TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

MichelAnge

 

BÀI 9: SỐNG HIỆP THÔNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO

 

VÀO ĐỀ

Mầu nhiệm trung tâm của Hội Thánh Công Giáo là Mầu Nhiệm Hiệp Thông của một cộng đồng được gọi là Dân Chúa. Công Đồng Va-ti-can II đă nhấn mạnh và triển khai ư niệm này trong các văn kiện, nhất là trong Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội tức Hiến Chế “Ánh Sáng Muôn Dân” (Lumen Gen-tium). Khi nói về sứ vụ Loan Báo Tin Mừng, các vị Giáo Hoàng hậu Công Đồng cũng dành cho sự hiệp thông một tầm quan trọng đặc biệt.

Chúng ta có thể khẳng định: sống hiệp thông chính là đường lối Truyền Giáo đẹp ḷng Thiên Chúa và hợp với bản chất của Giáo Hội nhất nên chính thống nhất. Trong bài 9 này chúng ta sẽ t́m hiểu về cách sống hiệp thông ấy để đẩy mạnh hơn nữa việc Truyền Giáo tại Việt Nam.

 

I. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ HIỆP THÔNG.

 

1.1 Phải hiểu thế nào là hiệp thông?

“Chúng ta lấy lại h́nh ảnh cây nho và cành nho trong Kinh Thánh. H́nh ảnh này giúp chúng ta nhận định về tính dồi dào và sức sống. Được tháp nhập vào thân nho, nhận sức sống từ thân cây, nên các cành nho được kêu gọi trổ sinh hoa trái (Ga 15,5). Đơm hoa kết trái là một đ̣i hỏi cốt yếu trong đời sống người Ki-tô hữu cũng như của Giáo Hội. Ai không sinh hoa trái là không sống trong sự hiệp thông. Hiệp thông với Chúa Ki-tô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau, là điều kiện không thể thiếu để sinh hoa trái (= loan báo Tin Mừng): Hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Về phần ḿnh, Giáo Hội ư thức rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đă đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng ḿnh mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đă lănh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo rắc nơi trái tim người tín hữu t́nh mến của Chúa Giê-su Ki-tô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ư định của Chúa Ki-tô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đă đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người" (1).

 

1.2 Hiệp thông với Thiên Chúa.

“Muốn hiệp thông với Thiên Chúa phải trung thành với việc t́m hiểu và lắng nghe Lời Chúa, phải cầu nguyện và chiêm niệm, phải cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, phải nêu gương sống hiệp thông thực sự cũng như sống yêu thương liêm chính.”

“Người dân Á châu rất dễ tỏ ḷng kính trọng và sẵn sàng nghe theo những người đạo đức thật sự. Do đó những việc như cầu nguyện, ăn chay, sống khổ hạnh, từ bỏ, khiêm nhường, đơn giản, trầm lặng …. thường được người dân Á châu rất quí mến. Tông huấn nhắc nhở rằng: phải có lửa th́ mới chia lửa cho người khác được, nghĩa là phải có mới cho được. Do đó Ki-tô hữu tại Á châu phải sống theo một linh đạo truyền giáo trong đó cầu nguyện và chiêm niệm là trọng tâm.”

“Tại Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn qua đó không những cá nhân mà cả dân tộc bày tỏ ḷng khát khao thế giới thần linh, Giáo Hội được kêu gọi hăy trở thành một Giáo Hội cầu nguyện, hết sức thiêng liêng, cả khi dấn thân vào các bận tâm nhân bản và xă hội trước mắt. Mọi Ki-tô hữu cần phải sống một linh đạo truyền giáo lấy cầu nguyện và chiêm niệm làm trọng tâm…

Tại Châu Á, một người có tôn giáo thật sự sẽ sớm được kính trọng và được hưởng ứng. Cầu nguyện, chay tịnh và khổ hạnh dưới nhiều h́nh thức khác nhau là những điều rất được trân trọng. Từ bi, siêu thoát, khiêm nhường, giản dị và thinh lặng là những điều mà tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cũng coi là những giá trị lớn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng lưu ư rằng muốn việc cầu nguyện không trở nên xa lạ với sự thăng tiến con người, “phải liên kết công tác xây dựng công lư, bác ái và từ thiện với một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm thật sự, và linh đạo này cũng phải là cội nguồn sinh ra mọi công tác phúc âm hóa” (2).

