HÔN NHÂN, ĐỨC TIN VÀ T̀NH TÊU

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

marriage

 

Bản Việt ngữ của
Vincent Vũ Văn An
Sydney NSW, tháng Chín năm 1999

 

 

CHƯƠNG MƯỜI LĂM

 

NGĂN NGỪA HÔN NHÂN TAN VỠ

 

Quan điểm truyền thống vẫn cho rằng để có thể ngăn ngừa hôn nhân tan vỡ, cần phải có những luật lệ khắt khe chống ly dị, đi đôi với các giáo huấn luân lư và những giá trị xă hội có tác dụng lên án các cuộc tan vỡ hôn nhân, các cuộc ly dị và tái kết hôn. Trong những hoàn cảnh như thế, những hoàn cảnh từng đă có nhiều trong các xă hội Tây Phương măi cho đến những năm gần đây, ly dị và tái kết hôn đều không được cả xă hội lẫn tôn giáo chấp nhận. Như thế, không dễ ǵ những người đàn ông và những người đàn bà có thể chia tay nhau khi phải đứng trước những sức chống đối phối hợp kia. Điều ấy không có nghĩa là cuộc hôn nhân nào cũng triển nở tốt đẹp hoặc tương hợp. Thực vậy, phe chỉ trích tính cách bất khả tiêu thường cho rằng nó đă giam hăm những cặp vợ chồng mà liên hệ đă chết từ lâu hoặc đă chia tay hoặc tuy c̣n sống dưới một mái nhà nhưng chẳng c̣n chút gắn bó về xúc cảm và tính dục. Cái khuynh hướng tiến tới ly dị dễ dàng hơn chính là một cố gắng để giải thoát những con người như thế khỏi xích xiềng của những hoàn cảnh tuyệt vọng. Việc giải phóng những người đàn ông và đàn bà giúp họ cơ hội thứ hai chính là động lực đứng đàng sau phong trào nới lỏng ly dị. Trong giai đoạn này, chủ yếu trong hai thập niên 1950 và 1960, ly dị được quan niệm như một cái ǵ tích cực và sáng tạo, và việc chống đối của Kitô giáo đối với nó được coi như giáo điều, có tính thù nghịch đối với cái chân thực nhân bản.

Dần dần, cùng với đà gia tăng của ly dị, người ta mới thấy rằng hậu quả của nó không hẳn là không có những hệ lụy sâu sắc và đôi khi kéo dài cũng như gây ra nhiều khó khăn. Như Chương trước đă chứng tỏ, ly dị có những hậu quả tai hại trong ngắn hạn và có thể cả dài hạn nữa; nó cũng gây nhiều thiệt hại cả tư riêng lẫn công cộng. Một bức tranh đang bắt đầu tỏ hiện cho ta thấy chính tính cách bất khả tiêu mới phản ánh chính xác nhất các hoài vọng và toàn vẹn tính của con người, c̣n ly dị chỉ là một biểu thức lệch lạc. Kitô giáo có trách vụ phải làm cho xă hội tin rằng việc chống đối ly dị của ḿnh không phải là vấn đề giáo điều mà là một cần thiết nhân bản. Nhưng để làm được chuyện đó, Kitô giáo phải cho họ thấy rằng ḿnh không giữ các cặp vợ chồng kẹt cứng lại với nhau chỉ v́ những nhu cầu xă hội và kinh tế; trái lại, việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau, cùng nhau tăng trưởng cũng như những thoả măn nhau về xúc cảm và tính dục là điều có thể tương hợp với sự bền vững trong hôn nhân. Muốn thế, cần phải có một lối quan niệm mới về hôn nhân cùng với việc huấn luyện, nâng đỡ và giáo dục cần thiết để người ta nắm được lối quan niệm mới này nhằm ngăn ngừa các tan vỡ hôn nhân.

