" MỪNG 25 NĂM TUYÊN PHONG
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT-NAM 1988-2013,
ĐỌC LẠI
«LỊCH SỬ CÔNG GIÁO VIỆT NAM BỊ CẤM VÀ BÁCH HẠI»

1 3 3 4 5 6

 

 

LTS : Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp bày tỏ ḷng mộ mến Các Thánh Tử Đạo Việt Nam một cách đặc biệt bằng cách cùng nhau tổ chức Đại Hội Lộ Đức từ 01 đến 05 tháng 08 năm 2013 để « Mừng 25 năm tuyên phong các thánh Tử Đạo Việt Nam - Sống Đức Tin theo gương tiền nhân »

Để góp phần chia sẻ long mộ mến này, chúng tôi xin giới thiệu loạt bài sau đây của Gs Trần Văn Cảnh.

"Mừng 25 năm tuyên phong các Thánh Tử Đạo Việt Nam 1988-2013,

đọc lại "Lịch sử Công Giáo Việt Nam bị cấm và bách hại "

a. Lịch sử những lư do và sắc chỉ cấm đạo_160713

b. Chính sách cấm đạo của vua Minh Mệnh_260713

c. Các Thánh Tử Đạo đích thực là tử đạo kytô hữu

d. Gương đốt sáng văn hóa Việt Nam của các Thánh Tử Đạo Việt Nam

e. Gương thăng hoa văn hóa Việt Nam của các Thánh Tử Đạo Việt Nam

f. Cộng sản quản lư Công Giáo Việt Nam thế nào? Công Giáo Việt Nam chinh phục Cộng Sản ra sao?

   

 

Bài 4. GƯƠNG SỐNG VÀ ĐỐT SÁNG VĂN HÓA VIỆT NAM CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

‘Văn hoá là một hệ thống tổ hợp biểu lộ tác phong, bao gồm thiết kế nhận thức ,hành động tổ chức và tất cả những ứng xử cải tiến của tập thể con người sống thành xă hội. Cái tổ hợp này biến chuyển theo thời gian và môi trường mà một trong những tính chất độc đáo của nó là có hệ thống hữu cơ’ [1]. Trong định nghĩa này, hai tính chất căn bản của văn hoá đă được xác định, đó là ‘biến chuyển theo thời gian và môi trường’‘có hệ thống hữu cơ’.

Văn hóa Việt Nam có gốc rễ sâu xa, rộng lớn và vững chắc, trải dài qua lịch sử trên bốn ngàn năm văn hiến. Sử gia Trần Trọng Kim [2] chia lịch sử Việt Nam làm năm thời đại : Thượng cổ (từ năm 2879 đến 111 trươc Tây lịch), Bắc thuộc (từ năm 111 trươc Tây lịch đến năm 939), Tự chủ (từ năm 939 đến 1528), Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802), và Cận kim (từ năm 1802 đến 1945). Dưới cái nh́n về gốc rễ văn hoá Việt Nam, ba giai đoạn quan trọng và quyết định hơn cả là : Giai đoạn thượng cổ lập quốc tạo ra cái bản tính Âu-Lạc ; Giai đoạn bắc thuộc 1000 năm lệ thuộc Tầu, chịu ảnh hưởng sâu xa cái văn minh Tam Giáo, và Giai đoạn cận kim, đặc biệt là từ 1533 đến ngày nay, chịu ảnh hưởng Âu Mỹ và Công Giáo. Như vậy văn hoá Việt Nam có gốc rễ rất sâu xa : từ rễ cái Âu Lạc Bách Việt, xuyên qua rễ cả Tam Giáo và ăn sâu vào rễ cả Văn Minh Âu Mỹ Công giáo.

Các vua quan Việt Nam, kể cả các vua quan nhà Nguyễn, đă tiếp cận với văn minh Công Giáo Âu Mỹ, nhưng vẫn « cứ một mực theo cổ, chứ không chịu tùy thời mà biến hóa phong trục » [3]. Cho nên cứ nhất nhất độc tôn Nho Giáo, chống lại những cái ǵ mới. Tiếp cận với Đạo Công Giáo, từ thế kỷ XVI, thế mà 3 thế kỷ sau, thế kỷ XIX, vẫn c̣n cấm đạo một cách tàn nhẫn và thảm thương, vẫn c̣n không biết rơ về đạo này, vẫn c̣n những hiểu lầm rằng « Người công giáo chạy theo văn hóa ngoại quốc mà bỏ quên văn hóa Việt Nam ».

Có thật như vậy không ? Chúng ta hăy điểm lại những nét chính yếu của Văn hóa Việt Nam và t́m xem cách ứng xử chung của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là như thế nào. Rồi sau đó, một cách cụ thể, chúng ta hăy quan sát và phân tích vài ba trường hợp cụ thể, xem các Thánh Tử Đạo Việt Nam đă sống văn hóa Luân Thường Việt Nam ra sao.

A. Trước nhất chúng ta hăy nêu ra một vài nhận định tổng quát về văn hóa việt nam và về cách ứng xử chung của các vị tử đạo.

1. Văn hóa Việt Nam, cho đến thế kỷ XVI, bao gồm bốn tầng : Âu Lạc, Ấn Phật, Lăo Trang và Khổng Mạnh. Hệ tư tưởng Âu Lạc với truyền thuyết gia đ́nh Âu Lạc, đă đặc biệt truyền lại cho con cháu bốn điều : huynh đệ tương trợ, có đức kính nhường, có trí thuận ḥa và có dũng giữ nước. Hệ tư tưởng Ấn Phật với cái nh́n hư vô về thế giới ; với tứ diệu đế : khổ, dục, diệt, đạo, đă đưa cho người việt nam cách cư xử siêu thoát với thế tục, xả kỷ với ḿnh, để từ bi với chúng sinh. Hệ tư tưởng Lăo Trang tŕnh bầy cái gốc Đạo là nguyên ủy của sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Văy, sửa ḿnh và trị nước cần phải noi theo Đạo, phải điềm tĩnh, phải vô vi, phải tự nhiên, không dùng vũ lực. Tính hiếu ḥa, tính an nhiên của người Việt Nam phải chăng bắt nguồn từ Đạo giáo ? C̣n hệ tư tưởng Khổng Mạnh, th́ cả nền luân lư xă hội của ta đều lấy sức từ đấy và qua đấy. Trong cách sống của người Việt Nam, ngũ luân : Cha con có t́nh thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có ḷng tin (Bằng hữu hữu Tín).”[30] ; Ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vẫn được dùng làm nguyên tắc cư xử.

2. Nhưng các vua quan Việt Nam, bị ảnh hưởng Hán nho, muốn bảo vệ nhà vua, đă độc tôn Khổng giáo và rứt ba cái trong ngũ luân ra mà lập thành thuyết tam cương. Tam cương tức là ba giềng mối chính trong xă hội loài người. Tam Cương gồm có Quân thần (Vua và các quan), Phụ Tử (Cha và Con), Phu Phụ (Chồng và Vợ). Người ta thường giải thích rằng khi đề cao Tam Cương (cùng với Ngũ Thường), Nho giáo đă chủ trương người làm Vua, làm Cha và làm Chồng có quyền hành tuyệt đối đối với bầy tôi, con hay vợ. Thứ tự đă đặt ngược lại : thay v́ Cha con làm đầu, th́ Tam cương đă đổi Quân thần làm đầu. Thuyết tam cương th́ rơ là vua áp chế tôi, cha áp chế con, chồng áp chế vợ, mà không c̣n cái tinh thần b́nh đẳng của ngũ luân nữa. Trong ngũ luân, th́ « Dân vi quư, quân vi khinh » chứ không đề cao vai tṛ của vua quan. Ngược lại, theo tam cương th́ vua khiến bầy tôi chết, không chết không trung (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung).

3. Trên b́nh diện tổng quát, trong tất cả 117 thánh, không một vị thánh tử đạo nào đă làm chính trị, hiểu theo nghĩa lập phe đảng chống lại triều đ́nh. Ngay cả linh mục Giuse Marchand Du, bị bắt ngày 08.09.1835, người đă bị t́nh nghi là theo giặc Lê Văn Khôi, cũng chỉ là bị cáo gian. Thực ra ngài đă bị Lê Văn Khôi bắt vào thành, cưỡng bức phải biên thơ cho cầu cứu. Nhưng ngài đă không làm. Rút cục, ngài bị xử bách tùng xẻo v́ đă không bỏ đạo.

