HÔN NHÂN, ĐỨC TIN VÀ T̀NH TÊU

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

marriage

 

Bản Việt ngữ của
Vincent Vũ Văn An
Sydney NSW, tháng Chín năm 1999

 

 

 

 

CHƯƠNG SÁU

 

TĂNG TRƯỞNG TRONG HÔN NHÂN

Một trong những phẩm b́nh thường được lặp lại nhiều nhất về hôn nhân hiện đại là thời gian kéo dài của nó. Các thời đại trước, thời gian ấy ngắn hơn nhiều và cha mẹ thường qua đời khi các con đến tuổi lập gia đ́nh. Thành ra chu kỳ hôn nhân bao gồm các giai đoạn sau đây: lấy nhau, nuôi nấng con cái, con cái lập gia đ́nh, cha mẹ qua đời. Mục đích chính của hôn nhân và tính dục, do đó, là để bảo ṭan phúc lợi của thế hệ kế tiếp.

Ngày nay, chu kỳ hôn nhân dài hơn thế. Cuộc sống lứa đôi kéo dài từ bốn đến năm mươi năm là chuyện thường. Cho nên, mới có lời b́nh phẩm về h́nh thức hôn nhân cổ truyền cho rằng hai con người không thể sống với nhau suốt trong quăng thời gian dài đằng đẵng ấy mà lại không chán chường nhau được. Đă đành con cái vẫn c̣n là mối dây liên kết cha mẹ lại với nhau, nhưng khi chúng rời mái ấm, cha mẹ c̣n đến cả hai ba mươi năm, trong đó, họ phải trở lại sống cái mối liên hệ tay đôi như trước. Lời b́nh phẩm trên coi việc đó không phải là phương tŕnh cho hạnh phúc mà là cho án tù. Họ chủ trương nên tạo ra những cuộc hôn nhân theo chu kỳ cuộc sống (serial marriages), những khế ước ngắn hạn từng năm năm một. V́ khả năng của hai vợ chồng trong việc nâng đỡ nhau và chữa lành nhau chỉ có hạn, không thể kéo dài đến bốn mươi hoặc năm mươi năm được. Các tôn giáo vốn bênh vực sự bền vững của hôn nhân bị người ta thách thức phải chứng tỏ làm cách nào các cặp vợ chồng có thể chung sống với nhau trong khoảng thời gian dài như thế mà vẫn thể hiện được đầy đủ các tiềm năng của họ. Xét chung, truyền thống Do thái - Kitô giáo đă từng tỏ ra lúng túng trong câu trả lời cho thách đố trên. Truyền thống ấy nhấn mạnh đến sự bền vững trong hôn nhân, nhưng ít nói đến phương thức thực hiện sự bền vững ấy. Tuy nhiên, người ta thấy rất rơ: vợ chồng sẽ có thể sống với nhau lâu dài nếu các nhu cầu nhân bản và thiêng liêng của họ đi đôi với những cơ may giúp họ thể hiện được bản thân (1,2).

Khi đề cập đến việc tự thể hiện bản thân hoặc tự thực tại hoá bản thân, có người cho rằng như thế là ích kỷ, là đi t́m hướng về chính ḿnh, điều cần được hạn chế hơn là khích lệ. Nhiều người cho rằng nhiệm vụ chính của vợ chồng là làm cha mẹ, chứ hôn nhân không phải là một định chế giúp thể hiện các tiềm năng của bản thân con người. Họ cho rằng người ta đă đ̣i hỏi nhiều thứ quá từ hôn nhân hiện đại, cần phải dẹp bỏ mọi cái thứ khác, và chỉ nên đặt cái tôi phục vụ cho con cái.

Con cái quả là những thụ tạo hay đ̣i hỏi và cha mẹ cần phải hy sinh v́ chúng. Nhưng xét cho cùng, việc thành công trong thiên chức làm cha mẹ lại tùy thuộc phẩm tính của nhân cách và nếu sự toàn vẹn của cha mẹ càng hoàn hảo th́ con cái càng nhận được nhiều phúc lợi hơn từ sự chín mùi của các ngài. Thành ra, tự thể hiện bản thân không phải là một mục tiêu ích kỷ; con cái sẽ được lợi nhờ sự phong phú trong tiềm năng của cha mẹ. Việc tự thể hiện hóa bản thân này sẽ được thực hiện qua diễn tŕnh tăng trưởng về phương diện thể lư, tri thức, xúc cảm, t́nh cảm và tâm linh.

 

TĂNG TRƯỞNG THỂ LƯ

Đỉnh cao của sự tăng trưởng thể lư xảy ra vào khoảng cuối thập niên thứ hai hoặc đầu thập niên thứ ba (3), khi cơ thể thể hiện được cái phác thể thể lư (physical configuration) sau chót của nó. Từ đó trở đi, diễn tŕnh thoái hóa bắt đầu, nhưng không rơ rệt lắm. Các thay đổi rất nhỏ, ít khi nhận ra được.

Tóm lại, tuyệt đỉnh của tiềm năng thể lư có vào khoảng cuối tuổi mười mấy đầu tuổi hai mươi. Tiềm năng có thể xuất hiện dưới thân h́nh lực sĩ hoặc dưới kỹ năng của một thể tháo gia thực hiện được những thành tích phi thường như các kỹ năng không thị của người chơi cù (golf). Những kỹ năng này đ̣i hỏi lao tập và kỷ luật khắt khe và đôi khi người phối ngẫu phải hy sinh dành th́ giờ cho người bạn đời đạt được và duy tŕ được những tiêu chuẩn ấy. Sự tăng trưởng thể lư này không phải là việc cộng thêm những thành tố vật lư cho cơ thể cho bằng thể hiện các tiềm năng trong khả năng vận động của nó. Cái năng lực thô và chưa dị biệt hóa được biến đổi thành các thành tích của nhà lực sĩ.

Tuy nhiên cơ thể không chỉ phát triển về phương diện các tiềm năng tuyệt đối của nó mà thôi. Bàn tay, mắt và tai cũng có thể phối hợp với các tiềm năng thẩm mỹ để phát triển các kỹ năng nghệ sĩ trong hội họa, đồ h́nh và âm nhạc, cũng như thêu thùa, may mặc, nghề mẫu và những tài khéo léo khác.