 

VẤN ĐỀ Ư THỨC HỆ

Loại hôn nhân nào cần được duy tŕ? Câu trả lời của Kitô giáo là: cuộc hôn nhân nào cũng cần được duy tŕ. Nhưng câu hỏi kế tiếp mới quan yếu, tức là, khi nào một cuộc hôn nhân mới là một cuộc hôn nhân đúng nghĩa? Muốn trả lời câu hỏi này cách thỏa đáng, th́ phải chấp nhận rằng điều tạo nên hôn nhân hiện đang trong giai đoạn chuyển tiếp. V́ một đàng, có những cuộc hôn nhân trong đó người ta coi trọng những điều ở bên ngoài như tính cách bền vững, con cái và ḷng chung thủy, tức những điều tốt mà Thánh Augustinô đă khuôn định cho hôn nhân. Nhưng mặt khác, lại đang xuất hiện một kiểu hôn nhân trong đó thế giới bên trong của hai vợ chồng mới là điều quan trọng. Trong suốt cuốn sách này, chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh rằng cái lư tưởng hiện nay là phải di chuyển từ thực tại bên ngoài vào thực tại bên trong, được biểu thị qua việc thực hiện các tiềm năng cảm giới, xúc cảm, và tính dục trong một liên hệ b́nh đẳng về giá trị. Mức độ thực hiện có khác nhau tùy theo từng cặp vợ chồng, nhưng chắc một điều việc chối bỏ các khát vọng này cuối cùng sẽ buộc người ta phải kết thúc cuộc hôn nhân của họ. Những khát vọng này có liên hệ mật thiết với việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng nhau tăng trưởng, thẩy đều là những giá trị Kitô giáo sâu xa. Như thế, cái khuôn mẫu hôn nhân đang xuất hiện kia không hề phản lại Kitô giáo chút nào, trái lại nó giúp hai vợ chồng cơ hội thực hiện được cái tầng sâu hơn của con người họ, cái tầng sâu hơn của t́nh yêu vốn phản ánh t́nh yêu Thiên Chúa.

An b́nh

Như thế cần phải bảo vệ cái sinh lực nội tại (internal dynamism) là cái sinh lực đầu cùng nắm vận mệnh của hôn nhân. Điều ấy không có nghĩa là các yếu tố xă hội không đóng một vai tṛ nào cả. Xin đơn cử một thí dụ: vợ chồng chỉ có thể chú tâm đến các đ̣i hỏi sâu xa hơn của con người ḿnh khi họ được no đủ về kinh tế. Cũng như phải có sự b́nh đẳng về giá trị giữa các giới tính th́ cái mẫu hôn nhân đang xuất hiện kia mới thành công được. Do đó, phải dẹp bỏ các xáo trộn kinh tế, xă hội và chính trị th́ hôn nhân mới được ổn định đủ để thực hiện được các hoài mong mới của ḿnh. Từ nay trở di, sẽ có sự tương hành tế vi giữa ổn định xă hội, no đủ kinh tế và mẫu hôn nhân mới này. Nói chung đấy là những điều kiện trong ba mươi năm qua, là thời kỳ có những thay đổi lớn trong ư thức hệ về gia đ́nh.

Chính kiểu mẫu hôn nhân nhằm tới việc thực hiện cách sâu sắc hơn chính bản thân con người này mới là kiểu hôn nhân cần được bảo vệ, v́ chỉ có nó mới nhấn mạnh đến mối tương quan yêu thương đầy tính bản vị.

Chính kiểu mẫu hôn nhân nhằm tới việc thực hiện cách sâu sắc hơn chính bản thân con người này mới là kiểu hôn nhân cần được bảo vệ, v́ chỉ có nó mới nhấn mạnh đến mối tương quan yêu thương đầy tính bản vị. Nơi nào t́nh yêu có cơ hội chân thực để tăng trưởng, nơi đó Kitô giáo có quan tâm sâu sắc, v́ Thiên Chúa là t́nh yêu ( 1Jn 4:8), và việc bảo tồn những cuộc hôn nhân này không phải là việc thông đồng với một huyền thoại trừu tượng nhưng là đi theo kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch không ngừng được tỏ hiện cho con người.