Chúng ta hăy nghe những cuộc tra hỏi về cha Marchand Du. Ngày 15-10, quân lính và tù binh về tới kinh đô trong tiếng reo ḥ chiến thắng. Các tù nhân bị nhốt trong cũi, xếp một hàng dài ở trại Vơ Lâm. Ngày hôm sau các quan ṭa tam pháp tra hỏi Cha Du: - "Ngươi có phải là Phú Hoài Nhân (tên vua đặt cho Đức Cha Taberd) không?"

- "Không".

- "Ông ấy bây giờ ở đâu?"

- "Tôi không biết".

- "Ngươi có biết ông ấy không?"

- "Tôi biết lắm nhưng đă lâu không gặp".

- "Ngươi ở trong nước được bao lâu?"

- "Năm năm".

- "Ngươi ở những đâu?"

- "Trước hết tôi ở Lái Thiêu, sau này tôi ở nay đây mai đó trong nhà nhiều người mà nay họ chết cả rồi".

- "Ngươi có giúp Khôi làm giặc không?"

- "Không, ông Khôi cho quân đi bắt tôi đem về Sài G̣n. Việc chiến tranh tôi không biết ǵ, chỉ làm một việc là cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ".

- "Có phải ngươi viết thơ xin quân Xiêm và giáo dân Đồng Nai đến giúp ngụy nữa không?"

- "Ông Khôi có bắt tôi viết thơ song tôi không chịu, và nói cho ông ta rằng đạo cấm làm chuyện chính trị. Tôi cũng nói thà chịu chết chứ không làm như thế được. Dù vậy ông Khôi c̣n đem mấy thơ đến bắt tôi kư tên vào nhưng tôi đă lấy mà đốt đi trước mặt ông Khôi".

Ngày hôm sau nữa quan lại hỏi các tướng nghịch. Những người này sợ tội nên đă đổ lỗi hoàn toàn cho Khôi đă chết và cho Cha Du. Họ bịa đặt ra là có đức cha xúi làm loạn để đưa An Ḥa, là con của Đông Cung (hoàng tử Cảnh) lên ngôi. Mấy tướng nghịch cũng đổ tội cho công chúa Kiên An là em của Minh Mệnh xúi dục khởi ngụy, và cho Thái Công Triều, trước theo giặc nhưng đă phản Khôi về hàng triều đ́nh.

Ngày 17-10, quan cho đ̣i Cha Du đến công đường có bày sẵn các h́nh cụ và bắt nhận lời như bọn tướng nghịch đă khai. Cha Du cực lực chối bỏ. Cha bị tra tấn thật dă man: hai đứa kềm hai bên, một đứa khác vén quần lên cao để lộ hai bắp vế, một tên khác lấy ḱm nung đỏ kẹp vào đùi bên trái. Mọi người nghe tiếng kêu xèo xèo và mùi khét phải quay mặt ra phía ngoài. Lư h́nh giữ nguyên kẹp cho đến khi nguội hẳn. Cha Du thét lên và ngất xỉu. Cách chừng nửa giờ sau quan lại hỏi nữa và bị kẹp đùi bên phải, thảm cảnh man rợ tái diễn làm Cha Du ngă xuống đất lần thứ hai. Cha vẫn một mực không chịu nhận tội làm giặc mà các quan ép buộc. Quan nói: "Thôi, tên này lớn gan lắm, để thủng thẳng bữa khác sẽ hay. Hăy đem về cũi giam lại".

Cha c̣n bị tra hỏi nhiều lần khác song không bị ḱm kẹp. Đứa con lên 7 tuổi của Khôi cũng bị tra hỏi, nó cứ thật mà khai là Cha Du không có can dự ǵ vào chiến tranh, cũng chẳng làm những điều ông Khôi ép buộc. Không ép buộc được Cha Du nhận tội, các quan bắt cha phải bỏ đạo. Quan nói: "Ngươi chối hoài là không làm ǵ theo giặc th́ thôi, nhưng ngươi không thể chối đă đến đây giảng đạo mặc dù ngươi biết có lệnh vua cấm. Tội này cũng đáng h́nh khổ nặng lắm. Nhưng nếu ngươi đành ḷng bỏ đạo bước qua thập giá th́ ta tha cho mọi h́nh phạt".

- "Quan lớn rộng lượng như thế th́ xin cám ơn, nhưng xuất giáo th́ không bao giờ. Tôi thà chịu mọi h́nh phạt quái gở chứ chẳng thà chối Chúa như vậy".

Các quan mặc sức chế nhạo và vu khống cho đạo như là làm thuốc mê, gian dâm với đàn bà.... Cha cực lực chối căi: "Cái việc ấy chỉ là do những người ghét đạo bày đặt ra. Nếu đạo có như vậy th́ c̣n ai dám theo?"

Các quan làm tờ tŕnh như sau: "Năm Minh Mệnh thứ 15, tháng 9, ngày 13, chúng tôi, các quan ṭa tam pháp theo lệnh hoàng thượng như sau. Tháng 5, năm vừa qua, chúng tôi xét xử vụ khởi loạn của Khôi ở thành Phiên An, trong số đồng phạm có linh mục Âu Châu tên là Du, cũng gọi là Marchand, đă theo tầu Trung Hoa đến nước năm Minh Mệnh thứ 12 tại cửa Cần Giờ, và trốn tránh tại Vĩnh Long và Biên Ḥa để lén lút giảng đạo Gia Tô. Từ đó theo Khôi khởi loạn, liên lạc với kẻ thù của chúng ta là nước Xiêm và tập họp người Công Giáo trong thành..., đă bị bắt và dẫn giải về kinh đô giao cho chúng tôi xét xử. Sau đó chúng tôi đă mở cuộc thẩm vấn và thấy các câu trả lời của tội nhân vi phạm luật lệ quốc gia một cách trầm trọng. Chính tội nhân đă nhận tội lỗi. V́ thế tên đạo trưởng Âu Châu Du hay Marchand có hai tội không những không chịu đạp ảnh mà thực sự có dính líu đến nghịch tặc. Chúng tôi luận phải xử bá đao và phải bêu đầu. Sau khi nhận được lệnh vua, chúng tôi sai hai quan Lang Trung và Chủ cùng với 40 lính thuộc trấn phủ dẫn tù nhân Âu Châu Marchand đến nơi gọi là Trương Đông, làng Dương Xuân, huyện Hương Toà để hành quyết và chặt đầu bêu như đă chỉ thị" [31].

4. Ngược lại, tất cả các thánh tử đạo đều rất tôn trọng vua quan và hết ḷng v́ quê hương. Thánh Lư Mỹ khi bị thẩm vấn về tội chứa chấp đạo trưởng là cha Năm trong làng, mà không báo quan, đă thành thật nhận lỗi và trả lời trong tinh thần rất tôn trọng quan Trịnh Quang Khanh rằng : « Bẩm lậy quan lớn, nếu quan lớn thương th́ chúng tôi nhờ hồng phúc quan lớn, bằng quan lớn bắt tội th́ chúng tôi cam chịu ».

Cha Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, bị bắt ngày 24-8-1837, xử trảm ngày 28-4-1840, c̣n nói rơ hơn về ḷng tôn trọng vua quan và phép nước. Ngày 28-4- 1840, trên đường ra pháp trường, tới thành phố gặp đám đông, Cha Khoan dừng lại nói với đám đông: "Anh chị em đừng thương tiếc cho số phận của chúng tôi, chúng tôi vô tội, chúng tôi không làm ǵ chống lại vua hay luật lệ quốc gia. Lỗi duy nhất mà họ trách là chúng tôi là người Kitô. Chúng tôi chết v́ không chịu từ bỏ đạo Chúa Giêsu là đạo chân thật. Với quư ông quư bà theo chúng tôi và nh́n máu chúng tôi tuôn đổ hăy suy nghĩ đến sự cứu rỗi, hăy trở về nhà bằng an". Hai quan lớn cỡi hai con voi, hai quan nhỏ cỡi ngựa và đông binh sĩ làm thành ṿng tṛn để ba vị tử đạo ở giữa rồi tiến về nơi xử là Ḷ Gạch tại Ninh B́nh. Tới nơi, Cha Khoan lại lên tiếng nói: "Chúng ta hăy thờ lạy tôn kính yêu mến Thiên Chúa, Chủ Tể trời đất, v́ yêu Người mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi cầu chúc đức vua được giầu sang phú quư cai trị muôn năm và chớ ǵ ngài ngưng cuộc bách hại đạo trời là đạo duy nhất mang lại hạnh phúc [32]."

