóa, Giáo sĩ De Pina dạy giáo lư cho bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1648), vợ của chúa Nguyễn Hoàng và ban phép Thánh Tẩy cho bà với thánh hiệu Maria Madalena [5]; . Năm 1627 tới thủ đô Kẻ Chợ (Hà Nội), Cha Đắc Lộ đă được tiếp kiến chúa Trịnh Tráng hồi đó xưng hiệu là Thanh Đô Vương. Trong quăng thời gian ở tại thủ đô, ngài đă khuyên được em gái chúa Trịnh Tráng trở lại đạo Công Giáo mang thánh hiệu là Catarina, c̣n chính chúa Thanh Đô Vương cho phép ngài lập nhà thờ bên cạnh đền vua.

Nhưng chính những thành quả kể trên cũng là cơ hội gây nên ghen tương, hiểu lầm. Vả nữa, v́ sự kiện giáo dân càng ngày càng phát triển đông đúc, một số vua chúa, quan lại và cả giới Tăng Ni đă có những nhận xét vội vàng và nghi ngại, sợ mất đi một phần thần dân, một phần ảnh hưởng, một phần tín đồ. Thêm vào đó giáo lư của đạo Công Giáo đem tới có vẻ quá nghiêm khắc và bị lên án là gây xáo trộn trật tự xă hội, thí dụ trong gia đ́nh, theo giáo lư Thiên Chúa, là chỉ có nhất phu nhất phụ, chứ không thể dung thứ, hay cho phép bảo tồn chế độ đa thê, t́ thiếp, nàng hầu, là những sự kiện rất thịnh hành trong triều đ́nh, trong giới quan lại, trong giai cấp thượng lưu giầu sang của thời xưa [6]. Ngoài ra, đối mặt với cảnh vật và xă hội Việt nam, những khó khăn hoà ḿnh nơi các thừa sai vào với xă hội Việt nam không phải là thiếu [7]; cách biểu lộ sự tôn kính tổ tiên và ḷng hiếu thảo với ông bà cha mẹ của người công giáo được thể hiện khác với các lễ nghi cổ truyền cũng là một cớ làm nhiều người chê trách. Ba sự kiện trên đă là những nguyên nhân thầm kín đầu tiên đưa đến việc cấm cản và bách hại đạo Công Giáo.

Thủa ban đầu có sự ghét đạo với những lư do ghen tương. Hai cha Buzomi và cha Carvalho củng 3 thầy trợ tá đă đến cửa Hội An ngày 18.01.1615. Mấy tháng sau, vào Lễ Phục Sinh, cha Buzomi đă xây xong một nhà nguyện mới và rửa tội được 10 tân ṭng. Hội an đă là sở truyền giáo thứ nhất của các cha. Từ tháng 07, cha đi trấn Quảng Nam giảng đạo và đă rửa tội được 300 tân ṭng, lập được một sở truyền giáo thứ hai ở đây. Chỉ vài năm sau, các Thầy Tăng Ni đă xúi dục Chúa Săi ra lệnh cấm đạo, nhân vụ hạn hán, năm 1617 dưới thời chúa Săi (Nguyễn Phúc Nguyên, 1615-1635). Các Thầy Tăng Ni giải thích rằng : « Trời hạn hán là v́ các thần nổi giận, thấy chúng bỏ đi theo đạo mới, để chùa chiền miếu mạo hoang vu, muốn cho các thần nguôi đi, chỉ có cách là đuổi các đạo sư tây giang ra khỏi nước » [8]. Có thật là v́ các Thần Phật bất măn hay v́ các Thầy Tăng Ni ghen tương ?

