La Société des Missions Etrangères de Paris

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

gxvnparis

 

 

 

THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS
350 năm xây dựng Giáo Hội Việt Nam

 

(Bài 4)

 

Các Giám Mục Đại Điện Tông Ṭa
chuẩn bị hành trang đi Đàng Trong và Đàng Ngoài

Hai Tân Giám Mục François Pallu và Pierre Lambert de la Motte bỏ La Mă, về tới Paris vào tháng giêng năm 1659. Một mùa xuân mới tràn đầy hy vọng bắt đầu. Xác tín rằng « Vạn sự khởi đầu nan », nhưng « Đầu xuôi duôi lọt », hai tân giám mục bù đầu với rất nhiều công việc : liên lạc thường xuyên với Tông Ṭa và Thánh Bộ Truyền Giáo để biết t́nh h́nh thừa sai ở Viễn Đông và nhận bài sai lên đường và chỉ thị hành động, gặp gỡ các cơ quan hội đoàn đạo đời, tiếp đón mọi cấp bậc xă hội và giáo hội, tuyển chọn các thừa sai cộng tác và đồng hành, giáo sĩ và giáo dân, phát động việc gây quĩ, sơ thảo kế hoạch và chương tŕnh hành động,… Tắt một điều, chuẩn bị hành trang : hành trang thừa sai hải ngoại, hành trang sứ mệnh truyền giáo, hành trang nhân sự đồng hành, hành trang vật dụng và ngân sách hành tŕnh và sinh sống, hành trang hậu cần chuẩn bị nhân sự, tài chánh và quản lư cho tương lai.

 

1. Xem lại t́nh h́nh truyền giáo Viễn Đông

Khởi đấu chuẩn bị hành trang, hai tân giám mục không thể không nghĩ đến nơi mà ḿnh có trách nhiệm mục vụ : Bắc Việt, Nam Việt và Trung Hoa, những xứ rất xa xôi, thuộc miền Viễn Đông. Dẫu đă được cha Đắc Lộ kể cho nghe nhiều điều về những xứ này, trong nhiều lần gặp gỡ vào những năm 1653, 1654, nhưng những tiếp xúc với Thánh Bộ Truyền giáo, nhất là với cha thơ kư Guillaume Lesley, người kế vị cha François Ingoli, làm hai đức cha ư thức nhiều điều về hiện t́nh truyền giáo ở Viễn Đông. Đây cũng là dịp để hai đức cha đọc lại những tài liệu, vẫn c̣n giá trị, do cha Ingoli thực hiện.

Được bầu làm giáo hoàng năm 1621, ĐGH Grégoire XV, rất quan tâm đến việc thiết lập hàng giáo sĩ địa phương, đă quyết định thành lập Thánh Bộ Truyền Giáo vào ngày lễ Ba Vua 06.01.1622, gồm 13 hồng y, hai vị cao cấp trong giáo hội và một thư kư. Và Ngài giao phó cho thánh bộ này nhiệm vụ truyền bá đức tin. Cha François INGOLI, thơ kư thánh bộ, đă đóng góp rất nhiều vào việc tổ chức thánh bộ và đưa ra một đường hướng mới về truyền giáo( ).

Khởi đầu công việc, cha INGOLI muốn biết rơ t́nh h́nh cụ thể của các vùng truyền giáo Á châu, Phi châu và Mỹ châu. Cha xin các ḍng tu lớn đang lo việc truyềng giáo, như ḍng Tên, ḍng Đaminh, ḍng Phanxicô, ḍng Augustinô, mỗi ḍng làm một bản phúc tŕnh tỉ mỉ và gởi vế thánh bộ. Sau đó cha đọc và phân tích rất kỹ các phúc tŕnh này( ).

Phúc tŕnh của ḍng Tên nêu lên những khó khăn và những t́ tật có thể làm tê liệt hoạt động truyền giáo, nhất là trong vùng Đông Ấn. Bản phúc tŕnh nhấn mạnh đến sĩ số thừa sai nhỏ nhoi, đến sự thiếu nhiệt t́nh của một số trong họ và đến sự thiếu thốn tài chánh. Bản phúc tŕnh chỉ trích gay gắt thói xấu tồi tệ của một số thừa sai đi làm thương măi, sự nhiệt thành bồng bột của của một số khác đưa đến phản ứng rất bất lợi cho việc truyền giáo từ các chức quyền chính trị trong các quốc gia Á châu. Bản phúc tŕnh đ̣i hỏi phải chọn lựa và đào tạo các thừa sai một cách thật nghiêm chỉnh, phải học hỏi ngôn ngữ và thói tục của những nước mà ḿnh đi giảng phúc âm, và đề nghị thiết lập chủng viện để đào tạo linh mục địa phương( ).

Bản phúc tŕnh của các ḍng hành khất Đaminh, Phanxicô và Augustinô cũng nêu lên những nhược điểm tương tự trong việc truyền giáo ở Đông Ấn : thiếu nhân lực thừa sai, thiếu tài lữc, thừa sai chưa được đào tạođủ và thiếu nhiệt t́nh( ).

