La Société des Missions Etrangères de Paris

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

gxvnparis

 

 

 

THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS
350 năm xây dựng Giáo Hội Việt Nam

 

(Bài 3)

 

Thành lập Thừa Sai Hải Ngoại Paris 1658
Thiết lập hai Giáo Phận Việt Nam đầu tiên 1659

Ba năm lưu lại Lamă 1649-1652, sau nhiều tiếp kiến với ĐGH Innocent X và Thánh Bộ Truyền Giáo, cha Đắc Lộ thấy rơ ba khó khăn khiến giáo triều La mă đă chưa dám gởi giám mục đi Viêt Nam : 1- Thiếu tổ chức hậu cần ở Âu Châu ; 2- thiếu quĩ tài trợ và 3- thiếu những thừa sai có khả năng và nhiệt t́nh để giải quyết những vấn đề truyền giáo hải ngoại với hai thách thức to lớn : thích ứng với địa phương hầu thu hút tân ṭng và đương đầu được với những thế lực bảo trợ muốn giữ độc quyền việc quản trị truyền giáo hải ngoại hầu bảo vệ tư lợi quốc gia trần thế. Cha đă quyết định về Pháp t́m giải đáp.

Về Pháp, ở Marseille, rồi Lyon, Roanne. Ở Roanne, cha Đắc Lộ làm quen được với Đức Cha Henri de Maupas du Tour, giám mục Puy và tuyên úy của Hoàng Hậu. Đức cha chuẩn bị đi Paris và đề nghị cha Đắc Lộ đi theo. Hành tŕnh 11 ngày từ Roanne đến Paris,từ 17 đến 28.01.1653, đă cho phép cha Đắc Lộ dịp kể chuyện về Á Châu và đặc biệt về Giáo Hội Việt Nam, Đàng trong (Cochinchine) cũng như Đàng Ngoài (Tonkin) ; Về việc giảng đạo và những cuộc trở lại, về văn hoá niềm tin ở Việt Nam, về những khó khăn, bách hại, về những nhu cầu thừa sai, về những hy vọng tương lai của một giáo hội thịnh vượng,…Trong hai năm ở Paris, 1653-1654, nhờ sự giới thiệu rộng lớn của Đức Cha de Maupas, cha Đắc Lộ đă đóng góp rất nhiều vào việc thành lập Thừa Sai Hải Ngoại Paris ngày 29.07.1658, ngày mà cha François Pallu và cha Pierre Lambert de La Motte đă được Đức Giáo Hoàng Alexandre VII đặt làm Giám Mục đầu tiên Giám Quản Tông Toà cho hai Địa Phận Đàng Ngoài và Đàng Trong của Giáo Hội Việt Nam .

 

1. Gặp các giáo sĩ và giáo dân có khả năng tổ chức và tài trợ hậu cần ở Paris

Đức cha Henri de Maupas là người có nhiều liên lạc ở Paris. Ngài là phát ngôn viên của Hội Thánh Thể (Compagnie du Saint-Sacrement). Được Vua Louis XIII và hoàng hậu Anne d’Autriche bảo trợ, Hội Thánh Thể, được thành lập từ năm 1627 do Henry de Lévis, công tước Vantadour. Hội lo chữa trị bệnh nhân, tài trợ dưỡng đường, cứu giúp người nghèo, « uấn nắn gái hư », thăm nom tù nhân, dẹp tà giáo, ủng hộ các chương tŕnh mục vụ ở thành thị cũng như ở thôn quê. Hội qui tụ nhiều giáo dân và giáo sĩ danh tiếng và quyền thế, trong đó có Thánh Vincent de Paul (1581-1660) và nhà giảng thuyết lừng danh Bossuet (1627-1704), sau này làm giám mục Meaux (1681-1704). Hội đặt trụ sở tại Paris, hàng tuần có họp, hoặc cho đại hội, hoặc cho các ủy ban. Trên toàn quốc có 40 chi hội địa phương. Truyền giáo là một trong những ưu tư của Hội từ nhiều năm nay : 1639 tài trợ các đoàn thừa sai hừng đông, 1642 góp phần thành lập Hội Đức Bà Montréal-Tân-Pháp. Đích thân vị sáng lập hội là công tước Vandatour, được thụ phong linh mục vào năm 1641, đă lập Hội các chủng viện tông đồ và vương quốc để truyền bá đức tin cho kẻ ngoại, đă đề nghị lập Hội các thừa sai Ấn Độ. Nhiều người thân cận của Công tước Vantadour cũng đă góp công mở mang giao thương với Batư, Ấn Độ, Madagascar,…