Nhưng về sau, trong những cuộc bách hại đẫm máu, dần dần hiện rơ lư do chính thức tôn giáo. Hầu hết các sắc lệnh cấm đạo đều v́ lư do tôn giáo, được thúc đẩy do ḷng "hận thù tín ngưỡng : odium fidei". Hận thù đến từ một quan niệm đôc tôn Khổng Giáo. Khổng tử là một hiền triết đă đưa ra những quan điểm sống tích cực với cốt lơi là thuyết chính danh, ngũ luân, ngũ thường, tam ṭng tứ đức… đă thật sự là món ăn tinh thần quư giá cho dân chúng đă mất niềm tin vào lẽ phải cuộc đời. Số người xin đến theo học với ông rất đông, tổng số có lúc lên đến 3000 học tṛ, gọi là tam thiên đồ đệ. Học tṛ và học thuyết của Khổng Tử đă góp phần thiết lập trật tự xă hội, xây dựng đạo đức và phẩm giá con người. Nhờ vậy mà xuất hiện “Thất thập nhị hiền” và hàng loạt những tinh hoa anh tài của xă hội. Người đời sau quá hâm mộ tư tưởng học thuyết Nho gia, trau chuốt, thêm bớt, rồi lồng vào tủ kính, xem Tứ thư Ngũ kinh là sách vở của Thánh hiền, là chân lư tuyệt đối, bất di bất dịch, và đó cũng là lúc Nho gia chuyển thành Nho giáo. Hán Vũ Đế đă “Băi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, bắt dân chúng « Không được học ǵ ngoài sách vở Nho gia ». Thế là chân lư bị độc quyền, người cầm quyền yêu cầu giới học sĩ chỉ cần học thuộc và làm theo, không cần bàn bạc thảo luận chi cả. Tứ thư Ngũ kinh trở thành nội dung chủ yếu trong khoa cử, chỉ cần học thuộc chép lại là cũng có thể đỗ đạt, làm quan. Tư tưởng Nho gia từ chỗ là học thuyết xây dựng xă hội, làm người sống ở đời, trở thành những câu sáo ngữ có thể giúp người học thăng quan tiến chức. Các vua chúa nhận ra Nho Giáo, với tam cương, là một tôn giáo bảo vệ đắc lực cho quyền hành của ḿnh, đă đặt nó lên hàng quốc giáo, chính đạo, độc tôn, bắt mọi người dân phải gia nhập, tuân giữ. Hận thù đổ vào tín ngưỡng Công Giáo xác tín sâu xa vào Thiên Chúa, sự tôn thờ Ngài là đấng Tạo dựng muôn loài, là vị Cứu tinh nhân loại và là Thẩm phán tối cao [9].

Lịch sử Giáo Hội Việt Nam ghi nhớ tất cả 53 Sắc chỉ chính thức do các chúa (hai ḍng họ Trịnh, Nguyễn: trong Nam ngoài Bắc), do nhà Tây Sơn và do các vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ban hành nhằm khai trừ và tiêu diệt đạo Thiên Chúa. Những lư do nào đă được nêu ra trong các lệnh cấm đạo, đặc biệt là những lệnh mà theo đó các thánh tử đạo đă bị bức tử ?

1. Ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn (1615-1778) cấm đạo v́ « Đạo mới làm cho người ta mất hết tinh thần đạo giáo của tổ tiên ». Tất cả có tám 8 Sắc chỉ đă được đưa ra : Chúa Săi (Nguyễn Phúc Nguyên, 1615) với sắc chỉ năm 1625, Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan, 1635-1648) với hai sắc chỉ năm 1639 và 1644. Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phước Tần, 1648-1687) với hai sắc chỉ năm 1663 và 1665. Chúa Ngăi Vương (Nguyễn Phước Trân, 1687-1691) với sắc chỉ năm 1691. Chúa Minh Vương (Nguyễn Phước Chu, 1691-1725) với sắc chỉ năm 1700. Chúa Vơ Vương (Nguyễn Phước Khoát, 1725-1765) với sắc chỉ năm 1725. Trong những sắc chỉ trên, sắc chỉ năm 1644 đă là lư do khiến thầy Anrê Phú Yên bị bắt ngày 25.07.1644 và bị luận án xử ngày 26.07.1644 [10].

2. Ở Đàng Ngoài, các chúa Trịnh (1627-1786) cấm đạo v́ : « Tà đạo Hoa Lang dùng lời nói lừa gạt mê hoặc ḷng dân và c̣n truyền bá lan rộng đạo lư sai lầm, nghịch lại với luật lệ và thói tục quốc gia nên cần phải nghiêm cấm ». Tất cả, 17 sắc chỉ đă được ghi nhận : Chúa Trịnh Tráng (1627-1658) với 5 sắc chỉ các năm 1629, 1632, 1635, 1638 và 1643. Chúa Trịnh Tạc (1658-1682) với 3 Sắc chỉ các năm 1658, 1663 và 1669. Chúa Trịnh Căn (1682-1709) với sắc chỉ năm 1696. Chúa Trịnh Cương (1709-1729) với 4 Sắc chỉ các năm 1709, 1712, 1721 và 1722. Chúa Trịnh Giang (1729-1740) với sắc chỉ năm 1736. Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) với 2 sắc chỉ năm 1754 và 1765. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) với sắc chỉ năm năm 1773. Ngày 22-1-1745, hai thánh đă bị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh Doanh là Francis Gil de Federich Tế và Mateo Alonso Liciana Đậu [11]. Dưới thời Chúa Trịnh Sâm, cha Giaxinhtô Castanhêda Gia và cha Vinh Sơn Lê Quang Liêm đă xưng đạo và tử đạo ngày 7-11-1773 [12].

