HÔN NHÂN, ĐỨC TIN VÀ T̀NH TÊU

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

marriage

 

Bản Việt ngữ của
Vincent Vũ Văn An
Sydney NSW, tháng Chín năm 1999

 

 

CHƯƠNG HAI MƯƠI

 

T̀NH YÊU

 

Trong các xă hội Tây phương, khi hai người lấy nhau, họ thường chỉ lấy nhau v́ yêu nhau mà thôi. Hơn thế nữa, họ c̣n hy vọng họ sẽ tiếp tục yêu nhau suốt đời. Cảm nghiệm của họ về nhau thật êm ái và họ muốn điều ấy cứ thế tiếp tục. Mặc dù nh́n lên cha mẹ hoặc những cuộc kết hôn của thân nhân và bằng hữu, họ thấy hôn nhân không hẳn là một vườn hồng. Nhưng đa số vẫn tin rằng cuộc hôn nhân của riêng họ sẽ thành công và t́nh yêu của họ sẽ tiếp tục trổ bông trong cuộc đời họ. Tuy thế, tỷ lệ từ hai mươi lăm đến ba mươi phần trăm các cuộc hôn nhân tan vỡ là một nhắc nhở đáng buồn cho họ thấy rằng t́nh yêu không hẳn bền vững măi, và do đó bản chất của yêu thương trong hôn nhân hiện đại là một hiện tượng chủ yếu cần được thấu hiểu.

T́nh yêu trong hôn nhân hiện đại vẫn có những hoài mong có tính cách cổ truyền như nâng đỡ nhau về mặt vật chất lẫn mặt xă hội. Về phương diện vật chất, nhiệm vụ duy tŕ gia đ́nh về phương diện kinh tế vẫn chủ yếu là nhiệm vụ của người chồng, nhưng càng ngày người vợ càng chia sẻ với chồng trong nhiệm vụ này. Trong các xă hội ít có nạn thất nghiệp, phần lớn phụ nữ đi làm việc trước khi có con và đi làm trở lại sau khi các con đă lớn khôn. Trong một số trường hợp, v́ cả hai vợ chồng cùng có nghề nghiệp quan trọng như nhau, nên vấn đề chia sẻ trách nhiệm trông coi việc nhà lại càng cần được đặt ra. Tuy nhiên, phần lớn các ông chồng không phản đối vấn đề này. Lợi tức do người vợ kiếm được nhiều khi là điều cần thiết để tránh cảnh thiếu thốn, nhưng phần lớn nó giúp gia đ́nh sống sung túc hơn. Nhưng trong khi các phụ nữ đi làm càng ngày càng đông như thế, th́ xă hội lại không chịu điều chỉnh các sắp xếp của ḿnh giúp họ dễ dàng trong công việc làm của họ, tỷ dụ như thay đổi giờ làm việc để người chồng làm buổi sáng, người vợ làm buổi chiều. V́ thiếu những điều chỉnh cần thiết như thế, nên các bà vợ vừa phải đi làm vừa phải trông coi việc gia đ́nh và chăm sóc con cái. Một thời khóa biểu như thế chắc chắn sẽ gây ra nhiều mệt mỏi và chán nản tuyệt vọng. Một số ông chồng sẵn sàng giúp vợ nhẹ gánh phần nào, nhưng xă hội như một toàn thể phải làm sao cho có sự quân b́nh trách nhiệm trong tương quan giữa gia đ́nh, việc làm và con cái. Phần hai vợ chồng, lúc nào cũng phải ráng tạo ra bầu khí yêu thương để nâng đỡ nhau khi cả hai cùng đi làm.

An b́nh

Nói về cuộc sống xă hội của hai vợ chồng, ta thấy vai tṛ lệ thuộc của người vợ càng ngày càng bớt đi. Việc vâng lời chồng không c̣n được coi là một đ̣i hỏi xă hội nữa. Hai vợ chồng cùng thích ứng các nhu cầu xă hội của nhau và bảo đảm cả hai đều hài ḷng. Các sinh hoạt xă hội như thăm viếng, chiêu đăi ăn uống đôi khi trùng hợp nhau, nhưng cũng có khi hai vợ chồng có những sở thích khác nhau nên đă có những sinh hoạt riêng. Thế giới của người vợ không c̣n chỉ quanh quẩn trong gia đ́nh và tùy thuộc ư muốn của chồng nữa. Nàng có khả năng trở thành một con người độc lập trong cuộc sống xă hội và nàng thi hành sự tự do ấy rất thường xuyên.

