Ư NGHĨA CỦA KITÔ GIÁO
(THE MEANING OF CHRISTIANITY)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

MichelAnge

 

CHƯƠNG HAI

 

DÂN CHÚA

 

 

· CHÚA GIÊ-SU SỐNG TRONG CHÚNG TA

Chúa Giê-su đă chết, đă sống lại và đă sai Thánh Thần của Ngài đến “để qui tụ con cái Chúa đang tản mác khắp nơi” (Ga 11,52). Chúa Phục sinh đă ủy thác cho các tông đồ của Ngài mệnh lệnh: “Các con hăy đi….làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thày….và này, Thày hằng ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Ngài cũng đă cầu xin cho điều đó trong bữa ăn cuối cùng: “Con không chỉ cầu cho chúng, mà c̣n cho tất cả những ai tin ở con nhờ lời chúng, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chúng cũng ở trong chúng ta, hầu cho thế gian tin rằng Cha đă sai Con….Con trong chúng và Cha trong Con, để chúng được nên một” (Ga 17,20-23). “Con trong chúng”: Chúa Giê-su Phục sinh sống trong chúng ta và đổ tràn tâm hồn chúng ta Thánh Thần của Ngài. Đây là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho các tín hữu của giao ước mới: Ngài ban tặng chính Ngài. Như thế, chúng ta trở thành con cái Chúa, anh em của Chúa Giê-su và chi thể của Thân Thể Ngài và là Đền Thờ sống ộng của Chúa Thánh Thần. Sự Sống mới mà Đức Ki-tô và Thánh Thần ban cho chúng ta được thể hiện qua ḷng tin, ḷng cậy và ḷng mến.

 

· TIN

Đời sống Ki-tô hữu là một tương quan cá biệt với Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, phó thác cho Ngài hoàn toàn, tin ở lời Ngài, đó là những thái độ cơ bản của người Ki-tô hữu. Thánh Gio-an viết trong thư thứ nhất của Ngài như sau: “Chúng tôi biết và tin ở t́nh yêu của Thiên Chúa dành cho chúng tôi” (1 Ga 4,16). Chính Thiên Chúa nói với chúng ta qua lời nói, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa đang nói với chúng ta rằng “Hăy tin rằng Ta đang ở với con, con là người rất quan trọng đối với Ta. Hăy tin rằng sự sống của con sẽ không bao giờ mất nếu được kư thác cho Ta. Hăy tin rằng Ta là T́nh Yêu Bất Diệt”. Ngài hỏi chúng ta: “Con có tin Ta không?” Khi một người nào đó trả lời “Có”, người đó đă có đức tin. Người đó sẽ xây dựng cả cuộc sống của ḿnh trên lời nói và sự thủy chung của Chúa. Người đó sẽ đặt tất cả cuộc sống và cái chết của ḿnh trong tay Chúa. Đức tin không phải là một sự đón nhận một vài ư tưởng. Đó là một quyết định thay đổi cả cuộc sống của chúng ta. Một con người chỉ có thể quyết định như thế khi Thánh Thần chiếu rọi ánh sáng của Ngài vào trong đáy thẳm tâm hồn của người ấy. Chính Thánh Thần là Đấng làm cho người đó có thể nhận ra ánh sáng chiếu tỏa của T́nh Yêu Thiên Chúa nơi bộ mặt đầm đ́a máu me của Chúa Giê-su chịu đóng đinh (2 Cr 4,6). Người có tâm hồn được Thánh Thần tháp nhập vào Thiên Chúa sẽ như thể ḥa nhập với toàn thể các Ki-tô hữu của mọi thời đại. Không phải những cố gắng của con người làm cho những lời của Tin Mừng đánh động tâm hồn con người, mà chính là sự tác động của Thiên Chúa, Đấng “mở cửa tâm hồn chúng ta” (Cv 16,14).