3. Nhà Tây Sơn (1775-1800) cấm đạo để « Chấn chỉnh đạo thật của tổ tiên và của các vua là thờ kính Khổng Tử và hủy diệt đạo ngoại lai của các người Tây Phương để duy tŕ b́nh an». Khởi nghĩa năm 1775, đóng đô tại Quy Nhơn, rồi năm 1786 kéo quân ra chinh phục Miền Bắc, Nhà Tây Sơn đă ra 6 sắc chỉ. Ba sắc chỉ ở trong Nam, do Vua Thái Đức vào năm 1785 và 1798. Ba sắc chỉ ở Ngoài Bắc : hai do Quan Thái Sư Bùi Đức Tuyên ban hành ngày 07.01 và 24/01/1795 ; một do Khâm Sai Bắc Việt Ngô Văn Sở vào năm 1799. Hai thánh đă bị tử đạo theo lệnh cấm đạo năm 1798 của Vua Cảnh Thịnh. Đó là Cha Emmanuel Triệu, bị bắt ngày 8-8-1798 và tử đạo ngày 17-9-1798 tại Băi Dâu và Cha Gioan Đạt, bị bắt ngày 25-8-1798 và tử đạo ngày 28-10-1798 tại Chợ Rạ [13].

4. Vua Minh Mạng (1820-1840) cấm đạo Thiên Chúa v́ cho rằng đạo này là đạo xấu, nghịch lại với chính đạo (đạo Khổng), dẫu đă được vua cha Gia Long để lại di chúc « không được phép bách hại đạo » và mẹ ruột cản ngăn « đừng bắt đạo » : Vua Minh Mạng rất ghét đạo Công Giáo và đă kư 7 Sắc lệnh nghiêm cấm vào những năm 1825, 1826, 1830, 1833, 1834, 1836 và 1838. Nhà vua đă cấm một cách mưu mô, có kế hoạch.

Một đàng cho lệnh tập trung về Huế tất cả các Linh mục Thừa sai ngoại quốc. Bề ngoài nói khéo là nhà vua cần đến các vị để dịch sách ngoại ngữ ra tiếng Việt, nhưng thực ra là để cầm chân các nhà truyền đạo, không cho họ hoạt động và liên lạc với giáo đoàn. Trong khi đó chờ cơ hội có tàu ngoại quốc cập bến là đẩy số Thừa sai này về nước, đồng thời không cho vị Thừa sai mới nào được phép nhập cảnh Việt Nam. Đàng khác tiêu diệt các cơ sở, các tổ chức Công Giáo địa phương, nhất là căng màn lưới kiểm soát gắt gao để lùng bắt các đạo trưởng người bản xứ.

Biết trong giáo lư đạo Công Giáo có "10 điều răn" và nhiều lễ nghi cử hành trong năm, ngày 15/07/1834, vua cho công bố một đạo luật trong đó gồm 10 khoản, lấy từ triết học Khổng Tử đem áp dụng vào xă hội Việt Nam để dạy đạo làm người.

Trước khi ra sắc lệnh cấm đạo, nhà vua xúi các quan làm kiến nghị, lên án đạo Thiên Chúa là tà đạo. Hai Kiến nghị (năm 1826 và 1830) yêu cầu nhà vua thẳng tay tiêu diệt đạo trưởng Thiên Chúa Giáo bằng án tử h́nh.

Những vụ tàn sát ở Nghệ An, ở làng Dương Sơn : Linh mục, giáo dân bị bắt, bị xử! Nhất là tại Nam Định do bàn tay khát máu của Thống Đốc Trịnh Quang Khanh. Cuối năm 1837 ông bị nhà vua triệu về Kinh khiển trách nặng lời, v́ chưa thẳng tay với Cộng đoàn Công Giáo miền Trung Châu và Duyên Hải Bắc Việt là hai địa điểm từ xưa đến nay vẫn là trung tâm Công Giáo phồn thịnh. Từ Huế trở về Nam Định, Trịnh Quang Khanh mang theo món quà 40 ảnh Thánh Giá cỡ lớn, quà của vua trao tặng, và 6 ngàn quân binh. Ảnh Thánh Giá được mang đặt khắp các cửa ngơ trong thành phố, hay là về sau di chuyển trong các họ đạo mỗi khi có các cuộc hành quân bách hại, trong khi đó từng ngàn quân mới được tiếp viện chạy đi bao vây khắp nơi, xua hết mọi gia đ́nh Công Giáo ra ngoài, ép buộc họ phải bước lên ảnh Thập Giá, và bước lên ảnh Thập Giá có nghĩa là từ bỏ đạo thánh. Ba năm cuối đời Minh Mạng là những năm đau khổ nhất cho Giáo Hội Bắc Việt thời đó. Đức Giám Mục Retord, Hội Thừa Sai Paris, diễn tả: "Không thể trốn thoát được nữa, v́ không c̣n chỗ nào tối đủ để tránh né trăm ngh́n con mắt ŕnh rập [14] "!