Đến Paris vào cuối tháng giêng 1653, cha Dắc Lộ đă được Dức Cha giới thiệu và gặp gỡ nhiều giáo sĩ và giáo dân ở Paris. Cha đă được gặp Hoàng Hậu Anne d’Autriche, cha de Lingendes, bề trên tỉnh Pháp, cha Charles Lalemant, bề trên nhà tập, cha Charles Paulin, linh hướng của Louis XIV. Cha đă được giới thiệu với triều đ́nh, được gặp cấp lănh đạo Hội Thánh Thể, được gặp cha Vincent de Paul, được gặp Nữ Bá Tước d’Aiguillon, cháu thừa tự của hồng y Richelieu và là người điều hành một hội phụ nữ trợ tá cho Hội Thánh Thể. Nữ Bá Tước đứng đầu nhiều hội thiện, có nhiều ảnh hưởng ở Paris và Lamă, bà đặc biệt quan tâm đến hoàn cảnh của các giám mục nước Pháp. Cùng làm việc bên cạnh Nữ Bá Tước, có bà de Miramion và cô de Bouillon, tích cực và hăng say đi làm việc thiện bất cứ ở đău.

Cũng khoảng thời gian này, Đức Cha de Maupas c̣n giới thiệu cha Đắc Lộ với một nhân vật quan trọng khác. Đó là Đức Khâm Sứ di Bagno, biệt danh Bagni. Sau cuộc gặp gỡ, Đức Khâm Sứ đă gởi một phúc tŕnh khen ngợi cha Đắc Lộ hết lời với Hồng Y Fabio Chigni, Quốc Vụ Khanh của ĐGH Innocent X, người sẽ được bầu làm giáo hoàng Alexandre VII.

Năm 1654, trong một buổi họp có cha Đắc Lộ tham dự, đại hội Ḍng Thánh Thể cho hay đă qui tụ được một quĩ tài trợ có thể giúp các giám mục thừa sai.

Nhiều dấu hiệu tích cực cho thấy hai khó khăn tổ chức và tài trợ hậu cần đă manh nha có thể t́m ra giải đáp nhờ những sáng kiến và đóng góp tích cực của những nhân vật trong Hội Thánh Thể.

 

2. Qui tụ được một nhóm thừa sai tự nguyện nhiều khả năng và nhiệt huyết

Đầu thánh hai năm 1653, Đức Cha de Maupas giới thiệu cha Đắc Lộ với cha Jean Bagot (1580-1664), giáo sư tín lư, bề trên nhà tập Ḍng Tên, điều hành một trong nhiều hội tư, đó là hội « Bạn Hiền » (Associatio amicorum, Les Bons Amis). Bạn Hiền với tiêu chuẩn là « một tâm, một ḷng » là một hội dành riêng cho giáo sĩ, hướng về đời sống thiêng liêng qua t́nh bạn, nhằm giúp đỡ những sinh viên nghèo và cô đơn. Vào thời điểm này, cha Jean Bagot, đang điều động một nhóm mươi mười hai người trẻ, tất cả đều sẵn sàng đáp lại tiếng gọi thừa sai mà cha Đắc Lộ nêu ra.

Nổi danh với cuốn Tự điển Việt Bồ La, ấn hành tại La Mă năm 1651, cha Đắc Lộ đă được mời nói chuyện ở nhà tập Ḍng Tên, trước một cử tọa tập sinh Ḍng Tên và Đại chủng sinh triều đang chuẩn bị làm linh mục. Đó là buổi nói chuyện thứ nhất mà cha Đắc Lộ đă thực hiện vào thánh hai năm 1653 với các thành viên hội Bạn Hiền đă đạt một kết quả tốt đẹp. Cha đă hoàn toàn chinh phục các thính giả trẻ nhiệt t́nh thừa sai. Ba vấn đề đă được đề cập đến trong bài diễn văn này.

