La Société des Missions Etrangères de Paris

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

gxvnparis

 

 

 

THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS
350 năm xây dựng Giáo Hội Việt Nam

 

(Bài 8)

 

Lập chủng viện thánh Giuse
Đào tạo linh mục bản xứ

Sứ mệnh căn bản mà Ṭa Thánh đă ủy nhiệm cho các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa thuộc Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris là thiết lập hàng giáo sĩ địa phương. : « Lư do chính yếu khiến Thánh Bộ gởi các ngài là những người có chức giám mục đến những vùng nói trên (Trung Hoa, Bắc Việt và Nam Việt) là để, bằng mọi cách thế và phương pháp có thể, các ngài nắm lấy trách nhiệm giáo huấn người trẻ hầu giúp họ thâu thập đủ các khả năng, để tiến tới chức linh mục. Truyền chức linh mục cho họ rồi, các ngài hăy sai họ về địa phương gốc của họ với sứ mệnh phục vụ đạo kitô hết ḷng ḿnh, dưới sự hướng dẫn của các ngài. Vậy xin các ngài hăy luôn ghi nhớ mục đích này trước mắt ḿnh là dẫn đưa đến chức linh mục, một số đông càng nhiều càng tốt và càng có khả năng càng hay, những người có khả năng, đào tạo họ và giúp họ tiến triển trong môi trường của họ[1] ».

Ngay từ việc làm dầu tiên của các thừa sai khi đến Viễn Đông là họp công đồng vào đầu năm 1664 ở Ayuthia để soạn thảo chương tŕnh và xác định nguyên tắc hành động, không kể việc soạn bản « Chỉ dẫn thực hiện sứ mệnh truyền giáo », các thừa sai hiện diện, hai đức cha Đại Diện Tông Ṭa cũng như các linh mục thừa sai, tất cả đều đồng ư rằng việc lập chủng viện đào tạo linh mục địa phương là sứ mệnh hàng đầu và là điều khẩn cấp phải làm.

 

1. Công đồng Ayuthia quyết định lập chủng viện đào tạo linh mục địa phương

« Chỉ dẫn thực hiện sứ mệnh truyền giáo », như chúng ta đă xem ở bài 6, đă được soạn thảo với 10 chương qui tụ trong ba phần. Ba chương đầu nói về con đường tu đức, cuộc sống thánh hoá mà nhà thừa sai, người truyền giáo cần phải có. Năm chương tiếp theo, các chương 4, 5, 6, 7 và 8, nói về việc giảng dậy cho lương dân và những cách thế phải dùng đến : giảng dậy bằng gương sáng, bằng bác ái, bằng khôn ngoan, bằng trung dung. Hai chương 9 và 10 nói về việc tổ chức giáo hội, qua 3 khía cạnh : tổ chức giáo xứ, các thầy kẻ giảng và việc đào tạo linh mục bản xứ.

Về điểm cuối cùng liên quan đến việc đào tạo linh mục bản xứ, tất cả các thừa sai đều đồng ư lấy quyết định phải thành lập chủng viện. Trong t́nh trạng hiện thời, với số nhân sự thừa sai ít ỏi, lại phải bận bịu với công việc truyền giáo, chỉ cần lập một chủng viện.

Nhưng ở đâu ? Câu trả lời mau chóng đă được mọi người nh́n ra : phải đặt ở Xiêm La. Những tiêu chuẩn cần thiết để một chủng viện có thể sinh hoạt kết quả th́ ai cũng thấy : phải có b́nh an và tự do giảng dậy, phải có điều kiện di chuyển và phương tiện cũng như khả năng thâu nhận chủng sinh. Trong t́nh trạng bách hại hiện nay, Việt Nam không thuận tiện. Chỉ có Xiêm là nơi mà Công Giáo được tự do hành đạo và truyền đạo, nơi mà các người ngoại quốc đủ mọi quốc tịch, Âu châu hay Á châu, đều có thể ra vào dễ dàng, các chủng sinh có thể đi lại không có vấn đề, lại là nơi có các thuyền bè buôn bán di chuyển và chuyên chở thuận tiện nối liền các nước khắp vùng Viễn Đông, Nhật, Tầu, Việt Nam,…với các nước Âu Châu, Pháp, Anh, Ḥa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,…Thế là nơi đặt chủng viện đă được quyết định : ở nước Xiêm.