V́ tuổi già là thời gian khi sự tăng trưởng của con người đă đạt được một mức độ chín mùi nào đó để có thể trả lại dần dần ơn phúc thân xác cho đấng Hóa Công.

Cuối cùng, thể xác trở thành thực tại tính dục. Thực tại tính dục này dị biệt hóa nhân loại và cặp vợ chồng. Thực vậy thân xác tính dục là phương thế hai vợ chồng bổ túc cho nhau, và sự thông đạt tính dục của vợ chồng tùy thuộc ở cách thân xác ấy được ăn mặc, được sử dụng và được săn sóc ra sao.

Như thế, việc tăng trưởng thể lư bao gồm những thay đổi từ thuần vận động qua lực sĩ tính, từ thuần miêu tả qua nghệ sĩ tính, và từ thuần phái tính qua thông đạt tính dục sống động. Tất cả các h́nh thức tăng trưởng ấy đều cần tới ư chí thúc đẩy của người phối ngẫu và sự nâng đỡ khẳng nhận của người bạn đời. Thân xác tăng trưởng, ổn định một thời gian rồi suy thoái. Sự tăng trưởng của nó chính là sự ư thức hơn về các tiềm năng của nó, và cái ư thức này được duy tŕ như một phần trong h́nh ảnh về con người của ta, ngay cả ở tuổi già. V́ tuổi già là thời gian khi sự tăng trưởng của con người đă đạt được một mức độ chín mùi nào đó để có thể trả lại dần dần ơn phúc thân xác cho đấng Hóa Công. Việc thoái hóa dần dần ấy không phải là sự mất mát nhưng là một chuẩn bị để ta ư thức về ta trong tương quan với Thiên Chúa ở cơi đời đời. Tuổi già không phải là một chuỗi hủy diệt nhưng là một cho đi từ từ cái tôi đă được cảm nghiệm như thành phần thường hằng của thế giới bên trong, để một khi tôi cho đi cái phần bên ngoài của cái tôi, tôi vẫn c̣n lại nguyên tuyền cái ư thức bên trong. Chính cái ư thức này là cái trải dài trong nhiều thập niên và vẫn hiện diện trong tương quan vợ chồng ở tuổi già, trong tương quan giữa cá nhân với Thiên Chúa trong mầu nhiệm đời đời trước khi toàn vũ trụ phục sinh.

 

TĂNG TRƯỞNG TRI THỨC

Giống như việc tăng trưởng thể lư, sự tăng trưởng tri thức, xét theo trí hiểu, cũng đạt đến đỉnh cao vào cùng một thời gian, trong đó, nổi hơn cả là khả năng trừu tượng hóa hoặc suy tư thuần lư (4).

Trí hiểu giúp ta đo lường chiều cao, sức nặng, kích thước, mầu sắc, khỏang cách, giá trị số học, các sắp xếp không thị (visual-spatial), chú ư từng phần và toàn thể, ngôn ngữ và thông đạt, suy nghĩ, cả về cụ thể lẫn trừu tượng, suy luận và phân giải, lượng gía và hội nhập. Chúng ta không ngừng nhận được những tín hiệu thuộc cảm giác và trừu tượng, và qua trung gian của năo bộ, vốn trách nhiệm về khả năng ư thức của ta, ta phải giải thích tất cả những cái xảy đến từ bên ngoài và từ bên trong ta để rồi hành động.

Biến tất cả những kiến thức trên thành túi khôn là một t́m kiếm liên tục của mỗi người, và làm thành túi khôn tập thể của xă hội. Cái khôn không đồng nghĩa với trí hiểu tuyệt đối. Truyền thống Tây phương vốn đặt hào quang cho trí hiểu và duy lư tính, các văn hóa khác lại coi những chuẩn đích như trực giác, thần bí học, các trạng thái thuộc cảm giới như là những giá trị trổi vượt. Lư trí và cảm quan, khách quan và chủ quan, cụ thể và trừu tượng, nội tại và siêu việt đă tranh nhau trở thành những biểu lộ chủ yếu của túi khôn. Tâm lư học của Jung, vốn biểu lộ sự gần gũi với hai luồng tư tưởng Đông Tây, đă cố gắng tổng hợp những yếu tố tiêu biểu của cả hai luồng tư tưởng ấy trong diễn tŕnh ông gọi là cá nhân hóa (individuation) (5). "Để thực hiện được sự toàn vẹn nơi con người cũng như nơi thần thánh, những cái tương phản phải triệt tiêu lẫn nhau; sự thiện và sự ác, ư thức và vô thức, nam và nữ, bóng tối và ánh sáng sẽ được nâng lên một tổng hợp được gọi một cách tượng trưng là giao thể của các tương phản (conjunctio oppositorum)". Thành ra đối với Jung, túi khôn là cái giao thể của những phần tách biệt của bản thân ta.

Theo nghĩa thông thường, từ khôn ngoan ám chỉ việc trí hiểu lượng giá những điều có trước mặt, một lượng gía được tinh lọc bởi văn hóa và cảm quan. Túi khôn tập thể của một nền văn hóa là tiêu chuẩn qua đó các phán định (predicaments) của cá nhân sẽ được phê phán. Một phần của túi khôn là đánh giá cái đă nhận được từ gia đ́nh, từ văn hóa và từ tôn giáo và không ngừng đánh giá lại dựa trên ánh sáng các kinh nghiệm bản thân. Các trào lưu tư tưởng đă thành h́nh khi cái nhận được đă không được tiếp nhận một cách mù quáng, nhưng đă được phê phán dựa theo các đ̣i hỏi hiện đại. Thành rạ sự căng thẳng giữa cái nhận được và cái cải tân không phải chỉ có ở ngoài xă hội mà c̣n ở trong mỗi cuộc hôn nhân nữa.