 

NHỮNG PHÁT HIỆN CỦA KHẢO CỨU

Các kết quả khảo cứu trong năm mươi năm qua đều hướng vào việc xác định ra các yếu tố tác hại đối với h́nh thức hôn nhân đồng hành, là h́nh thức hôn nhân đang xuất hiện. Nói cách khác, trong quá khứ, các yếu tố tác hại đối với hôn nhân cổ truyền là bất ổn kinh tế, thiếu lănh đạo nơi người chồng, kém tề gia nội trợ nơi người vợ và bất trung nơi cả hai. Trái lại các nghiên cứu hiện nay cho rằng các yếu tố xă hội và tâm lư mới là các yếu tố làm què quặt sự tương hành của các sinh lực bên trong. Các yếu tố này đă được nhắc đến rồi, nhưng được lặp lại ở đây cùng với những phương thức ngăn ngừa.

 

YẾU TỐ XĂ HỘI

1.Tuổi: Các nghiên cứu trên đều nhất trí rằng các cuộc hôn nhân dưới 20 tuổi rất bất ổn. Đối với các cuộc hôn nhân cổ truyền, lấy nhau lúc nào là điều chẳng quan trọng ǵ. Tuổi đâu có trở ngại chi đối với khả năng làm việc, sinh nở và phục vụ nhau về phương diện thể lư. Nhưng tuổi rất quan hệ đối với cuộc hội ngộ giữa các nhân cách, là những chủ thể đi t́m sự hiểu biết lẫn nhau trên b́nh diện xúc cảm. Vợ chồng càng trẻ th́ càng mơ hồ về bản sắc, và với thời gian trôi qua họ sẽ trở nên những con người khác đ̣i hỏi được bổ khuyết bởi một con người khác hẳn.

Trên b́nh diện thực tiễn, có nhiều cách ngăn ngừa kiểu hôn nhân quá trẻ này. Giáo hội và xă hội nên nhấn mạnh đến những nguy hiểm của kiểu hôn nhân ấy và phải lo liệu để giáo dục họ bằng những sự kiện được thiết lập hẳn ḥi. Một cách khác để ngăn ngừa kiểu hôn nhân này là tránh những vụ cưới gả chỉ v́ trót mang bầu. Những cuộc hôn nhân ép uổng sau khi có bầu là những giải pháp nguy hiểm. Dần dần sự thực này đă được nhiều người nhận ra, nhưng khốn nỗi họ lại đưa ra giải pháp phá thai. Điều này lương tâm Kitô hữu không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, hiện người ta chưa biết những hậu quả tự nhiên của việc phá thai đối với cuộc sống của người đàn bà trong tương lai là như thế nào. Mục tiêu nhân bản cũng như Kitô giáo là phải giúp cô gái sinh con mà không bị nhục mạ hoặc ruồng rẫy. Cô ta có thể giữ đứa bé hoặc cho đi làm con nuôi, nhờ thế có thể tránh được những sai lầm nghiêm trọng do việc ép duyên khi đôi trẻ chưa sẵn sàng kết hôn.

Nhiều người muốn thử xem đời sống hôn nhân có những nguy cơ nào nên đă chọn sống với nhau không cheo cưới. Một lần nữa đây cũng là điều không được Kitô giáo ủng hộ. Thảo luận về các lư do đả phá việc sống chung này cần đến cả một pho sách bàn về tính dục con người; ở đây chỉ xin bàn đến một điểm. Có người chủ trương rằng sống với nhau là một chuẩn bị tốt cho hôn nhân đồng thời là cách giải thoát sinh lư vào cái tuổi đời lúc thúc ép về sinh lư lên cao. Bề mặt, xem ra có vẻ là giải pháp lư tưởng. Nhưng bất luận việc sống chung đưa lại kinh nghiệm nào đi chăng nữa, nó cũng không giống hệt như hôn nhân được. Thực tế, trọn bộ kinh nghiệm ấy bị bao phủ bởi một nhận thức tối hậu này là họ có thể chia tay nhau mà không gây phiền phức ǵ nếu họ muốn. Chính cái tự do đó thay đổi toàn bộ thực tại của kinh nghiệm kia. Dĩ nhiên đối với một số cặp, việc sống chung ấy có làm dễ dàng cuộc kết hôn sau đó của họ thật, nhưng đối với nhiều cặp khác, câu chuyện không như thế, trái lại khi thực sự lấy nhau, các khó khăn về xúc cảm và tính dục mới bắt đầu. Có chấp nhận được chăng là khi các cặp bất an về tâm lư tạm sống chung để có thể trưởng thành hơn mà tiến tới hôn nhân, nhưng điều này vẫn có thể thực hiện được qua những hẹn ḥ thích đáng.