Tỷ lệ từ hai mươi lăm đến ba mươi phần trăm các cuộc hôn nhân tan vỡ là một nhắc nhở đáng buồn cho họ thấy rằng t́nh yêu không hẳn bền vững măi, và do đó bản chất của yêu thương trong hôn nhân hiện đại là một hiện tượng chủ yếu cần được thấu hiểu.

Nhưng ở các xă hội Tây Phương, chính trong thế giới cảm quan và xúc cảm, t́nh yêu tự bộc lộ cách mới mẻ hơn cả. V́ khi thoát ra khỏi những truyền thống và những đ̣i hỏi của đại gia đ́nh, của cộng đ̣an và của xă hội nói chung, hai vợ chồng cảm thấy nhu cầu mạnh mẽ phải yêu thương nhau và phát biểu cái t́nh yêu bản vị ấy cho nhau. Tấm t́nh yêu này lập lại kiểu mẫu t́nh yêu họ từng cảm nhận thời thơ ấu. Đứa trẻ lớn lên học biết ư nghĩa yêu thương khi được bế bồng, vỗ về, mơn trớn trong đó cái phần thể lư rất mạnh. Dần dà, nó nhận ra ư nghĩa của việc cảm thấy được nh́n nhận, được ước muốn và được đánh giá, ư nghĩa của việc được yêu thương v́ chính bản thân nó. Những nguyên tố đầu tiên của t́nh yêu được nhận ch́m trong bể yêu thương vô điều kiện. Những năm đầu đời, đứa trẻ được yêu mà không cần phải đă làm được ǵ, có những thành tích ǵ. Các nguyên tố của yêu thương trong giai đoạn này là tiếp xúc thể xác và khẳng nhận cảm quan. Đứa trẻ thấy ḿnh được quan tâm chỉ v́ ḿnh có đó, có mặt ở đó, hiện hữu. Giữa cha mẹ và đứa trẻ có một sự tin cậy lẫn nhau rằng nó được yêu v́ nó từ họ mà ra. Chỉ măi sau này, t́nh yêu mới dần dần tùy thuộc điều kiện nó phải ngoan và có thành tích.

T́nh yêu thu lượm được trong mối liên hệ thân mật đầu tiên giữa đứa trẻ và cha mẹ ấy sẽ được sống lại trong t́nh thân mật của hôn nhân. Hai vợ chồng, và nhất là người vợ, sẽ t́m về với sự tŕu mến êm ái của việc nhận ra thể xác và xúc cảm của nhau. Điều ấy được thể hiện qua việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng nhau lớn mạnh, và qua muôn vàn cách thế những điều trên được cảm nghiệm. Việc hôn nhân tan vỡ hầu như bao giờ cũng cho ta thấy sự kiện này là v́ nó thiếu mất cái mức tối thiểu của thứ t́nh yêu bản thân kia. Thay v́ tin tưởng nhau, họ hoài nghi nhau. Thay v́ chấp nhận nhau, họ từ khước nhau. Thay v́ khẳng nhận nhau, họ không ngừng chỉ trích nhau và loại trừ nhau. Thay v́ cam kết và khích lệ nhau, họ lại giận hờn và dửng dưng đối với nhau. Trong quá khứ, v́ vai tṛ của vợ chồng là trợ giúp về vật chất, săn sóc nhà cửa và con cái, nên người ta vẫn mong chờ họ tiếp tục sống với nhau dù bị tù túng về phương diện t́nh cảm. Ngày nay, điều ấy không c̣n được chấp nhận nữa. Vợ chồng thời nay t́m kiếm yêu thương qua thỏa măn bản thân, và tỷ lệ tan vỡ lớn lao cho thấy giữa các hoài mong và việc huấn luyện cũng như trợ giúp để thực hiện các hoài mong ấy có cả một ngắt quăng thật lớn.

