MỤC VỤ VĂN HÓA
GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

 

 

 

CHƯƠNG 8

 

 

GIỚI THIỆU SÁCH
« VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN »

VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN
Của Ban Báo Giáo xứ
Do Giáo Xứ Việt Nam xuất bản
Paris, 2004 ; 640 trang, 20 euros

gxvnparis

 

Có 4 lư do để bất kỳ người việt nam nào cũng nên đọc cuốn sách thứ 13[ ] này của Ban Tu thư Giáo xứ Việt Nam Paris biên soạn, xuất bản và phát hành, cuốn VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN.

 

Bức tranh văn hoá việt nam

Lư do thứ nhất là v́ bất cứ người việt nam nào cũng gắn bó với văn hoá việt nam. Trong cuốn VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN, khung cảnh đầu tiên rất đẹp và rất cảm kích là bức tranh văn hoá việt nam, đă được Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh dùng ca dao tục ngữ hoạ lại với hai nét “Niềm tin và ḷng nhân trong Văn Hoá Việt Nam” : tin linh hồn, tin quỉ thần, yêu thương con người, tương nhượng những khác biệt, dung nạp các tôn giáo. Qua cái khung niềm tin và ḷng nhân này, ba nét độc đáo đặc biệt đă được tŕnh bày.

Với ba mầu rất nổi là ngôn ngữ, văn chương và triết lư, Luật sư Lê Đ́nh Thông và Bác sĩ Nguyễn Văn Ái đă vẽ nét thứ nhất và xác định rằng “Đất Việt là quê hương của đạo Trời“. Từ việc so sánh đối chiếu chữ “Trời“ trong ba nhóm ngôn ngữ Việt Hán, Latinh Pháp Ư Tây Ban Nha và Anh Mỹ Đức, luật sư Thông tóm lược đạo Trời trong văn học, từ văn học dân gian đến văn chương bác học, rồi rảo qua triết học đối chiếu Khổng Mạnh, để bàn về từ đạo Trời đến đạo Thiên Chúa và t́m cách dung hợp văn hoá để loan báo tin mừng. Bác sĩ Ái th́ phân tích “Chữ Trời trong một số cổ thi quốc âm Việt Nam”, của những tác giả như Nguyễn Trăi, Nguyễn bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Tế Xương, Chu Mạnh Trinh, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du và đặc biệt là Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc.

Nét nổi thứ hai của văn hoá việt nam đă được Ông Bà B́nh Huyên tŕnh bày qua bài “Đức Hiếu Thảo“. Mở đầu, hai tác giả giới thiệu Dạo Hiếu của người việt nam về mặt văn hoá, với ảnh hưởng của tam giáo và việc thực hành đạo hiếu qua các giai cấp xă hội hoặc những đ̣i hỏi hay tự nguyện khác nhau. Tiếp đó Đạo Hiếu trong Công Giáo đă đươc giới thiệu với những nét nền tảng của Thánh kinh, những giáo huấn căn bản của Giáo Hội và qua tác phẩm chính yếu việt nam “Hiếu Tự Ca“ của Cụ Sáu Trần Lục. Rồi đi đến kết luận rằng người công giáo đă và đang củng cố và nâng cao chữ Hiếu của Việt Nam.

Nét nổi thứ ba của văn hoá việt nam là “Tôn kính Tổ Tiên”. Để mở lời tŕnh bày đề tài này, Linh Mục Mai Đức Vinh đẵ xác định ngay từ đầu rằng : “Tôn kính Tổ Tiên đă có lâu đời ở Việt Nam. Và đây là một điểm son của nền văn hoá tâm linh của dân tộc. Nó mang nhiều ư nghĩa thiêng liêng và với thời gian đă trở thành tín ngưỡng cổ truyền của người Việt, người ta quen gọi là Đạo thờ Ông Bà. V́ thế, trước khi là Nho sĩ, Phật tử hay Kitô hữu, người Việt Nam, ai cũng mang tâm thức sâu đậm về việc tôn kính tổ tiên”. Qua 74 trang sách, đề tài đă được quảng diễn qua năm phần : 1- Những nét chính yếu về việc tôn kính tổ tiên theo truyền thống Việt Nam, 2- Tôn kính tổ tiên trong Thiên Chúa giáo, 3- Từ va chạm đến dung hoà, 4- Tôn kính tổ tiên của người công giáo việt nam hiện nay tại quê nhà và ở hải ngoại, 5- Tôn kính tổ tiên với việc sống đạo và truyền giáo hôm nay.