 

1.3 Hiệp thông trong nội bộ Giáo Hội.

“Quy tụ chung quanh Đấng kế vị Thánh Phê-rô, cùng cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám Mục trong Hội Nghị đặc biệt dành cho Châu Á lần này, đă trở thành hiện thân của sự hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Hội địa phương vô cùng khác biệt được lănh đạo bằng đức ái….. ”

Giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử; trong đó giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân tham gia cuộc “đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn”, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ.

“Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng vững vàng bằng cách minh chứng tinh thần hiệp thông với Giáo Hội v́ đây chính là bản chất làm cho cộng đoàn ấy là Giáo Hội . Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đă quyết định mô tả giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử; trong đó giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân tham gia cuộc “đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn”, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Giáo phận là nơi ưu tiên cho ta thấy cụ thể h́nh ảnh sự hiệp thông của các cộng đoàn giữa bao thực tế xă hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa, và kinh tế vô cùng phức tạp của Châu Á. Nói tới sự hiệp thông Giáo Hội là ngụ ư bảo rằng mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành cái mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng gọi là Giáo Hội trong đó mọi người đều có phần và phải góp phần, tức mỗi người sống đúng ơn gọi riêng của ḿnh và thi hành đúng vai tṛ riêng của ḿnh. Muốn xây dựng cộng đoàn “hiệp thông để truyền giáo” và “truyền giáo bằng hiệp thông”, người ta cần phải nh́n nhận, phát triển và sử dụng hiệu quả đoàn sủng của mỗi thành phần trong Giáo Hội. Cách riêng, cần cổ vơ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các người tận hiến trong việc lập kế hoạch mục vụ và quyết định, thông qua các cơ chế mang tính tham gia như Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Nghị Giáo Xứ.

“Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội. Thế nên, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hăy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo, cảm nhận được ḿnh là một thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa. Cùng với giáo dân lập kế hoạch mục vụ, điều đó phải trở thành một nét sinh hoạt b́nh thường của mọi giáo xứ. Thượng Hội Đồng lưu ư đặc biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà “giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác…” Không ai bị loại trừ một cách tiên thiên không cho tham gia trọn vẹn vào sinh hoạt và sứ mạng của giáo xứ chỉ v́ gốc gác xă hội, kinh tế, chính trị, văn hóa hay giáo dục. Nếu mỗi môn đệ Chúa Ki-tô đều có cái để cống hiến cho cộng đoàn, th́ cộng đoàn cũng phải tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng sự cống hiến ấy (3).

 

1.4 Sự liên đới giữa các Giáo Hội.

“Sự hiệp thông nội bộ trên đây sẽ giúp góp phần xây dựng sự liên đới giữa các Giáo Hội địa phương. Quan tâm tới các nhu cầu tại chỗ là điều hợp t́nh hợp lư và cần thiết, nhưng v́ sự hiệp thông, các Giáo Hội địa phương vẫn phải cởi mở tiếp nhận nhau và cộng tác với nhau, để dù dị biệt, các Giáo Hội ấy vẫn cho thấy và bảo vệ được mối hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu. Muốn hiệp thông th́ phải hiểu nhau và có sự phối hợp trong việc thi hành sứ mạng, mà vẫn không làm hại tới sự tự trị và quyền lợi của mỗi Giáo Hội đúng theo truyền thống của Giáo Hội ấy về thần học, phụng vụ và thiêng liêng” (4).

 

1. 5 Hiệp thông rất quan trọng đối với các Giáo Hội Á châu, nơi có nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa và nhiều tôn giáo lớn của nhân loại.