Cha Tôma Khuông, bị bắt ngày 29-12-1859 và bị chém ngày 30-1-1860 tại Hưng Yên, đă trả lời một câu hỏi của quan và nêu rơ nhiệm vụ trung thành với vua quan rằng : « Đạo chúng tôi truyền buộc các tín hữu phải giữ trọn lề luật trong đạo đồng thời phải trung thành với vua, hiếu thảo với cha mẹ và phải cầu nguyện luôn cùng Thiên Chúa cho quốc gia được hưng thịnh. Nếu người nào lỗi phạm th́ mắc tội trọng. Chắc chắn không người tín hữu nào dám xin người Châu Âu đến gây việc chiến tranh [33] ".

 

B. Gương của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam và cụ thể của Cha Năm, Ông Trùm Đích và Ông Lư Mỹ, có cuộc sống khôn ngoan, ngay thẳng, nhân nghĩa, trung tín, đáng làm gương cho mọi người Việt Nam về tư cách sống. Nếu tất cả mọi người Việt Nam đều khôn ngoan, ngay thẳng, nhân nghĩa và trung tín như các ngài, th́ chẳng những chắc chắn thời các ngài đă chẳng loạn lạc như lịch sử đă kể lại ; mà c̣n có thể là đă chẳng có lệnh cấm đạo nữa, đă chẳng có việc các vua quan đă giết hại đến 130.000 người, chỉ v́ họ khác tôn giáo với ḿnh. Tư cách sống ấy, nét văn hóa thực tế ấy đă nổi bật ở những nét nào ? Các ngài đă đốt sáng văn hóa sống cụ thể ở những điểm nào ?

1. Gương lănh đạo trung tín như người cha tinh thần của cha Năm, giáo sĩ đạo trưởng. Hai tài liệu Công Đồng Vatican II đă nói rơ về vai tṛ của linh mục đạo trưởng. Trong Sắc lệnh về Chức linh mục Công đồng nói như sau: “Bởi vậy, trong chức vụ và đời sống của ḿnh, các linh mục phải nhằm mục đích t́m kiếm vinh danh Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô... Các ngài không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác đời sống thế tục”. Hiến chế Ánh sáng muôn dân, đặt tác vụ linh mục tư tế trong bối cảnh chung của sứ vụ của Giáo Hội được coi như là Dân Thiên Chúa, là dân đă nhận được ơn tham dự vào ba sứ vụ của Chúa Kitô: ngôn sứ, tư tế và mục tử. Hiến chế nói như sau: “Nhờ bí tích truyền chức thánh, linh mục được thánh hiến theo h́nh ảnh Chúa Kitô, thầy cả thượng phẩm vĩnh viễn (x.Dt 5, 1-10); 7, 24; 9, 11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước”. Cha Năm có đă thực hiện được những trách nhiệm của một linh mục, đồng thời giữ ǵn được những nét đặc trung của Văn hóa Việt Nam không ?

Cha Năm nhân ái với con người, trung tín với Thiên Chúa. Cha hiền ḥa vui vẻ, chăm lo kinh hạt, ước ao được phúc tử đạo, chứng nhân cho đời sống siêu nhiên. Cha thường kể truyện giặc giă đời Tây Sơn cho người ta nghe, nhiều người quư mến ngài. Ngoài tính vui vẻ, Cha Năm c̣n có tính khiêm nhường, đạo đức, cứ giờ cứ mực mà ra đọc kinh. Khi ẩn ở nhà ông trùm Tôn, ngài đọc kinh cả ngày. Có lần người ta đến hầu th́ phải đợi lâu mới vào được, v́ ngài c̣n đang bận đọc kinh lần hạt. Ngài có đức vâng lời, không bao giờ phàn nàn bề trên điều ǵ. Ngài cũng có ḷng thương người nghèo khó, khi ăn cơm ngài thường để dành cho kẻ khó một ít. Lúc chẳng có ǵ để cho kẻ khó, th́ ngài cho thuốc viên. Đối với vấn đề tử đạo, Cha Năm rất ao ước. Lần kia, cha được tin ông kia bỏ đạo th́ buồn bă phàn nàn rằng: "Ôi ông ấy dại dột dường nào! Ông ấy được dịp tốt đến mà không chịu nhờ. Đức Chúa Trời đă đem ông ấy vào đàng ngay nẻo chính để lên Thiên Đàng, mà ông ấy không chịu đi. Giả như Chúa thương ban phúc ấy cho tôi, th́ tôi chẳng dám từ chối. Giả như Chúa có liệu dịp tốt lành cho tôi như thế, th́ tôi chẳng dám bỏ qua".

Cha Năm can đảm vui vẻ đón nhận tử đạo, đă đặc biệt muốn chăn dắt tín hữu, rao giảng Phúc Âm và t́m kiếm vinh danh Thiên Chúa. Khi đến Nam Định th́ Cha Năm phải giam vào ngục thất ngay. Hôm sau các quan điệu ngài ra tra khảo bắt bỏ đạo. Cha Năm khẳng khái trả lời quan: "Bẩm lạy quan lớn, tôi là đạo trưởng mà tôi dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng Chúa tôi làm sao được? Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng và thà chết chẳng thà bỏ đạo, th́ tôi phải giữ lời tôi khuyên dạy kẻ khác. Nếu chính kẻ làm đạo trưởng chẳng chịu chết v́ đạo, th́ c̣n ai chịu chết v́ đạo nữa?"

- "Nếu ông cứ nói giọng này th́ ông phải chết chẳng có lẽ nào sống được. Ta thấy ông là người lương thiện hẳn hoi nên ta muốn cho ông được sống. Ta khuyên ông nên vâng lời Đức Hoàng Đế mà bỏ đạo".

- "Bẩm lạy quan lớn, tôi đă bằng này tuổi đầu th́ tôi đâu c̣n sợ chết, v́ dù quan lớn có tha chẳng giết tôi, chẳng bao lâu tôi cũng chết v́ bệnh. Nhưng nếu quan lớn giết tôi v́ đạo tôi lại được nhiều ơn ích hơn là tôi chết v́ bệnh. V́ nếu tôi chết v́ đạo, tôi sẽ được chết v́ Chúa tôi, đấng đă chịu chết cho tôi và tôi chóng được phần phúc Người đă hứa ban cho những kẻ giữ ḷng trung cùng Người cho đến sau hết".

Cha Năm được các quan thương mến. Các quan thấy Cha Năm ăn nói cả quyết cứng cát và chỉ ao ước được chết v́ đạo, th́ biết rằng chẳng có thể nào dụ dỗ ngài bỏ đạo được, và dù có tra tấn ngài mặc ḷng th́ cũng vô ích mà thôi, cho nên chẳng những các quan chẳng tra khảo mà cũng chẳng đánh đập ngài. Hơn nữa các quan thấy ngài đă có tuổi, ăn nói lễ phép nên cũng thương không bắt ngài mang gông cùm ban ngày mà chỉ bắt mang ban đêm thôi. Các quan cũng làm ngơ để cho cha đi lại trong tù dễ dàng.

Thực ra, gương công chính của các linh mục công giáo, làm nhiều quan chức đă không đồng ư bắt đạo, và đă t́m nhiều cách cứu giúp, kết nghĩa, trọng đăi, tránh xử. Cha Lê Bảo Tịnh đă được quan tổng đốc Tân cho người báo tin trước ngày các quan định vây bắt Vĩnh Trị. Cha Gioan Đạt, được viên viên cai ngục xin kết nghĩa huynh đệ : "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, th́ muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt v́ cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ ḷng tôi quí cụ." Cha Trần An Dũng Lạc được quan huyện B́nh Lục hậu đăi. Ông cho dọn cơm bằng mâm bát của ḿnh, để ông ngồi ăn một mâm, cha Lạc một mâm, rồi nói : "Ông ngồi một ḿnh một mam th́ cũng là quan. Ông là quan bên đạo, tôi quan bên đời", và cho lệnh cởi trói với lời thanh minh rằng : « Tôi không c̣ ư bắt ông, nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo măi, nên tôi phải đi ». Cha Đạt được dân chúng kính phục : Ngày 12-9 Âm Lịch, hội đồng cố vấn họp lại và ấn định ngày 20 sẽ thi hành án trảm quyết cha Đạt, đồng thời ra lệnh cho quan cũng như dân thuộc 12 huyện trong tỉnh Thanh Hoá kê khai những người Công Giáo, để bắt họ đến dự cuộc hành quyết của ngài. Từ ngày đó lương dân cũng như giáo dân Công Giáo bùi ngùi đến viếng thăm ngài. Họ nói với nhau: "Linh mục này hăy c̣n thanh xuân, gương mặt hiền ḥa trấn tĩnh, can đảm trổi hơn cả những quan tướng thời danh trong triều, thật xứng đáng là thủ lănh dân Công Giáo". Đặc biệt chuyện linh mục Vũ Bá Loan, niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng "cụ", ngài không bị đ̣n đánh, và trong ngày xử, mười lư h́nh bỏ đạo chạy trốn, đến người thứ mười một, đă lịch sự xin phép : "Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé".