V́ những chỉ dụ cấm đạo này, rất nhiều người đă bị bức tử v́ theo đạo Thiên Chúa, trong đó 58 vị đă được phong hiển thánh tử đạo :

-3 vị sau sắc lệnh 1833 : Linh mục Phêrô Lê Tùy, Lm Gagelin Kính, MEP, Quan đội Phaolô Tống Viết Bường ;

-2 vị sau Mười điều Huấn dụ 1834 : Binh sĩ Anrê Trần Văn Trông, Lm Marchand Du, MEP ;

-2 vị sau sắc lệnh 1836 : Lm Cornay Tân, MEP, Thầy Phanxicô Xaviê Cần ;

-23 vị sau sắc lệnh 1838 : Thầy Phanxicô Xaviê Chiểu, Giám Mục Henares Minh, OP, Lm Vinh Sơn Đỗ Yến, Thầy Giuse Nguyễn Đ́nh Uyển, Lm Phêrô Nguyễn Bá Tuấn, GM Delgado Y, OP, Lm Fernandez Hiền, OP, Lm Bênađô Vũ Văn Duệ, Lm Đaminh Nguyễn Văn Hạnh, OP, Lm Giacôbê Đỗ Mai Năm, Ông Lư Trưởng Micae Nguyễn Huy Mỹ, Ông Trùm Antôn Nguyễn Đích, Lm Giuse Đặng Đ́nh Viên, Lm Phêrô Nguyễn Văn Tự, OP, Y sĩ Hoàng Lương Cảnh, Lm Jaccard Kính, MEP, Chú Tôma Trần Văn Thiện, GM Borie Cao, MEP, Lm Phêrô Vơ Đăng Khoa, Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Diễm, Thầy Phaolô Nguyễn Văn Hào, Thầy Phêrô Nguyễn Văn Đường, Thầy Phêrô Vũ Văn Truật.

-13 thánh tử đạo đă bị hành quyết trong năm 1839, cũng dưới sắc lệnh 1838 và tăng cường với 2 sắc lệnh 29.07.1839 và 03.10.1839 : Lm Đaminh Tước, OP, Binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Binh sĩ Nicola Bùi Đức Thể, Binh Sĩ Đaminh Đinh Đạt, Lm Tôma Đinh Viết Dụ, OP, Thầy Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu, Ông Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, Thầy Đaminh Bùi Văn Úy, Ông Nguyễn Mới, Ông Tôma Nguyễn Văn Đệ, Lm Anrê Trần An Dũng (Lạc), Lm Phêrô Phạm Văn Thi. Đến năm 1840,

-15 vị đă bị bức tử, do những sắc lệnh trên và tăng thêm với sắc lệnh ngày 03.10.1839 : Lm Phaolô Phạm Khắc Khoan, Thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, Thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu, Lm Giuse Đỗ Quang Hiền, OP, Lm Luca Loan, Thầy Tôma Toán, Ông Antôn Nguyễn Hữu Năm, Thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Lm Đaminh Trạch, OP, Lm Giuse Nguyễn Đ́nh Nghi, Lm Phaolô Ngân, Lm Martinô Tạ Đức Thịnh, Ông Martinô Thọ, Ông Gioan Baotixita Cỏn, Y sĩ Simon Phan Đắc Ḥa [15].

5. Vua Thiệu Trị (1840-1847) cấm đạo v́ cho rằng người Công Giáo là lư do khiến người Pháp đến nước Nam và nghi rằng họ tiết lộ kế hoạch (của triều đ́nh) cho người Pháp. Sang đời vua Thiệu Trị, mặc dầu trong một vài địa phương đă có phần giảm độ gắt gao, nhưng cuộc bách hại vẫn tiếp tục, nghĩa là vua vẫn để cho thi hành những sắc lệnh đă được công bố đời vua Minh Mạng. Hai thánh đă bị tử đạo. Tại Phúc Nhạc (Ninh B́nh) Nữ Thánh Inê Lê Thị Thành (tức bà Thánh Đê, vị nữ Thánh duy nhất trong 117 Thánh Tử Đạo) bị bắt ngày 11-4-1841, v́ can tội chứa chấp "đạo trưởng", tức hai linh mục Thừa sai Berneux và Galy. Bà đă anh dũng xưng đạo và cam chịu mấy cuộc tra tấn dă man đến chết trong tù ngày 12-7-1841 tại Nam Định. Tại Hà tĩnh, Linh Mục Phêrô Khanh bị bắt ngày 29-1-1842 và bị trảm quyết ngày 12-7-1842.

Vào tháng 03 năm 1847, sau khi thất bại trong cuộc tranh chấp với đoàn tầu Pháp tại Cửa Hàn, vua phản ứng bằng cách đổ hết tội lỗi trên đầu người Công Giáo, và ngày 3/05/1847 ban hành hai sắc lệnh lùng bắt các linh mục Thừa Sai ngoại quốc. Theo sắc lệnh này, thánh Mattêô Lê Văn Gẫm bị bắt ngày 8-6-1846 và bị xử trảm ngày 11-5-1847 [16].