Công cán ủy viên Ṭa Thánh ở Lisbonne, là Antoine ALBERGATI, có lẽ là người chỉ trích hơn cả. Trong bản phúc tŕnh viết về t́nh h́nh truyền giáo, viết năm 1623, ngài phàn nàn về thái độ của thương gia và binh lính Bồ đào Nha trong các cửa hiệu buôn bán, v́ đi ngược hẳn lại với những điều các thừa sai giảng dậy. Hàng giáo sĩ Bồ Đào Nha, triều cũng như ḍng, trong các vùng thuộc quyền họ Bảo trợ, đều sống một đời sống không mấy luôn luôn xây dựng. Ngài công nhận có một số tu sĩ, ḍng Tên hay ḍng khác, quả thật xứng đáng là những thừa sai tuyệt vời, nhưng ngài tiếc rằng giữa các ḍng không có sự điều hợp. Ngài ước mong rằng nhiều thừa sai không phải là người Bồ Đào Nha sẽ được gởi đến thêm, và làm sao giải thoát các thừa sai khỏi bắt buộc phải dùng các tầu chuyên chở Bồ Đào Nha, mà có thể t́m những đường khác đi đến Đông Ấn, như đi qua đường Trung Á và Ba Tư. Ngài ước mong rằng vua Tây Ban Nha sẽ chỉ chọn gởi đi Á Châu những giám mục gốc triều( ).

Sau đó, cha François INGOLI đă viết ba điều trần( ) tŕnh lên Thánh Bộ Truyền Giáo.

Trong điều trần luận thứ nhất, đề ngày 13.06.1625, cha François INGOLI t́m cách cải tiến những tranh chấp giữa giám mục với ḍng tu, giữa ḍng Tên với những ḍng khác, giữa người Tây Ban Nha với Bồ Đào Nha. Cha chỉ trích thái độ buôn bán thương mại của các thừa sai. Cha đề nghị ưu tiên tuyển chọn các giám mục từ giáo sĩ triều, tránh đặt các tu sĩ nhiều ḍng khác nhau trong một giáo phận. Và cha dự kiến thiết lập đại diện tông ṭa để điều hợp các sở truyền giáo và liên lạc với Ṭa Thánh.

Trong điều trần thứ hai, đề ngày 24.11.1628, tựa vào các báo cáo của Các Sở Truyền Giáo Mỹ châu Tây Ban Nha, cha INGOLI phàn nàn về sự kiện các thừa sai thiếu hiểu biết về ngôn ngữ địa phương ; cha chỉ trích sự thông đồng giữa thần quyền và thế quyền. Cha kết án thói quen cản đường người bản xứ tiến lên chức linh mục trong Đế quốc Tây Ban Nha ở Mỹ châu và những ngược đăi bắt dân địa phương phải chịu. Cha đề nghị một giải pháp : thiết lập hàng giáo sĩ gốc địa phương. Cha cho rằng, ở Mỹ châu, ở Á châu hay ở Viễn Đông, các sở truyền giáo đều có thể và phải đào tạo, chọn giữa những giáo dân thổ dân châu mỹ, thổ dân ấn độ, thổ dân tầu, nhật hay việt nam, những người xứng đáng để làm linh mục. Cha đề nghị gởi khâm sứ, đại diện đặc biệt Ṭa Thánh, đến các miền truyền giáo để điều hợp hoạt động thừa sai và để thanh trừng những lạm dụng.

Trong điều trần thứ ba, viết vào năm 1644, cha INGOLI chỉ trích gay gắt những lạm dụng bảo hộ trong vùng Đông Ấn. Cha kết án những can dự của Phó Vương Goa và của nhiều Toàn Quyền khác vào các công việc giáo sự, chỉ trích quyền dành cho vua công giáo được chỉ định giám mục, lên án việc kiểm soát các công chuyện của Ṭa Thánh nhờ « đặc quyền » dành cho vua Tây Ban Nha.

Nhờ những điều trần này, một loạt công việc đă được thực hiện : Tổ chức nội bộ Thánh Bộ, phân chia toàn bộ thế giới ra làm 13 tỉnh hạt ; Cấm các vị thừa sai không được hoạt động chính trị và loại bỏ mọi mưu đồ chính trị ra khỏi mục tiêu tôn giáo mục vụ ; lập trường truyền giáo để đào tạo các thừa sai truyền giáo và huấn luyện hàng giáo sĩ địa phương ; lập ấn quán xuất bản các sách phụng vụ và giáo lư ngoại ngữ ; thu thập các báo cáo về t́nh h́nh thừa sai ; điều đ́nh với triều đ́nh Madrid và Lisbonne về những lănh thổ hải ngoại do họ bảo trợ ; bổ nhiệm giám mục hiệu toà làm giám quản tông toà, đặc trách điều khiển các giáo hội địa phương..