Ơn Chúa rất khó đi vào tâm hồn của một con người kiêu ngạo, tự phụ, chỉ biết t́m vinh dự cho cá nhân, chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng tư hoặc cho rằng ḿnh “biết tất cả mọi sự”. Thánh Thần đi vào và lấp đầy tâm hồn những ai thành tâm ước muốn Chân Lư, những ai “khao khát điều công chính” (Mt 5,6). Chúa Giê-su nói với chúng ta: “Không ai có thể đến với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo người đó” và “Bất cứ ai nghe và học cùng Cha đều đến với Ta” (Ga 6,44-45). Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đức tin cũng đồng thời là một quyết định cá nhân của con người. Không ai bị cưỡng bách để tin vào Thiên Chúa do các phép lạ hoặc do sự cưỡng bách của Thánh Thần. Những dấu lạ chỉ bảo đảm với con người rằng quyết định chấp nhận Chúa Giê-su là một quyết định hợp lư. Nhưng người đó sẽ tin rằng ai là người đă thuyết phục ḿnh lao ḿnh vào cánh tay rộng mở của Thiên Chúa. Do đó, đức tin không ngừng bị cám dỗ. Có biết bao nhiêu điều xảy đến trong thế giới này xem ra đối nghịch lại với ḷng thiện hảo của Thiên Chúa. Nhưng khi một người được Chúa Giê-su Ki-tô làm cho “thuộc riêng về Ngài (Pl 3,12) và gắn bó với Ngài, th́ sẽ không có sức mạnh nào có thể tách ĺa người đó ra khỏi Ngài. Tin vào Chúa Giê-su, tin vào T́nh Yêu của Chúa Cha, tin vào cuộc Chiến Thắng cuối cùng của T́nh Yêu, dù cho bất cứ điều ǵ có xẩy ra, đó là lời tuyên xưng muôn thuở của một Ki-tô hữu đích thực.

Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đức tin cũng đồng thời là một quyết định cá nhân của con người. Không ai bị cưỡng bách để tin vào Thiên Chúa do các phép lạ hoặc do sự cưỡng bách của Thánh Thần. Những dấu lạ chỉ bảo đảm với con người rằng quyết định chấp nhận Chúa Giê-su là một quyết định hợp lư.

Tin là hành động riêng biệt của mỗi tín hữu, nhưng người tín hữu không cô độc trong niềm tin của ḿnh. Từ thời Thánh Phê-rô và Phao-lô, qua mọi thời đại cho đến ngày tận thế, vô số các Ki-tô hữu đều đi trên cùng một cuộc lữ hành. Họ không chỉ nói “tôi tin” mà nói “chúng tôi tin”. Hai tiếng “chúng tôi” rung động trong tâm hồn của triệu triệu anh chị em trong cùng một niềm tin thuộc mọi lục địa. Chúng ta tin cùng một Thiên Chúa, một Đức Ki-tô, một Chúa Thánh Thần. Chúng ta đứng vững trên đá tảng vững chắc là ḷng chung thủy của Thiên Chúa. Chúng ta đă cùng t́m thấy ch́a khóa mở ra ư nghĩa của toàn thể vụ trụ. Lời Chúa mà chúng ta đă lănh nhận trong đức tin không phải là một mớ những lời tuyên bố được liên kết lại với nhau mà không có một ḥa hợp nội tại nào hoặc hoàn toàn xa lạ với đời sống cụ thể. Tất cả tạo thành một toàn thể và chiếu rọi ánh sáng vào toàn tể cuộc sống. Điểm qui chiếu ấy có thể được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau, nhưng luôn luôn qui về một điều. Chính Chúa Giê-su đă diễn tả điều đó như sau: “Nước Chúa đă gần đến”. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều đó như sau: “Chúa Giê-su, Chúa chúng ta đă bị giết v́ tội lỗi chúng ta và đă sống lại v́ sự công chính của chúng ta” (Rm 4,25). Thánh Gio-an nói với chúng ta: “Thiên Chúa là T́nh Yêu và ai ở trong T́nh Yêu th́ ở trong Thiên Chúa” (1 Ga 4,16). Thánh nhân cũng đă nói: “Ngài đă không bị phán xét, nhưng đă đi từ cơi chết đến sự sống” (Ga 5,24). Công đồng Va-ti-can II đă dùng công thức như sau: “Thiên Chúa ở với chúng ta. Ngài giải phóng chúng ta khỏi bóng đêm của tội lỗi và sự chết và làm cho chúng ta sống lại trong sự sống vĩnh cửu”. Trong kinh Tin Kính, chúng ta lập lại lời tuyên xưng của các tông đồ: “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành vũ trụ. Tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng tôi, Đấng đă hóa thân làm người v́ chúng tôi, đă chết và đă sống lại từ cơi chết. Tôi tin Chúa Thánh Thần. Tôi tin Giáo hội, tôi tin ơn tha tội, tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu”. Lời tuyên xưng ấy cũng có thể được diễn tả như sau: khi sai Con Một Ngài là Đức Giê-su Ki-tô và Thánh Thần, Thiên Chúa là Cha đă tự trao ban cho chúng ta để chúng ta có thể tin ở T́nh Yêu của Ngài, yêu thương Ngài bằng cách thế Ngài yêu thương chúng ta và nhờ Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta có thể chia sẻ sự sống vĩnh cửu trong Đức Giê-su Ki-tô.