6. Vua Tự Đức (1847-1883) cấm đạo v́ cho rằng Đạo Công Giáo không chỉ là "Tả Đạo" mà c̣n tệ hơn nữa, là một tôn giáo xấu xa "một dịch tễ" ; coi người công giáo là kẻ nội thù và phải tận diệt. Nếu tính số Sắc lệnh bắt đạo, dưới thời Tự Đức lên tới 13 Sắc lệnh kư vào những năm 1848, 1851, 1855, rồi năm 1857: 4 Sắc lệnh; năm 1859: 3 Sắc lệnh; và năm 1860: 4 Sắc lệnh sau cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng ư chí nhà vua muốn tận diệt đạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt suốt trong 30 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những Sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức nào!

Sắc lệnh: 7/06/1857) : truyền các cơ quan chính quyền phải ráo riết bài trừ Tả đạo. Lệnh cho các xă ủy, cai tổng (Sắc lệnh: Tháng 5 năm 1857). Ai không tuân theo sẽ bị cách chức (Sắc lệnh 7/06/1857). Lệnh cho Triều đ́nh và các quan địa phương (Sắc lệnh 24/08/1857).

Phải bắt tất cả các tầng lớp Công Giáo : Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải tŕnh diện thường xuyên theo thời gian nhất định (Lệnh 17/01/1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không được bổ nhiệm giữ chức vụ nào (Sắc lệnh 18/09/1855). Đặc biệt giới ngư phủ: v́ họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855). Những người chứa chấp đạo trưởng sẽ bị phân thây và buông sông (Sắc lệnh 30/03/1851). Giáo dân không chịu đạp lên Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ "Tả Đạo" trên mặt và đi đầy biệt xứ (Sắc lệnh 18/09/1855). Ai cố chấp xưng đạo: đàn ông sẽ bị cưỡng bách ṭng quân, đàn bà bị tuyển làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 7/06/1857). Bắt các thành phần trong Hội đồng giáo xứ (Sắc lệnh tháng 10/1859). Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Đạo và bị đầy chung thân (Sắc lệnh Tháng 12/1859). Giới Quan lại Công Giáo, cả những ai đă chối đạo cũng bị cất chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết (Sắc lệnh 15/12/1859). Các Nữ tu : không được cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương ḿnh đang ở, v́ họ là những liên lạc viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị tù chung thân, hay làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 17/01/1860 và Sắc lệnh tháng 7/1860). Các Linh mục Việt Nam : đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thây để nêu gương ; Ngoại quốc: bị trảm quyết, đầu phải treo luôn trong 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển (Sắc lệnh 15/09/1855).

Các cơ sở Công Giáo (nhà thờ, nhà xứ, tu viện, nhà trường) bị đốt phá và tiêu hủy (Sắc lệnh 18/09/1855 và Sắc lệnh 8/12/1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị : phải b́nh địa hóa triệt để (Sắc lệnh 1/12/1857).

Những khổ h́nh dă man nhất : Phân sáp (1860) gồm 5 khoản : Khoản 1: Hết mọi người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng bên lương. Khoản 2: Tất cả các làng bên lương có trách nhiệm canh gác những tín hữu Công Giáo : cứ năm người lương canh gác một người Công Giáo. Khoản 3 : Tất cả các làng Công Giáo sẽ bị phá b́nh địa và tiêu hủy. Ruộng đất, vườn cây, nhà cửa sẽ bị chia cho các làng bên lương lân cận, và các làng bên lương này có nhiệm vụ phải nộp thuế hằng năm cho Chính Phủ. Khoản 4 : Phân tán nam giới đi một tỉnh, nữ giới đi một tỉnh khác, để không c̣n cơ hội gặp nhau, con cái th́ chia cho những gia đ́nh bên lương nào muốn nhận nuôi. Khoản 5 : Trước khi phân tán, tất cả giáo dân nam nữ và trẻ con đều bị khắc trên má trái hai chữ Tả Đạo và trên má bên phải tên tổng, huyện, nơi bị giam giữ, như thế không c̣n cách nào trốn thoát.

Pháp luật nghiêm khắc như thế, thảo nào số người Công Giáo bị ngă gục đă lên cao : trong tổng số 117 vị Thánh Tử Đạo, 50 vị đă hy sinh mạng sống dưới đời Tự Đức!

Đọc lại trang sử rùng rợn trên đây chúng ta tự hỏi : con người với nhau, cùng là công dân một nước, cùng nói một ngôn ngữ, cùng sống một giang sơn, cùng đóng góp nghĩa vụ chung, tại sao lại có thể tàn bạo với nhau đến thế ? Những Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân Việt Nam thời xưa là những công dân tốt lành, họ truyền bá những điều hợp lư, họ sống đời sống gương mẫu, họ ăn ở lương thiện bác ái. Có những người bị bắt bớ v́ tín ngưỡng, bị đeo gông cùm, nhưng nhiều lần được cả lính canh gác ngục tù cảm phục, tôn kính; nhiều lần trên pháp trường được cảnhững lư h́nh xin lỗi, thanh minh trước khi giơ tay hành quyết, tại sao họ bị bao vây tầm nă, bị đối xử dă man, tệ hơn những tội nhân phản loạn, bị coi rẻ hơn những thành phần bất hảo? Theo lư luận trần gian, sự kiện lịch sử làm cho chúng ta điên đầu không t́m ra câu giải đáp!