 

2. Nhận chỉ thị của Toà Thánh

Qua những tài liệu của Thánh Bộ, cũng như những tài liệu mà cha Đắc Lộ để lại, hai Đại Diện Tông Ṭa Đàng Trong và Đàng ngoài nhận rơ ra hiện t́nh của hai địa phận mà ḿnh có trách nhiệm mục vụ, với những khó khăn và thách thức nhiều hơn là những may mắn đang chời đợi. Khó khăn đối với các phái đoàn truyền giáo Bồ Đào Nha c̣n đang bám vào chế độ bảo trợ, khó khăn đối với chính quyền Việt Nam có thái độ thay đổi khó lường, khó khăn đối với những thế lực dân sự, tôn giáo Việt Nam thấy nguy cơ bị mất ảnh hưởng, khó khăn rao truyền tin mừng kitô cho dân chúng việt nam đă nhiễm sâu truyền thống tam giáo Khổng, Lăo, Phật. Một hướng đi đă được h́nh dung. Nhưng cụ thể hướng đi đó sẽ phải được thực hiện thế nào ? Phải đạt mục tiêu và kết quả nào ? Nên tránh những ǵ ? Nên làm những ǵ ? Các câu hỏi này vẫn ám ảnh hai tân giám mục thừa sai. Các ngài cũng đang chờ đợi, chờ đợi « sự vụ lệnh » của Thánh Bộ và Tông Ṭa.

Ngày 10.09.1659, Thánh bộ Truyền Giáo soạn thảo bản « Chỉ thị gởi các Đại Diện Tông Ṭa đang chuẩn bị lên đường đi Trung Hoa, Bắc Việt và Nam Việt( ) ». Chỉ thị g̣m 3 phần : 1-Trước khi lên đườngn (Antequam discendat), 2-Trên đường hành tŕnh (In ipso itinere) và 3-Lúc thi hành sứ mệnh thừa sai (in ipsa missione).

Ở phần 1 « Trước khi lên đường », Bản Chỉ Thị khuyến cáo các Đại Diện Tông Ṭa nên chọn lựa các thừa sai trong những ứng viên có khả năng nhất trong việc phục vụ sứ mệnh thừa sai, và nhhững khả năng này đă từng chứng nghiệm ; Những đức tính quan trọng nhất cho người thừa sai là khôn ngoan, kiên nhẫn, khiêm nhường và nhất là có « ḷng bác ái tin mừng » ; Người thừa sai phải biết thích ứng với những thói tục và tập quán của những nước hải ngoại và, như thánh Phaolô đă nói, « phải biết trở nên tất cả cho tất cả mọi người ». Bản Chỉ Thị cũng kêu gọi các Đại Diện Tông Ṭa hăy chỉ định những người quản lư để trông coi quản trị công việc ở Paris, dưới khía cạnh pháp luật và tài chính ; đặt một người quản lư ở La Mă, bên cạnh Ṭa Thánh và Thánh Bộ ; Vị quản lư này, được ủy nhiệm của các Đại diện Tông Ṭa, sẽ đại diện các ngài để giải quyết các công việc với Thánh Bộ.

Sang phần 2 « Trên đường hành tŕnh », Bản Chỉ Thị cho các Đại Diện Tông Ṭa một số nguyên tắc hướng dẫn. Các ngài phải chọn lộ tŕnh đi mà tránh gặp người Bồ Đào Nha, cũng đừng đi qua những đường biển có tầu bề Bồ Đào Nha kiểm soát. Có lễ nên đi đường bộ ; Xin các Đại Diện Tông Ṭa nên lên đường một cách kín đáo và đi đến Viễn Đông qua lối Syrie và Ba Tư. Nước Bồ Đào Nha chống lại việc thiết lập các Đại Diện Tông Ṭa, v́ họ có những đặc quyền của chế độ Bảo Trợ, vậy xin các Đại Diện Tông Ṭa không nên yêu sách đ̣i hỏi bất cứ một quyền tài phán nào trong những vùng trực tiếp tùy thuộc chính phủ Bồ Đào Nha. Các ngài sẽ phải tŕnh lên Ṭa Thánh một bản báo cáo chi tiết về t́nh h́nh Giáo Hội và t́nh h́nh các sở thừa sai trong những xứ mà các ngài đi qua.

Phần 3 « Lúc thi hành sứ mệnh thừa sai » là phần quan trọng nhất đă đưa ra những chỉ thị và những hướng dẫn rơ rệt liên hệ đến công việc của các Đại Diện Tông Ṭa trong những nước mà các ngài làm sứ mệnh thừa sai. Sáu chỉ thị căn bản đă được nêu ra :

1. Sứ mệnh căn bản của các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa là thiết lập hàng giáo sĩ địa phương. : « Lư do chính yếu khiến Thánh Bộ gởi các ngài là những người có chức giám mục đến những vùng nói trên (Trung Hoa, Bắc Việt và Nam Việt) là để, bằng mọi cách thế và phương pháp có thể, các ngài nắm lấy trách nhiệm giáo huấn người trẻ hầu giúp họ thâu thập đủ các khả năn, để tiến tới chức linh mục. Truyền chức linh mục cho họ rồi, các ngài hăy sai họ về địa phương gốc của họ với sứ mệnh phục vụ đạo kitô hết ḷng ḿnh, dưới sự hướng dẫn của các ngài. Vậy xin các ngài hăy luôn ghi nhớ mục đích này trước mắt ḿnh là dẫn đưa đến chức linh mục, một số đông càng nhiều càng tốt và càng có khả năng càng hay, những người có khả năng, đào tạo họ và giúp họ tiến triển trong môi trường của họ( ) ».