Trước nhất cha kể chuyện một cách cụ thể và tỷ mỷ về những mạo hiểm của cha ở Việt Nam về việc cha thích ứng vào các điều kiện vật chất và văn hoá địa phương cũng như việc cha học tiếng việt : « Trước nhất trong thời gian 12 năm lưu trú tại đây, ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, tôi học với dân chúng địa phương ; tôi lại có một thầy dậy là cha François de Pina, người Bồ Đào Nha, là người đầu tiên trong nhóm Ḍng Tên nhỏ bé của chúng tôi đă hiểu biết một cách chu đáo ngôn ngữ việt nam và là người đầu tiên đă giảng đạo mà không cần thông dịch viên. Thêm vào đó, tôi dùng các tài liệu của các linh mục ḍng Tên khác, đặc biệt là những công tŕnh của hai cha Gasparil de Amoral và Antoine Barbosa, mỗi cha đều đă soạn thảo một tự điển, cha Gasparil de Amoral tự điển Việt Bồ, cha Antoine Barbosa tự điển Bồ Việt. Tôi đă xử dụng công tŕnh của các ngài và đă thêm vào đó bản dịch la tinh : có khoảng bảy tám ngàn chữ, hoặc nhiều ít hơn một chút, in từ chữ việt quốc ngữ, để t́m chữ bồ đào nha và chữ la tinh, mà không xử dụng chữ nôm, chữ nho kiểu việt nam » ?

Sau đó sang điểm thứ hai, cha mô tả tổ chức thừa sai tại Đàng Trong và Đàng Ngoài thích ứng vào với những thói tục văn hoá địa phương. Tổ chức đời sống của các Thầy Giảng dựa theo khuôn mẫu của các sư săi trong các chùa phật giáo. Sau cùng, về điểm thứ ba, cha tŕnh bày nhu cầu khẩn thiết phải gởi giám mục đại diện tông ṭa đến Việt Nam để truyền chức linh mục cho những thanh niên bản địa. Những bách hại liên tục hiện nay sẽ không cho phép người ngoại quốc được ở lại trong xứ, phải tránh những lầm lẫn đă gặp ở Nhật, v́ hiện nay không c̣n một linh mục nào c̣n được ở lại đây. Phải xử dụng hết mọi biện pháp có thể. Chính ĐGH Innocent X và Thánh Bộ Truyền Giáo cũng đă phải công nhận rằng Giáo Hội đă không có dủ khả năng để không phải nhờ cậy đến sự giúp đỡ vật chất của các vua Tây Ban Nha hoặc Bồ Đço Nha trong việc chuyên chở và bảo tŕ các thừa sai, cũng như việc xây cất nhà nguyện, thánh đường, nhà xứ, cơ sở,…Chính cha Đắc Lộ, bản thân cha, cha cũng đă phải nhờ đến tầu bè bồ đào nha và ḥa lan để về nước.

Trong buổi nói chuyện thứ hai, cũng đă được thực hiện vào tháng hai năm 1653, lần này tại nhà Nữ Bá Tước d’Aiguillon, quan trọng hơn lần trước, v́ có sự tham dự của những thành phần quan trọng của Hội Thánh Thể mà cha Đắc Lộ hy vọng t́m được nguồn tài trợ, nguồn nhân lực, những giúp đỡ, những hợp tác,.. ba linh mục trẻ đă đặc biệt thu hút chú ư của cha Jean Bagot và của cha Đắc Lộ v́ ba linh mục này tỏ ra có đủ khả năng, xứng đáng được phong chức giám mục. Đó là cha François de Montmorency-Laval, cha François Pallu và cha Pierre Piques.

François Pallu sau này cùng với Pierre Lambert de la Motte là thành viên sáng lập Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Sinh năm 1626, con thứ 10, trong một gia đ́nh 18 người con, giầu nhất thành phố Tours ; 7 người chết sớm, 4 người lập gia đ́nh, 7 người dâng minh cho Chúa, trong đó 2 là ḍng Tên, 3 nữ tu và 2 linh mục phụ tá giám mục. Chín tuổi đă xin đi tu, học thần học ở trường Clermont (nay là trường trung học Louis-le-Grand). cha cư ngụ tại cư xá sinh viên « La Rose blanche » , cùng với François de Montmorency-Laval, Bernard Gontier, Luc Fermanel de Favery và Henri Boudon, tạo thành một nhóm Bạn Hiền.