Điều thứ hai mà công đồng Ayuthia đă quyết định liên quan đến chủng viện là đưa ra những nguyên tắc tổng quát về tổ chức nội bộ. Thrước nhất về chủng sinh, chủng viện sẽ tiếp nhận các chủng sinh hay thừa sai Âu Châu để hoàn tất công việc đào tạo của họ , để họ cùng có chung một đường hướng và một phương pháp truyền giáo hữu hiệu và thích ứng với các xứ Viễn Đông. Sau nữa, chủng viện, được thiết kế như « một trường đời sống hoàn hảo » lấy mẫu gương cuộc sống của Chúa với các tông đồ khi xưa, tiếp dón và đào tạo tất cả các chủng sinh địa phương mà các thừa sai gởi về. Không quên vấn đề vật chất cụ thể, công đồng đă quyết định bổ nhiệm một Tổng quản lư để quản trị các vấn đề vật chất tại chủng viện.

Chiếu theo những quyết định này, ở lại Ayuthia, đức cha Lambert đă đảm nhiện công việc thực hiện.

 

2. Đức cha Lambert được vua Pha Narai cho đầt và vật liệu xây chủng viện

Hai giám mục Đại Diện Tông Ṭa đến kinh đô nước Xiêm vào năm 1662 và 1664, đă tạo một tiếng vang, đồn khắp Ayuthia. Vua Phra Narai đang cai trị nước Xiêm lúc đó, là người lịch thiệp, có tinh thần cởi mở, khoan nhân với người ngoại quốc, tỏ ư muốn gặp các giám mục Pháp. Nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện có thể làm tăng uy tín các vị thừa sai và hữu ích cho việc truyền giáo, Đức cha Pierre Lambert de la Motte nhận lời mời và cùng đoàn tùy ṭng đến gặp vua.

Vua Phra Narai đă tiếp đón các ngài một cách lịch thiệp và trang trọng, theo lễ nghi của nước Xiêm lúc đó. Đức cha Lambert cám ơn ḷng tốt của vua đă cho phép ngài và các linh mục cộng sự được lưu trú trong vương quốc Xiêm La, lại được đặc ân được vua tiếp kiến. Vua hỏi thăm Đức cha về nước Pháp : địa thế thế nào, thương mại ra sao, tài nguyên giầu nghèo, quân đội mạnh yếu, … Vua cũng hỏi thăm về lư do khiến Đức cha và các cộng sự bỏ nước đi sang Viễn Đông, mà đặc biệt là Xiêm La. Về vấn đề tôn giáo, vua hỏi đức cha : « Ngài có nghĩ rằng đạo của ngài tốt hơn đạo của chúng tôi không » ? Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức cha Lambert kể cho vua nghe về những sự thật của đạo Kitô, về những phép lạ Chúa Giêsu đă làm, về sự phát triển của đạo công giáo ở Âu châu,…Bỗng vua Phra Narai ngắt lời đức cha và nói với ngài : « Tôi có một người anh em bị bại liệt tứ chi. Nếu ngài có thể chữa lành được cho em tôi, th́ tất cả chúng tôi sẽ theo đạo ngài ». Nói thế rồi vua xin cáo từ Đức cha và các linh mục cộng sự.

Trở về trại, Đức cha liền triệu tập tất cả các giáo hữu lại và kể cho họ nghe lời vua Phra Narai đă hứa và xin mọi người cùng hiệp ư cầu nguyện với ngài. Trong suốt ba ngày, Đức giám mục, các linh mục, các bổn đạo, mọi người cùng cầu nguyện. Sáng ngày thứ tư, mấy vị quan triều đến nhà nguyện, qú sập bái lậy Đức cha Lambert và báo tin cho ngài hay rằng t́nh trạng sức khoẻ của hoàng tử anh em của vua tốt đẹp hơn. Hoàng tử có thể nhúc nhích được tứ chi, trái với t́nh trạng hoàn toàn tê liệt trước đây. Trong nhà nguyện nhỏ, mọi người cảm động khôn xiết. Đức cha liền nói với các quan triều : « Các quan hăy về nói với vua rằng, với lời cầu nguyện, tôi chắc chắn Thiên Chúa sẽ nghe lời và hoàng tử sẽ được chữa lành và sẽ có một sức khoẻ tốt đẹp. Nhưng nếu thiếu tin th́ vua nên bái sợ sự công thẳng của Chúa, v́ Ngài sẽ để cho người anh em vua lại rơi vào t́nh trạng ốm liệt ».