 

SI T̀NH

Trong hôn nhân hiện đại, t́nh yêu có hai giai đoạn. Giai đoạn nhất là si t́nh, giai đoạn hai mới là yêu thương. Si t́nh là giai đoạn được cảm nghiệm như một biến cố mạnh mẽ thuộc cảm xúc (emotional). Thể xác giữ phần chủ động, đem lại cho ta sự lôi cuốn về thể xác và việc t́m về với lối chăm sóc của mẹ cha. Có một cảm thức hoà hợp đầy thân mật giữa các xác thân, rồi dần dà mới đụng đến tâm tư t́nh cảm. Sự ḥa hợp này được lư tưởng hóa. Dưới mắt người yêu, người được yêu có mọi đức tính độc đáo. Chàng hay nàng đâu phải chỉ lôi cuốn mà thôi, họ c̣n tuyệt trần ngây ngất nữa, đâu phải chỉ tốt bụng mà c̣n là hiện thân của ḷng tốt nữa. Sự hiện diện của họ làm ta hân hoan thèm muốn. Họ muốn được gần nhau và không ngừng ở bên cạnh nhau. Những cuộc căi vă nếu có sẽ được mau chóng hàn gắn và thiện ư lúc nào cũng trổi vượt. Các khuyết điểm được thu nhỏ lại, c̣n các ưu điểm được phóng lớn lên. Khuynh hướng chung là tối thiểu hóa các bất đồng và tối đa hóa các ḥa điệu. Cả hai tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng những ǵ lầm lỗi bây giờ sẽ được sửa chữa đúng lúc. Nói cách khác, cảm thức ḥa hợp và vui sướng luôn luôn thắng thế. Cái t́nh yêu lăng mạn này là cái đang điều khiển diễn tŕnh si t́nh kia. Có người hoài nghi cho rằng đó không phải là căn bản để ta xây dựng một liên hệ vĩnh viễn và rằng sự hiện diện của một cảm thức mạnh mẽ như thế sẽ xóa nḥa cả lương tri lẫn sự khôn ngoan. Thiết nghĩ lời b́nh luận này có đúng một phần, nhất là khi thời gian hẹn ḥ quá ngắn. Nhưng thực ra, t́nh yêu lăng mạn đă trở thành phương thức thông thường nhất để xây dựng các mối liên hệ thân mật dẫn tới hôn nhân, và điểm mạnh của phương thức này nằm ở chỗ hôn nhân được đặt căn bản trên sự hỗ tương tin cậy nhau, chấp nhận nhau và sẵn sàng cho nhau. Và đặc tính này sẽ trở thành hậu cảnh cho giai đoạn yêu thương sau này.

 

YÊU THƯƠNG

Sau khi cưới, si t́nh biến dạng thành yêu thương. Những tiếp xúc hàng ngày với nhau cho họ thấy thực tế chứ không c̣n lư tưởng hóa nữa. Thời gian dành cho nhau mỗi ngày một ít ỏi hơn nhất là khi đă có con. Thất vọng, tổn thương và giới hạn kéo hai vợ chồng lại cỡ người chân thực của ḿnh. Dần dần cái hào quang ngây ngất giảm đi và nỗi hân hoan háo hức của thời gian si t́nh cũng mất dần. Hành vi yêu thương thay thế cho ngất ngây và lăng mạn. Trong hành vi yêu thương này, vợ chồng coi nhau như nhân vật quan trọng nhất trong đời, nhưng những người khác như cha mẹ, thân bằng quyến thuộc cũng lấy lại được tầm quan trọng của họ.

Giờ đây người ta không c̣n cảm nghiệm t́nh yêu như một bầu không khí nữa nhưng như một cam kết ngày ngày phải nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và giúp nhau lớn mạnh. Điều này bao hàm việc đối thoại tương cảm, nh́n nhận những thay đổi nơi nhau, nhẫn nại trong những lúc sa lầy, bùn đọng, hoặc trong những lúc người kia cần có th́ giờ để đuổi kịp ḿnh. Có nghĩa là cần phải không ngừng làm mới lại sự sẵn sàng đối với nhau, chống lại cái khuynh hướng muốn rút lui và muốn chỉ có ḿnh. Tranh chấp, lời qua tiếng lại và đau khổ là những cái không thể tránh được nhưng tha thứ, chuộc lỗi và làm ḥa đă trở thành những yếu tố nội tại của hành vi yêu thương. Và lúc nào vợ chồng cũng t́m cách hiểu nhau và đáp ứng với nhau bằng cái tài khéo léo và quán thông của một người mẹ hoặc một người cha. Họ cảm thấy thực sự được yêu thương khi các nhu cầu của thế giới bên trong được người kia thấu hiểu và thực tế được dự ứng trước mà không cần phải nhiều lời giải thích cũng như cố gắng. Họ thực sự thấy buồn và thất vọng khi họ thấy họ chẳng có nghĩa lư ǵ đối với người bạn đời của ḿnh hoặc người bạn đời chẳng có nghĩa lư ǵ đối với chính họ, v́ yêu thương là làm cho sự cách phân tan ḥa vào sự nên một.