Kết luận, qua những hành xử của ḿnh, cha Năm đă sống và thực hiện một cách trọn hảo văn hóa ngũ luân, ngũ thường. Đồng thời ngài đă làm tṛn nhiệm vụ của một linh mục, giáo sĩ đạo trưởng. Ngài đáng làm gương sáng cho mọi người dân Việt biết ḥa nhă tôn kính, thương yêu nhau ; và cho các linh mục việt nam hôm nay biết sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời để làm chứng cho Đức Tin, rao giảng Tin Mừng và t́m kiếm Vinh Danh Chúa.

 

2. Gương đức độ hiền lành dậy con của Ông Trùm Đích, Gia Trưởng. Đọc lại tiểu sử thánh Trùm Ích, nét nổi nhất hiện ra trong tác phong của ngài là sụ tổng hợp hoàn hảo giữa văn hóa ngũ luân, ngũ thường việt nam và đời sống nhân đức công giáo. Ngài đă thực hiện cả năm mối nhân luân : có t́nh thân với con cháu, có nghĩa với vua quan, có đầy đủ trách nhiệm bên ngoài để vợ lo bên trong, có kính nhường với anh em, có chữ tín trong giao thiệp, bạn bè ; cũng như năm đức tính thường ngày : Nhân, để yêu thương đối với vạn vật ; Nghĩa, để cư xử với mọi người công b́nh theo lẽ phải ; Lễ, để tôn trọng, ḥa nhă trong khi cư xử với mọi người ; Trí, để thông biết lư lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai và Tín, để giữ đúng lời hứa. Đồng thời ngài cũng thực hiện tốt đẹp 8 nhân đức nền tảng Kitô Giáo trong hai chiều kích “mến Chúa yêu người”. Ba nhân đức đối thần : Tin, Cậy, Mến. Và Năm nhân đức đối nhân : bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ.

Ông trùm Đích nêu gương sáng về ngũ luân, ngũ thường. Ông trùm Đích, chính tên là Nguyễn Khiêm, sinh năm 1769 tại làng Chi Long xứ Nam Xang, tỉnh Hà Nội. Cha mẹ là người ngoan đạo, thấy họ Chi Long xa nhà thờ th́ bỏ họ ấy mà đem con cái cửa nhà đến ở làng Kẻ Vĩnh, nơi có nhà chung, có các linh mục ở gần để tiện bề đi nhà thờ. Ông bà đến làng Kẻ Vĩnh và xin nhập làng Kẻ Vĩnh. Ông Đích từ đó sinh sống tại làng này, ông lập gia đ́nh với người làng Kẻ Vĩnh và sinh hạ được mười người con. Ông Đích là người hiền lành thật thà từ nhỏ, chẳng hề căi mắng buồn giận ai bao giờ, ông không chửi mắng con cái hay nói năng đến vợ bao giờ. Ông cũng chẳng chơi bời, cờ bạc rượu chè mà chỉ chuyên chú làm ăn và giữ đạo. Trong gia đ́nh, sáng tối cả gia đ́nh đều đọc kinh chung với nhau không bao giờ bỏ. Có người đă đến trọ nhà ông, sau này kể lại là chẳng bao giờ trốn được đọc kinh với ông ấy. Về vấn đề đi dự lễ, ông bắt chẳng những con cháu và người nhà phải đi lễ Chúa Nhật mà cả lễ ngày thường, chỉ để lại một hai người ở nhà coi nhà mà thôi. Chính ông làm gương cho vợ con, ông đi lễ hằng ngày và cầu nguyện sốt sắng. Ông ăn chay suốt mùa chay. Hằng ngày ông lần hạt rất nhiều lần.

Ông trùm Đích có ḷng kính mến các đấng các bậc tu tŕ. Ông hay gửi quà biếu xén nhà chung và làm phúc quần áo cho các chú các thầy. Ông chẳng tiếc công tiếc của với các vị tu tŕ. Có một năm trong nhà chung bị dịch tả, người chết rất nhiều, số c̣n lại ốm đau. Bấy giờ ngoài làng có một số người t́nh nguyện rước các thầy về nhà ḿnh để phục thuốc và đôi khi chờ đến khi khỏe hẳn mới cho trở về nhà chung, ông trùm Đích rước tám thầy về nhà ḿnh để phục thuốc. Về sau, đức cha muốn bù tiền phí tổn cơm nước thuốc men cho ông, nhưng ông không chịu nhận. Lúc bị cấm đạo các thầy phải tản mát các nơi, th́ ông chứa chấp các thầy tràng nhất (các chú đang học lớp 12) tại nhà ông chừng hai năm. Quả thật can đảm! V́ có sắc chỉ vua ban ra, ai chứa chấp các đấng bậc mà ông bị bắt. Trước kia ông đă chứa Đức Cha Dụ, rồi 3, 4 năm sau lại chứa Cha Năm. Thấy ḷng tốt của ông, nên các đấng bậc rất tin tưởng thường đi lại nhà ông. Riêng Cha Năm đối xử với ông như anh em ruột vậy. Có lẽ Thiên Chúa đă tiền định để cho đôi bạn quư này được cùng chịu khó v́ Chúa với nhau. Ông có ḷng thương kẻ khốn khó, nhất là những người bị bệnh phong cùi. Ông thương họ cách đặc biệt. Ông thường đến an ủi giúp đỡ họ và khuyên bảo họ vâng theo thánh ư Chúa. Người ở trại phong thường cậy ông mua và lo liệu mọi sự cho họ. Ông trùm Đích chẳng bao giờ làm trùm họ, nhưng v́ ḷng đạo, tư cách của ông cũng như v́ tuổi tác mà giáo dân đă kính trọng ông và gọi ông là ông trùm.

Trong hơn một tháng phải giam, ông trùm Đích siêng năng đọc kinh cầu nguyện. Ông xin Chúa ban ơn giúp sức để chịu khó cho nên. Đừng kể việc đọc kinh chiều sớm với các bạn tù, mà ông c̣n đọc kinh riêng nữa. Ở trong tù, Cha Năm cùng ông và các bạn tù cứ đọc kinh to như ở ngoài vậy. Các lính canh ngục cũng làm ngơ không nói ǵ. Ông cũng xưng tội hai ba lần và chịu lễ ít là một lần. Những đồ ăn con cháu gửi ông đem phân phát cho những tù nhân cũng bị giam với ḿnh.

Ông trùm Đích đặc biệt vượt trổi về thành quả giữ t́nh thân với con cái và giáo dục chúng. Ông dạy bảo và giáo dục con cái cẩn thận chẳng nuông chiều con cái. Dù con cái đă lớn khôn hay đă có vợ con, ông vẫn tiếp tục coi sóc răn bảo. Có đứa con nào cứng cổ cứng đầu th́ ông đánh đ̣n răn bảo, chẳng nuông chiều một đứa nào. Các con cái ông nhờ được ông giáo dục mà sau này nên người không một ai hư hỏng. Các con đều có ḷng đạo đức như ông. Một gia đ́nh mà có bốn người được phúc tử v́ đạo. Con trai ông là ông Lư Thi sau này cũng tử v́ đạo dưới thời Tự Đức năm thứ 11, tại Nam Định. Một người con khác tên là ông Phó Nhâm chẳng chịu bỏ đạo bị đày lên Cao Bằng và chết rũ tù ở trên đó. Con rể ông là ông Lư Mỹ cũng chịu tử v́ đạo với ông. Trước mặt kẻ ngoại thực là một thảm cảnh cho gia đ́nh ông. Nhưng trước mặt kẻ có đạo, thực là một phúc Chúa ban cho ông và gia đ́nh.