2. Về vấn đề truyền chức giám mục cho các linh mục bản địa, các Đại Diện Tông Ṭa phải đệ tŕnh lên La Mă. Trong vấn đề này cũng như những vấn đề khác, nguyên tắc căn bản là các Đại Diện Tông Ṭa phải hành đông trong liên lạc chặt chẽ với Tông Ṭa và Thánh bộ, trong tinh thần trung tín, vâng lời, và dự bị sẵn sàng, biết tuân thủ những quyết định của Tông Ṭa trong tất cả những vấn đề quan trọng, dẫu rằng các ngài có nhiều quyền rộng răi. Sự vâng lời Tông Ṭa, dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội, lại càng là điều cần thiết mà các Đại Diện Tông Ṭa phải áp dụng, v́ các ngài phải sống và làm gương sáng trong những Giáo Hội mới. « Các ngài không những cần luôn luôn phải tỏ ra thần phục hoàn toàn và vồn vă với Đức Giáo Tông La Mă, mà c̣n phải làm mọi điều để người trung hoa và các dân nước khác mà các ngài có trách nhiệm coi sóc, nhận ra luật phép và dấu chứng bảo đảm của đức tin chính truyền : họ cũng sẽ nhận ra rằng đối với họ nữa, họ phải tôn kính Tông Ṭa v́ là chủ chân lư và là tiếng nói của Thánh Linh, họ phải tuyệt đối thần phục các lệnh truyền và qui định của Tông Ṭa trong những lănh vực thiêng liêng, họ phải tham khảo ư kiến của Tông Ṭa trong những công việc khó khăn và phải biết tuân thủ theo những chỉ dẫn của Tông Ṭa. Dĩ nhiên, điều đó chính yếu chỉ có thể dễ dàng và hiển nhiên thực hiện được nếu các ngài làm gương sáng cho họ, v́ các ngài là thủ lănh của họ( ).

3. Mọi công việc quan trọng, các Đại Diện Tông Ṭa, phải làm gương sáng, xin phép Tông Ṭa. « Đừng giải quyết bất cứ việc quan trọng nào mà không có lệnh của Thánh Bộ. Các ngài sẽ phải thuyết phục người trung hoa rằng trong những hoàn cảng trọng đại, luôn luôn phải tham khảo Tông Ṭa. Các ngài phải cố gắng d́u dắt họ thường xuyên biên thư hơn, tham khảo Đức Giáo Tông và chờ đợi trả lời. Thực ra người trung hoa có thể sẽ vịn vào xa xôi cách trở giữa họ và La mă và những khó khăn xin phép để dám cho rằng không nên theo nhập một tôn giáo mà giáo chủ có quá nhiều khó khăn để ban lệnh truyền cho họ ! Các ngài phải làm gương để cắt nghĩa cho họ hiểu rằng, Đức Giáo Tông ở La Mă rất ân cần với họ và v́ vậy, đă đoán trước những khó khăn của họ, đă bổ nhiệm các giám mục có nhiều quyền hạn để phần nào bù lắp vào sự xa xôi cách trở( ) ».

4. Đặc biệt Bản Chỉ Thị cấm các Đại Diện Tông Ṭa không được dính líu và chính sự của những nước mà các ngài được gởi đến và cũng không được nhận những ân huệ hay đặc quyền mà quốc vương các nước này trao ban. Các ngài phải biết từ chối những trách nhiệm chính trị, như những đề nghị làm cố vấn dân sự chẳng hạn. Thánh Bộ Truyền Giáo đặc biệt nhấn mạnh đến việc tuyệt đối tránh làm hại các nhà chính trị địa phương và tránh tham dụ vào những công chuyện trần thế. Các ngài phải tôn trọng uy quyền chính trị của các nước địa phương, ngay cả khi họ bách hại đạo. « Nếu có vua, quan hay chức quyền nào, nghe theo tiếng gọi của Chúa, tỏ ra hoà nhă với các ngài, hoặc hay hơn nữa, tỏ ra hướng chiều về đạo kitô, th́ xin các ngài hăy tỏ ḷng biết ơn họ. Nhưng để tránh việc khích động ham muốn, xin các ngài đừng đ̣i đặc quyền, cũng đừng đ̣i những miễn trừ, hoặc những toà án đặc biệt,…Thản hoặc, dẫu không có ư khiêu khích ghen tỵ, mà các ngài được một thuận lợi nào đó trong việc phát triển đức tin, th́ xin các ngài đừng phô trương v́ công của ḿnh, nhưng hăy xác định rằng đó là nhờ ḷng nhân hậu của họ. Xin các ngài tuyệt đối tránh không gợi cho họ bất kỳ một sự sợ hăi nhỏ nhoi nào liên hệ đến cá nhân họ hay quyền lợi của họ : Xin các ngài xa tránh mọi bóng dáng ngờ vực trong lănh vực này.