Thụ phong linh mục năm 24 tuổi, năm 1650, cha François Pallu, đă tham dự một số sinh hoạt do Hội Thánh Thể tổ chức. Cha có ư định muốn đi làm thừa sai ở Đàng Ngoài Việt Nam, nhưng thân phụ không bằng ḷng, cha đă phải nhờ đến một người bạn của thân mẫu là mẹ Marie de Saint-Bernard, nữ tu ḍng kín, can thiệp và bảo đảm rằng cha đă suy nghĩ chín chắn chứ không phải là một quyết định nhẹ dạ.

C̣n cha François de Montmorency-Laval, cũng cư trú tại cư xá sinh viên « La Rose blanche », sinh ngày 30.04.1622, quán làng Montigny-sur-Avre, địa phận Chartres, th́ tham dự vào Hội Thánh Nữ Đồng Trinh do cha Jean Bagot điều hành. Cha Bagot cũng là giáo sư thần học của cha François de Montmorency-Laval ở trường Clermont.

Qua những linh mục trẻ nhiệt t́nh và nhiều khả năng này, cha Đắc Lộ đă t́m được giải đáp cho khó khăn thứ ba về nhân sự thừa sai. Ngày 07.03.1653 cha biên một thỉnh nguyện thơ cho Đức Cha Bagni, Khâm Sứ Ṭa Thánh để « trước là nhắc lại rằng từ năm 1615 một cộng đoàn công giáo việt nam đă được thiết lập, qui tụ trên 300.000 giáo dân ; thứ đến là báo tin rằng hiện nay trong nước Pháp đă t́m được một số linh mục triều nhiệt huyết, có đủ khả năng lănh nhận chức giám mục, sẵn sàng đi đến những miền xa xôi ấy, để t́m ra những giải dáp cho các nhu cầu của Giáo Hội ».

 

3. Làm thỉnh nguyện thơ lên ĐGH Innocent X

Ba khó khăn lớn hầu như đă t́m ra giải quyết thỏa đáng, tháng 07 năm 1653, một thỉnh nguyện thơ rất cảm động đă được đệ tŕnh lên ĐGH Innocent X, trong đó có ba chữ kư của cha Vincent de Paul, cha Colombet cha sở Saint-Germain và cha Đắc Lộ :

Thưa Đức Thánh Cha,

Chúng con xin kư tên dưới đây, là những người được biết tin về những tiến bộ đáng kính phục của đức tin kitô trong hai xứ Bắc Kỳ Đàng Ngoài và Nam Kỳ Đàng Trong, nơi mà trên hai trăm ngàn giáo dân không được phúc có mục tử chăm sóc mà lại phải cam chịu sống chết không được tôn giáo cứu giúp khỏi nguy hiểm bị kết án đời đời. Chúng con biết rằngsở dĩ có t́nh trạng đáng buồn này là v́ hoàn cảnh không thể gới đủ số thợ phúc âm để gặt đồng lúa chín vàng mênh mông. Để pḥng ngừa bất trở này, cần phải nghĩ đến việc đào tạo các linh mục bản xứ và do đó phải thiết lập các giám mục. Khốn thay, sự bất đồng của các vua công giáo hiện nay không cho phép cử những giám mục có đủ thẩm quyền hành xử b́nh thường đến những vùng truyền giáo này. Đó là lư do khiến chúng con khiêm tốn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha truyền chức giám mục hiệu ṭa và trao cho họ trách nhiệm đại diện tông toà trong hai vùng truyền giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài này. Ở Paris, chúng con đă t́m được một số linh mục triều có đủ khả năng thi hành những chức vụ này. Chúng con dám xin giới thiệu họ v́ họ có tâm hồn trong sạch, có nhiệt t́nh, có khôn ngoan, có học tín lư ; Vả nữa, họ sẵn sàng để Đức Thánh Cha khảo hạch qua những vị do Đức Thánh Cha đề cử. Tấu lậy dưới bệ Đức Thánh Cha, mục tử tối cao, chúng con xin dâng lên thỉnh nguyện này với hết ḷng thành.