Một phương thức khác là nhà nước và Giáo hội nên nâng tuổi tối thiểu để kết hôn lên. Điều này có thể khiến một số cặp lại liều sống chung với nhau trước khi lấy nhau. Người ta cũng có thể cho đó là vi phạm đến tự do cá nhân. Sự thực là nếu nhà nước có quyền hạ tuổi hợp pháp để kết hôn, th́ cũng có quyền nâng tuổi ấy lên. Cũng vậy, Giáo hội có thể đặt định các điều kiện riêng của ḿnh đối với các cuộc kết hôn Kitô giáo.

Tuổi rất quan hệ đối với cuộc hội ngộ giữa các nhân cách, là những chủ thể đi t́m sự hiểu biết lẫn nhau trên b́nh diện xúc cảm. Vợ chồng càng trẻ th́ càng mơ hồ về bản sắc, và với thời gian trôi qua họ sẽ trở nên những con người khác đ̣i hỏi được bổ khuyết bởi một con người khác hẳn.

Tuy nhiên trên thực tế, v́ luật lệ và tập tục Kitô giáo hiện nay vẫn c̣n giá trị tại Anh và các nơi khác, nên nhiều cặp vợ chồng đă có thể lấy nhau lúc chưa đầy 20 tuổi. Một số các cuộc hôn nhân này thuộc các nhóm xă hội vốn coi việc kết hôn sớm như chuyện b́nh thường, không những thế c̣n mặc nhiên ủng hộ nữa. Nguy hiểm thực sự là khi những cuộc kết hôn quá trẻ kia xẩy ra trong các nhóm kinh tế xă hội vốn không ủng hộ chúng. Đây là chỗ việc pḥng ngừa cần phải được đưa ra bằng cách bảo đảm rằng Giáo hội và xă hội phải nâng đỡ các cuộc hôn nhân ấy. Tỷ dụ như tổ chức những khóa dự bị hôn nhân trong đó khéo léo nhắc cho họ thấy những nguy hiểm và nhu cầu phải đi t́m giúp đỡ sớm sủa.

2.Có Bầu Trước Khi Kết Hôn: Đă có nhiều chứng cớ cho thấy việc có thai trước khi kết hôn cũng là một yếu tố gây hại khá nặng. Nhất là khi hai vợ chồng lại lấy nhau lúc c̣n quá trẻ. Có người vẫn nghĩ rằng việc có thai sớm sẽ giúp hoàn tất cuộc hôn nhân. Ngày nay, người ta mới hiểu ra hai vợ chồng cần có thời gian t́m hiểu nhau và hội nhập cuộc sống với nhau trước khi đứa bé ra đời. Muốn thực hiện điều đó, cần có các phương pháp hiệu nghiệm để điều ḥa sinh sản và hai người cần được huấn luyện để biết cách sử dụng những thời kỳ không thụ thai khi sinh hoạt tính dục bắt đầu. Kitô giáo vốn nhấn mạnh rằng việc giao hợp chỉ được phép trong hôn nhân mà thôi, nhưng nếu tiên liệu không tránh được th́ cần phải hết sức tránh có thai. Phá thai không phải là giải pháp được Kitô giáo chấp nhận, nhưng nếu xẩy ra việc có bầu trước khi kết hôn, th́ cộng đoàn phải nâng đỡ để tránh cho bằng được việc ép duyên.