Các quan triều đă về thuật lại với vua và theo lời người ta kể th́ vua có vẻ lo lắng và đăm chiêu trong nhiều ngày. Ít lâu sau đó, vua Phra Narai sai gởi khoảng một chục trẻ con các quan triều đến theo học các khoa học Âu châu với các cha thừa sai.

Trong t́nh trạng thuận lợi có tâm t́nh tốt đẹp của vua, Đức cha Lambert đă biên một văn thơ ngày 29.05.1665, gởi lên vua Phra Narai, đề nghị mở một trường học, tại thủ đô Ayuthia hay một nơi nào khác ở ngoại ô cũng được, để dậy các khoa học cần thiết cho một quốc gia. Và để tránh nghi kỵ, Đức cha đă thêm rằng « các thừa sai sẽ chẳng hề xen lấn vào chính sự quốc gia, cũng chẳng màng đến những sự thế gian ». Rồi ngài kết luận rằng : « hy vọng rằng ḷng nhân từ của vua sẽ khấng ban cho chúng tôi một đền thờ để làm việc thờ kính tôn giáo ».

Măi đến cuối tháng 12.1665, lá thơ của Đức cha mới đến tay vua Phra Narai, v́ vị quan triều chuyển thơ bị đau. Nhà vua đă chấp nhận những điều Đức cha xin và đầu năm 1666, vua đă cấp cho các thừa sai người Pháp một mảnh đất khá rộng ở Bản (làng) Phahet, bên bờ sông Ménam [2], cạnh khu Việt kiều. Vua cũng hứa sẽ cung cấp vật liệu để xây cất một nhà nguyện và một chủng viện. Đc Lambert mừng lắm. Để đề pḥng tránh nạn hỏa hoạn và bảo vệ các sách vở và đồ thờ, Ngài cho xây hai pḥng nhà gỗ, lợp ngói. Đồng thời Ngài cho xây một ngôi nhà lớn : tầng dưới bằng gạch, là nhà ở, có thể chứa dễ dàng vài chục người ; tầng trên bằng gỗ, là nhà nguyện. Phần đất c̣n lại chung quanh nhà thờ, Đức cha trù tính sẽ để làm nghĩa địa và vườn cây, giống như mô h́nh các làng xứ đạo Pháp. Toàn khu đất đó của các thừa sai người Pháp, ngài muốn đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse để tỏ ḷng cám ơn thánh cả v́ những bầu cử mà thánh cả đă làm cho các thừa sai và ngài đặt tên là Trại Thánh Giuse. Như vậy, vào năm 1666 này, nói được là tại kinh đô Ajuthia có thêm « Khu người Pháp » sau khi đă có những khu kiều dân khác như : Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, vân vân.

Xin xác định rơ một chút rằng, tuy ở gần, nhưng « Khu người Pháp », hay « Trại Thánh Giuse », hay « Chủng Viện Thánh Giuse » là nơi cư trú của các đức cha, các linh mục thừa sai, các chủng sinh, các nhân viên phục vụ, bệnh xá, trường học, v.v. của người Pháp, khác với « Khu người Việt ». Khu người Việt tại Ajuthia là khu mà người Việt Nam cư ngụ, gồm cả lương lẫn giáo, có trên trăm người, đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé, trong đó một số khá đông có đạo. Đức cha Lambert vẫn đến đây dạy dỗ, cử hành thánh lễ và ban các bí tích cho giáo dân, cũng như gặp gỡ và rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Trong khu này, người công giáo việt nam họp thành giáo xứ thánh Giuse, có nhà thờ và nhà xứ riêng.

Thế là từ năm 1666, cơ sở chủng viện thánh Giuse đă được xây cất tại Ayuthia, nước Xiêm La để đào tạo các linh mục bản xứ cho các giáo hội Viễn Đông, ít nhất là các giáo hội mà Ṭa Thánh đă ủy thác cho các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa. Từ nay, trong nhà này, các chủng sinh việt nam, trung hoa, xiêm la,… những thanh niên có hiểu biết, khả năng và đức độ,…sẽ có thể được đào tạo tại chỗ, để trở thành linh mục, tiếp tay cho các thừa sai trong việc loan báo Tin Mừng.