An b́nh

Vợ chồng là người thừa kế cái túi khôn tập thể của xă hội, của văn hóa và của gia đ́nh họ. Họ đem đến cho nhau trí hiểu và những niềm tin cũng như những huyền thoại chưa bị thách thức của họ. Rất có thể một bên sẽ cố gắng áp đặt quan điểm của ḿnh lên người kia v́ nghĩ rằng không thể khoan nhượng một chủ trương khác được. Những con người cứng ngắc và quá kiêu căng đó có thể công kích các niềm tin của người phối ngẫu và làm tổn thương các xác tín chân t́nh nhất của họ. Các xác tín này có thể bị chế nhạo liên tục, bị bài bác hoặc bị đặt thành tṛ cười, chỉ c̣n lại quan điểm của người kiêu căng kia là có giá trị. Sự khuất phục bắt người khác phải chấp nhận quan điểm của ḿnh về cuộc đời có thể tiếp diễn trong một thời gian dài cho đến khi người phối ngẫu bị khuất phục kia lấy lại được tự tin, đủ để thách thức và nổi lên chống lại cái thành tŕ bóp nghẹt tâm trí ấy.

Tuy nhiên, sự cưỡng chế như vậy ít khi xảy ra. Phần lớn hai vợ chồng đồng ư về sự bất đồng ư kiến của ḿnh đối với một số vấn đề mà họ không thể dung hoà được. Đôi lúc khác, họ hành động như những bà đỡ đối với nhau. Một ư nghĩ, một tư tưởng, một quan điểm được nghiền ngẫm bên trong mà không được giải thích rơ rệt. Họ có thể nói điều ấy cho người phối ngẫu trong cái trạng thái hỗn tạp không rơ rệt như vậy và người phối ngẫu có thể giúp làm cho nó trở nên thứ tự rơ ràng. Khả năng của vợ chồng trong việc khám phá ra cái khoảng sâu vốn chưa được nh́n nhận từ trước đến nay tùy thuộc việc càng ngày càng ư thức được cái thế giới nội tâm của nhau, tương cảm đối với nội dung của thế giới ấy và khả năng rút tỉa được cái nguồn tài nguyên tiềm ẩn của nhau. Điều này khác hẳn với hiện tượng hạ thấp nhau có hệ thống, trong đó, bất cứ ư tưởng mới nào dù nhỏ nhặt đến đâu cũng bị coi là kỳ cục, hoặc là cuộc tranh lư, trong đó hai con người tự cho ḿnh thông minh t́m cách hạ ván nhau bằng cách bới ra những thiếu sót trong luận chứng của nhau. Điều này không có nghĩa là sự phê b́nh chỉ trích có tính xây dựng là điều không cần thiết. Tuy nhiên, điều thực sự cần là phải tiếp nhận trong hoan nghênh và khẳng nhận.

Trong việc hỗ tương phát triển tri thức, có thể có sự kiện một bên sử dụng suy luận, c̣n bên kia sử dụng trực giác và cảm quan. Người th́ nói bằng lư trí, kẻ lại nói bằng trái tim. Diễn tŕnh ấy có thể đưa đến va chạm; nhưng cũng có thể là một hành tŕnh bổ túc dẫn đến tăng trưởng chung. Người sống bằng cảm quan sẽ gọt bớt góc cạnh các ư tưởng chủ yếu đến từ suy luận, c̣n người mạnh về suy luận sẽ đem trật tự vào thế giới cảm quan và rút ra những hệ luận hợp lư. Sự phối hợp giữa lư trí và cảm quan là một hành tŕnh sinh tử đối với quá tŕnh trưởng thành hóa trong đó hai vợ chồng có thể giúp đỡ lẫn nhau nếu các khả năng của họ cần đến sự bổ túc của nhau.

Sự khôn ngoan được phát triển từ từ qua ḍ thử và hễ sai th́ làm lại (trial and error). Sự hiểu biết về cách thế sự vật và con người hành động thường được khai triển từ kết quả của việc sử dụng nhiều phương thức khác nhau. Vợ chồng có thể giúp nhau giảm thiểu các lầm lẫn bằng cách chia sẻ các tài năng và kinh nghiệm. Điều này tất nhiên đ̣i thái độ coi trọng và kính trọng nhau, tránh ganh tỵ, cạnh tranh qua đó sự thủ đắc khôn ngoan được sử dụng chỉ để phơi bày cái thiếu sót của người kia.

Chấp nhận rủi ro, nói những điều đúng lúc, phán đoán chính xác các phản ứng, lượng gía chính xác các hoài mong của ḿnh vào cuộc đời và vào người khác, không trông mong thái quá cũng không hoài nghi quá độ, và trên hết, ngày một tin tưởng hơn vào tiềm năng đă được đánh gía một cách thực tiễn của ḿnh - tất cả đều là các yếu tố của khôn ngoan.

Khôn ngoan cũng được biểu lộ qua việc càng ngày càng dự đóan và giải thích chính xác các hoàn cảnh cũng như các con người. Chấp nhận rủi ro, nói những điều đúng lúc, phán đoán chính xác các phản ứng, lượng gía chính xác các hoài mong của ḿnh vào cuộc đời và vào người khác, không trông mong thái quá (lạc quan tếu) cũng không hoài nghi quá độ (bi quan vô cớ), và trên hết, ngày một tin tưởng hơn vào tiềm năng đă được đánh gía một cách thực tiễn của ḿnh - tất cả đều là các yếu tố của khôn ngoan. Cái khôn này sẽ không ngừng được thử nghiệm trong khung cảnh gia đ́nh, nơi lầm lỗi có thể xảy ra nhưng hậu quả chắc chắn không thảm bại.

Như thế, các yếu tố như cách thế qua đó, bản thân ta cũng như người khác được cảm nhận, kiến thức đựơc sử dụng, những chờ mong nơi các hành động, đà học hỏi nhanh hay chậm, đức can đảm trong việc thử nghiệm những suy tư mới và chính xác về chính bản thân ta, tất cả đều góp phần vào diễn tŕnh soi dẫn lẫn nhau. Diễn tŕnh này đương nhiên không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đ́nh, nhưng rơ ràng gia đ́nh là nơi nó tiếp nhận những tăng cường liên tục và mạnh mẽ nhất. Các tŕnh bày từ trước đến nay ám chỉ sự tăng trưởng trong việc sử dụng các tài nguyên sẵn có. Càng ngày, người ta càng nhận ra rằng họ có thể thu lượm kiến thức mới ở một giai đoạn muộn hơn giai đoạn học tập cổ truyền. Đàn ông cũng như đàn bà, đặc biệt khi được người phối ngẫu giúp đỡ, có thể theo học những khóa học lần đầu tiên khi đă ngoài ba mươi. Nhiều bà vợ lần đầu tiên đi học đại học khi các con đă lớn khôn. Những sinh viên lớn tuổi này giáp mặt với các môn họ chọn một cách khá khôn ngoan thực tiễn và họ phối hợp được cái học khoa bảng với những kiến thức thực tiễn của cuộc đời làm cho họ trở thành những sinh viên khá thành công.