Khi con cái đă khôn lớn, ông lo liệu gia đ́nh. Ông không đặt vấn đề giàu sang phú quư mà là ḷng đạo. Người nào muốn cưới hỏi con cái ông phải đạo đức. Dù giàu có mà khô khan nguội lạnh ông cũng không gả con cho. Trái lại dù nghèo mà đạo đức th́ ông cũng bằng ḷng ngay. Chẳng những ông lo dạy con cái đạo nghĩa, mà c̣n lo cho con cái học hành. Trong nhà ông, ông nuôi thầy đồ để dạy chữ nghĩa cho con cái. Nhà ông cũng không phải nghèo hèn trong làng. Ông rất căn cơ mực thước chăm chỉ làm ăn, nên nhà không bao giờ thiếu thốn. Trong gia đ́nh có con ăn đầy tớ, và ông đối xử rất công bằng. Ông chẳng mang tiếng xấu ǵ trong làng và cũng chẳng ai trách móc ông được điều ǵ. Dù ông mới gia nhập làng Kẻ Vĩnh, nhưng uy tín của ông rất lớn. Ông được xếp vào hàng huynh thủ trong làng. Con rể ông làm Lư Trưởng, sau này con trai ông là ông Lư Thi cũng làm Lư Trưởng.

Đang khi ông bị giam ở tỉnh, quan gọi ông ra hầu ṭa 4,5 lần và bắt ông bỏ đạo. Bắt ép không được, các quan lại khuyên dụ ông: "Ông đă già rồi, con cái cũng đă khôn lớn, có nhà cửa cả, ông hăy quá khóa mà về ở với con cái, th́ chẳng vui hơn sao?"

Trước ông trùm Đích nghĩ đến những h́nh khổ ḿnh sẽ phải chịu v́ đạo th́ sợ hăi lắm, dường như muốn sờn ḷng. Tuy nhiên Cha Năm, ông Lư Mỹ, ông Lư Thi và các con cái yên ủi và khuyên bảo ông. Ông được những lời khuyên bảo và an ủi, th́ mạnh dạn thưa với quan rằng: "Bẩm lạy quan lớn, về con cái th́ mặc con cái, tôi đă lo liệu cho chúng nó rồi. C̣n về Đức Chúa Trời, đă có lẽ tự nhiên buộc tôi phải thờ lạy Người, có lẽ nào tôi lại dám bỏ Người. Quan lớn có tha th́ tha, bằng chẳng tha th́ chớ đừng ép tôi nữa".

Ông trùm Đích không phải đ̣n vọt, nhưng ông thấy con rể chịu đ̣n thế ḿnh th́ thương con lắm. Có lần thấy con rể bị quan đánh dữ quá, và khi ông Lư Mỹ về tới nhà giam nát cả thịt, máu me chảy ra chan ḥa, th́ ông trùm nói rằng: "Các quan đánh dữ quá thế này th́ con chết mất, chẳng có lẽ nào sống đến ngày xử được".

 

3. Gương khôn ngoan, hiếu trung, nhân nghĩa lễ của Ông Micae Mỹ, Lư Trưởng. Ông Micae Lư Mỹ sinh năm 1804 tại trại Đại Đăng, giáp tỉnh Vạn Sang nay là tỉnh Ninh B́nh. Ông Mỹ là trưởng nam, tên thật ông là Nguyễn Huy Diệu, khi ông lên 10 tuổi th́ cha mất, rồi hai năm sau mẹ ông cũng qua đời. Ông và các em ở với người d́. Tuy nhà khó khăn thiếu thốn, nhưng bà d́ vẫn liệu cho các cháu ăn học chữ nho. Ông Mỹ học sáng dạ và chăm chỉ học hành. Gia đ́nh ông Lư Mỹ đến lập nghiệp tại làng Kẻ Vĩnh. Ở đấy ông kết hôn với cô Miện con gái ông trùm Đích. Hai ông bà sinh được tám người con. Ông Lư Mỹ cũng có học qua nghề thuốc và có làm nghề thuốc ít nhiều. Từ bé, ông Mỹ đă có nét nghiêm nghị, khác hẳn với những trẻ đồng tuổi. Ông chẳng những siêng năng đi lễ đi nhà thờ, sớm tối đọc kinh, mà đôi khi người ta c̣n thấy ông đọc kinh lần hạt riêng một ḿnh ngoài xó vườn.

Sau khi lập gia đ́nh, ông càng ngoan đạo hơn nữa. Bà Lư Mỹ nói rằng: "Ông ấy rất siêng năng đọc kinh tối sớm, dù lúc trong nhà làm công việc cũng chẳng bỏ đọc kinh hay đọc kinh vắn tắt bao giờ. Tối nào vợ con hay đầy tớ bận bịu, hoặc phải làm việc cần nào khác ở nhà, ông bắt đọc kinh chung với nhau trước và đọc sách cho chúng tôi nghe nữa. Ông ấy xưng tội chịu lễ một năm bốn năm lần. Khi toan đi xưng tội, ông xét ḿnh trước hai ngày cùng biên tội ḿnh vào giấy kẻo quên".

Mọi người trong làng đều coi ông như gương lành để bắt chước. Có lần trai tráng trong làng Kẻ Vĩnh đến hầu cụ Phê, th́ cụ bảo chúng nó rằng: "Chúng con hăy soi gương bắt chước ông đồ Diệu (ông Lư Mỹ), v́ ông ấy thật là người có nết na hẳn hoi và giữ đạo sốt sắng".Ông Mỹ thương kẻ khó, và bố thí cho họ. Có năm mất mùa, thiên hạ đói khổ, ông truyền nấu cháo cho kẻ khó ăn, v́ ông sợ cho gạo, họ sẽ ăn xong và đau bụng mà chết.

Đặc biệt, trong chức vụ lư trưởng, Ông lư Mỹ nêu gương sáng ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín ; và nhất là chữ trí, khôn ngoan. Tuy c̣n trẻ, nhưng tư cách và uy tín của ông đáng kính phục. Ông là người sắc sảo giỏi giang, ông ăn ở chính trực và ăn nói lư sự. Có lần trong làng khuyết một chân cai tổng, lư trưởng trong làng đến nhà ông xin ông ra làm việc chung, nhưng ông không chịu. Về sau ông lại được bầu làm lư trưởng, ông cũng không nhận. Đức Cha Dụ phải khuyên bảo ông nhận làm lư trưởng để bênh đỡ nhà chung và giữ dân trong thời buổi cấm đạo ông mới vâng lời ra làm lư trưởng.

Trong thời gian làm lư trưởng, ông điều hành rất giỏi. Đức Cha Liêu sau này làm chứng rằng nhà chung và dân làng nhờ ông rất nhiều. Ông chẳng ăn bớt của dân chút nào mà có khi c̣n bỏ của nhà ra làm việc chung. Người ta kiện cáo nhau hay con cái kiện tụng chia của đều đến với ông Lư Mỹ, v́ ông xử sự rất công bằng. Khi đă lo liệu việc ǵ cho ai mà họ đem lễ vật đến tặng dù ít dù nhiều ông cũng không nhận. Người ta có biếu ông một hai trăm cau ông mới nhận, mà chẳng tạ ǵ cũng chẳng sao.

Khi phải sửa phạt dân, ông đánh đ̣n sửa phạt thẳng thắn chẳng thiên vị một ai. Cho nên dù ở trong làng hay ở ngoài đồng chẳng ai lấy trộm của ai. Cả hàng tổng đều khen ngợi làng Kẻ Vĩnh nghiêm hơn các làng khác. Ban đêm ông Lư Mỹ đi dọ bắt những kẻ đánh bạc. Có lần ông bắt bạc, và trong số bị bắt có người đầy tớ riêng của ông ở trong số đó. Anh này kể lại: "Một lần ông ấy bắt được tôi cùng ba anh nữa đang đánh bạc, ông ấy đánh mọi người 40 roi, c̣n phần tôi là đầy tớ riêng ông ấy nên ông ấy đánh 60 roi".