Cũng tại đây, như chung ta vừa nói qua ở trên, nhiều sinh hoạt bác ái cũng đă và sẽ được thực hiện, khiến có một số người cảm kích và xin trở lại đạo và khiến vua Phra Narai đă tiếp kiến đức cha Lambert lần thứ hai và hỏi chuyện ngài về đạo Công Giáo. Đó là chuyện chúng ta sẽ bàn đến trong một dịp khác. Bây giờ xin trở lại vần đề truyền chức linh mục, thành lập chủng viện và đào tạo linh mục.

 

3.Chủng viện thánh Giuse khai giảng đào tạo các giáo sĩ Việt Nam tiên khởi

Sau quyết định của Công Đồng Ayuthia năm 1664 về việc thành lập chủng viện, trong năm 1665, một số đơn xin truyền chức đă đến từ các cộng đoàn không thuộc thẩm quyền Hội Thừa Sai. Vào năm 1665 chẳng hạn, Ṭa Giám Mục Macao đă gởi ba thầy xin được phong chức linh mục. Đức cha Lambert đă tiếp họ và thấy rằng họ đă chưa được chuẩn bị đủ, nên đă từ chối truyền chức ngay cho họ, mà đề nghị họ phải học thêm thần học. Rồi ba thanh niên khác cũng tŕnh diện, xin học thần học, trong đó có François Pérez [3], sinh quán tại địa phận Méliapour, n Độ, con của một gia đ́nh hỗn hợp, cha là Bồ Đào Nha, mẹ là Á châu. Sau đó, Macao đă gởi đến 6 thầy khác để xin được truyền chức linh mục. Đức cha Lambert cũng đă đưa ra một đề nghi là học tiếp thần học trong một hay hai năm, trước khi nhận lănh chức linh mục. Ba thầy đồng ư ở lại. Thế là lớp thần học đầu tiên đă được mở tại chủng viện thánh Giuse, vào năm 1665, với 9 chủng sinh, do một ban giáo sư gồm 3 vị là Đức cha Lambert de la Motte, cha François Deydier và cha Louis Laneau, mà cha Louis Laneau lănh trách nhiệm giám đốc điều khiển chung.

Không kể những linh mục ḍng, hoặc triều cho các địa phận khác ở Viễn Đông, nguyên cho Địa Phận Đàng Ngoài, Đức cha Lambert đă truyền chức cho 11 linh mục việt nam [4]. Đó là các vị sau đậy :

 1668, tháng sáu, ở Xiêm cho hai cha :

1. Gioan HUỆ, coi Thanh Hóa rồi Kiên Lao, Sơn Nam (1668-1671) và
2. Bênêditô HIỀN, sinh tại làng Đong Hiên, huyện Chân Phúc, (1668-1696) ;

 1670, ở Việt Nam cho bảy cha :

3. Mactinô MÁT(1670-1684), gốc là một nhà sư, coi sóc nửa tỉnh Thanh Hóa,
4. Giacôbê CHIÊU (1670-1683), giám quản Hải Dương và Bắc Sơn Nam, rồi Nghệ An, Thanh Hóa,
5. Philiphê NHÂN (1670-1672), chính xứ Kẻ Vơ, coi sóc phần bắc tỉnh Thanh Hóa,
6. Antôn QUẾ (1670-1685), sinh tại Bến Triều, Thanh Hóa, trong một gia đ́nh nhà nho thượng lưu, coi sóc Hải Dương và Kinh Bắc,
7. Simon KIÊN (1670-1684), sinh tại Kiên La, Sơn Nam, coi sóc làng Kiên Lao,
8. Lêôn TRỤ (1670-1692), sinh tại làng Đông Hồ, huyện Đông Quan coi sóc địa hạt nửa tỉnh Nghệ An,
9. Vitô TRI (1670-1705), coi sóc vùng nam tỉnh Thanh Hóa, rồi Nghệ An, Sơn Nam và Kinh đô

 1677 ở Xiêm cho hai cha :

10. Philiphê TRÀ (1677-1685), sinh quán Trà Lũ, Sơn Nam,
11. Dominicô HẢO (1677-1697), sinh quán làng Thụy Nhai, tỉnh Sơn Nam