Cuối cùng, giống nhu việc chữa lành các vết thương, cái khôn có thể là sản phẩm của một sự thông tuệ bất thần đến như tia chớp trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong giấc ngủ, trong chiêm bao hoặc trong một buổi suy niệm thâm trầm nào đó. Sự thông tuệ này không phải chỉ vợ chồng mới có, nhưng vợ chồng có cái thuận lợi là chia sẻ trực tiếp và trắc nghiệm nội dung những thông tuệ đó với người bạn đời của ḿnh.

 

TĂNG TRƯỞNG XÚC CẢM

Những thay đổi chính trong nhân cách có ảnh hưởng đáng kể đối với liên hệ hôn nhân chính là những thay đổi từ lệ thuộc qua tự lập, từ việc mơ hồ về bản sắc qua việc dị biệt hóa được bản sắc ấy, và từ việc tự ruồng bỏ ḿnh qua việc tự qúy trọng ḿnh.

 

LỆ THUỘC

Đứa trẻ đang lớn lên, các thiếu niên và thanh niên, một khi đă thực hiện được đầy đủ sự tăng trưởng về thể lư và tri thức, là đă gia nhập vào thế giới người lớn. Nhưng sự phát triển của họ về xúc cảm thực ra vẫn chưa đầy đủ. Sự lệ thuộc là một trong những nét chính của tuổi thơ. Lúc đó, đứa trẻ lệ thuộc về thể lư, xă hội, tri thức, xúc cảm và tâm linh. Lệ thuộc về thể lư và tri thức sẽ thoái lui khi các tài nguyên thể lư và tri thức ở mức trưởng thành đă đủ để con người có thể lo liệu được đời họ. Các tài nguyên xă hội và xúc cảm, trái lại, không hẳn đi cùng nhịp với các lănh vực phát triển ấy. Những người trẻ sẽ phải rời bỏ gia đ́nh và đặt ḿnh vào môi trường xă hội mới và làm quen với nó. Sau khi kinh qua một số khung cảnh xă hội mới, các kĩ năng xă hội mới được phát triển đầy đủ tại nơi làm việc, với bè bạn và trong lúc vui chơi để xử lư được các đ̣i hỏi trên.

Sự tăng trưởng về xúc cảm xẩy ra theo mức độ nhanh chậm khác nhau nhưng thường là khá sau những phát triển khác. Sự phát triển từ lệ thuộc qua tự lập thường xẩy ra ở thập niên đầu của hôn nhân với những hệ lụy rất rơ nét đối với liên hệ vợ chồng. Căn bản, ta thấy một hoặc cả hai người phối ngẫu cứ tiếp tục cảm nhận người kia như khuôn h́nh cha mẹ. Chồng nh́n lên vợ như một người mẹ, hoặc vợ nh́n lên chồng như một người cha. Đôi khi cha mẹ thật không thân thiết hoặc gần gũi, nên họ đă tôn người phối ngẫu thành h́nh ảnh lư tưởng hóa đầy yêu thương thân thiết thay thế cha mẹ ḿnh.

Sự lệ thuộc có nghĩa người phối ngẫu ấy sử dụng người bạn đời như một thứ gậy đỡ hay một thứ nạng chống. Họ để cho bạn quyết định, không bao giờ đưa sáng kiến mà chưa được phép, ư nghĩ nào, hành vi nào, tư tưởng nào cũng phải được chấp thuận, và những điều này đều phải rập khuôn theo người kia. Phần lớn đời sống của người lệ thuộc đều phải được chỉ bảo hướng dẫn bởi người bạn đời là người điều hành những chuyện thiết thân cho cả hai. Sự lệ thuộc như thế thường cho thấy vợ chồng rất gần gũi nhau. Một sự gần gũi được những nhà chuyên môn gọi là liên hệ cộng sinh. Hai người sống như thể chỉ là một và cái một ấy phần lớn là chính nhân cách của người trổi vượt kia.

Nhưng với thời gian, sự lệ thuộc sẽ giảm đi. Sự chín chắn bắt đầu xuất hiện và người lệ thuộc dần dần tỏ ra ít lệ thuộc hơn vào người phối ngẫu. Giờ đây họ sẵn sàng suy nghĩ, cảm nhận, xem sét, hành động, chấp nhận may rủi theo quan điểm riêng của ḿnh. Bước quan trọng là họ không c̣n thấy sợ khi thấy ḿnh sai và có khả năng rút tỉa được điều hay từ những lầm lỗi của chính ḿnh. Nỗi lo âu khi thấy ḿnh sai không c̣n choáng ngợp nữa. Dần dà, cảm thức tự do khởi sự thấm sâu vào nhân cách và hậu quả là người lệ thuộc ngưng không c̣n lư tưởng hóa và răm rắp đi theo người bạn đời, trái lại họ bắt đầu biết phân định ranh giới, phát triển ḷng can đảm và sức mạnh để đứng vững trên chính hai chân ḿnh và biết sử dụng đến chính các tài nguyên sẵn có của ḿnh. Những thay đổi này sẽ tác động mạnh đến liên hệ hôn nhân, một là tăng cường nó hai là bẻ gẫy nó. Người phối ngẫu xưa nay vẫn cư xử như cha mẹ giờ đây cần phải thích ứng theo liên hệ b́nh đẳng giá trị. Phần lớn các cặp vợ chồng có thể làm được điều ấy, nhưng không ít người thấy ḿnh khó từ bỏ được cái tư cách đứng đầu và cái cơ cấu quyền hành cũ, cho nên những tranh chấp nghiêm trọng có thể xẩy ra.