Xin các ngài hăy xa tránh những chính sự và quốc sự, để đừng bao giờ chấp nhận một chức vụ nào trong hành chánh dân sự, ngay cả khi người ta chính thức và liên tục thỉnh cầu các ngài. Về điều này, Thánh bộ đă luôn luôn cấm ngặt một cách công khai và chặt chẽ và sẽ tiếp tục măi măi cấm nữa. Bởi vậy, xin các Đại Diện Tông Ṭa và các cộng sự viên hăy luôn luôn cẩn trọng tuân thủ.

Thản hoặc, nếu một ngày nào đó, các vua chúa xin các ngài cho tư vần, và để tránh khỏi phải để cho họ khẩn cầu nhiều lần, các ngài đă coi nhẹ lời cấm này và đă cho họ những lời khuyên chân t́nh và chính đáng, có hương vị đời đời. Trường hợp ấy, xin các ngài hăy mau chóng rời khỏi dinh vua, ṭa quan mà lui về giáo phận của các ngài hầu chuyên chú vào các chức vụ thánh. Xin đừng bắt buộc ḿnh ở lại, mà hăy giả như bất tri về những công việc chính sự và không có năng khiếu về hành chánh dân sự.

Đối với dân chúng, hăy rao truyền ḷng vâng phục vua chúa, dẫu khó khăn, và trong giao dịch tư hay công, hăy hết ḷng cầu xin Chúa cho họ được thịnh vượng và được cứu rỗi. Đừng chỉ trích hành động của họ, ngay cả cái hành động của các vua đă cấm đạo. Hăy tuyệt đối từ chối gieo rắc trong lănh thổ của họ mầm mống của bất cứ phe đảng nào : Tây Ban Nha, Pháp, Thổ, Ba Tư, hay một phe khác. Ngược lại, hăy nhổ tận gốc, ngần nào có thể, tất cả những thù nghịch thuộc loại này( ) ».

5. Về phương diện mục vụ thừa sai, Bản Chỉ Thị cũng đề cập đến vấn đề thích ứng vào tập tục và thói quen địa phương. Thừa sai có bổn phận phải tôn trọng những phong tục, tập quán, thói quen và lễ nghi của nước mà ḿnh được tiếp đón. Không được áp đảo mang vào các nước Á Châu, những thói tục và những tập quán của nước gốc ḿnh. Nếu có những lễ nghi hay thực hành đi ngược lại với giới răn và luân kư kitô, th́ hăy, rất cẩn trọng và không xúc phạm tâm lư chung, cố gắng khuyên giải các bổn đạo mới dần dần từ bỏ. Nhưng cần phải có một thời gian để các tân ṭng ngưng làm những lễ nghi ngàn đời mà đồng hương của họ vẫn đang thực hiện. « Xin đừng nhiệt thành quá độ, xin đừng trưng chứng lư luận để thuyết phục các dân tộc này thay đổi lễ nghi, thói tục và tập quán của họ, trừ phi chúng rơ ràng ngược lại với đạo Chúa và luân lư kitô. C̣n có điều ǵ phi lư cho bằng việc mang nước Pháp, nước Tây Ban Nha, nước Ư, hay bất kỳ một nước Âu Châu nào khác áp đặt vào người Trung Hoa ? Xin đừng mang vào nơi họ nước của chúng ta, nhưng hăy mang vào đức tin, đức tin không tẩy trừ, không xúc phạm đến những lễ nghi và thói tục của bất cứ dân tộc nào, trừ phi chúng rơ rệt tồi bại ; nhưng ngược lại đức tin ấy muốn giữ ǵn và bảo tŕ những lễ nghi và thói tục trên. Luật thiên nhiên đă khắc sâu vào bản tính của mọi người trên thế gian là tôn kính, yêu mến và coi trọng trên hết những thói tục của quê hương họ và quê hương họ. Mang những thay đổi vào những thói tục ngàn đời của một dân tộc : c̣n có lư do nào mạnh mẽ hơn để gây ra chia cách và thù hằn ! Điều ǵ sẽ xẩy ra, nếu, để băi bỏ các phong tục cũ của họ, các ngài đă muốn thay vào đó bằng những phong tục của quê hương các ngài, nhập cảng từ bên ngoài ? Xin đừng bao giờ đặt những thói tục của các dân tộc này song song với những thói tục Âu châu. Ngược lại, xin các ngài hăy mau mắn làm quen với những thói tục địa phương. Hăy ca tụng và ngợi khen điều ǵ đáng ca tụng. C̣n những điều không đáng,.. xin các ngài hăy khôn khéo đừng phán đoán, hay ít nhất đừng kết án một cách dại dột hay quá đáng. Với những thói tục rơ rệt xấu, th́ nên từ từ làm cho người ta hiểu bằng cách lắc đầu hay im lặng hơn là bằng lời nói ; dĩ nhiên không quên lợi dụng dịp may, để khi mà các tâm hồn sẵn sàng tiếp nhận sự thật, th́ những thói tục này sẽ tự nhiên bong rễ( ) ».