Đề tựa cho tập tài liệu của đức cha NÉEZ « Hàng Giáo sĩ Bắc Kỳ trế kỷ 17 và 18 » để xuất bản, đức cha J. de GUÉBRIANT, Nguyên Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa, Giám Quản Canton và Bề Trên Tổng Quyền Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris 1921-1935 đă viết những ḍng sau đây về Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris : « Hội ghi vào ở ngay những điều khoản đầu tiên của chương thứ nhất bản nội qui của Hội những ḍng sau đây, những ḍng tŕnh bày sáng kiến vĩ đại của việc tông đồ hiện đại : Mục đích hàng đầu mà Thiên Chúa đă ban cho các Giám Mục và giáo sĩ Pháp, tập họp nhau thành hội, ở giữa thế kỷ 17, để hoạt động hoán cải các người ngoại giáo ở các nước ngoài, và ư định chính yếu của Ṭa Thánh khi gửi họ đến các Miền Truyền Giáo, với các tước hiệu Đại Diện Tông Ṭa và Thừa Sai là để tiến hành nhanh chóng việc hoán cải các dân ngoại, không những bằng cách rao truyền cho họ Tin Mừng, mà c̣n nhất là bằng cách chuẩn bị với những phương thế tốt nhất để nâng lên hàng giáo sĩ những người trong số các tân ṭng hoặc con cháu họ được xét thấy xứng hợp với chức bậc thánh thiện ấy, hầu tạo lập trong mỗi nước một hàng giáo sĩ, và một hàng giáo phẩm, như Chúa Giêsu và các tông đồ đă thiết lập trong Giáo Hội [5]».

Đọc lại những ḍng chữ này và nh́n lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hẳn thật ai cũng sẽ phải nhận rằng người có công rất lớn trong việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam là Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Chính Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris, từ 350 năm nay, 1558-2008, đă thiết lập hàng giáo sĩ cho Việt Nam. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà các giáo dân được đào luyện, hiểu biết đạo hơn và dám can đảm bảo vệ đức tin. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Giáo Hội Việt Nam đă được hân hạnh có 117 thánh tử v́ đạo. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Tin Mừng vẫn tiếp tục được rao truyền cho lương dân. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Giáo Hội Việt Nam được phát triển, chẳng những có linh mục mà có cả giám mục, đủ khả năng để đi đến việc thành lập Hàng Giáo Phẩm vào năm 1960. Có giám mục là những vị kế nghiệp các thánh tông đồ, th́, như đàn ong có ong chúa, Giáo Hội Việt Nam có người lănh đạo, chỉ đường, truyền sức sống, phát triển năng lực.

Nhờ các Thừa Sai Hải Ngọại Paris, hai giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài đă được thiết lập vào năm 1659. Rồi hôm nay, 2008, đă lớn lên vói 26 giáo phận, qui tụ trong 3 tổng giáo phận và đă có 5 hồng y : Trịnh Như Khuê (1899-1978), Trịnh Văn Căn (1921-1990), Phạm Đ́nh Tụng (1919- ), Nguyễn Văn Thuận (1928-2002) và Phạm Minh Mẫn (1934- ). Tạ Ơn Chúa ! Cám ơn các Thừa Sai Hải Ngoại Paris !

 

Paris, ngày 13 tháng 03 năm 2008
TRẦN VĂN CẢNH

 


Chú Thích

1- Le Siège apostolique et les Missions – Textes et Documents pontificaux, 1959 : Union missionnaire du clergé ; Paris et Lyon ; t. 1, tr. 10

2- Vào năm 1680, cha Louis Laneau đă quyết định lập thêm một cơ sở mới cho chủng viện ở Mahapram, cách Ayuthia chừng hai dậm, lấy tên là « Chủng Viện Các Thánh Thiên Thần », dành cho các chủng sinh bản địa. C̣n Chủng Viện Thánh Giuse cũ, vẫn ở nguyên tại chỗ và dành cho các chủng sinh đến từ Âu Châu..

3- François Perez sẽ chịu chức vào năm 1668, cùng lượt với cha Việt Nam đầu tiên, Giuse Trang. Và sẽ làm giám mục Đàng Trong từ 1691 đến 1728.

4- Đức cha NÉEZ, Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, tr. 35-93

5- Ibidem, tr. 6-7.


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.