Nhưng rồi ngửa mặt lên nh́n vào cây Thập Giá. Từ đây một ánh sáng thiêng liêng sẽ cho chúng ta nhận thấy trong loài người ai đă thánh thiện bằng Chúa Kitô, ai đă thi ân cho nhân loại bằng Ngài, qua giáo lư Ngài công bố, qua phép lạ Ngài làm, qua đời sống trong sáng Ngài nêu cho cả thếgiới ? Nhưng rồi ai đă phải chết đau khổ bằng Ngài và như Ngài ? Chính Chúa Giêsu hồi xưa đă tiên báo: "Thầy phải đi Giêrusalem, ở đó sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ phải tử nạn và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Matt. 16,21). Sở dĩ Chúa đi chịu chết (và sau có phục sinh) là để: "Nhân danh Ngài sự ăn năn thống hối và ơn tha tội sẽ được lan truyền khắp nơi bắt đầu từ Giêrusalem" và Ngài trao cho các Tông Đồ sứ mệnh "làm chứng nhân về tất cả những sự kiện đó" (Luc. 24,48-68).

Tự Đức là vua sau cùng đă bách hại đạo Công Giáo, ư muốn của nhà vua là tiêu diệt tận gốc. Nhưng nhà vua, cũng như các người bách hại đạo Công Giáo trên thế giới, đâu có ư thức được rằng : đạo Thiên Chúa xây đắp không phải trong ranh giới thời gian, trong lănh vực địa dư quốc gia, nhưng là được củng cố trong lương tâm, trong tâm hồn nhân loại, làm sao mà tiêu diệt nổi? Đạo Thiên Chúa được mở rộng biên cương, được phát triển không phải bằng những phương tiện kinh tế, vật chất, binh đao, nhưng bằng một luật tiến triển siêu nhiên: "Hạt giống gieo xuống đất mà không mục nát sẽ không sinh hoa trái, nhưng nếu mục nát đi nó sẽ sinh nhiều hạt khác" (Gio. 12,24-25).

Theo những chỉ dụ cấm đạo này, số người đă bị bức tử v́ theo đạo Thiên Chúa đă lên rất đông, trong đó 50 vị đă được phong hiển thánh tử đạo. 4 vị bị bức tử theo sắc lệnh 1848 và 1851 : Lm Augustinô Schoeffer Đông, MEP, Lm Louis Bonnard Hương, Lm Philipphê Phan Văn Minh, Ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu. 2 vị với sắc lệnh 1854 : Ông Trùm Anrê Thông, Lm Laurensô Nguyễn Văn Hưởng. 4 vị đă tử đạo sau các sắc lệnh trên, thêm với sắc lệnh 1857 : Lm Phaolô Lê Bảo Tịnh, Quan Micae Hồ Đ́nh Hy, Thầy Phêrô Đào Văn Vân, GM Giuse Diaz Sanjurjo An.

Các sắc lệnh phân sáp và tận diệt người công giáo trong các năm 1860, 1861 và 1862 đă gây ra sự tang thương tàn khốc dă man chưa từng thấy : 115 linh mục bị tử đạo ; 2.000 nữ tu trong 80 tu viện bị phân tán, trong đó hơn 100 tử đạo ; Trên 10.000 đầu mục bị bắt ; Hơn 2.000 họ đạo bị hủy diệt ; Trên 300.000 giáo dân bị phân tán trong các làng bên lương, trong đó, khoảng 40.000 bị thiệt mạng. Trong tất cả những người tử đạo này, 40 vị đă được phong hiền thánh : GM Melchior Sampedro, Cai Đội Phanxicô Trần Văn Trung, Lm Đaminh Mầu, Cai Tổng Luca Phạm Viết Th́n, Quan Án Phạm Viết Khảm, Cai Đội Giuse Tả, Lm Phaolô Lê Văn Lộc, Lm Daminh Cẩm, Ông Phaolô Hạnh, Ông Trùm Emmanuel Lê Văn Phụng, Lm Phêrô Đoàn Công Quí, Lm Tôma Khuông, Cai Đội Giuse Lê Đăng Thị, Lm Phêrô Phanxicô Néron Bắc, MEP, Lm Théophane Vénard Ven, MEP, Lm Phêrô Nguyễn Văn Lựu, Lm Giuse Tuân, Lm Gioan Hoan, Ông Matthêô Nguyễn Văn Đắc, Lm Phêrô Almato B́nh, OP, Thầy Giuse Nguyễn Duy Khang, GM Girôlamô Hermosilla, GM Berrio Ochoa, GM Stéphane Théodore Cuénot, Ông Giuse Tuân, Ông Laurensô Ngôn, anh Giuse Túc, Ông Đaminh Ninh, Ông Trùm Phaolô Đổng, hai cha con Đaminh Huyện và Đaminh Toái, Ông Vinh Sơn Dương và các bạn, hai cha con Phêrô Dũng và Phêrô Thuần, Đaminh Nguyện, Vinh Sơn Tường, Đaminh Mạo, Anrê Tường, Đaminh Nh́, Phêrô Đa [17].