6. Bản Chỉ Thị cũng nhấn mạnh đến việc thiết lập chủng viện hay học viện đào tạo linh mục bản địa. « Để cho kiến thức và ḷng ham mê các khoa học thánh được phát triển trong những quốc gia này, cần phải dịch từ tiếng hy lạp hay tiếng la tinh sang tiếng mẹ đẻ của các dân tộc này, phần lớn các tác phẩm của các tiến sĩ Hội Thánh hay của các tác giả tôn giáo. Để đạt mục tiêu này, xin hăy tích cực t́m kiếm giữa những các cộng tác viên của các ngài, hoặc tại chỗ, hoặc nơi khác, xem ai là người có khả năng thực hiện công việc này, nhờ có hiểu biết hoàn hảo về cả hai ngôn ngữ và có tinh thần giáo lư. Xin hăy mau mắn nhưng cẩn trọng mở khắp nơi các trường học. Dậy miễn phí tiếng la tinh và giáo lư cho giới trẻ. Nếu trong những trường học này các ngài t́m thấy những trẻ đạo hạnh, tốt lành tự nhiên, nhiệt thành và quảng đại, có năng khiếu làm việc nhân bản, và có hy vọng một ngày kia sẽ có thể sống đời sống giáo sĩ, hăy nuôi dưỡng ḷng nhiệt thành của chúng, hăy giúp đỡ chúng theo đuổi học hành,… Khi chúng đă tiến bộ khả quan về tri thức và đạo đức, xin các ngài hăy tiếp nhận chúng vào hàng tu sĩ, và thời gian thuận tiện đến, xin hăy phong chức thánh cho họ( ) ».

 

3. Củng cố hậu cần : lập Chủng Viện Thừa Sai và Sở Quản Lư

Hiện t́nh của hai địa phận Đàng trong và Đàng ngoài đă được ư thức. Hướng đi hành động đâ được vạch rơ với những mục tiêu và kết quả phải đạt được : truyền chức linh mục để thiết lập hàng giáo sĩ địa phương, liên lạc chặt chễ và vâng phục tuyệt đối Tông Ṭa, phải làm gương sáng cho hàng giáo sĩ bản địa, tuyệt đối không dính líu vào chính sự, phải thích ứng vào tập tục và thói quen địa phương, thiết lập chủng viện hay học viện để đào tạo linh mục địa phương. Nhưng hai giám mục Đại Diện Tông Ṭa, từng lo việc điều khiển, cũng cảm thấy nhu cầu phải chuẩn bị hậu cần, lo cho tương lai đường dài. Làm sao để trong tương lai vẫn có người kế tiếp công việc thừa sai ? Làm sao để trên đường dài vẫn có đủ tài chánh để chi tiêu và phương tiện để xử dụng ?

Song song với ư muốn làm thừa sai truyền giáo, những vị sáng lập Thừa Sai Hải Ngoại Paris, ngay từ buổi đầu đă nghĩ đến việc đào tạo thừa sai. Ngày 01.07.1658, ba cha François de Laval, François Pallu và Pierre Lambert de la Motte (vừa được Thánh Bộ Truyền Giáo đề nghị bổ nhiệm làm giám mục đại diện tông ṭa ngày 13.05.1658 và được Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận ngày 08.06.1658), đă làm một thỉnh nguyện thơ lên Thánh Bộ Truyền Giáo xin phép mở một chủng viện mà « mục đích duy nhất là rao giảng tin mừng cho dân ngoại, và trong đó người ta sẽ nhận tất cả những các linh mục nào muốn sống thử ơn gọi thừa sai của ḿnh và sẽ đào tạo họ bằng mọi cách có thể ( )». Thánh bộ tiếp nhận thỉnh nguyện thơ một cách thuận lợi, nhưng để cho ba vị sáng lập hoàn toàn tự do lấy sáng kiến về thiết lập và tổ chức.

Ở Pháp, hai hội ủng hộ dự án này. Hội Bạn Hiền, do cha Jean Bagot điều động, lo tuyển chọn nhân sự thừa sai. Hội Thánh Thể lo gây dựng ngân quĩ tài chánh và xây dựng cơ sở.

Gặp cha Đắc Lộ ngay từ đầu năm 1653, trong khuôn khổ Hội Thánh Thể và Hội Bạn Hiền, Đức cha François Pallu, ngay sau khi thụ phong giám mục và trở về Paris đầu năm 1659, đă trở lại Hội Bạn Hiền ở phố Coupeau và phố Saint-Dominique để t́m kiếm và tuyển chọn các thừa sai trẻ cho giáo hội Việt Nam. Các nhóm Bạn Hiền ở Paris và các tỉnh đă gởi về khoảng 20 linh mục trẻ sẵn sàng t́nh nguyện làm thừa sai đi truyền đạo. Một người bà con, bà de Miramion, đă bằng ḷng cấp dưỡng ăn ở trong một cung điện của bà ở La Couarde, gần La Queu-lez-Yvelynes, cách Paris khoảng 50 cây số về phía đông nam. Ở đây, Đức Cha Pallu đă thiết kế một chương tŕnh đào tạo gồm 2 khía cạnh ; khía cạnh giảng dậy lư thuyét bằng học hiểu các tác phẩm nói về Á châu và khía cạnh thực hành bằng thực tập cụ thể các phương pháp giảng đạo b́nh dân trong ba làng ở Haute-Marne, ở Oise và ở Dreux.