Công việc coi như có chiều thông thoát. Được bổ nhiệm làm Bề Trên tỉnh Ḍng Tên xứ Ba Tư, tháng tám năm 1654, cha Đắc Lộ giă từ Paris. Giớ phút chia li cha François Pallu thuật lại những lời sau cùng của cha Đắc Lộ : « Tôi luôn luôn xác tín rằng Chúa là đấng lo liệu và tổ chức thời gian, một ngày nào đó sẽ phù trợ cho dân Bắc Kỳ Đàng Ngoài và vào một giờ thuận tiện nào đó sẽ có giám mục được gởi đến với họ »

 

4. Nhóm thừa sai tự nguyện đi hành hương La Mă gặp Tân Giáo Hoàng Alexandre VII và được truyền chức Giám Mục

Ba cha François Pallu, François de Montmorency-Laval và Pierre Piques, có hy vọng được chọn làm giám mục từ tháng 2 năm 1653, đă được Đức Khâm Sứ Bagni điều tra theo giáo luật, vẫn chờ đợi quyết định của Đức Thánh Cha. Nhưng có sự chậm trễ v́ Ṭa Thánh c̣n nghi ngại những chống đối của Bồ Đào Nha, đe dọa sẽ cầm tù và bắt giam những giám mục Pháp mà Ṭa Thánh sẽ gởi qua Á Châu. Jean IV của Bồ Đào Nha đă xúi dục Ḍng Tên bất hợp tác với dự án Pháp quốc và đề nghị bảo trợ sáu chục tu sĩ ḍng tên. Những công việc do Hội Thánh Thể thực hiện không tiến triển…. Cả năm 1654, không có nhúc nhích ǵ.

Ở Paris, năm 1655, cha Vincent de Meur, đă theo học ở đây từ 1643, người gốc Bretagne, duyên hải Côtes-d’Armor, tùy viên pḥng tuyên úy hoàng triều, được thừa kế chức trưởng tu viện Saint-André-de-la-Bellière, đă quyết định về ở chung nhà phố Coupeau với các bạn : Louis Chevreuil, Jean Dudouyt, Michel Gazil de la Bernardière, Pierre Piques,.. tất cả 13 người, chung quanh cha Jean Bagot. Mổi thứ năm, và đôi khi cả thứ ba, Vincent de Meur cùng với người bạn già Vincent de Paul đi giảng thuyết cho hội thừa sai các vùng nước Pháp, nhằm phát triển việc truyền giáo ở thành phố cũng như ơ thôn quê. Về tài chánh, họ có Hội Thánh Thể giúp đỡ, về đào tạo giáo sĩ, họ có thể trao phó cho nhóm Bạn Hiền của cha Bagot. Trong một buổi họp, họ quyết định tổ chức một dự án đi hành hương La Mă, coi như biện pháp cuối cùng, để vận động cho chương tŕnh thừa sai việt nam.

Được báo tin, François Pallu, bỏ Tours, trở về Paris, rồi cùng với Vincent de Meur và ba người khác, tất cả năm đều là Bạn Hiền, khởi hành đi hành hương La Mă. Bấy giờ là mùa xuân 1656. Họ ghé Marseille, rồi tới La mă ngày 03.06.1657, họ lưu trú tại nhà các Đệ Tử Thánh Vincent, đường Missione, ở Monte Citario.

Ở Marseille, nhóm đă được tăng cường với người thứ sáu. Đó là cha Pierre Lambert de la Motte, sinh năm 1624 tại Lisieux, thụ phong linh mục ngày 27.12.1655 ở Coutances, rồi được bổ nhiệm giám đốc nhà thương Rouen. Ngài quen biết cha François de Monmorency-Laval. Mỗi lần ghé Paris, ngài đều ghé trụ sở các Bạn Hiền phố Couteau để thăm em của ḿnh, là thành viên nhóm này. Chính ở đây mà ngài được tin về dự án đi hành hương La Mă của các bạn Vincent de Meur và François Pallu. Bản thân ḿnh, ngài cũng đă từng mơ ước đi Canada hay Trung Quốc. Ngài nói chuyện với cha Vincent de Paul và được cha khuyến khích nên đi giúp phái đoàn hành hương La Mă một tay. Ghé qua Dijon, rồi Lyon, cha Pierre Lambert de la Motte hay tin rằng ḿnh là một trong ba ứng viên được đề cử làm giám mục, thay thế cho cha Pierre Piques. Cha ghé Annecy viếng mộ thánh François de Sales, viếng Notre-Dame de Myans, viếng tu viện Grande Chartreuse, rồi lên đường đi Toulon, tiến về Thành Thánh…

Đoàn hành hương các cha François Pallu và Vincent de Meur ở La Mă được Đức Hồng Y Bagni, cựu khâm sứ Paris, tiếp đón nồng nhiệt và chỉ dẫn tận t́nh về những thủ tục giáo triều, được gặp Đức Hồng Y Corrado, bạn của Đức Giáo Hoàng, được gặp Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền giáo là Đức Hồng Y Mario Alberici, và sau cùng đă xin được hẹn yết kiến Đức Giáo Hoàng Alexandre VII (được bầu giáo hoàng ngày 07 và đăng quang ngày 18.04.1655, tạ thế ngày 22.05.1667), ấn định vào ngày 17.07.1657. Cha Vincent de Meur đă tŕnh bày thỉnh cầu với Đức Giáo Hoàng về t́nh h́nh kitô giáo tại Trung Quốc, Bắc Việt và Nam Việt.