Những người đàn bà hay la lối chửi rủa, ông cũng đánh. Trong làng Kẻ Vĩnh có người đàn bà hoang thai đă hai lần, đền lần thứ ba có người bàn với ông Lư Mỹ đuổi bà ta ra khỏi làng, nhưng ông Lư Mỹ không nghe lại nói rằng: "Phải để nó ở đây, hoặc sau này nó ăn năn sửa ḿnh lại chăng. Nếu đuổi nó đi, nó sẽ đi với kẻ ngoại đạo mà mất linh hồn".

Sau đó ông lấy cái nia, khoét thủng ở giữa, bắt bà ta đút đầu vào, rồi lấy cái nồi đất bôi vôi úp lên đầu và trao cho đầy tớ cầm roi điệu đi quanh làng, đồng thời bắt bà đó rao to lên để bà xấu hổ mà chừa.

Thấy cách xử sự của ông với người ngoại t́nh ai cũng khen ông có tính thương người, chỉ mong cho người ta sửa ḿnh. Khác hẳn với cách phạt của các làng bên ngoài là gọt đầu bôi vôi và thả bè trôi sông cho chết. Khi cần phải sửa phạt ai, ông không phạt v́ nóng giận hay gắt gỏng. Ông ấy vừa truyền đánh người ta vừa nói truyện vui vẻ như thường, coi như đó là phép tắc phải vậy.

Với bà Mỹ, Ông lư Mỹ nêu gương về nghĩa tào khang ; Với con cái Ông nêu gương về chữ thân, chữ từ và giáo dục chúng. Vợ chồng con cái đầy tớ chẳng những đi lễ các ngày lễ cả, mà cả các ngày thường nữa. Trong mùa chay ông ăn chay một tuần hai ngày, thứ Tư và thứ Sáu. Vợ chồng ḥa thuận thương yêu nhau. Ông ăn ở hiền lành với vợ con chẳng bao giờ nặng lời với vợ con. Vợ chồng ông chẳng căi mắng nhau bao giờ. Trong suốt 18 năm trời vợ chồng ăn ở với nhau chỉ có một lần ông Lư Mỹ đánh bà ấy ba cái v́ bà ấy lười không chịu đọc kinh. Bà Lư Mỹ nói rằng vợ chồng chỉ mất ḷng nhau có một lần ấy mà thôi. Bà Lư Mỹ lại nói rằng: "Tôi chẳng thấy ông ấy uống rượu, đánh bạc hay là chửi bao giờ, chỉ chuyên một việc làm ăn, săn sóc cửa nhà và giữ đạo".

Ông Lư Mỹ vẫn ao ước được phúc tử đạo từ lâu. Có lần ông hỏi bà Lư Mỹ rằng: "Nè ta được phúc tử v́ đạo, th́ mẹ nó có bằng ḷng chăng?" Bà Mỹ đáp lại rằng: "Thày nó được phúc trọng ấy, th́ tôi bằng ḷng lắm chứ". Ông Lư Mỹ nghe như thế th́ bằng ḷng lắm. Thực là một cử chỉ anh hùng và hy sinh v́ Chúa của bà Mỹ. Ông nói lời trên với vợ ngày hôm trước th́ hôm sau quan đến vây làng và ông bị bắt.

Ở trong tù, Quan hỏi : "Sao mày chẳng thương vợ con? Con cái c̣n bé mọn yếu đuối, sao mày nỡ quên t́nh cha mà không thương con thế vậy? Dù chúng tao chỉ nghĩ tới hay trông thấy chúng nó th́ cũng xót c̣n mày mê man làm sao mà chẳng quá khóa đi?" Ông Lư Mỹ thưa lại quan: "Tôi tính sao hả? Tôi có mê đâu! Vợ con là của Đức Chúa Trời phó cho tôi, tôi coi sóc dạy dỗ khi có thể làm được. Mà bây giờ Đức Chúa Trời định cho tôi ở trong tay quan lớn, th́ tôi cũng phải vâng ư Người, cũng như vợ con tôi phải vâng ư tôi. Sao ông lại bảo lăng nhăng xàng xiên rằng tôi phải bỏ đạo, bỏ Đức Chúa Trời là phải lẽ sao?"

Bà Lư Mỹ có lần bế con mới sinh được mấy tháng ra tỉnh thăm chồng cũng yên ủi khuyên bảo chồng chịu khó cho trọn, đừng lo cho vợ con làm chi. V́ nhờ ơn Chúa giúp sức th́ ḿnh cũng có thể ra sức dạy dỗ chúng nó được. Con gái lớn ông tên là Mỹ, mới 12 tuổi, đi trộm mẹ ra tỉnh mất gần nửa ngày trời để thăm cha trong ngục. Nó phải qua 2,3 lần cửa lính canh rất ngặt. Đến gặp ông, nó thưa ông rằng: "Xin cha hăy chịu khó chịu chết v́ đạo". Đứa con trai ông lên 9 tên là Tường, nhỏ quá không lên thăm bố được, nên nhắn những người lên tỉnh thăm cha thưa rằng: "Xin cha đừng có quá khóa, cứ vững ḷng xưng đạo ra và chịu chết v́ đạo, đừng lo đến chúng con làm chi". Thật là một hồng phúc cho ông. Mọi người thân yêu đều có ḷng tin mạnh mẽ, khuyến khích ông can đảm chết v́ Chúa. Thấy vợ con có ḷng sốt sắng và đạo nghĩa như vậy, ông rất an ủi. Ông nhắn bảo con cái ở nhà giữ đạo cho vững vàng và trông cậy Đức Chúa Trời thương xem phù hộ cho.

Với ông trùm Đích, bố vợ, ông lư Mỹ rất hiếu thảo. Thấy cha vợ là ông trùm Đích đă già yếu, lại có tính sợ đ̣n, phàn nàn không biết có bền vững chịu các h́nh khổ không, th́ ông Lư Mỹ khuyên cha vợ: "Cha đă già rồi, lại yếu đuối, chẳng trông sống được bao lâu nữa, nếu cha chẳng chết v́ đạo khi này, th́ chẳng bao lâu nữa cha cũng chết bệnh. Nhưng nếu cha chết v́ đạo, th́ sẽ làm sáng danh đạo và sẽ được phúc thanh nhàn vui vẻ trên Thiên Đàng đời đời. Nếu cha xuất giáo mà về nhà phải chết bệnh th́ sẽ mang tiếng là kẻ bỏ đạo cùng liều ḿnh mất linh hồn. Giả như có ai mến tiếc sự sống đời này, th́ phải là con, v́ con c̣n trẻ tuổi, khỏe mạnh. Nhưng con chẳng tiếc sự sống, lại vui ḷng bỏ sự sống cho danh Đức Chúa Trời được cả sáng. Con cái cha đă lớn rồi. Cha có sống ở với chúng nó th́ cũng chẳng giúp chúng nó được việc ǵ. Nếu cha chết v́ đạo th́ sẽ làm gương sáng cho chúng nó và làm cho chúng nó được trọng trước mặt người ta. Vợ con c̣n trẻ tuổi, bốn đứa con của con c̣n bé dại chưa làm được ǵ mà ăn, nhưng con tin thật Đức Chúa Trời đă sinh chúng nó ra, th́ người cũng sẽ nuôi chúng nó nữa. Vả lại khi con đă được lên Thiên Đàng th́ con sẽ cầu nguyện cho chúng nó. Khi cha nghĩ đến những đ̣n vọt cha phải chịu chỉ lo sợ chẳng biết có chịu được chăng, song cha đừng lo, đừng sợ làm chi. V́ con sẽ chịu đỡ cho cha. Vậy xin cha hăy cứ vững ḷng xưng đạo ra cùng làm chứng cho thiên hạ biết ta là kẻ tin cùng giữ đạo thật ḷng và ta sẵn ḷng chịu chết v́ Đức Chúa Giêsu đă chịu chết cho chúng ta".