Ngày 27.09.1659 người ta tŕnh cho Đức Cha hay rằng có khoảng 40 ứng viên mới đến La Couarde. Theo những tiêu chuẩn mà chính ngài đă đặt ra, là sức khoẻ mạnh, quân b́nh tốt, khả năng khoa học đủ, tinh thần vâng lời cao, đức siêu thoát vững, đức khó nghèo kiên, đức xă tính mạnh, .. Đức cha chỉ chọn được 6 người.

Chủng Viện Thừa Sai cư ngụ tại « La Couarde » từ hè cho đến cuối năm 1659. Đầu năm 1660 rời về Paris, đường Quincampoix, bên nhà thờ Saint-Josse.. Lúc ấy tất cả có 2 giám mục, 11 linh mục, 5 tu sĩ và 8 giáo dân.

Lúc này, vấn đề đào tạo đă bắt đầu. Nhưng vấn đề cơ sở chủng viện và ngân quĩ truyền giáo sẽ ra sao ?

Hội Thánh Thể đă và sẽ là chủ động tích cực giúp kiến tạo « Chủng Viện Thừa Sai ». Năm 1658 hội đă lập một « Hội Đồng Thừa Sai » và đă chỉ định những ủy viên để lo việc xây dựng một chủng viện dành cho « Thừa Sai Hải Ngoại ». Một trong những ủy viên này là ông du Plessis rất hăng hái tích cực.

Năm 1659, để giúp các Đại Diện Tông Ṭa đi truyền giáo ở Bắc Việt và Nam Việt có phương tiện tài chánh và nguồn lực nhân sự, giáo sĩ cũng như giáo dân, Hội Thánh Thể đă phổ biến một tờ truyền đơn và một tập tài liệu nhỏ trên toàn nước Pháp( ). Tờ truyền đơn, với tựa đề là « Thông báo về các phái đoàn thừa sai ở Bắc Việt và Nam Việt » nhắc lại rằng hiện có khoảng từ 20 đến 30 thừa sai đang chuẩn bị hành trang để cùng lên đường với hai Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa và kêu gọi các ân nhân hăy rộng lượng giúp đỡ hầu gây được một ngân khoản tài trợ cho hành tŕnh và cuộc sống hải ngoại xa xôi của các thừa sai ». Tập tài liệu mời gọi các kitô hữu Pháp hăy thực hiện trách nhiệm truyền giáo đối với các giám mục đại diện tông ṭa cũng như đối với các thừa sai khác sẽ lên đường đi truyền đạo ở hải ngoại bằng cách gây một ngân khoản trợ cấp sinh sống cho các giáo sĩ và giáo dân thừa sai và chi phí cho hành tŕnh.

Trước khi lên đường đi nhận nhiệm sở giáo phận của ḿnh, bốn giám mục đại diện tông ṭa, thừa sai tiên khởi sáng lập Thừa Sai Hải Ngoại Paris, là LAVAL, PALLU, LAMBERT và COTOLENDI, đâ chỉ định 6 nhà quản lư để lo việc quản trị cho các ngài khi các ngài vắng mặt. Sáu người quản lư này, 3 là giáo sĩ, đó là các cha Vincent de Meur, Luc Fermanel de Favery và Michel Gazil de la Bernardière ; 3 là giáo dân, đó là các ông Jean de Garibal, René de Voyer và Antoine Pajot de la Chapelle.

Năm 1660, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đă kư một giấy ủy quyền cho các quản lư của ngài, trao phó trách nhiệm phải kiến thiết một chủng viện để đào tạo thừa sai cho các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa.

Năm 1663, Ông du Plessis, được sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè, đă đi điều đ́nh mua lại nhà của Đức cha Bernard de Sainte-Thérèse, ỡ đường du Bac. Và ngày 16.03.1663 Đức cha Bernard de Sainte-Thérèse đă kư giấy bán các dẫy nhà của ngài cho cơ sở « Chủng Viện Thừa Sai ».

Có cơ sở rồi, các quản lư gia của Thừa Sai Hải Ngoại Paris, đă được ủy nhiệm của các Đại Diện Tông Ṭa, bắt đầu lo chuyện làm thủ tục xin cho Chủng Viện Thừa Sai được chính thức công nhận bởi chính quyền và giáo quyền.

Ngày 26.07.1663 vua Louis XIV kư ngự chỉ công nhận Chủng Viện Thừa Sai. Vua xác nhận hợp đồng được kư kết giữa bên mua là những nhà quản lư đại diện cho các Đại Diện Tông Ṭa và bên bán là giám mục Babylone, đức cha Bernard de Sainte-Thérèse và vua thừa nhận « Chủng Viện truyền giáo cho lương dân trong các xứ hải ngoại ». Ngày 07.09.1663 Nghị viện Paris đă đăng kư ngự chỉ trên( ).