 

Bối cảnh các tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo đă du nhập vào Việt Nam

Lư do thứ hai khiến bất kỳ người việt nam nào cũng nên đọc VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN v́ ỡ đây họ t́m thấy một phân tích sâu sắc và độc đáo về bối cảnh các tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo đă du nhập vào Việt Nam. Đây là bài viết của Linh Mục Mai Đức Vinh giới thiệu luận án tiến sĩ thần học của cụ Nguyễn Huy Lai, tŕnh tại Đại Học Công Giáo Paris vào mùa hè năm 1979 dưới tựa đề «La tradition religieuse spirituelle sociale au Vietnam » (Truyền thống Tôn Giáo Tâm Linh Xă Hội tại Việt Nam). Luận án này đă được Nhà xuất bản Beauchesne Paris phát hành, năm 1981, dày 530 trang.

Cha Vinh trước nhất đă tóm lược tổng quát 7 chương của luận án : 1- Các tín ngưỡng cổ thời, 2- Khổng giáo, 3-Lăo giáo, 4- Phật giáo, 5- Đạo Cao Đài và Đạo Hoà Hảo, 6- Kitô giáo hay lịch sử của Giáo Hội Việt Nam và 7- Đối chiếu các tín ngưỡng và các tôn giáo ở Việt Nam với Kitô giáo.

Sau đó, cha Vinh đặc biệt giới thiệu công tŕnh của Tiến Sĩ Lai qua chương 7 của luận án, tŕnh bày « Đối chiếu các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ». 1- Từ một nhận định chung của Giáo Hội, theo đó, ai cũng vấn nạn tại sao số người Việt Nam trở lại đạo Công Giáo không ngừng gia tăng và trong đó, Giáo hội vẫn giữ thái độ kính trọng văn hoá việt nam, 2- Tiến sĩ Lai đă phân tích bản tuyên ngôn « Nostra aetae » về những liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. 3- Sau đó, ông phân tích các giá trị tiền Kitô giáo của các tín ngưỡng cổ thời : đạo thờ Trời, đạo thờ cúng tổ tiên. 4-Rồi các giá trị tiền Kitô giáo của đạo Khổng : nhân và nghĩa. 5- Các giá trị tiền Kitô giáo của đạo Lăo : đức khiêm nhường, đức khó nghèo. 6- Các giá trị tiền Kitô giáo của đạo Phật : đức từ bi, đức bác ái. 7- Ta là đường, chân lư và sự sống. Đó là nguyên tắc căn bản để đối thoại liên tôn, trong khiêm tốn và hoà giải, với t́nh yêu.

Cùng một chiều hướng là t́m hiểu các tôn giáo ở Việt Nam, Luật sư Nguyễn Thị Hảo giớí hạn đề tài vào « Đức tin công giáo và Niềm tin phật giáo ». Sau khi đă tŕnh bày tổng quát về đức tin công giáo và niềm tin phật giáo, Luật sư Hảo đă so sánh những khác biệt của chúng qua 7 khía cạnh : về bản chất của các Đấng sáng lập Đạo, Về Thiên Chúa và sự tạo dựng vũ trụ, về ân sủng và t́nh yêu của Thiên Chúa, về sự tôn thờ Đấng sáng lập Đạo, về ḷng bác ái, về Hữu ngă và vô ngă và về Thiên đàng và Niết bàn. Tiếp nối so sánh của Luật sư Hảo, Linh Mục Mai đức Vinh đặt vấn nạn « Đạo nào cũng giống nhau ? » và đặc biệt đối chiếu Phật giáo và Công giáo qua ba đề tài : Đấng sáng lập Đạo, niềm tin và sống đạo, để đặt vấn đề « Phật giáo là tôn giáo ? ». Có ư kiến thuận, có ư kiến nghịch. Đây là một vấn đề tế nhị với người Việt Nam. Và trong đời sống cụ thể hằng ngày, chúng ta nên « Kính trọng và đối thoại nhưng kiên vững sống đức tin ».