3. Các Nhóm Kinh Tế Xă Hội: Tại Mỹ và Anh, có bằng chứng là hôn nhân dễ tan vỡ trong các nhóm kinh tế xă hội thấp. Các nhóm này thường được liên kết với việc kết hôn sớm, có bầu trước hôn nhân, nhà ở và triển vọng kinh tế nghèo nàn, do đó chồng chất khá nhiều yếu tố bất lợi. Rơ ràng không phải hễ thuộc giai tầng xă hội thấp là ít là người hơn hoặc không đủ điều kiện để kết hôn. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là họ cần được nâng đỡ đặc biệt. Nếu ta coi hôn nhân là điều hệ trọng, th́ xă hội cần phải nhận ra trách nhiệm của ḿnh đối với những người kém may mắn, và thấy ra những người thuộc các giai cấp này có nguy cơ nhiều hơn trong hôn nhân. Xă hội cần có những sắp xếp về việc làm, nhà ở, giữ trẻ, c̣n Giáo hội th́ lo nâng đỡ họ về phương diện bản thân.

4. Nhà Ở: Người ta cũng có bằng chứng là những người ly dị thường không có chỗ ở riêng khi khởi đầu cuộc sống hôn nhân của họ. Họ thường phải chia pḥng hoặc phải chuyển nhà luôn luôn. Chắc chắn đối với những người mới cưới nhau th́ nhà ở là ưu tiên hàng đầu mà các chính phủ cần phải xem sét.

5. Bối cảnh hỗn tạp: Cũng có chứng cớ là những cặp vợ chồng khác nhau về tôn giáo, chủng tộc, mầu da, giai cấp xă hội thường gặp nguy cơ tan vỡ hôn nhân nhiều hơn. Tuy nhiên ta thấy các khuôn mẫu tác phong này đang thay đổi và có thể trong tương lai, những cuộc hôn nhân hỗn tạp này sẽ ít bị nguy hiểm hơn. Dù thế, bất cứ khi nào bối cảnh của hai vợ chồng quá khác biệt nhau, th́ cần phải bảo đảm là họ phải tương hợp nhau về xúc cảm, chỉ như thế họ mới vượt qua được bất cứ tranh chấp nào c̣n sót lại trong các tập tục xă hội.

An b́nh

6.Hẹn Ḥ Làm Quen: Thời gian hẹn ḥ là thước đo lối sống của hai vợ chồng trong cuộc đời hôn nhân sau này. Người ta đă chứng minh rằng thời gian hẹn ḥ ngắn ngủi có liên hệ đến việc tan vỡ hôn nhân và điều đó không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ hai vợ chồng đâu có dịp biết nhau nhiều. Tuy nhiên đôi khi thời gian hẹn ḥ quá lâu, lâu một cách không cần thiết, cũng có thể là dấu hiệu nguy hiểm nếu một bên hoặc cả hai thực sự không dám cam kết bước vào hôn nhân hoặc không muốn có con và các lư lẽ họ đưa ra chỉ cốt ư biện bạch.

Thời gian hẹn ḥ, nếu bị giầy ṿ bởi bất đồng ư kiến, cứ hết căi nhau rồi lại chia tay, cũng là điềm chẳng tốt chút nào cho cuộc hôn nhân sau này. V́ việc hủy bỏ đính hôn là dấu cho thấy có khó khăn trong nhân cách.

Trên hết, đừng nên lấy bất cứ ai mắc rượu chè, bài bạc hoặc ma túy, dù có hứa sẽ sửa đổi sau khi kết hôn. Nhiều người tin t́nh yêu của ḿnh có thể thay đổi được người ḿnh yêu. Điều ấy có thể xẩy ra mà cũng có thể không. Chắc chắn một điều nên sửa đổi người bạn đời tương lai trước khi hơn là sau khi cưới nhau.

Điều trên cũng đúng đối với sinh hoạt tính dục. Những người đàn ông hoặc đàn bà dâm đăng, hoặc những người có thúc bách tính dục cao và có nhiều liên hệ tính dục trước khi lấy nhau phần lớn khó thay đổi sau khi lấy nhau.