Thưa Đức Thánh Cha,

Chúng con khiêm tốn cúi xin Đức Thánh Cha khứng ḷng cứu xét xem từ ngày khai sinh Giáo Hội đến nay đă bao giờ việc truyền bá đức tin đă vào được Á châu một cách dễ dàng và thuận lợi như ngày nay chưa, và tạ ơn Sự Quan Pḥng Chúa, đế quốc Trung Hoa, vương quốc Bắc Việt cùng các nước láng diềng, đều mở cửa đón nhận đức tin.

Tất cả những khó khăn đă cản chân bước tiến phúc âm hóa ở Trung Quốc nay đă tan biến.

Thực ra, từ mấy năm nay chúng con thấy quyền hành tối cao đă rơi vào tay người Thất Đất. Những quan chức hoặc pháp quan trung hoa, có thái độ chống đạo, đă bị chính quyền loại trừ. Dân chúng, v́ ḷng kiêu hănh bẩm sinh, ngạo mạn với người âu châu, nay đă chấp nhận người ngoại quốc và rơ rệt dễ vâng phục đức tin hơn.

Thưa Đức Thánh Cha,

Điều lớn đáng quan tâm hiện nay là thái độ của vua Thất Đất, người, giống như vua Constantin xưa ở La Mă, đă cho phép tự do truyền bá Phúc Âm.

Nhà Vua đă cho các thần dân, cũ cũng như mới, được xây cất thánh đường, được công khai giảng dậy đạo kitô, và chính Nhà Vua, để chứng tỏ ḷng thiện cảm với đạo kitô, đă sai xây ở Bắc Kinh một giáo đường đồ sộ với bảy bàn thờ.

C̣n về phần Bắc Việt, xưa kia thần phục Trung Hoa, nay đă là một vương quốc đông đảo, rộng cỡ nước Pháp và do một vua cai trị độc lập.

Ở đây, nhu cầu thợ gặt tin mừng xem ra c̣n to lớn hơn, nếu người ta nh́n đến số người lương muốn theo đạo.

Rồi dựa theo những quyết định của Thánh Bộ Truyền Giáo, cha Vincent de Meur bẩm tiếp :

Thưa Đức Thánh Cha,

Tất cả những điều con vừa tŕnh bày đều chứng tỏ rơ rệt rằng để đáp lại những nhu cầu to lớn về thừa sai mà cái giáo hội đang phát sinh này đ̣i hỏi, th́ quả thật cần phải gửi các giám mục đến đó. Các Tông Đồ khi xưa đă làm như vậy và các đệ tử của các ngài cũng đă làm như vậy ở thời Giáo Hội sơ khai. Chính v́ vậy mà Thánh Phaolô đă gởi Thánh Titô sang Crète để lập hàng giáo sĩ. Ngày nay, dường như đó là phương pháp duy nhất để đưa sự cứu rỗi đến cho một số giáo dân kitô đông đảo như vậy.

Sau cùng, cha Vincent de Meur đă lưu ư Đức Thánh Cha Alexandre VII về một điểm tương đối tế nhị qua những lời sau đây :

Thưa Đức Thánh Cha,

Thiên Chúa là đấng điều hành mọi việc đă muốn dành cho ḷng nhiệt thành của Đức Thánh Cha cái vinh dự thực hiện công việc cao cả này là rao truyền sự thờ lậy Chúa và cứu vớt các linh hồn.

Khi xưa, Giáo Triều La Mă đă được vinh dự lớn ở Pháp và ở Anh, nhờ công việc thừa sai của các giám mục ; ngày nay, Giáo Triều vinh quang của Đức Thánh Cha, với nhiều cộng sự viên lừng danh tên tuổi, sẽ càng lớn mạnh hơn nhờ việc xây dựng công tŕnh này.