Việc tan ḥa này dĩ nhiên được thực hiện bằng nhiều cách nhưng mạnh mẽ hơn cả là qua giao hợp tính dục. Ở đó, thân xác, tâm tư và xúc cảm trở nên một trong một cảm nghiệm trong đó sự nên một và toàn diện tính dẫn họ đến ngất ngây. Xác thân trở thành môi trường cho sự hiệp nhất toàn diện hệt như sự nên một không c̣n biên giới về phương diện thể lư giữa người mẹ và đứa con.

An b́nh

Sự yêu thương giữa vợ chồng như thế, một yêu thương nhằm nâng đỡ, chữa lành và giúp nhau lớn mạnh trong một môi trường liên tục, đáng tin cậy và dự đóan được, sẽ đem lại một bầu không khí yêu thương cho con cái phát triển, và thực sự đó là căn bản chắc chắn duy nhất cho sự lớn mạnh của chúng. Được như thế, gia đ́nh quả là đơn vị căn bản của xă hội nơi người ta học biết yêu thương.

Cái bản ngă khẳng định, đă được dị biệt hóa nơi người phối ngẫu kia, sẽ sống trong sự cân bằng giữa phân cách và nên một. Người phối ngẫu ấy sẽ khai triển các đặc điểm riêng của ḿnh và dung hợp với người bạn đời theo từng mức độ để cuối cùng tan ḥa vào một hợp nhất toàn diện trong giao hợp... Vợ chồng biết rơ các thói quen, các cách nh́n, các ư kiến, các giá trị, các ưu tiên, và các giới hạn của nhau.

Trong diễn tŕnh yêu thương ấy, vài việc sau đây sẽ xẩy đến với các thành viên của gia đ́nh. Mỗi thành viên của gia đ́nh sẽ dần dần tự dị biệt hóa. Đứa con sẽ lớn lên về thể xác, tâm trí và xúc cảm để dần dần tách rời khỏi mẹ cha. Vợ chồng tiếp tục phát triển thể xác, tâm trí và xúc cảm của ḿnh. Mỗi ngày họ càng học biết về ḿnh nhiều hơn và hội nhập được một cách tiệm tiến các phần khác nhau trong nhân cách ḿnh. Họ học cách trở thành chồng/vợ, mẹ/cha. Họ mở rộng tầm ư nghĩa và quan trọng của ḿnh khi trở nên tự tin về các tài nguyên và tài năng của ḿnh. Họ hội nhập ư chí với các cảm quan của ḿnh và lập cầu giao lưu giữa cơi ư thức và cơi vô thức. Tất cả các điều trên cho phép họ có được một cảm thức sắc bén về chính ḿnh đến độ dù tùy thuộc người kia nhưng họ không sống tùy thuộc sự cho phép tốt bụng của người ấy. Diễn tŕnh dị biệt hóa đưa nhân cách đến chỗ chín mùi, trở thành một thực thể duy nhất và khác biệt, mà theo truyền thống Kitô giáo vốn có số phận đời đời. Không có chuyện tái sinh trong một con người khác. Ta chỉ có một cuộc đời và một nhân cách để phát triển đầy đủ, và nhiên liệu để chúng lớn mạnh chính là t́nh yêu, chủ yếu nhận từ cha mẹ và vợ chồng.