Có bằng chứng cho thấy nhiều cuộc hôn nhân sau này gặp khó khăn là v́ một trong hai người đă không thực sự muốn kết hôn.

Cuối cùng cũng có bằng chứng cho thấy nhiều cuộc hôn nhân sau này gặp khó khăn là v́ một trong hai người đă không thực sự muốn kết hôn. Quả có nhiều phúc tŕnh cho thấy có người khi kết hôn vẫn c̣n do dự hoang mang và thực tế đă bị cưỡng bức phải kết hôn. V́ mọi sắp đặt đă đâu vào đấy cả rồi, nỡ nào thay đổi vào phút chót cho đành. Có trường hợp có người c̣n dọa hoặc toan bề tự vận hoặc chịu kết hôn chỉ v́ đă thất bại ở cuộc t́nh đầu. Cách này hay cách khác, rơ ràng là không yêu nhau khi kết hôn với nhau. Các vị mục tử khi chuẩn bị hôn nhân cho các cặp trai gái đang hẹn ḥ nhau không nên bỏ qua những e dè trên, ngược lại nên hỏi họ xem họ có thực sự và tự do ưng thuận trong quyết định của họ hay không.

7. Chống đối của Cha mẹ: Khi một phía hoặc cả hai phía cha mẹ đều nhất mực chống đối, th́ cuộc hôn nhân đă bắt đầu với một trở ngại nghiêm trọng, v́ hai vợ chồng mới cưới thiếu mất sự nâng đỡ của mẹ cha. Không được coi thường những chống đối này, trái lại cần phải lượng định chúng một cách cẩn thận. Nhưng v́ đôi trẻ nhiều khi không có vị thế làm được điều đó, nên các vị mục tử cần làm sao để những chống đối ấy đừng xẩy ra hoặc nếu xẩy ra th́ phải giúp đôi trẻ khắc phục chúng.

Không ai chủ trương hễ biết được các yếu tố xă hội này là tự nhiên loại trừ được các tan vỡ của hôn nhân, nhưng nếu các khám phá trên đây được nhiều người biết đến, được đưa vào hệ thống giáo dục và trở thành một phần của các khóa dự bị hôn nhân, th́ sẽ giúp ích rất nhiều trong diễn tŕnh rút giảm con số tan vỡ. Ta cũng t́m thấy nhiều trợ giúp khác khi đề cập đến từng giai đoạn của chu kỳ hôn nhân.

 

GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA HÔN NHÂN

Giai đoạn này bao gồm năm năm đầu và như đă nói đây là những năm chủ yếu đối với sự sinh tồn của hôn nhân. Đă có bằng chứng cho thấy có khoảng từ 30% đến 40% các vụ tan vỡ xẩy ra trong những năm này. Đàng khác, các vấn đề khởi sự trong giai đoạn này sẽ có tác dụng quan trọng đối với thành quả của hôn nhân trong nhiều năm kế tiếp. Có lẽ một điểm quan trọng có thể đưa ra đối với những năm này là người vợ thường nhận thức những vấn đề này trước hết. Nếu thuyết phục được các ông chồng biết coi trọng các lời than phiền rất chính đáng ấy của các bà vợ, th́ qua cái nét xă hội tâm lư này, một chiều kích ngăn ngừa khác sẽ khởi sự. Các bà vợ thường có tính nhậy cảm và trực giác nhờ xúc cảm mà phần đông các ông chồng không có và chính việc nh́n nhận điều này sẽ cứu được rất nhiều cuộc hôn nhân, dù các ông thấy khó chịu khi phải đối diện và thực thi sự nh́n nhận ấy.

Sau đó điều quan trọng là phải nh́n vào những chiều kích xă hội, xúc cảm, thể lư, tri thức và tâm linh của giai đoạn này.