Chính v́ lẽ đó mà chúng con dám đích thân mạo muội đệ tŕnh công việc này với Đức Thánh Cha trong Thành Thánh này. Vả nữa, xác tín về những thành công mà các thừa sai sẽ mang lại trong những vùng truyền giáo này, chúng con chẳng dám đề cập đến vấn đề giám mục vĩnh viễn, mà chỉ dám xin Đức Thánh Cha gởi các giám mục hiệu ṭa. C̣n như việc thực hiện dự án này, chúng con xin hứa tự lo liêu mọi chi phí mà không dám đ̣i hỏi ǵ nơi Thánh Bộ Truyền Giáo ; và chúng con cũng sẵn sàng làm một bảo đảm để ở thành Avignon, đủ để lo liệu cho các thừa sai sẽ được gởi đi. Ngoài ra chúng con cũng hy vọng rằng chính quyền Bồ Đào Nha, từ hai năm nay, đă giúp đỡ 12 thừa sai di chuyển trên đất Bồ và những miền tùy thuộc họ, th́ cũng sẽ giúp đỡ chúng con như vậy. Giả hoặc họ muốn làm khó dễ chúng con, th́ chúng con vẫn luôn có lối đi tự do qua đường Ba Tư và Mông Cổ.

Thưa Đức Thánh Cha,

Bây giờ chúng con chỉ c̣n việc cầu xin Chủ Mùa Gặt, tức là Đức Thánh Cha, Xin Ngài đoái gởi các thợ gặt đến vườn nho, bởi v́ vườn gặt th́ to mà thợ gặt th́ ít.

  Nhiệt t́nh của nhóm linh mục trẻ này làm Đức Thánh Cha Alexandre VII rất cảm động. Bản thân ngài, hồi trẻ, cũng đă từng mơ ước làm thừa sai. Ngài khích lệ họ và hứa sẽ triệu tập một ủy ban 4 hồng y Rospigliosi, Spada, Albizzi và Azzolini để xúc tiến thủ tục. Chuyện như vậy là ổn. Cha François Pallu vui mừng báo tin cho Nữ Bá Tước d’Aiguillon. Các nhân viên đoàn hành hương đều trở về Pháp. Một ḿnh cha Pallu ở lại La Mă theo dơi hồ sơ. Ở đây, cha được linh mục Guillaume Lesley, thơ kư của hai Đức Hồng Y Charles Barberini và Mario Alberici, hết t́nh giúp đỡ. Nhưng công việc xúc tiến rất chậm.

Bốn tháng sau, ngày 18.11.1657, cha Pierre Lambert de la Motte, sau cùng, rồi cũng đến được La Mă. Là một người mưu lược và có tài ngoại giao, cha Lambert đă t́m dịp xin được yết kiến Đức Hồng Y Alberici, Thánh Bộ Truyền Giáo. Qua suốt 11 giờ bàn thảo, cuộc yết kiến đă đề cập đến hết mọi khía cạnh của công việc, trong đó hai vấn đề đặc biệt quan trọng, đă được nêu ra và giải quyết. Khó khăn thứ nhất : Vấn đề ngân quĩ tài trợ cho các thừa sai. Cha Lambert có một tài sản to. Ngài liền làm giấy tại chỗ với một luật sư Ư, xin lấy tài sản riêng, bảo đảm phụ cấp cho các thừa sai. Khó khăn thứ hai : Vấn đề liên kết mới đây giữa các cha Ḍng Tên và Bồ Đào Nha để cản trở việc gởi các thừa sai đến những miền do họ bảo trợ. Cha Guillaume Lesley, dẫu biết rằng đây là một khó khăn lớn, có khi c̣n lớn hơn là khó khăn giảng Phúc Âm cho lương dân, nhưng ngài chủ trương cần phải nhẫn nại.

Kết cục, ngày 13.05.1658, Thánh Bộ Truyền Giáo đề nghị bổ nhiệm cha François de Montmorency-Laval làm giám mục Canada, cha François Pallu và cha Pierre de la Motte làm đại diện tông ṭa trong các sở truyền giáo ở Trung hoa và các nước lân cận. Ngày 08.06.1658, Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận đề nghị này.