 

Vài h́nh thức cụ thể mà Công Giáo đang hội nhập và đóng góp vào văn hoá việt nam

Những sự kiện Hội nhập và Đóng góp lớn của người công giáo việt nam vào văn hoá việt nam th́ ai cũng đă thấy : việc các linh mục truyền giáo và đặc biệt cha Đắc Lộ học và nói tiếng việt thông thạo, hoà ḿnh theo tập tục việt nam, đưa nghệ thuật dân gian vào tôn giáo, tổ chức các lễ hội công giáo và nhất là việc sáng chế ra chữ quốc ngữ bằng cách dùng mẫu tự latinh để phiên âm tiếng việt. VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN khiêm tốn giới thiệu bốn h́nh thức cụ thể, qua đó Công Giáo đang hội nhập và đóng góp vào văn hoá việt nam : thánh ca, âm nhạc, thơ và báo chí. Đây là lư do thứ ba khiến mọi người việt nên đọc cuốn sách.

Là một trong những người chứng kiến và tham gia sự khởi xuất của phong trào hát tiếng việt từ những năm 1940-1945 với nhóm những nhạc sĩ như Hoàng Quí, Phạm Đ́nh Chương, Lưu Hữu Phước, nhạc sĩ Nguyễn Khắc Xuyên, cùng với Hùng Lân, Thiên Phụng, TâmBảo là những người đầu tiên sáng lập Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh và dùng tiếng việt để sáng tác thánh ca, đưa tiếng việt vào phụng vụ công giáo. Qua bài « Hội nhập văn hoá qua thánh ca việt nam », nhạc sĩ Nguyễn Khắc Xuyên, bút hiệu Hồng Nhuệ, đă mô tả kinh nghiệm sống của ḿnh trong việc hội nhập văn hoá việt nam và đức tin công giáo, trong lănh vực âm nhạc. Theo nhạc sĩ Xuyên, « việc hội nhập văn hoá qua thánh ca có thể được thể hiện qua ba trường hợp chính yếu : ngắm 15 sự thương khó hay ngắm đứng, các cung kinh sách và văn dâng hoa ». Và yếu tố thứ tư đă góp phấn hội nhập văn hoá qua thánh ca là thánh nhạc mà những người tiên phong là các nhạc sĩ trong nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh.

Cũng trong chiều hướng kinh nghiệm sống hội nhập đức tin và văn hoá, qua bài « Âm nhạc cổ truyền việt nam trong phụng vụ công giáo », giáo sư Phương Oanh bày tỏ nỗi rung cảm « Tiếng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn nhị hoà với tiếng vĩ cầm, đại hồ cầm trong các bài thánh ca được viết trên âm giai ngũ cung đă tạo nên một khung cảnh rất đặc biệt và đă được tất cả cộng đoàn các nước có mặt khen ngợi », trong ngày lễ phong hiển thánh cho 117 vị thánh tử đạo việt nam, tại Rôma năm 1988 ; Và « tha thiết mong ước nhạc cụ dân tộc sẽ được nhiều người chiếu cố học hỏi » .

Là một toát yếu văn học sử công giáo việt nam, bài « Đóng góp của thơ công giáo vào việc truyền bá tin mừng » của Thầy sáu Phạm bá Nha đă giới thiệu các thi sĩ công giáo việt nam qua tiến tŕnh ba giai đoạn. Giai đoạn khởi đầu từ thế kỷ XVII, với : Thầy giảng Phanxicô, công chúa Catarina, Giáo sĩ Lữ Y Đoan, Linh mục Đặng đức Tuấn, Danh sĩ Phạm trạch Thiện, Linh mục Philiphê Rosario Bỉnh, Thánh linh mục Philiphê Phan Văn Minh, ..và hai tác phẩm khuyết danh : Tập thơ Inê tử đạo văn và Kịch ông thánh Lư Mỹ tử đạo. Giai đoạn các thi sĩ tiên phong, từ thế kỷ XIX, với : Cụ Sáu Trần Lục, Giám mục Nguyễn Bá Ṭng, Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn, Nhiều tác giả trong Tuần báo Nam Kỳ Địa phận (1908-1945),Thi sĩ Hàn Mạc Tử. Giai đoạn các thi sĩ mới đương thời, với Linh Mục Lê Xuân Mầng, Vân Uyên, Xuân Ly Băng, Minh Châu, Phương Du Nguyễn Bá Hậu, Linh Mục Cao Vĩnh Phan, Linh Mục Vơ Thanh Tâm, Linh Mục Đinh Đồng Thượng Sách, Lê Ngọc Hồ, Nguyễn Tầm Thường, Trăng Thập Tự.