 

MƠ HỒ VỀ BẢN SẮC

Sở dĩ sự lệ thuộc xúc cảm c̣n được duy tŕ lư do một phần là v́ vợ hoặc chồng vẫn chưa ư thức rơ rệt về chính bản sắc của ḿnh. Họ chưa ư thức rơ về các tài nguyên và tiềm năng làm việc, về nữ tính hoặc nam tính, về các ưu tiên liên quan đến việc kiếm sống hoặc hưởng đời, về các giá trị tâm linh, các cam kết đối với cha mẹ, bằng hữu, đồng nghiệp, và, trên hết, về ư nghĩa cuộc đời. Nhiều người trẻ sẽ đối đầu và thách thức: "Cho tôi hay tại sao tôi phải tiếp tục sống?" (6)"Tất cả những điều ấy có nghĩa lư ǵ không?" Một trong những nguy hiểm là trong t́nh huống mù mờ vế bản sắc ấy, một số người đi lấy vợ lấy chồng với hy vọng rằng chiếc nhẫn cưới trên ngón tay sẽ đem đến cho họ một bản sắc xă hội của những người đă lập gia đ́nh, và bản sắc này, ít ra, cũng đảm bảo cho họ một chỗ đứng trong cộng đoàn.

Dần dần, sự mơ hồ này sẽ bắt đầu được soi sáng. Sau một số thử nghiệm từ những việc làm khác nhau, một cái ǵ đó bắt đầu có ư nghĩa và ăn khớp với các đặc điểm của nhân cách. Từng chút từng chút, họ có thể chấp nhận dục tính của ḿnh và hân hoan về sự hiện diện của nó. Có thể họ đă bước vào hôn nhân trên căn bản may mắn t́m được người chịu lấy ḿnh, giờ đây họ nhận ra một số giá trị của riêng ḿnh và cảm thấy họ đáng được một nhân cách phong phú hơn làm người bạn đường. Các giá trị tâm linh của họ liên quan đến các theo đuổi vật chất đối nghịch với các đeo đuổi thẩm mỹ, khả năng giữ ḷng thủy chung với bằng hữu, biết trân qúy họ, biết quan tâm đến phúc lợi của họ, tất cả giờ đây trở thành rơ ràng hơn. Từng bước từng bước, ư nghĩa và giá trị cuộc đời bắt đầu mặc lấy một trật tự nào đó, với cảm thức về cơi nội tại (immanent), về cái ở đây và bây giờ, và cơi siêu việt cũng bắt đầu đóng một vai tuồng quan trọng trong cuộc sống của cá nhân.

Diễn tŕnh dị biệt hóa trên đây, xẩy ra bên trong bản ngă nhằm sắp xếp và chấp nhận ư nghĩa của thân xác và phái tính tính dục, trí hiểu với các tiềm năng của nó, các mối liên hệ với những mức độ cam kết khác nhau và việc trồi lên ư nghĩa cuộc đời như một cái ǵ bản ngă ḿnh sở hữu được, chính là diễn tŕnh tăng trưởng từ t́nh trạng mù mờ về bản sắc qua t́nh trạng tự chiếm hữu được bản thân ḿnh. Diễn tŕnh dị biệt hóa này hiển nhiên mang ư nghĩa cuộc hôn nhân có thể bị bác khước như là nguồn duy nhất đem lại ư nghĩa. Nó là một phát triển đ̣i hỏi gắt gao nơi vợ chồng nhiều khả năng để thích ứng với nhau, v́ trong quá tŕnh phát triển này, nhân cách thay đổi rất nhiều và ở một vài trường hợp nhân cách của những người kết hôn thay đổi một cách toàn diện sau khi lấy nhau. Cho nên vợ chồng cần phải thích ứng đối với những biến đổi theo ngày tháng của nhau và chả có ǵ đáng ngạc nhiên khi những thay đổi lớn lao ấy không c̣n thuận lợi cho việc tiếp tục cuộc hôn nhân nữa.

 

TỰ QUÍ TRỌNG M̀NH

Việc lệ thuộc người khác, đi đôi với hiện tượng mù mờ về ư nghĩa cuộc đời, đôi bên cộng lại thành ra cảm thức tự ti mặc cảm. Những người như thế thấy ḿnh trống rỗng và hoang mang và thế giới bên trong của họ không ngừng phát ra những tín hiệu bất ổn. Khi một con người bắt đầu dứt ra khỏi ảnh hưởng của lệ thuộc và khởi sự chiếm hữu được bản thân, ḷng tự quí trọng ḿnh sẽ lớn lên. Giờ đây, họ cảm nhận rơ những biên giới giữa họ và người khác và không c̣n sợ bị cuốn hút vào quĩ đạo của mẹ cha, chồng con hay bạn bè lướt thắng. Ḷng quí trọng này có nghĩa là mỗi lúc họ một ư thức được hơn các tài nguyên riêng của ḿnh và có thể khởi đầu diễn tŕnh hiến đi một phần bản thân ḿnh, trong và qua t́nh yêu người khác. Và họ cũng bắt đầu tiếp nhận các tín thư yêu thương từ người khác.

Diễn tŕnh thay đổi từ lệ thuộc qua tự lập, từ mơ hồ qua nhận rơ bản sắc, từ tự từ khước ḿnh qua tự chấp nhận ḿnh có thể tiếp diễn từ tuổi hai mươi, xuyên suốt qua tuổi bốn mươi và đôi khi cả tuổi năm mươi nữa. Đây là những thay đổi có tác động sâu xa đối với cuộc hôn nhân, v́ liên hệ vợ chồng phải thay đổi nếu nó muốn có chỗ cho việc trồi lên của bản ngă người phối ngẫu. Những thay đổi ấy được chấp nhận và thích ứng trong suốt cuộc sống vợ chồng là cuộc sống sẽ được thăng tiến nhờ cuộc hội ngộ của những người b́nh đẳng, những người giờ đây biết đối thoại với nhau trên căn bản ngang hàng nhau trong yêu thương. Như nhiều người chờ mong, và như sẽ được bàn rộng ở chương 11, những thay đổi này v́ có có khả năng biến đổi cuộc hôn nhân th́ cũng có khả năng tiêu diệt nó, nếu một trong hai người phối ngẫu thấy không thể thay đổi và không thể chấp nhận được sự thay đổi nơi người bạn đời của ḿnh.