Ông Lư Mỹ nói thế nào th́ giữ như vậy. Hễ lần nào quan toan đánh ông Đích th́ ông lại xin quan: "Lạy quan lớn, cha tôi già nua tuổi tác cùng yếu đuối, xin quan lớn tha cho cha tôi, tôi xin chịu đ̣n thay cho cha tôi". Quan thấy ông có ḷng hiếu thảo, th́ ưng tha cho ông trùm Đích và đánh ông Lư Mỹ. Có lần ông Mỹ chịu đ̣n thay cho ông trùm Đích về, th́ nói với ông trùm Đích rằng: "Lạ thay bởi ơn Đức Chúa Trời thương, khi quan đánh, th́ con không thấy đau là mấy". Ông nói vậy, nhưng mọi người đều biết rơ ông bị đ̣n rất đau. Khi về đến ngục, quần áo ông đă rách nát hết và máu me chảy đầm đ́a cả. Thấy con chịu đ̣n thay ḿnh đau đớn như vậy, ông trùm Đích rất thương con. Cha Năm, ông trùm và ông Lư Mỹ nhất quyết đổ máu ḿnh ra v́ Chúa. Ba ngày trước khi xử, ông Lư Mỹ nói rằng: "Các đau đớn đă khỏi cả chỉ trừ có một chỗ đau chưa khỏi mà thôi."

Ông lư Mỹ được quan quân và dân chúng kiêng nể. Bị bắt, về tới đồn Lục Bộ, quan hỏi ông có bỏ đạo không th́ cho về, nhưng ông nhất định không chịu bỏ đạo. Ở Lục Bộ, một người huynh thứ trong làng Kẻ Vĩnh đến bàn với ông về việc hối lộ để chuộc ông ra, nhưng ông Lư Mỹ không chịu lại nói rằng: "Xin cám ơn dân có ḷng, dân có ḷng th́ trả ơn dân, nhưng đừng chạy chuộc tội, xin để tiền ấy mà giúp vợ con tôi và làm bữa mừng khi đem xác tôi về".

Ông Lư Mỹ bị hành hạ khổ sở hơn hết v́ các quan thấy ông c̣n trẻ trung lại có tài mới ra mật lệnh đánh đập để cho ông sợ mà đành chịu bỏ đạo. V́ thế ông bị hành hạ rất khổ sở trước khi ông bị xử trảm. Ông chẳng những chịu đ̣n phần ḿnh mà c̣n v́ thương cha vợ là ông trùm Đích, ông xin chịu đ̣n thế cho ông trùm. Tính ra ông phải bị đánh đến hơn 500 roi đ̣n, hai mông rách nát cả thịt ra chẳng c̣n nơi đâu lành. Cổ chân cổ tay sưng đầy lên v́ nọc thẳng quá, và c̣n bị đeo gông cùm nặng nề. Tuy bị đ̣n đau như thế mà ông vẫn can đảm không kêu ca. Đến nỗi có quan phải thốt lên: "Thằng này chết đoạn sẽ làm thành hoàng đất của nó. Thằng này chẳng phải là người vừa đâu".

Ngoài ra các quan c̣n làm hết cách để dụ dỗ ông. Có khi dụ dỗ cùng lúc với Cha Năm và ông trùm Đích, có khi th́ dụ dỗ riêng một ḿnh ông. Có lần quan bảo ông: "Mày là thằng giỏi giang lại trẻ tuổi, lư sự và coi sóc dân làng giỏi, ai cũng được nhờ, sao mày dại mà chẳng chịu quá khóa đi?" Ông Mỹ thưa lại: "Sao tôi lại dại? Khi chưa có tôi th́ đă có dân, thế th́ ai coi sóc dân lúc bấy giờ? Nhưng mà linh hồn tôi th́ tôi phải coi giữ, cho nên tôi chẳng bỏ linh hồn tôi mà nghe lời quan đâu".

Có một lần quan truyền cho lính kéo ông qua ảnh thánh giá. Quân lính lôi ông qua và reo lên: "Anh này quá khóa rồi". Lúc đó ông Lư Mỹ kêu lên: "Bẩm lạy quan lớn, ông lớn kéo voi qua thập tự th́ cũng được, nhưng mà chúng tôi nhất định không chịu bước qua Chúa chúng tôi thờ đâu!" Thấy ông trả lời khôn ngoan, các quan lại càng bực tức làm như chẳng lẽ ḿnh lại thua một thằng tù. Các quan càng ra lệnh hành hạ ông hơn nữa.

Có lần đến trước quan án, mà quan cứ giục ông phải bỏ đạo, nên ông nói chọc quan lớn: "Giả như giặc giă đến đây mà truyền cho chúng tôi đập đầu quan lớn để chúng tôi được sống, th́ chúng tôi dám làm, nhưng Chúa chúng tôi thờ th́ chúng tôi chẳng dám làm đâu". Quan nghe vậy tức giận quá, liền cầm cái quạt ném vào mặt ông trúng vào con mắt ông, ông đau đớn quá ngă xuống sân.

Lần khác quan hỏi ông Lư Mỹ: "Thiên Đàng là ǵ?" Ông Lư Mỹ chẳng cắt nghĩa Thiên Đàng là làm sao, chỉ thưa với quan rằng: "Lát gươm quan lớn ban cho tôi là đường đi lên Thiên Đàng đấy".

Có lần khác quan thương t́nh khuyên bảo ông: "Mày c̣n trai tráng, và giỏi giang. Mày đă làm lư trưởng, nếu biết điều mày cũng có thể trở nên giàu sang, và được phong lưu sống lâu. Mày hăy quá khóa đi, th́ được về nhà ở với vợ con. Nhiều kẻ khác đă quá khóa rồi, sao mày chẳng bắt chước chúng nó quá khóa, khi về nhà th́ mày muốn giữ đạo thế nào cũng được". Ông Lư Mỹ thưa lại quan: "Bẩm lạy quan, tôi đă xem sách đạo và hiểu lẽ đạo, tôi đă biết đạo Đức Chúa Trời là đạo thật cho nên tôi không thể bỏ được. Giả như có ai bảo quan lớn đập đầu Đức Hoàng Đế đă ban quyền cao chức trọng cho quan, ắt là quan lớn chẳng dám làm. Vậy tôi dám đạp ảnh Đức Chúa Trời là Chúa tôi thờ làm sao được? Tôi chẳng tiếc sự sống hèn sống tạm ở đời này, v́ thế nào tôi cũng phải chết. Nếu chẳng chết trước th́ cũng chết sau. C̣n về của cải chức quyền th́ xin quan lớn biết rằng chẳng có chức quyền và của cải nào sánh bằng phúc trọng tôi sẽ được chết v́ đạo. Tôi vốn thương vợ con tôi lắm, nhưng tôi sẵn ḷng ĺa bỏ họ v́ tôi biết rằng Đức Chúa Trời sẽ coi sóc chúng nó, và ngày sau sẽ cho tôi được gặp họ trên Thiên Đàng. Quan lớn dạy rằng có nhiều người bỏ đạo. Vậy những thằng lính v́ sợ giặc bỏ chạy cũng bỏ thầy ḿnh th́ có ra ǵ? Tại sao quan lớn lại dạy tôi bắt chước chúng nó?"

Có người đến thăm ông đem ư nghĩ liệu cách để cho ông được tha, ông liền mắng lại: "Ai khiến các anh đến thăm tôi mà nói những điều càn dở như vậy? Tôi có về th́ các anh sẽ khóc, nhưng khi đem xác tôi về làng, th́ các anh sẽ mừng".

Sau khi xử hai đấng, tên lư h́nh đ̣i ông Lư Mỹ năm quan tiền th́ sẽ xử một nhát mát mẻ. Nhưng ông bảo rằng: "Năm quan tiền để làm phúc cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú ḿnh đâu, muốn băm vằm thế nào th́ mặc". Lư h́nh bực tức, chém một nhát trượt không đúng, chỉ đứt một miếng thịt nơi cằm, ông Lư Mỹ ngă xuống. Măi đến nhát thứ năm mới đứt đầu.

Ông bị xử ngày 12-8-1838. Sau khi xử tử, quan cho phép ông Lư Thi được khiêng xác ba đấng về làng Kẻ Vĩnh. Đến đêm xác mới về tới làng. Dân làng và các làng bên đốt đuốc và đánh trống ra đón rước xác các ngài về rất vui vẻ mừng rỡ như ngày hội. Sau này bớt cấm đạo đức cha và nhà chung cùng bổn đạo hay ra viếng mồ ba đấng. Mỗi khi có lễ trọng và lễ quan thầy đức cha, giáo dân lại đến viếng xác ba đấng. Dân chúng đến lần hạt và ngắm Đàng Thánh Giá. Trong ba đấng th́ dân chúng quư ông Thánh Mỹ hơn cả. Đúng như lời các quan đă tiên đoán về ông: "Tên này sau khi chết sẽ làm thành hoàng đất nó".