“Sống giữa nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo khác biệt nhau tại Châu Á, Giáo Hội phải là “Giáo Hội hiệp thông”. Đây là điều tối quan trọng, bởi v́ có Hội Thánh đích thực th́ Giáo Hội mới là bằng chứng để dân tộc Á châu thấy mà tin tưởng” “Một đ̣i hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Chúa Ki-tô là hễ ai hiệp thông với Chúa th́ phải sinh hoa kết quả: ”Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Như thế, thật là đúng khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, th́ ấy là người đă không sống trong sự hiệp thông: “Cành nào không sinh hoa trái th́ Cha Thầy sẽ tỉa đi” (Ga 15,2). Hiệp thông với Chúa Ki-tô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Ki-tô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Chúa Ki-tô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế th́ hiệp thông và truyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông” (5).

 

1.6 Sự liên đới với các tôn giáo.

“Dựa trên Thần học của sự hiệp thông, Công Đồng Va-ti-can II đă mô tả Giáo Hội là Dân Chúa đang hành hương, một dân mà không dân tộc nào không có liên hệ cách này hay cách khác. Trên cơ sở đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh mối liên hệ nhiệm mầu giữa Giáo Hội và tín đồ các tôn giáo khác của Châu Á, ghi nhận rằng các tín đồ ấy có liên hệ (với Giáo Hội) bằng nhiều cách và ở nhiều mức độ khác nhau. Giữa đông đảo các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau như thế, “càng thấy sống đời sống Giáo Hội như một sự hiệp thông quan trọng thế nào”. Thật ra, công tác phục vụ sự hiệp nhất do Giáo Hội thực hiện có một tầm quan trọng đặc biệt tại Châu Á, v́ tại đây có quá nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt về chủng tộc, xă hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo gây ra. Chính trong bối cảnh ấy các Giáo Hội địa phương ở Châu Á, hiệp thông với Đấng kế vị Thánh Phê-rô, cần cổ vũ sự hiệp thông nhiều hơn nữa trong tâm trí cũng như trong tâm hồn bằng sự cộng tác mật thiết hơn giữa các Giáo Hội với nhau. Một điều cũng quan trọng không kém đối với sứ mạng phúc âm hóa của họ là xây dựng các quan hệ với các Giáo Hội và các cộng đồng Ki-tô khác, cũng như với tín đồ các tôn giáo khác. Bởi đó, Thượng Hội Đồng nhắc lại sự dấn thân của Giáo Hội Á châu với công tác cải thiện các quan hệ đại kết cũng như sự đối thoại giữa các tôn giáo, v́ nh́n nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, nỡ lực ḥa giải, thiết lập các dây liên đới, xúc tiến sự đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và gầy dựng sự tin tưởng giữa các dân tộc, đó chính là những công việc vô cùng quan trọng để Giáo Hội thi hành sứ mạng phúc âm hóa trên châu lục này. Muốn vậy, toàn thể cộng đồng Công Giáo phải thành thật xét ḿnh, phải can đảm ḥa giải và tiếp tục dấn thân đối thoại. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba này, ai cũng thấy rơ là muốn có khả năng phúc âm hóa, Giáo Hội phải ra sức phục vụ cho sự nghiệp hiệp nhất ấy trong mọi chiều kích. Hiệp thông và truyền giáo phải đi đôi với nhau” (6).

...Xây dựng sự hiệp nhất, nỡ lực ḥa giải, thiết lập các dây liên đới, xúc tiến sự đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và gầy dựng sự tin tưởng giữa các dân tộc.

 

II. NGƯỜI & GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM SỐNG HIỆP THÔNG NHƯ THẾ NÀO?

“Chúa Giê-su đến gần nói với các môn đệ: "Thầy đă được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hăy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đă truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (6).