 

· YÊU

Khi một người tin với tất cả xác tín, t́nh yêu của Thiên Chúa sẽ tuôn đổ trong tâm hồn người đó như một kết quả tự nhiên của đức tin. Trong thư viết cho giáo đoàn Ga-lát, Thánh Phao-lô đă nói rằng chỉ có đức tin là đáng tin “đức tin hoạt động bằng t́nh yêu” (Gl 5,6). Một T́nh yêu đích thực phát sinh từ đức tin. Gần như không thể diễn tả điều đó bằng lời nói. Chỉ có những ai cảm nghiệm được điều đó mới biết mà thôi. Nếu có ai hỏi thế nào là yêu bằng t́nh yêu đích thực, cách tốt nhất là chỉ cho người đó Chúa Giê-su, cuộc sống và cái chết của Ngài. Đó là tất cả câu trả lời. T́nh yêu đích thực là được kết hợp với quả tim của Chúa Cha, với Thiên Chúa Đấng yêu thương bằng một t́nh yêu vô biên. “Nếu Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta dường ấy, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,11). Chúng ta phải yêu thương bằng tất cả tâm hồn chúng ta, bằng những hành động cụ tể chứ không phải bằng những lời nói xuông. Chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống ḿnh v́ tha nhân. T́nh yêu đích thực không loại trừ một người nào, kể cả kẻ thù của chúng ta. Kẻ yêu thương thực sự sẽ đau khổ v́ ḷng gian ác của người xấu, nhưng không phải v́ thế mà thù ghét họ. Yêu thương đích thực là phải làm điều thiện và khao khát hạnh phúc ngay cho kẻ thù của ḿnh. Một t́nh yêu vô điều kiện như thế, con người không thể có được duy với những cố gắng riêng của ḿnh. Con người yêu thương đích thực là khi được Thánh Thần hướng dẫn, người đó tin rằng Chúa Giê-su “đă yêu thương tôi và phó mạng v́ tôi” (Gl 2,20) và rằng Ngài yêu thương tất cả mọi người đều là anh em của tôi (1 Cr 8,11). Chúng ta chỉ yêu thương thực sự khi t́nh yêu của Thiên Chúa được đổ tràn trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đă được thông ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Kẻ không được Đức Ki-tô và Thánh Thần ngự trị trong ḷng sẽ ganh tỵ, thù ghét người khác và vui thích khi thấy người khác gặp điều bất hạnh. Người đó chỉ xử dụng kẻ khác như phương tiện để đạt được quyền lợi và lạc thú riêng của ḿnh. Tham vọng riêng cuả người đó sẽ chiếm lấy tất cả sự chú ư của người đó. Người đó sẽ không thể nh́n thấy nước mắt nơi người anh em của ḿnh. Người đó không quan tâm đến đau khổ của người khác. Nếu chỉ “mắt đền mắt, răng đền răng” hoặc không phải sát hại kẻ đă bẻ răng hoặc móc mắt ḿnh, th́ đă là một điều cả thể rồi. Để yêu thương kẻ khác như Chúa Giê-su dă yêu thương, điều đó chỉ có thể có được khi Thánh Thần thấm nhập sâu đậm toàn thể con người chúng ta. Không ai có te mô tả T́nh yêu ấy một cách tuyệt hảo như Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất Ngài gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “T́nh yêu th́ nhẫn nhục và từ ái. T́nh yêu không ganh tỵ hay khoe khoang, không kiêu hănh hay thô lỗ. T́nh yêu không tham lam, không t́m tư lợi, không giận dữ, không mưu mô gian ác. T́nh Yêu tha thứ mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự” (1 Cr 13,4-7). Trong thư gửi các tín hữu Ga-lát, Thánh nhân cũng viết như sau: “Hoa quả của Thánh Thần là yêu thương, vui tươi, b́nh an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung trực” (Gl 15,22). T́nh yêu đích thực làm cho con người vui vẻ thực thi mọi giới răn của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đă có lư khi nói: “Các giới răn ‘ngươi chớ phạm tội ngoại t́nh, ngươi chớ giết người, ngươi chớ trộm cắp, ngươi chớ làm chứng gian’ hay bất cứ giới răn nào, tất cả đều được tóm gọn trong một giới ran duy nhất là yêu thương hay đúng hơn một cuộc sống yêu thương.