Ngày 10.10.1663, tu viện trưởng tu viên Saint-Germain-des-Prés, Henry de Verneuil, phê chuẩn xác nhận cho hai nhà quản lư Gazil de la Bernardière và Armand Poitevin được quyền xử dụng chủng viện.

Ngày 11.06.1664, đại hội Chủng Viện được triệu tập. Cha Vincent de Meur được bầu làm Bề Trên tiên khởi của Chủng Viện Thừa Sai. François Bésard làm phụ tá và Luc Fermanel làm quản lư. Đại hội cũng đă chỉ định một giáo sư thần học và một giám đốc đặc trách chủng sinh vụ. Tất cả các nhân viên điều hành tiên khởi của Chủng Viện Thừa Sai đều xuất thân từ nhóm Bạn Hiền, do cha Jean Bagot ; ḍng Tên, điều động.

Được bầu làm bề trên, cha Vincent de Meur lo liêu ngay việc xin Ṭa Thánh công nhận Chủng Viện Thừa Sai. Ngày 11.08.1664, Đức Hồng Y Chigni, đại diện Đức Giáo Hoàng Alexandre VII ở Paris, nhân danh Ṭa Thánh, đă cho thánh chỉ công nhận. Đó là « Thánh chỉ công nhận cơ sở Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại, ngày 11.08.1664, do Hồng Y Fabio CHIGNI, cháu của Đức Giáo Hoàng Alexandre VII ». Như vậy, Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại, dẫu rằng đă được thành lập do các bậc chức quyền của Giáo Hội Pháp, song le đă làm việc sát cánh và chặt chẽ với Thánh Bộ Truyền Giáo và Các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa để đào tạo và gởi đi khắp nơi mà Thánh Bộ cần cán bộ truyền giáo.

 

LỜI KẾT

Những điều quan trọng đều đă được chu đáo chuẩn bị. Hành trang thiêng liêng, hành trang thừa sai, hành trang nhân sự và vật chất,.. tất cả như đă sẵn sàng.

Bồn chồn, một tâm t́nh cảm động đang xâm chiếm và lan ra khắp thân thể người thừa sai sắp lên đường. Họ như đang hát « bài ca tiễn người thừa sai lên đường », mà một thừa sai, Claude Charles Dallet (1829-1878), đă đặt lời và Charles Gounot (1818-1893) đă phổ nhạc.

Gió đến mau, thổi buồm lên
Bạn hiền ơi, bay theo gió
Sao trời soi, Mẹ dẫn lối
Maria, Mẹ nhân hiền

Biển cả cúi đầu tôn vinh
Che chở, bảo vệ, giữ ǵn
Sóng to kiêu căng hạ xuống
V́ bạn sống động nhiệt t́nh

Đi đi, sứ giả tin mừng
Nhiệt tâm xin đừng trệ ngưng
V́ ngày ước mơ đă đến
Đi đi, hỡi người kiên trung

Thừa sai ơi, chân người đẹp !
Bước đi trên miền u minh
Không sợ, không đau, không khiếp
Cho ta hôn kính chân t́nh

Thừa sai ơi, hăy lên đường
Cảnh đời đây, không vấn vương
Đi khắp tận cùng trái đất
Đến mang danh Chúa t́nh thương

 

Paris, ngày 24 tháng 01 năm 2008
TRẦN VĂN CẢNH

 


Chú Thích

1- CHAPPOULIE, H. : 1943, Aux origines d’une Eglise ; Rome et les Missions d’Indochine au XVII ème siècle, t ; 1, p. 71-101

2- LANGE, Claude : L’église catholique et la Soćté des Missions Etrangères au Vietnam : Vicariat apostolique de Cochinchine XVII et XVIII siècles ; Paris : L’Harmattan ; 2004 ; trang 25-26.

3- CHAPPOULIE, H. : o.c., tr. 74

4- Ibidem, tr. 75

5- Ibidem, tr. 75

6- Ibidem, tr. 383-390

7- LANGE Claude, o.c, trang 34-41

8- Le Siège apostolique et les Missions – Textes et Documents pontificaux, 1959 : Union missionnaire du clergé ; Paris et Lyon ; t. 1, tr. 10

9- Ibidem, tr. 10-11

10- Ibidem, tr. 11

11- Ibidem, tr. 13-15

12- Ibidem, tr. 16

13- Ibidem, tr. 19-20

14- LAUNAY, A. : Histoire générale de la Société des Missions Etrangères ; 1894 : Téqui, Paris ; t.1, trang 39

15- GUENNOU, J. : 350 ans au service des Missions (1622-1972), in Sacrae Congregationis de Propaganda Fide Memoriam Rerum : 1973 : Ed. Herder, Rome ; trang 353

16- LAUNAY, A. : Documents historiques relatifs à la Société des Missions Étrangères, tome I, Missions Étrangères, Paris ; 1904, trang 324-328


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.