Công việc cụ thể thứ tư mà bgười công giáo đang đóng góp vào Văn hoá việt nam là báo chí. Qua bà́ « Thư mục Báo chí Công giáo Việt nam 1908-2003», Linh muc Trần Anh Dũng đă tiết lộ rằng đây « là một công tŕnh biên soạn khiêm tốn chào mừng sinh nhật lần thứ 20 : "Báo Giáo Xứ Việt Nam–Paris" (1984-2004). Công việc nghiên cứu không nguyên giới hạn ghi nhận tính liên tục của những tờ bản tin, đặc san hay báo chí do Giáo Xứ Việt Nam-Paris ấn hành; nhưng c̣n mang hoài băo thống kê sự hiện diện và phát triển của nền "Báo Chí Công Giáo Việt Nam" trong suốt một trăm năm qua tại quốc nội cũng như hải ngoại kể từ số 1 phát hành đầu tiên của "Tuần Báo Nam Kỳ Địa Phận" ngày 26-11-1908 cho đến hôm nay. Cho dầu hoài băo không quá lớn lao vĩ đại, nhưng khoảng cách không gian và thiếu sót tài liệu vẫn là trở ngại cho công việc sưu tầm biên khảo. Cầu mong được bổ khuyết, góp ư xây dựng để lần tái bản được thập phần viên măn ». Với một cố gắng liên tục và công phu, Cha Dũng đă sưu tầm được tất cả 179 tờ báo công giáo việt nam phát hành trong suốt 100 năm qua, từ 1908 đến 2003.

 

Văn hoá việt nam được trồng vun trong một xứ đạo công giáo, Giáo Xứ Paris

Đức Tin Công Giáo và Văn hoá Việt Nam cuốn quyện vào nhau trong cuộc sống thường ngày của một cộng đoàn việt nam ở hải ngoại. Đó là chủ đề mà Giáo Sư Trần Văn Cảnh đă tŕnh bày qua bài « Cây Văn hoá Việt nam trồng tại giáo xứ Paris » để giới thiệu một sự nhập thể của Đức Tin Công Giáo vào Văn Hoá Việt Nam, qua 131 trang. Đó cũng là lư do thứ tư khiến mọi người việt nam, lương cũng như giáo, đạo cũng như đời, bênh hay chống công giáo, nên t́m đọc cuốn VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN để thấy một cách cụ thể sự đối thoại, hội nhập, cộng tác và xây dựng chung giữa Văn Hoá Việt Nam và Đức Tin Công Giáo, trong cuộc sống hằng ngày.

Qua lời kết, Giáo Sư Cảnh đă tóm tắt rằng : « Một sinh vật được tồn sinh theo những yếu tố di truyền mà nó đă lănh nhận từ ḍng giống, và được phát triển theo những yếu tố môi trường nơi nó cư ngụ. Cái biểu lộ tổng hợp xă hội của hai yếu tố di truyền và môi trường đó gọi là văn hóa. Cái biểu lộ tổng hợp xă hội của những thành quả và sáng chế dụng cụ của hai yếu tố đó gọi là văn minh. Văn hóa được biểu lộ nhiều ở tính t́nh, cách sống và sinh hoạt của một xă hội. Văn minh được xác định bởi những dụng cụ, di vật, công tŕnh mà xă hội ấy sáng chế, sản xuất và xây dựng nên. Cây văn hóa Việt Nam trồng ở Giáo Xứ Paris có thể được họa với hai nét đậm, đỏ máu đức tin công giáo và vàng da văn hóa việt nam.