Không có sợi giây liên kết nào vững chắc hơn t́nh yêu. Tuy nhiên, yêu thương không phải là một cưỡng bách. Không có phục vụ nào mà không là phục vụ v́ yêu thương. Tuy nhiên yêu thương lại chính là tự do hoàn hảo. Không có nỗi đau khổ nào lớn hơn đau khổ v́ yêu. Tuy nhiên yêu thương là niềm vui cao cả nhất. Không ǵ làm cho con người bị tổn thương cho bằng t́nh yêu. Nhưng không có sức mạnh nào mănh liệt hơn t́nh yêu. Phân tích cho đến tận cùng, chỉ có t́nh yêu là đáng kể. Bởi v́ t́nh yêu là sự sống vĩnh cửu.

 

· HY VỌNG

Niềm hy vọng của người tín hữu Ki-tô không ǵ khác hơn là xác tín vững mạnh rằng t́nh yêu là vĩnh cửu. Nền tảng của niềm hy vọng Ki-tô giáo chính là niềm tin của chúng ta vào t́nh yêu của Thiên Chúa và sự phục sinh của Đức Ki-tô. Bởi v́ Thiên Chúa là t́nh yêu và bởi v́ Đức Ki-tô đă sống lại, chúng ta biết rằng không có ǵ là vô ích, rằng sự sống vĩnh cửu đă bắt đầu, rằng t́nh yêu mạnh hơn sự chết. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng chung thủy sẽ tác tạo một trời mới và một đất mới. Hoa trái của mỗi hạt giống được Thánh Thần gieo trồng sẽ được mặt trời làm cho chín mùi. Chúng ta biết rằng khi sống và hoạt động cho công lư, tự do và t́nh thương trên trái đất này, một cách nhiệm mầu, chúng ta đang chuẩn bị cho một cộng đồng huynh đệ sẽ được thực hiện trong nước vĩnh cửu của Chúa. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Qua chúng ta, Ngài đang hướng dẫn thế giới thụ tạo của Ngài đến một t́nh trạng hoàn hảo chung cục. Chúng ta tin rằng sống cũng nhu chết, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng v́ yêu thương kẻ khác trong Chúa, cho nên dầu có chết, chúng ta vẫn sẽ sống măi. Đó là niềm hy vọng của chúng ta và “niềm hy vọng này không lừa dối chúng ta” (Rm 5,5), bởi v́ nó được xây dựng trên ḷng thủy chung của Thiên Chúa, trên sự sống lại của Đức Ki-tô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hỵ vọng cũng giống như một ánh lửa nhỏ bé của một ngọn đèn nhỏ, nhưng được nuôi dưỡng bởi dầu của Thánh Thần. Bóng đêm của thế giới xung quanh chúng ta không thể dập tắt được nó. Cho dẫu bóng đêm ấy có bao la đến đâu, nhưng nếu chạm đến ánh sáng bé nhỏ ấy, nó sẽ trở thành như không. Ánh sáng mạnh hơn bóng tối bội phần. Niềm hy vọng ấy là ánh sáng kỳ diệu. Không có thất vọng, không có thất bại nào có thể dập tắt được ánh sáng ấy. Niềm hy vọng ấy được bảo toàn và nuôi dưỡng qua mọi thời đại bằng một sức mạnh vô biên: sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa.