Rồi qua thơ bổ nhiệm đề ngày 29.07.1658, ĐTC Alexandre VII bổ nhiệm cha François Pallu làm giám mục hiệu ṭa Héliopolis, cha Pierre Lambert de la Motte làm giám mục hiệu ṭa Béryte và cả hai làm Giám Quản Tông Ṭa cho các sở truyền giáo Trung Hoa và Việt Nam. Từ đó, ngày 29.07.1658 đă được coi là ngày thành lập Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Ngày 17-11-1658, cha Pallu được tấn phong giám mục tại Roma. Ngày 11-6-1660, cha Lambert được tấn phong giám mục tại Paris

Ngày 09.09.1659 ĐTC Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : ĐC François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Ṭa Đàng Ng̣ai, với quyền cai quản 5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào ; và ĐC Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Ṭa Đàng Trong, với quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành.

(Theo đề nghị của 2 ĐC Pallu và Lambert, ngày 20.09.1660, cha Ignace Cotolendi được bổ nhiệm làm giám mục hiệu ṭa Métellopolis, Giám Quản Tông Toà Nam Kinh, được tấn phong giám mục ngày 07.11.1660 tại nhà tập Ḍng Tên Paris)

  Bức tranh trên đây họa lại cảnh ngày ĐGH Alexandre VII trao Huấn dụ 1659 cho các Giám Mục Đại Diện Tông Toà sắp lên đường truyền giáo ở Việt Nam và Trung Hoa, là ĐC François Pallu, ĐC Pierre Lambert de la Motte và ĐC Ignace Cotolendi, trước sự hiện diện của ĐHY Alberici, Thánh Bộ Truyền Giáo.

Trong một khuôn khổ và ở một chừng mực nào đó, Thừa Sai Hải Ngoại Paris đă có họ hàng rất gần với Ḍng Tên. Người cho ư kiến và ủng hộ mạnh bạo nhất là một cha Ḍng Tên, cha Đắc Lộ ; các thừa sai tiên khởi, nhóm Bạn Hiền, đều là những người thân cận và trong ṿng ảnh hưởng của Ḍng Tên ; người t́m ra các thừa sai là một giáo sư thần học và là bề trên Nhà Tập Ḍng Tên, cha Jean Bagot. Ít nhiều, các cha thừa sai nhiễm dấu vết của Ḍng Tên.

Phải chăng đó là việc Chúa Quan Pḥng làm, mà nhờ vậy, Thừa Sai Hải Ngoại, từ năm 1658, đă tiếp nối được công việc đă thực hiện từ trên 100 năm trước, với các cha Daminh từ năm 1550 ở Hà Tiên, các cha Phanxicô từ năm 1583 ở Bắc Việt, các cha Ḍng Tên từ năm 1615 ở Cửa Hàn ?

Nhưng các thừa sai tiên khởi và trăm ngàn thừa sai nối tiếp theo, suốt trong 350 năm, từ 1658 đến 2008, đă thành công trong việc góp sức, cùng với các ḍng tu khác, xây dựng được một Giáo Hội Việt Nam phồn thịnh và để lại cho người việt nam hoàn toàn tự lập và trách nhiệm như ngày nay, cái công đó, phải chăng v́, ngay từ buổi đầu, các thừa sai đă t́m ra một phương pháp làm việc khoa học và hữu hiệu ?

 

Paris, ngày 17 tháng 01 năm 2008
TRẦN VĂN CẢNH

 


Chú Thích

1- Toàn bài này đă được dựa vào 3 tài liệu chính yếu sau dây :
• VAN GRASDORFF Gilles : La belle histoire des Missions Etrangères 1658-2008, Edition PERRIN ; 2007, 492 trang, tr. 29-46.
• PHAN PHÁT HUỒN ; Việt Nam Giáo Sử ; In lần thứ 5 ; Long Beach : Cứu Thế Tùng Thư ; 1997, tr. 98-138
• Văn Pḥng Tổng Thơ Kư HĐGMVN ; Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2004 ; Hà Nội : Nxb Tôn Giáo ; 2004 ; tr. 184-225
• TUCHLE Hermann, BOUMAN C.A. và LE BRUN Jacques ; Canh tân Giáo Hội, Truyền giáo phổ thế và các cuộc trở lại, thế giới Baroque ; trong Tân Lịch Sử Giáo Hội : IIIB, GXVN Paris, tr. 443-535

2- LAUNAY Adrien, Documents historiques relatifs à la Société des Missions Etrangères, MEP, 1904


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.