 

TĂNG TRƯỞNG VỀ T̀NH CẢM

Phần chủ yếu trong đời sống t́nh cảm là khả năng của hai vợ chồng biết nhận ra, cần đến và đánh giá lẫn nhau. Sự kiện ấy đă được nhắc đến trên đây. Đó là một trong những tầng sâu nhất của t́nh yêu, nó đ̣i có kỷ luật, cố gắng và hy sinh mới đạt tới được. Nhưng làm thế nào để diễn tŕnh thâm hậu hóa t́nh yêu này xẩy ra? Có một vài khía cạnh trong thuật thông đạt t́nh cảm có thể làm gia tăng khả năng yêu thương. Đó là các diễn tŕnh lắng nghe, đáp trả, giảm thiểu chỉ trích, gia tăng khẳng nhận, và tha thứ bằng hàn gắn thích hợp.

 

LẮNG NGHE

Lắng nghe cẩn trọng là một nghệ thuật phải được phát triển liên tục cho đến cuối cuộc đời. Chủ yếu, lắng nghe là phải đi quá bên kia lời nói để đụng đến cảm quan hàm chứa phía sau. Ư nghĩa tri thức, theo sự kiện, cụ thể của lời nói là điều ít phải khó khăn mới nắm được. Cái khó khăn đ̣i hỏi là những tầng tầng lớp lớp ư nghĩa do chúng chuyên chở. Do đó, điều sinh tử là phải lắng nghe cách cẩn trọng, không ngắt ngang, không phán đoán, không cố vấn dạy đời, cho đến khi lời họ muốn nhắn chấm dứt. Điều tối quan trọng là người nói phải cảm thấy họ được tiếp nhận một cách toàn diện. Trong suốt cuốn sách này, chúng tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần mối nguy hiểm chỉ nghe một cách theo lư luận mà bỏ qua không tiếp nhận sự thông đạt về tâm tư t́nh cảm.

Một phần trong diễn tŕnh tăng trưởng t́nh yêu là việc chăm chú lắng nghe toàn thể con người của người nói và tiếp thu các nhắn nhe của họ càng sâu càng tốt. Đó là chỗ đôi khi người nghe trở thành một bà đỡ, đỡ cho ư nghĩa "đẻ" ra được từ lời nói, ngay cả khi chính người nói không hoàn toàn rơ lắm về những điều họ muốn nói. Tất nhiên điều quan trọng là việc đỡ ấy phải đem ra được cái thế giới bên trong của người nói chứ không phải chỉ phản ảnh cách tiếp cận của người nghe muốn giải thích những điều nghe được theo các cảm quan riêng của ḿnh. Khả năng biết lắng nghe và giữ được công tâm đối với nét độc đáo của lời nhắn, không phớt qua cũng không giải thích sai, chính là yếu tố quan trọng trong việc tiếp nhận người khác.

Người từng bị thương tổn đôi khi sợ phát biểu quan điểm hoặc nhu cầu của ḿnh ra sẽ bị người ta bác khước như hồi c̣n nhỏ. Những người như thế thường thầm mong người phối ngẫu của ḿnh đọc ra được ḿnh một cách chính xác trong thinh lặng và dự đoán ra được cái nội dung của thế giới bên trong của ḿnh. Nỗi thầm mong ấy là một phần trong niềm hy vọng của họ muốn rằng nếu ḿnh thực sự được yêu th́ lời nhắn nhe của ḿnh phải được đọc ra một cách chính xác trước khi được nói ra. Đây là một trong những trách vụ khó khăn nhất của t́nh yêu khi phải quan tâm với một tài dự đoán sắc bén hệt như bà mẹ hiền dường như lúc nào cũng biết con ḿnh muốn ǵ mà không cần phải nói. Câu "nếu anh yêu em th́ anh phải hiểu em chứ" có nghĩa như thế này: người phối ngẫu phải biết điều ǵ đang xẩy ra trong thế giới bên trong của người bạn đời để đáp ứng một cách thích đáng.

Đôi khi đối thoại mà chẳng song thoại chút nào bởi v́ người nghe không chăm chú chút nào vào những chi tiết được phát biểu ra bằng lời nói và cảm quan, mà chỉ chờ người kia kết thúc để ḿnh bắt đầu. Điều tốt duy nhất trong lối trao đổi này là người phối ngẫu không cắt ngang. Nhưng thực tế không hề có lắng nghe. Chỉ là một ngắt quăng để sau đó được dịp chứng minh cho người ấy thấy cái sai của họ với lời phê phán và khuyên răn.

Chủ yếu, lắng nghe là phải đi quá bên kia lời nói để đụng đến cảm quan hàm chứa phía sau.

Lối đối thoại như thế là lối đối thoại của những người điếc. Không bên nào chịu lắng nghe một cách chăm chú, hoặc chẳng chịu lắng nghe chi cả. Những người như thế lại hay thề thốt là họ thực sự yêu người phối ngẫu, nhưng nếu không có trao đổi lắng nghe chăm chú, làm sao họ tiếp nhận được thế giới bên trong của người bạn đời. Thực ra có thể họ sợ phải giáp mặt với những đ̣i hỏi mới hoặc phải thay đổi cung cách sống của họ chăng.

Tất nhiên, không phải bất cứ việc lắng nghe nào cũng là vấn đề phải trao đổi nghiêm trọng. Những suy tư, những câu trả lời và những góp ư bộc phát thường vẫn có thể đưa ra trong lúc đối thoại, và đó là chuyện nên làm. Nhưng những trao đổi tự phát này không được lầm lẫn với những trao đổi có ư nghĩa hơn khi những vấn đề sinh tử đang được bàn thảo. Trong các hoàn cảnh này, lắng nghe là cố gắng nhận ra những cái sâu sắc của người bạn đời và giúp họ đạt tới những kết luận riêng của họ. Chăm chú lắng nghe với chủ đích giúp người phối ngẫu nổi hẳn lên chính là h́nh thức yêu thương hết sức đặc biệt. Những cặp vợ chồng đang đau khổ thường than thở là họ không nói cho nhau nghe được, và điều này làm họ thấy cô đơn một cách khủng khiếp ngay bên trong môi trường mà ai cũng nghĩ là đầy rẫy tiếp thu.