 

· GIÁO HỘI

Tin, cậy, mến: liên kết trong một niềm tin, chiếu sáng bằng t́nh yêu hỗ tương, yêu thương mọi người, hy vọng rằng chúng ta sẽ về đến nhà Cha: đó là tâm t́nh chung của tất cả những ai thuộc vể gia đ́nh Thiên Chúa. Ngay từ khởi đầu, Ki-tô giáo đă được thiết lập thành những cộng đoàn nhỏ của tin, cậy, mến. Và đó là kết quả của lời rao giảng của các tông đồ. Mỗi một cộng đoàn nhỏ này tự gọi là “Giáo hội của Đức Ki-tô”. Danh từ Giáo hội xuất phát từ một tiếng Hy Lạp có nghĩa là tập họp, qui tụ. Giáo hội của Đức Ki-tô là một cộng đoàn những người tin Đức Ki-tô, được qui tụ và sinh động bởi Thánh Thần. Đầu của Giáo hội là Đức Ki-tô và các tín hữu là chi thể của Thân Thể Ngài, được liên kết với Đầu là Đức Ki-tô (1 Cr 12,13).

Đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đức tin cũng đồng thời là một quyết định cá nhân của con người. Không ai bị cưỡng bách để tin vào Thiên Chúa do các phép lạ hoặc do sự cưỡng bách của Thánh Thần. Những dấu lạ chỉ bảo đảm với con người rằng quyết định chấp nhận Chúa Giê-su là một quyết định hợp lư.

Cũng chính Thánh Thần đó thúc đẩy mỗi người theo một cách thế riêng. Chính Thánh Thần là mối giây liên kết của cộng đoàn. Giáo hội là Dân Mới của Chúa. Dân được tuyển chọn không c̣n là một chủng tộc đặc biệt như thời Cựu Ước nữa. Giờ đây, dân này được qui tụ từ mọi dân mọi nước trên thế giới, được liên kết trong đức tin. Đây là thành quả của cái chết cứu độ của Đức Ki-tô và là ân sủng của Thánh Thần. Mỗi một phần tử của Giáo hội là con Chúa. Mỗi người đều tự do và b́nh đẳng trong phẩm gía làm người tín hữu Ki-tô trước mặt Chúa. Hiến pháp của Dân Mới này là giới răn của Đức Ki-tô: “Các con hăy yêu thương nhau nhuu Ta đă yêu các con”. Giáo hội tràn lan khắp mặt đất. Giáo hội được hiện thực nơi nào có các Ki-tô hữu tụ họp lại để lắng nghe Lời Chúa, để tưởng niệm bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê-su, để cùng nhau tuyên xưng niềm tin của họ, để nuôi dưỡng t́nh yêu của họ và để thắp sáng lên niềm hy vọng của họ. Dù cộng đoàn có nhỏ bé hay nghèo nàn đến đâu, Đức Ki-tô vẫn hiện diện trong đó và Giáo hội của Ngài cũng hiện diện trong đó. Chính Đức Ki-tô đă nói: “Ở đâu có hai hoặc ba người họp nhau lại v́ Danh Ta, th́ có Ta ở giữa họ (Mt 18,20).

 