7. Nhóm Văn Thân (1874-1886) với khẩu hiệu « B́nh Tây, Sát Tả », đă đốt phá cả ngàn làng công giáo và giết hại có tới 60.000 tín hữu. Chính lư ra những cuộc bách hại chấm dứt dưới thời Tự Đức, v́ theo khoản 9 Hiệp Ước Giáp Tuất kư giữa Việt Nam và nước Pháp, ngày 15/03/1874, vua Tự Đức đă kư nhận "quyền tự do theo đạo và hành đạo của người Công Giáo". Tuy nhiên lịch sử c̣n ghi chép: sau vua Tự Đức sự bắt bớ Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục, không kém phần dữ dội tàn bạo, và diễn tiến trong hoàn cảnh rối ren khác biệt.

Các vua kế vị Tự Đức : Hiệp Ḥa lên chấp chính được 4 tháng rồi sau đó bị ép buộc phải uống thuốc độc quyên sinh. Kiến Phúc lên ngôi hồi mới 15 tuổi. Hàm Nghi lên kế vị lúc c̣n 12 tuổi. Do đó mọi quyền điều khiển quốc sự, giữa lúc đang phải đương đầu với ngoại bang, đều nằm trong tay hai vị đại thần: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Kết quả đưa đến chỗ không may mắn : do hai Hiệp ước 1883 và 1884 một phần lănh thổ Việt Nam và quyền hành cai trị quốc gia sang tay người ngoại quốc!

Do đó từ năm 1874, phong trào Văn Thân nổi dậy từ đất Nghệ An, do hai người tú tài là Trần Tấn và Đặng Như Mai, lập khẩu hiệu « B́nh Tây, Sát Tả » (đuổi quân Tây diệt Tả Đạo), lộng quyền trên đất nước, đặc biệt vùng Nghệ Tĩnh [18] và con vật hy sinh, một lần nữa, lại là nhân dân Công Giáo rải rác trên toàn quốc! Cuộc bách hại tàn ác v́ lợi dụng hoàn cảnh "đục nước béo c̣": chỉ trong mấy năm Văn Thân, số người Công Giáo bị tàn sát v́ Tín ngưỡng đă lên cao gần bằng tổng số tín hữu đă hy sinh trong hơn hai thế kỷ bách hại, từ đời các chúa Trịnh, Nguyễn, cho tới hết đời Tự Đức.

Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn: từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại là cứ tiếp tục ngă xuống, như những trái sung rụng trước cơn gió lộng! Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù. Nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại, chỉ v́ là thành phần trong dân Thiên Chúa. Linh mục Đ. Trần Văn Phát, hồi xưa Tổng Quản Giáo Phận Huế, c̣n đi xuống những chi tiết "độ 100000 đấng Tử Đạo : ước 58 vị Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc, 150 vị Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 1 chủng sinh, 270 Chị Ḍng Mến Thánh Giá và 99182 giáo dân" [19].

Trên đây chúng ta vừa xem qua 7 lư do khiến các vua quan đă cấm đạo Thiên Chúa và giết hại các tín hữu, tựu trung đều là v́ lư do tôn giáo. Qua 7 thời đại cấm đạo khác nhau, từ thời các chúa Nguyễn (1615-1778) ở Đàng Trong, các chúa Trịnh (1627-1786) ở Đàng Ngoài, qua Nhà Tây Sơn (1775-1800), các vua Nhà Nguyễn : Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1840-1847), Tự Đức (1847-1883), đến nhóm Văn Thân (1885-1886), các lư do nêu ra đều không phải là chính trị hay xă hội. Nhưng tất cả đều là tôn giáo. Trong hai triều đại Thiệu Trị và Tự Đức, kèm theo lư do chính là tôn giáo, c̣n thấy nêu ra lư do chính trị. Chúng ta có thể kết luận rằng lư do chính khiến các vua chúa Việt Nam cấm đạo, diệt đạo và thảm sát các tín hữu Công Giáo là lư do tôn giáo. Họ cấm đạo và giết giáo hữu v́ cho rằng Nho Giáo là chính đạo, chỉ có Nho giáo mới có quyền tồn tại, và các đạo khác phải bị tiêu diệt. Luật pháp của nhà Nguyễn và cả của nhà Lê đều qui định chỉ có Nho giáo là chính đạo, Nho giáo là độc tôn, c̣n tất cả các đạo khác đều là tà đạo, kể cả đạo Phật [20].