 

TRẢ LỜI

Trả lời chủ yếu không hẳn là trả lời cho hợp lư. Câu trả lời đúng, tuy vẫn là điều tốt, chỉ là thứ yếu so với cảm quan cần được chuyên chở này là ở ngay chính thời điểm ấy, người nói muốn có được sự chú tâm không chia sẻ của người nghe. Tập thành được khả năng biết lắng nghe chăm chú như thế là một phát triển phải thách thức các cặp vợ chồng trong một thời gian dài, nhưng cảm thấy ḿnh được chăm chú lắng nghe cũng tương đương như là cảm nghiệm ḿnh được tiếp nhận như một con người. Cho nên khi lắng nghe người khác, ta phải tiếp nhận họ như những con người trọn vẹn. Các cặp vợ chồng phải từng bước học tập nghệ thuật biết tập trung lắng nghe trong những hoàn cảnh xét ra cần thiết, phân biệt với những câu chuyện trao đổi b́nh thường hằng ngày.

Bất cứ khi nào việc lắng nghe ấy được áp dụng, ta đều gặp nỗi lo âu mạnh mẽ này là rất có thể ḿnh không có câu trả lời chính xác. Thế nhưng, câu trả lời của người bạn đời đầy yêu thương đâu phải được xét dưới khía cạnh chính xác hay không. Đúng hơn, người bạn đời biết lắng nghe được coi như tấm gương để người nói nh́n thấy ḿnh dưới một ánh sáng khác. Chính hành vi nói mang lại cho người bạn đời cơ hội đạt tới những thông tuệ mới mẻ. Những thông tuệ mới mẻ này không phải cuộc đối thoại nào cũng t́m ra được. Điều thường thực hiện được nơi người biết trả lời cẩn trọng là ư thức sâu hơn về cái thế giới bên trong của người phối ngẫu, và điều ấy sẽ phá tung sự cô lập và cô đơn để đem hai vợ chồng lại gần nhau hơn.

An b́nh

Trả lời một cách nhậy cảm có nghĩa là đôi khi người bạn đời cảm thấy có điều không đúng nhưng vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Đây cũng là một nỗi lo âu khác trong diễn tŕnh trả lời. Người ta thường mong người nói nói cho lẹ để người nghe có dịp can thiệp vào một cách hợp nghĩa. Tuy thế, cần có sự nhẫn nại để người phối ngẫu có cơ hội biểu lộ một phần con người của họ ra. Kiên nhẫn là một biểu hiệu khác của t́nh yêu. Khi thấy rơ điều ǵ đó về người phối ngẫu, ta đều muốn cho họ hay ngay. Nhưng một giải thích vội vă có thể dẫn tới đủ thứ lo âu, mà người phối ngẫu của ta chưa sẵn sàng đương đầu kịp. Thành ra, câu trả lời cẩn trọng không nhất thiết phải là bày tỏ tất cả các cảm quan của người nghe ra. Người nghe cần đợi đến lúc thuận tiện mới nói ra điều ḿnh muốn giải thích. Nhiều người phối ngẫu, sau khi lắng nghe người bạn đời, đă nói ngay cho họ thấy điều sai của họ, nhưng thất bại ở chỗ không lượng giá được sự kiện là họ chưa sẵn sàng đón nhận lời giải thích của ḿnh.

Trả lời chính xác có nghĩa là người nói cảm thấy họ được tiếp nhận một cách thông cảm càng nhiều càng tốt. Điều này có nghĩa là cái nặng nề do hành vi sửa sai hay sự thông tuệ đem lại không nên áp đặt mà không nâng đỡ hoặc trước khi người phối ngẫu sẵn sàng về phương diện xúc cảm để có thể đương đầu với một vấn đề đặc thù nào đó. Giải thích đúng lúc là điều sinh tử đối với mọi cuộc đối thoại có tính xúc cảm, và cũng quan trọng không kém đối với các cặp vợ chồng là những người cần làm cho nhau cảm thấy rằng họ thực sự hiểu nhau.

 

CHỈ TRÍCH

Trên đây đă nhắc đến sự kiện này là vợ chồng thường hay thông đạt với nhau trên căn bản cùng chỉ trích lẫn nhau. Khuyết điểm của người này được hiểu như ưu điểm của người kia và ngược lại. Sự cân đều về lỗi lầm không c̣n chỗ cho bất cứ sự trổi vượt nào. Thế là hai bên duy tŕ được sự cân bằng yêu thương dựa trên những thiếu sót của nhau. Nhưng một t́nh yêu như thế xét ra quá giới hạn v́ nó chỉ chủ yếu đem lại êm ấm cho thất bại.

Sự tăng trưởng trong các t́nh cảm yêu thương đ̣i hỏi việc chỉ trích lẫn nhau phải chấm dứt. Yêu thương không thể là vấn đề yêu người bất toàn. Sự bất toàn luôn luôn có đó, nhưng một trong các cách để giảm thiểu nó là làm ngơ các phát hiện của nó và ca ngợi các thành quả của nhau.

 

KHẲNG NHẬN

Ca ngợi các thành quả là phần thưởng cho các hoạt động và thành tích. Việc đánh giá cao cái phần hoạt động của người phối ngẫu là điều quan trọng. Tuy nhiên càng quan trọng hơn nữa là việc khẳng nhận (affirmation) chính con người của họ, tức chấp nhận họ một cách vô điều kiện với mọi điểm mạnh và mọi điểm yếu của họ. Ít có mối liên hệ nào bày tỏ nhiều cho bằng liên hệ hôn nhân. Chỉ cần một thời gian ngắn là họ đă biết nhau khá rơ. Sự hiểu biết này chắc chắn sẽ cho thấy nhiều giới hạn nhưng đồng thời cũng cho thấy những điểm mạnh hiện có và đang được thành h́nh. Khẳng nhận làm kiên cố cái đă đạt được đồng thời thúc đẩy người bạn đời hướng tới những điều đang được thể hiện. Khẳng nhận sinh tử đối với cả hai điều trên.

Như thế, khẳng nhận dần dần bảo đảm cho ḷng tự quí của người bạn đời vừa được củng cố vừa được phát triển thêm lên. T́nh yêu càng được hai vợ chồng chia sẻ, th́ sức mạnh thúc đẩy hai người một cách khẳng nhận càng lớn bấy nhiêu. Dù có bị thương tổn, th́ cảm thức về cái tốt của họ vẫn mạnh đủ để vượt qua cơn đau và làm nó tan biến đi. Trong mỗi người chúng ta, luôn có trận chiến không thôi giữa cảm nghiệm tốt và cảm nghiệm xấu và không biết liệu cảm nghiệm tốt có bị cảm nghiệm xấu lướt thắng hay không. Giá trị của khẳng nhận hệ ở chỗ càng ngày ḿnh càng yêu ḿnh một cách chân thực hơn và do đó các cảm nghiệm xấu về ḿnh sẽ bị cuốn hút và hoà nhập bởi các cảm nghiệm tốt thay v́ để cho các cảm nghiệm xấu giập chết các cảm nghiệm tốt. Vợ chồng cần đến nhau để có thể thực hiện được thế cân bằng thích đáng.