Sự dị biệt hóa trên đi kèm với việc tự chiếm hữu bản thân một cách khẳng nhận và tiệm tiếm. Người đàn ông và người đàn bà nào khi ra khỏi tuổi thơ cũng mang theo ḿnh một mức độ nào đó trong cảm thức ḿnh chiếm hữu được ḿnh và thấy ḿnh thoải mái về từng phần trong bản thân ḿnh. Diễn tŕnh tự chiếm hữu và tự khẳng định ấy sẽ được hoàn tất với sự giúp đỡ của vợ hoặc chồng v́ t́nh yêu của họ sẽ vén mở và xác nhận các phong phú đang khai mở nơi nhau. Tất nhiên, vợ chồng không phải là những người duy nhất làm được điều đó. Con cái, thân bằng quyến thuộc cũng có góp phần; tuy nhiên, vợ chồng phải đóng vai tṛ chủ yếu.

Cái bản ngă khẳng định, đă được dị biệt hóa nơi người phối ngẫu kia, sẽ sống trong sự cân bằng giữa phân cách và nên một. Người phối ngẫu ấy sẽ khai triển các đặc điểm riêng của ḿnh và dung hợp với người bạn đời theo từng mức độ để cuối cùng tan ḥa vào một hợp nhất toàn diện trong giao hợp. Sự tan hoà này được phản ảnh trong ư thức hỗ tương ngày càng lớn mạnh về thế giới bên trong của nhau. Vợ chồng biết rơ các thói quen, các cách nh́n, các ư kiến, các giá trị, các ưu tiên, và các giới hạn của nhau. Có sự tương hợp trong cảm quan và hành động.

An b́nh

 

T̀NH YÊU THIÊN CHÚA

T́nh yêu vợ chồng phản ảnh t́nh yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội và t́nh yêu của Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Ba Ngôi gồm Ba Ngôi Vị tách biệt (distinct) và khác nhau, nhưng cùng một bản tính. Chính t́nh yêu hợp nhất các Ngài, một t́nh yêu giữa những ngôi vị tuyệt đối bằng nhau trong liên hệ với nhau. Như thế, ch́a khóa để hiểu Chúa Ba Ngôi là các Ngôi Vị trong liên hệ yêu thương. Mỗi Ngôi Vị đều hoàn toàn dị biệt hóa đối với Ngôi Vị kia và chiếm hữu ḿnh một cách đầy đủ và khẳng định. Cũng giống như thế, t́nh yêu vợ chồng là một trong những liên hệ bổ túc, trong đó, vợ chồng dần dần được dị biệt hóa và đạt tới việc chiếm hữu ḿnh một cách khẳng định. Họ trở nên hoàn toàn sẵn sàng cho nhau và nhờ thế có thể hiến thân trọn vẹn cho người khác, cho con cái và sau cùng cho toàn thế giới. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai đă dị biệt hóa trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đă tự chiếm hữu ḿnh trọn vẹn và khẳng nhận và do đó đă có thể hiến thân trọn vẹn cho toàn thể thế giới cho đến tận thế.

Các thành viên trong Ba Ngôi không lấy nhau nhưng liên hệ với nhau trong yêu thương. Học thuyết của Thầy Chí Thánh cho ta thấy hôn nhân chỉ có ở đời này; nó không có ở đời sau. Đặc điểm của đời sau là liên hệ yêu thương, nhưng hôn nhân chính là phương thế thông thường nhất để chuẩn bị những người đàn ông và những người đàn bà hướng tới cái liên hệ yêu thương ấy. Nước Trời quả đă khởi sự ngay ở đời này.

 

GIA Đ̀NH VÀ T̀NH YÊU

Bản tóm lược trên đây về t́nh yêu cho ta thấy một cách rơ ràng rằng trong hôn nhân, và đặc biệt trong Bí tích Hôn phối, Thiên Chúa đă đặt trong tay ta một trong những phương thế chính để phát triển các mối liên hệ yêu thương để chuẩn bị ta hướng về cơi đời đời. Gia đ́nh chính là chiếc nôi của t́nh yêu, do đó không có bí tích nào, sau Phép Rửa và Phép Thánh Thể, quan trọng hơn bí tích hôn phối. Gia đ́nh là giáo hội tại gia mục đích tạo ra các điều kiện để các phần tử vươn tới những tiềm năng đầy đủ nhất của t́nh yêu, một t́nh yêu phản ảnh và tham dự vào t́nh yêu của Chúa Ba Ngôi; sự chia sẻ này chính là số phận sau cùng của ta.

 

Vinc. Vũ Văn An

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.