Người Việt Nam Công Giáo v́ là Việt Nam, bám sâu vào rễ Âu Lạc, Bách Việt và Tam Giáo, nên dù ở ngoại quốc cũng biết nói, đọc và viết tiếng việt, nặng t́nh huynh đệ giống ṇi rồng tiên, có tâm tính khoáng đạt siêu thoát, ưa cương thường hiếu thảo, v́ là Công Giáo, được đào luyện trong khung nhân bản, thuần lư và đức tin, nên khăng khít với Giáo Hội, trung thành với đức tin, sẵn sàng tham dự các hoạt động tông đồ.

Giáo Xứ Việt Nam Công Giáo ở Pháp và đặc biệt ở Paris, gặp một môi trường thuận lợi cho nên dẫu c̣n non trẻ, mà được đầy sức sống tươi mát, có một tổ chức trong sáng và dệt được những tương quan hữu ích. Đó là thân cây. Từ những rễ sâu và thân tốt này, cây văn hoá viêt nam trồng tại Giáo Xứ Paris đă trổ sinh nhiều cành rậm rạp.

Ở cành thứ nhất, trong các sinh hoạt xă hội hàng ngày, người công giáo việt nam paris vẫn thường gặp nhau luôn, trong các lễ hội chung đạo đời, qua các lễ giỗ tư sinh tử, và liên đới với nhau trong các ngành nghề.

Ở cành thứ hai, trong các sinh hoạt văn học, người công giáo việt nam ở Giáo Xứ Paris vẫn duy tŕ, trau dồi và bồi dưỡng những văn nghệ cổ truyền dân tộc, vẫn xây dựng được một hệ thống báo chí và mạng lưới tin học tiếng việt đáng chú ư ; vẫn tổ chức được những cuộc thuyết tŕnh thảo luận giá trị, đă bắt đầu kiến tạo được một thư viện và một nhà xuất bản có tầm vóc nghiên cứu.

Ở cành thứ ba, trong các sinh hoạt giáo dục người công giáo việt nam ở Giáo Xứ Paris đă biết tạo cho ḿnh một hệ thống giáo dục gần như hoàn hảo, bao gồm giáo dục khởi đầu ở mọi lớp tuổi ấu, thiếu, sĩ, tráng, và giáo dục liên tục rộng mở ra cho nhiều lứa tuổI, cho mọi cấp bậc xă hội và trong nhiều lănh vực, đặc biệt là pháp văn, mục vụ và hôn nhân gia đ́nh.

Tương quan mật thiết giữa các nền văn hoá với đời sống đức tin và những đóng góp tạo h́nh quan trọng của người công giáo vào văn hoá việt nam

VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN càng đáng đươc người việt nam t́m đọc v́ nó đă được xây dựng với một cấu trúc đơn sơ và trong sáng qua hai tiếp cận hỗ tương bổ túc nhau. Tiếp cận nghiên cứu tŕnh bày tổng quát cái khung văn hoá tôn giáo việt nam ; phân tích cái bối cảnh các tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo đă du nhập vào Việt Nam, từ Phật, Lăo, khổng đến Công giáo. Tiếp cận cụ thể giới thiệu vài h́nh thức cụ thể của việc hội nhập đức tin công giáo và văn hoá việt nam ; mô tả các sinh hoạt hàng ngày của một cộng đoàn việt nam công giáo, trong đó văn hoá việt nam và đức tin công giáo cuốn quyện vào nhau với những đối thoại, bổ túc và xây dựng lẫn cho nhau cả về nhận thức lẫn tổ chức và ứng xử[ ].

VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN do nhiều tác giả cộng tác nhưng có một văn phong chung, rất nghiêm chỉnh và nhẹ nhàng, cô đọng mà dễ hiểu. Điều đó không có nghĩa là không có những sự sáng tạo phong phú đặc biệt, như giọng b́nh dị của một bà mẹ, uy đanh thép của một người cha, cách lư sự của một nhà luật, cung lư luận của một linh mục, tính cảm xúc của mơt thi sĩ, nét khách quan của một giáo sư.

VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN chắc hẳn sẽ làm giầu kiến thức và mở lối suy luận cho độc giả. Đó cũng là chủ đích của Ban Biên Tập, khi họ xác định trong lời mở rẳng họ “nằm ḷng giáo huấn của Giáo Hội về tương quan mật thiết giữa các nền văn hoá với đời sống đức tin và việc truyền bá đức tin” và họ “ư thức sâu đậm những đóng góp tạo h́nh của người công giáo việt nam vào văn hoá việt nam. Nếu từ thế kỷ X, Tam giáo đă đưa cho văn hoá việt nam một ch́a khoá văn học là chữ nho để đi vào văn hoá Á đông, th́ từ thế kỷ XIX, Công giáo đă t́m cho văn hoá việt nam một dụng cụ mới là chữ quốc ngữ, nhờ đó, văn hoá việt nam mở ra với văn hoá Âu Mỹ và văn hoá toàn cầu“.

 

Paris, ngày 03.05.2006
Trần Văn Cảnh

 


Ghi Chú

1- Cho đến tháng 5, 2007, 20 cuốn sách đă được Ban Tu thư biên soạn và Giáo Xứ xuất bản, phát hành. Đó là những cuốn sau đây :
1. Kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris 1947-1997; 1997
2. Giáo lư cho người trưởng thành ; 1997
3. Têrêxa vị thánh lớn của thời đại mới ; 1997
4. Hành trang sống thế kỷ XXI ; 1999
5. Chân phước giáo hoàng Gioan XXIII ; 2000
6. Đường vào t́nh yêu (chuẩn bị hôn nhân) ; 2000
7. Fatima, hoà b́nh – t́nh thương ; 2000
8. Tâm t́nh tuổi xuân (Hỏi để biết sống) ; 2001
9. Sống đức tin trong thiên kỷ mới ; 2001
10. Tân lịch sử Giáo Hội, cuốn 1 ; 2002
11. Tân lịch sử Giáo Hội, cuốn 2 ; 2003
12. Tân lịch sử Giáo Hội, cuốn 3 ; 2004
13. Văn hoá và Đức tin ; 2004
14. Kỷ niệm 20 năm tái bản báo Giáo Xứ Việt Nam 1984-2004, Giáo Xứ Việt Nam số đặc biệt, 200, 01.02.2004
15. Tân lịch sử Giáo Hội, cuốn 4 ; 2005
16. Tặng cho nhau (Kỷ yếu 60 năm hội Liên Tu sĩ ); 2006
17. Văn hoá gia đ́nh ; 2006
18. Kỷ yếu 40 năm thành lập Đạo Binh Đức Mẹ tại GXVN ; 2006
19. Kỷ yếu 30 năm hành tŕnh đức tin ; 2006
20. Suy niệm tin mừng, bội 1, 2007

2- Cuốn « Văn Hoá và Đức Tin » đă không được tŕnh bày theo bố cục 4 phần tiếp cận Văn hoá, nhưng theo 15 bài của 15 tác giả, kể cả bài giới thiệu và bài lời mở, như sau :
1. Lời giới thiệu, do Đô Giuse Đinh Đức Đạo
2. Lời mở, do Lm Mai Đức Vinh
3. Niềm tin trong Văn hoá Việt Nam, do Gs Tạ Thanh Minh Khánh
4. Đất Việt là quê hương của Đạo Trời, do Ls Lê Đ́nh Thông
5. Chữ Trời trong một số cổ thi quốc âm Việt Nam, do Bs Nguyễn Văn Ái
6. Đối chiếu các t1n ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam với Kitô giáo, do Lm Mai Đức Vinh
7. Đức tin Công giáo và Niềm tin Phật giáo, do Ls Nguyễn Thị Hảo
8. Đạo nào cũng giống nhau ?, do Lm Mai Đức Vinh
9. Âm nhạc cổ truyền Việt nam trong phụng vụ Công giáo, do Gs Phương Oanh
10. Hội nhập văn hoá qua thánh ca Việt Nam, do Hồng Nhuệ
11. Đức hiếu thảo, do Vs B́nh Huyên
12. Tôn kính tổ tiên, do Lm Mai Đức Vinh
13. Đóng góp của thơ công giáo vào việc truyền bá tin mừng, do Pt Phạm Bá Nha
14. Thư mục Báo chí Công giáo Việt nam, do Lm Trần Anh Dũng
15. Cây Văn hoá Việt Nam trồng tại Giáo Xứ Paris, do Gs Trần Văn Cảnh

 

 


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.