· THÁNH TRUYỀN VÀ THÁNH KINH

Việc rao giảng Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô là điều qui tụ con người lại trong Giáo hội. Đó là lư do tại sao, ngay từ đầu, Giáo hội đă quan tâm một cách đặc biệt để bảo toàn và lưu truyền toàn vẹn lời giảng dạy của Đức Ki-tô được ủy thác cho ḿnh (1 Tm 6,20). Chính nhờ đó mà “truyền thống của các tông đồ” được giữ ǵn một cách sống động từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống này hay Thánh Truyền bắt nguồn từ chính Chúa Giê-su. Nó được xây dựng trên sự giảng dạy và lời rao giảng của các tông đồ. Giống như một gịng suối tuôn trào, nó chẩy xuyên qua các thế hệ dưới sự đẩy mạnh của Chúa Thánh Thần là Đấng ǵn giữ Giáo hội được sống động. Nó được biểu lộ trong toàn thể cuộc sống, lời cầu nguyện và giảng dạy của Giáo hội. Tuy nhiên, ư Chúa muốn rằng cái cốt lơi của Tin Mừng không chỉ được ǵn giữ một cách sống động qua lời nói, mà c̣n phải được ghi lại bằng chữ viết nữa. Dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, một số người được Thiên Chúa tuyển chọn để ghi lại thành văn tự. Các lời ghi chép ấy được gọi là Tân Ước. Dân Do Thái cũng đă có riêng một sưu t6ạp các bài ghi chép do Thánh Thần linh ứng và họ xem đó như thẩm quyền tối cao nhất trong việc hướng dẫn cuộc sống của họ. Chính Chúa Giê-su cũng xem những lời ghi chép đó như được Thánh Thần linh ứng (Mt 22,43; Lc 22,37). Nhưng đối với Chúa Giê-su, những lời ghi chép đó chưa phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nhiều điều trong sưu tập của người Do Thái chưa được hoàn hảo. Chúng chỉ có một ư nghĩa có tính cách tạm thời. Cũng có những phần trong Thánh Kinh, theo Chúa Giê-su, vẫn c̣n phản ánh sự cứng cỏi của trái tim con người (Mt 19,8). Đó là lư do tại sao Ngài đặt lời giảng dạy của riêng Ngài đối nghịch lại với những qui định đă được “ủy thác cho các tiền nhân” (Mt 5,21-42). Dưới ánh sáng của giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, giao ước của Mô-sê trở thành “Cựu Ước” và những lời ghi chép lại giao ước cũ ấy là Cựu Ước, “Lời nói cuối cùng của Thiên Chúa, lời Ngôi Lời Nhập Thể: chính là Đức Giê-su Ki-tô (Dt 1,2). Cũng một cách thế, những cuốn sách của Tân Ước, tức những cuốn sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giê-su, là tuyệt đỉnh và đồng thời là ch́a khóa giúp hiểu toàn bộ Thánh Kinh. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội nh́n nhận những cuốn sách sau đây như là thành phần của Tân Ước: đó là bốn quyển Sách Tin Mừng, Sách Công vụ Tông đồ, 24 thư của các Tông đồ, đa số là của Thánh Phao-lô và Sách Khải Huyền. Cũng như một người thích thưởng thức âm nhạc có thể nhận ra tức khắc tác phẩm của một nhạc sĩ đại tài, cũng thế, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhận ra trong những tác phẩm này tiếng nói của Phu Quân ḿnh.

Toàn bộ Thánh Kinh, gồm có Cựu Ước và Tân Ước, là một kho tàng vô gía của Giáo hội. Trong hai ngàn năm qua, Thánh Kinh đă được sao chép và in ra không biết bao nhiêu lần. Thánh Kinh đă được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Ngay cả ngày nay, Thánh Kinh vẫn là Quyển Sách được đọc nhiều nhất. Ngay cả trong một quốc gia như Nhật Bản với đa số dân chúng không phải là Ki-tô hữu, Thánh Kinh vẫn được bán mỗi năm 3 triệu ấn bản.

Mặc dù đă được viết từ hai ngàn năm, Thánh Kinh vẫn măi măi mới mẻ. Đối với vô số người ngày nay, Thánh Kinh là ánh sáng chiếu soi họ trong cuộc lữ hành trần gian và là nguồn an ủi và vui tươi của họ. Đĩ nhiên, Thánh Kinh không nên được xem là một quyển sách lịch sử. Nó là một quyển sách tôn giáo. Với những hiểu biết hạn hẹp về khoa học tự nhiên, các tác gỉa Thánh Kinh suy nghĩ và viết theo sự hiểu biết của thời đại của họ. Nhưng trong những ǵ liên quan đến sự gặp gỡ với Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của chúng ta, họ là các hướng đạo bảo đảm nhất. Xuyên suốt qua Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với con cái của Ngài và Đức Ki-tô dạy dỗ anh em của Ngài. Trong Thánh Kinh, mỗi người có thể t́m thấy con đường của tin, cậy, mến là con đường dẫn đến sự sống vĩnh viễn.

 

Tác giả: Lm Phêrô Nemeshegyi, S.J.

Người dịch: Lm Gioakim Đoàn Sĩ Thục.

Người hiệu đính và giới thiệu: Ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.