Qua 7 thời đại cấm đạo trên, tổng số các vị tử đạo ước lượng khoảng 130.000. Trong số 130.000 người đă bỏ ḿnh v́ đức tin, có 117 vị đă được Giáo Hội nâng lên hàng Chân Phúc, qua bốn đợt :

- Năm 1900 Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ban Sắc Chỉ Fortissimorum Virorum (Những con người anh dũng) ngày 27.5.1900 đă tôn phong 64 vị.

- Năm 1906 Đức Giáo Hoàng Piô X ban Sắc Chỉ Martyrum Purpurata Sanguine (Máu Đào Tử Đạo) kư ngày 15.4.1906 trong Acta S. Sedis, vol. 40 (1907), pp. 203-3211, ngày 20.5.1906 đă tôn phong 8 vị.

- Năm 1909 Đức Giáo Hoàng Piô X ban Sắc Chỉ Martyrum Purpurata Sanguine kư ngày 11.4.1909 trong Acta S. Sedis, vol. 1, pp. 452-458, ngày 2.5.1909 đă tôn phong 20 vị.

- Năm 1951 Đức Giáo Hoàng Piô XII ban Sắc Chỉ Albae ad Messem (Đồng lúa đă chín) kư ngày 29.4.1951 trong Acta Ap. Sedis, vol. 43, pp. 305-310, đă tôn phong 25 vị.

Và ngày 19.06.1988 trước 80.000 người tham dự, 117 vị Chân Phước Tử Đạo trên đây đă được tuyên phong Hiển Thánh bởi Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, Rôma.

Theo quốc tịch, thành phần 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được chia ra như sau:

- 11 vị người Tây Ban Nha: 6 giám mục và 5 linh mục thuộc Ḍng Đa Minh.

- 10 vị người Pháp: 2 giám mục và 8 linh mục Hội Thừa Sai Paris.

- 96 vị người Việt Nam: 37 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.

Theo thời gian, các Ngài đă hy sinh tính mạng làm chứng nhân cho Chúa trong các triều đại:

- Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 vị

- Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 2 vị

-Vua Cảnh Thịnh (1782-1802): 2 vị

-Vua Minh Mạng (1820-1840): 58 vị

-Vua Thiệu Trị (1840-1847): 3 vị

-Vua Tự Đức (1847-1883): 50 vị

Theo các khổ h́nh phải chịu, các Ngài đă phải hành xử như sau :

-76 vị bị xử trảm quyết (bị chém rơi đầu)

-21 vị bị xử giảo (bị giây thừng thắt cổ)

-9 vị bị tra tấn và chết rũ tù

-6 vị bị thiêu sống

-5 vị bị lăng tŕ (bị phân từng mảnh thân thể, bị xẻo từng miếng thịt)

Nghe lời chủ chăn, về dự Đại Hội Lộ Đức từ 01 đến 05 tháng 08 năm 2013 để « Mừng 25 năm tuyên phong các thánh Tử Đạo Việt Nam - Sống Đức Tin theo gương tiền nhân », các Công Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp cùng nhau dâng lời hoan ca :

" Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa,

Bài ca thấm nhuộm máu hồng,

từng đoàn người anh dũng tiến lên hy sinh v́ Tinh yêu "

 

Paris, ngày 26 tháng 07 năm 2013
Trần Văn Cảnh

 

 

 


Ghi Chú

1. Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, Giáo Hội Việt Nam, Những thời kỳ bị bách hại và những sắc chỉ cấm đạo ; Hoa Kỳ : 1987. (http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/veritas/index.html)

2. LM Nguyễn Hồng : Lịch sử truyền giáo Việt Nam, quyển 1 ; Sài G̣n : Hiện Tại ; 1959, tr. 22, 25, 27, 32, 53-54, 61, 97.

3. Trần Trọng Kim : Việt nam sử lược, q. II ; Fort Smith : Sống Mới ; 1978, tr. 150-152.

4. LM Nguyễn Hồng, Sđd ; tr. 23-31.

5. Ibid. ; tr. 80-82.

6. Vũ Thành : Ḍng máu anh hùng, tập 2 ; Franklin : Phong trào Thanh Sinh Công tại Hoa Kỳ ; 1987 ; tr. 3-7.

7. Đỗ Quang Chính : Tản mạn lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ; San Diego – Montréal : Antôn & Đuốc sáng ; 2005 ; tr. 76-

8. LM Nguyễn Hồng : Sđd, tr. 64

9. Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ : Sđd.

10. Vũ Thành : Sđd, tập 1, phần I, ch. 2

11. Ibid, III, 4

12. Ibid. III, 3

13. Ibid. III, 2

14. Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ : Sđd.

15. Vũ Thành, Sđd, tập 2, tr. 10-495.

16. Vũ Thành, Sđd, tập 3, tr. 18-23

17. Vũ Thành, Sđd, tr. 50-329

18. Trần Trọng Kim, Sđd, tr. 289-290

19. Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ : Sđd

20. Phan Phát Huồn, CSSR, Việt Nam Giáo Sử ; Long Beach : 1997 ; tr.398.

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6


Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.