 

THA THỨ

Dù nghe, trả lời và khẳng nhận có tốt bao nhiêu đi chăng nữa, vẫn không thể tránh được có đôi lúc ta nói và làm những điều mếch ḷng nhau. Với thời gian, những biến cố ấy cần được giảm thiểu khi vợ chồng đă rơ những điểm dễ gây đau ḷng của nhau. Tuy vậy, giận dữ và hiểu lầm không tài nào hoàn toàn loại bỏ hết được. Khi đă gây ra mếch ḷng, th́ bước tự nhiên kế tiếp phải là tha thứ và đền bù. Việc tha thứ này không thể chỉ là biểu hiệu nông cạn, bề ngoài, mà phải là một đáp ứng thực sự đối với người t́m kiếm nó. Người ta có thể tha thứ, nhưng vẫn nhớ những "tội ác" của người kia và thỉnh thoảng lại đem ra để nhắc nhớ họ. Tha thứ như thế không phải là tha thứ thực sự mà chỉ là cách phát triển sự khống chế đối với người phối ngẫu.

Người ta có thể tha thứ, nhưng vẫn nhớ những "tội ác" của người kia và thỉnh thoảng lại đem ra để nhắc nhớ họ. Tha thứ như thế không phải là tha thứ thực sự mà chỉ là cách phát triển sự khống chế đối với người phối ngẫu.

Đôi khi, người phối ngẫu bị thương tổn từ chối giảng hoà và thu ḿnh vào thế hờn dỗi kéo dài cả giờ, cả ngày và có khi cả hàng tuần. Từ chối không chịu nhận sự ăn năn và đền bù là từ chối tư cách nhân bản của ḿnh. Thường cũng con người như thế hoặc hờn dỗi hoặc không bao giờ biết tạ lỗi, bất cứ họ đă làm ǵ. Luôn luôn người bạn đời của họ phải khởi sự giảng ḥa. Mẫu tác phong như thế quả là thù nghịch đối với t́nh yêu và góp phần bẻ gẫy cuộc hôn nhân.

Sự tha thứ chân t́nh giữa vợ chồng là biểu hiệu của yêu thương đằm thắm và nhắc ta nhớ đến ḷng tha thứ vô bờ của Chúa. Thành ra sự tha thứ của con người là băng tần để ta hiểu t́nh yêu Thiên Chúa. Nó là điểm hẹn giữa con người và Thiên Chúa nơi đó con người được Thiên Chúa biến đổi. Với năm tháng trôi qua, những ḱnh chống giữa vợ chồng sẽ giảm đi và, có lúc nào chúng xuất hiện, th́ sự tha thứ đă có được đặc tính thâm hậu đủ để phản ảnh và biểu trưng cho ḷng sót thương của Chúa.

 

TĂNG TRƯỞNG TÂM LINH

Sự tăng trưởng của vợ chồng về tâm linh chủ yếu là sự tiến triển của họ trong t́nh yêu dành cho nhau, cho con cái và cho người khác. T́nh yêu nhân bản này phản ảnh Đấng thiêng liêng, và tất cả những đặc tính ta đă đề cập sẽ tham dự vào việc thể hiện càng ngày càng thâm hậu hơn. Khi ư thức được rằng t́nh yêu nhân bản này phản ảnh Đấng Thiêng liêng, hai vợ chồng sẽ tiến đến chỗ gặp gỡ chính nguồn suối yêu thương, là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa được gặp gỡ qua nhân cách đang phát triển và dần dà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ vươn tới được tuy không hiểu thấu. Mầu nhiệm ấy là liên hệ bổ túc của yêu đương giữa các ngôi vị tự lập (autonomous), vừa tách biệt vừa là một. Hôn nhân cho thấy tính cách bổ túc nhau giữa hai con người, một đàn ông một đàn bà, vốn tách biệt nhau nhưng đôi lúc đă trở nên một. Hôn nhân và gia đ́nh trong tư cách một cộng đồng t́nh yêu phản ảnh liên hệ giao ước giữa Thiên Chúa và con người và làm ta dơi nh́n vào mầu nhiệm trung tâm về Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi t́nh yêu thẩm nhập để dị biệt hóa và kết hợp. Bởi thế, trong hôn nhân, t́nh yêu dị biệt hóa và kết hợp và hai vợ chồng sẽ càng ngày càng ư thức hơn sự hiện diện nội tại của Thiên Chúa ở giữa họ và tính siêu việt của Ngài, một sự siêu việt vốn là căn bản cho t́nh yêu của tất cả các cặp vợ chồng và của tất cả các cuộc hôn nhân.

 

TÓM LƯỢC

Cùng với việc nâng đỡ nhau và chữa lành nhau, hai vợ chồng tiếp tục tăng trưởng trong nhiều thập niên. Sự tăng trưởng này sẽ biến thân xác thành thực thể vật lư có tính lực sĩ và thẩm mỹ, biến đổi trí hiểu thành túi khôn, t́nh cảm thành yêu thương đậm đà. Thông đạt nằm ngay ở trung tâm việc tăng trưởng xúc cảm, một tăng trưởng, qua khẳng nhận, sẽ làm dễ t́nh yêu đối với chính ḿnh và người lân cận quí giá nhất, đó là người phối ngẫu của ta. Trong tư cách cha mẹ, họ chuyên chở t́nh yêu thương của họ đến con cái.

 

Vinc. Vũ Văn An

 


 

Tài Liệu Tham Khảo:

 

1. Maslow, A.H., Motivation and Personality, Harper, New York, 1954

2. Maslow, A./H., Towards a Psychology of Being. Van Nostrand, New York 1962

3. Smart, M.S. and Smart, R.C., Children. Collier-Macmillan, 1972

4. Maier, H. W., Three Theories of Child Development, Harper, New York, 1969.

5. Moreno, A. Jung, Gods and Modern Man, Sheldon Press 1974

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.