Như vậy, thánh lư Mỹ, đă sống và giũ ǵn và nêu gương sáng về năm đức : nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Làm lư trưởng, ông lư Mỹ ăn ở có Nhân có Nghĩa với mọi người trong làng, từ những người nghèo hèn, qua tuần đinh, quan viên, đến bô lăo ; có Tín có Lễ với các bề trên quan quyền, cha chú, cũng như với dân làng ; có trí, có đức trong mọi quyết định, hành xử, đối đáp. Đó là những lư do khiến mọi người quan quyền cũng như dân làng kính nể ông. Về đời sống gia đ́nh, ông hiếu thảo với cha mẹ, có nghĩa có t́nh với vợ ; có thân có từ với con cái. C̣n về đời sống thiêng liêng với Chúa, ḷng tin cậy mến của ông thực vững mạnh, dũng cảm và phó thác. Trong con người ông lư Mỹ hai khuôn mặt việt nam và công giáo ḥa đồng cuốn quyện vào nhau một cách tuyệt hảo. Chân ông đạp đất Việt Nam, ḷng ông quyện vào văn hóa ngũ luân ngũ thường, trí ông mơ về một khát vọng tuyệt đối, vĩnh cửu của Nước Trời.

 

KẾT LUẬN

Văn Hóa Việt Nam, từ khởi thủy và dưới ảnh hưởng của những nền văn hóa chung quanh, đă được tô đậm với bốn nét : Âu Lạc, Ấn Phật, Lăo Trang và nhất là Khổng Mạnh. Trong đạo Khổng Mạnh, ngũ luân và ngũ thường là quan trọng hơn cả. Ngũ luân là 5 mối quan hệ chính trong xă hội : CHA CON có t́nh thân, VUA TÔI có nghĩa, CHỒNG VỢ có sự phân biệt, ANH EM lớn nhỏ có thứ tự, BẰNG HỮU có ḷng tin. Ngũ thường là năm đạo cư xử phải có hằng ngày : NHÂN là cách cư xử từ thiện, nhân hậu, NGHĨA là cách cư xử hào hiệp, chính đáng, trách nhiệm, LỄ là cách cư xử theo đúng nguyên tắc, nghi thức, có tôn trọng, ḥa nhă, TRÍ là cách cư xử khôn ngoan, có suy nghĩ, tiên liệu, tính toán để hành động cho hợp đạo lư, TÍN là giữ đúng lời, đáng tin cậy. Nhưng các vua quan Việt Nam, muốn độc tôn vua, đă giữ nguyên ngũ thường, nhưng đả biến ngũ luân thành tam cương : ba giềng mối : Quân - thần (Vua - tôi) th́ tôi phải trung với vua, Phụ - tử (Cha - con) th́ con phải hiếu với cha, và Phu - phụ (Chồng - vợ) th́ vợ phải tùy theo chồng.

Tất cả 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam đều đă có một cách cư xử chung, qui chiếu về 3 điểm sau đây. 1-Không một vị thánh nào đă làm chính trị, hiểu theo nghĩa lập phe đảng để chống lại triều đ́nh; 2-Và tất cả các ngài đều hết rất tôn trọng vua quan và 3-hết ḷng v́ quê hương.

Trong cụ thể, lấy trường hợp ba thánh là cha Năm, ông trùm Đích và ông Lư Mỹ, th́ họ đă sống văn hóa ngũ luân ngũ thường việt nam một cách đầy đủ, đáng làm gương sáng cho mọi người Việt Nam, kể cả các vua quan.

Thánh Linh Mục Năm, giáo sĩ đạo trưởng, sống và nêu gương lănh đạo trung tín như người cha tinh thần : nhân ái với con người, trung tín với Thiên Chúa ; can đảm vui vẻ đón nhận tử đạo, đă đặc biệt muốn chăn dắt tín hữu, rao giảng Phúc Âm và t́m kiếm vinh danh Thiên Chúa ; được các quan thương mến. Thực ra, gương công chính của các linh mục công giáo, làm nhiều quan chức đă không đồng ư bắt đạo, và đă t́m nhiều cách cứu giúp, kết nghĩa, trọng đăi, tránh xử. Như vậy, qua những hành xử của ḿnh, cha Năm đă sống và thực hiện một cách trọn hảo văn hóa ngũ luân, ngũ thường.

Thánh Trùm Đích, Gia Trưởng, đă sống và nêu gương đức độ hiền lành dậy bảo con cái : nêu gương sáng về ngũ luân, ngũ thường ; đặc biệt vượt trổi về thành quả giữ t́nh thân với con cái và giáo dục chúng.

Thánh Micae Mỹ, Lư Trưởng, nêu gương sáng ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và nhất là chữ trí, khôn ngoan trong chức vụ lư trưởng ; được quan quân và dân chúng kiêng nể ; nêu gương về nghĩa tào khang vợ chồng ; nêu gương về chữ thân, chữ từ và giáo dục con cái ; rất hiếu thảo với ông trùm Đích, bố vợ. Tóm lại, thánh lư Mỹ, đă sống và nêu gương sáng về năm đức : nhân, nghĩa, lễ, trí và tín.

Những điều chúng ta vừa tŕnh bày trên đây, hôm nay, 2013, nhiều người hơn đă chấp nhận. Trên mạng của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, đang cho phổ biến một bài của tác giả Kiều Đ́nh Nga dưới đầu đề : « Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam », trong đó người ta đọc được những nhận định như :

Thâm nhập vào Việt Nam giữa lúc chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, nạn đói kém tràn lan, đạo Công giáo đă trở thành chỗ dựa tinh thần cho người dân đang cần niềm an ủi. Với truyền thống bao dung, người Việt Nam dễ dàng chấp nhận mọi tôn giáo ngoại lai miễn là nó phù hợp và đến với thiện chí ḥa b́nh.

Công giáo tại Việt Nam, nơi chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo lớn (Phật, Khổng, Lăo), thường bị phê phán là ngoại lai với dân tộc, v́ ảnh hưởng của Công giáo đối với văn hóa Việt Nam c̣n rất hạn chế, nhưng cùng với thời gian đạo Công giáo đă có những ảnh hưởng và đóng góp nhất định vào nên văn hóa Việt Nam. Đạo Công giáo đến Việt Nam giai đoạn đầu cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Gặp được Công giáo và nghe những lời giảng của các linh mục trong hội truyền giáo, đông đảo những nông dân nghèo đă hồ hởi tiếp đón Tin Mừng, v́ Tin Mừng làm sáng tỏ và nổi bật lên những yếu tố vốn tiềm tàng trong tâm thức tín ngưỡng dân gian, là chất liệu sống của thôn làng cả ngàn năm. Họ đă tin theo và trở thành những tín hữu nhiệt thành đến mức phải chịu nhưng sự khủng bố, bắt đạo ngặt nghèo của vua quan [4].

Về Lộ-Đức các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam đă nghe lời mời của các tuyên úy để " MỪNG 25 NĂM TUYÊN PHONG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT-NAM - SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG TIỀN NHÂN. "

Người tín hữu nặng t́nh, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, không khỏi cảm kích nh́n ra gương sáng sống, giữ ǵn và đốt sáng văn hóa Việt Nam của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ cầu xin, để gương lành này được dăi tỏa nơi tín hữu và lương dân Việt Nam.

Chắc chắn họ sẽ theo lời xướng của Cha Tổng Tuyên Úy Nguyễn Kim Sang, mà hát bài thánh ca « Đây Bài Ca Ngàn Trùng » và « Nguyện xin các Thánh Tử-Đạo Việt-Nam cầu bàu và phù giúp chúng ta luôn trung thành với niềm tin và biết noi gương các Ngài đễ minh chứng cho T́nh yêu của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, dù phải gặp những khổ giá của cuộc đời ».

 

Paris, ngày 28 tháng 07 năm 2013
Trần Văn Cảnh

 

 

 


Ghi Chú

(1). Trần Văn Cảnh trong Văn Hóa Gia Đ́nh ; Paris ; Giáo Xứ Việt Nam ; 2006, tr. 23-24

(2). Trần Trọng Kim : Việt nam sử lược, q. 1 & II ; Fort Smith : Sống Mới ; 1978.

(3). Ibid. tr. 228.

(4). Đinh Kiều Nga : Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, Nguồn : Ban Tôn Giáo Chính Phủ,  http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/3171/

 

 


Mời đọc tiếp

1 3 3 4 5 6


Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.