 

3. Chứng Tá của chính Chúa Giêsu Kitô:

Thật khó cho chúng ta nếu phải trả lời câu hỏi: “Người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sống hiệp thông như thế nào?” Nhưng lại không khó trả lời câu hỏi khác là “Hiệp thông có là điểm mạnh của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không?” Chúng ta không ngần ngại mà khẳng định rằng: hiệp thông chẳng những không phải là điểm mạnh mà trái lại c̣n là điểm yếu, thậm chí rất yếu của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam!

Chỉ cần thoáng nh́n vào thực tế, chúng ta sẽ thấy ngay điều này: trong đời sống của đại đa số giáo dân, của hầu hết các giáo xứ và các giáo phận cũng như của toàn Giáo Hội Việt Nam,

* việc cầu nguyện, chiêm niệm,
* sự tham gia hay đồng trách nhiệm trong cộng đoàn (7),
* việc dấn thân cho sự thăng tiến con người và xây dựng công lư,
* sự liên đới và hợp tác giữa các giáo xứ, giữa các giáo phận với nhau và giữa Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội trong vùng,
* sự đối thoại giữa Giáo Hội Việt Nam với anh chị em Tin Lành và với các tôn giáo và các nền văn hóa khác, đều là những điểm rất yếu trong nếp sống của người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hiện nay.

V́ chưng:
* Đối với đại đa số giáo dân Việt Nam, cầu nguyện vẫn chỉ là đọc kinh, lần chuỗi. Đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện chiêm niệm vẫn c̣n là những thực hành xa lạ đối với giáo dân.
* Trong giáo xứ, giáo phận, người giáo dân vẫn ở trong tư thế thụ động nhiều hơn là chủ động.
* Đức tin của người tín hữu Việt Nam vẫn thiếu chiều kích xă hội, chính trị, bênh vực công lư.
* Tinh thần cục bộ, t́nh trạng bất hợp tác, ít làm việc chung, phân hóa giữa các tầng lớp vẫn là những điểm nổi trội của người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
* Đại đa số giáo dân vẫn chưa hiểu biết đầy đủ và chưa có quan điểm đúng đắn của Công Đồng Va-ti-can II về các Giáo Hội Ki-tô anh em và về các tôn giáo không Ki-tô giáo. Hoàn cảnh xă hội lại không thuận lợi cho sự gặp gỡ, đối thoại, hợp tác giữa các tôn giáo.

 

THAY LỜI KẾT

Đúng như Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đă nói trong trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á (và đă được trích dẫn trong bài này):

“Phải có mới cho (8), phải có lửa mới chia lửa cho người khác được, phải sống sự hiệp thông mới truyền giáo được.”

Cũng đúng như như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đă nhận định trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á (và đă được trích dẫn trong bài này):

“Hễ ai hiệp thông với Chúa th́ phải sinh hoa kết quả… Như thế, thật là đúng khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, th́ ấy là người đă không sống trong sự hiệp thông.”

Vậy th́ hết mọi người Công Giáo Việt Nam, nhất là các Linh Mục và Giám Mục là những người có trọng trách lănh đạo, cần nh́n lại cách sống và cách giáo dục Đức Tin, cách tổ chức, xây dựng và điều hành Giáo xứ, giáo phận để Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng mà Chúa Giê-su đă giao cho Giáo Hội Việt Nam được thực hiện một cách đầy đủ hơn.

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Houston (TX/USA) ngày 28.09.2006



Ghi Chú :

(1) Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Người Ki-tô hữu Giáo Dân, số 32.

(2) Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 23.

(3) như trên, số 25.

(4) như trên, số 26.

(5) như trên, số 24.

(6) như trên, số 24.

(7) Đồng trách nhiệm có nghĩa là mọi thành phần Dân Chúa đều có một phần trách nhiệm chứ không có nghĩa là có trách nhiệm bằng nhau.

(8) Người La Mă xưa có thành ngữ: “Không ai cho cái ḿnh không có” (Nemo dat quod non habet).

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

Xem các bài viết khác trong Bài Viết của Anh Nguyễn văn Nội, khóa 6 GHHV, niên khoá 1963.