 

CHIỀU KÍCH XĂ HỘI

1. Cha mẹ: Một vấn đề giai dẳng là khi một hoặc cả hai vợ chồng không thể tách ḿnh ra khỏi ảnh hưởng của cha mẹ, khi các vị này đi quá đà không c̣n phải là nâng đỡ mà là chen vào nội bộ của vợ chồng. Vợ chồng như thế sẽ bị chết cứng giữa hai ḷng chung thủy: một với người bạn đời và một với cha mẹ. Dù vậy họ nên biết ưu tiên phải ở chỗ nào; dĩ nhiên ở người bạn đời. Trên b́nh diện tâm lư, người phối ngẫu quá gắn bó sợ làm phật ḷng cha mẹ. Nhưng nên để sự phật ḷng này xẩy ra, dù cha mẹ có giận hờn, lên án và đe dọa đi chăng nữa. Trong những lúc như thế, người kia cần nâng đỡ bạn ḿnh v́ bạn ḿnh thấy sự tách rời ấy khó khăn quá về phương diện xúc cảm, và do đó, có thể bị ân hận và mặc cảm tội lỗi dầy ṿ. Thực ra, đường lối cứng rắn bao giờ cũng thành công. V́ vào cái lúc xế chiều của cuộc đời, cha mẹ cần con cái hơn con cái cần cha mẹ. Khi trận chiến dành quyền đă hạ hồi phân giải, cha mẹ sẽ đành phải chấp nhận rằng bọn trẻ vẫn c̣n săn sóc và yêu thương ḿnh nếu chúng c̣n điện thoại mỗi tuần một lần dù không hàng ngày, thỉnh thoảng đến thăm dù không định kỳ, và không c̣n mong chúng phải v́ ḿnh mà bỏ qua cuộc sống xă hội của chúng. Những điều này xem ra có vẻ tàn nhẫn, nhưng nhiều cuộc hôn nhân đă tan tành chỉ v́ những điều ấy. Cho nên liên hệ đúng đắn với cha mẹ cần được ấn định rơ rệt ngay từ đầu khi mới lấy nhau.

2. Bạn Bè: Đối với bạn bè cũng vậy, tuy vấn đề không gay cấn bằng. Ở đây, ta thấy một trong hai người có thể tỏ ra ghen tương thái quá đối với người bạn đặc biệt nào đó của bạn ḿnh. Trong những hoàn cảnh như thế, người bạn kia có thể bị hy sinh để mưu lấy an b́nh gia đạo, nhưng điều này vẫn không giải quyết đuợc vấn đề v́ chẳng bao lâu người bạn khác sẽ trở thành đối tượng của ngờ vực. Người bạn này có thể bị tố cáo là nhồi nhét những tư tưởng bậy bạ vào đấu óc bạn ḿnh khiến họ ra sai lạc. Cần phải đánh giá những chỉ trích ấy và nếu thấy thiếu sót, th́ chủ yếu phải làm sáng tỏ vấn đề ấy ngay từ đầu. Nếu cứ bỏ qua một cơn ghen mà không đánh giá, th́ những cơn ghen khác sẽ tiếp nối. Cho nên cần phải đối chất với các cảm quan ghen tức trên, nếu không, con số bạn bè sẽ giảm dần và chỉ c̣n lại những ai được người kia chấp thuận. Và như thế ta lại thấy một khởi đầu mới trong đó sự kiểm sóat của người này đố́ với cuộc đời của người kia chẳng chóng th́ chầy sẽ bị thù ghét, đặt nền cho nhiều vấn đề trầm trọng sau này, khi người bị vào khuôn kia sẽ vùng dậy đi t́m tự do, nổi loạn chống lại người bạn đời độc đoán của ḿnh.

3.Tiền Bạc: Tiền bạc rất thường xuất đầu lộ diện trong các vấn đề giữa vợ chồng và ta thấy có ba vấn đề sau đây. Thứ nhất, sự bần tiện của người chồng hoặc thiếu khả năng quản lư của người vợ hoặc của cả hai. Thứ hai, việc tiêu sài bừa băi vào bài bạc, rượu chè hoặc may sắm a dua. Thứ ba, biến tiền bạc thành thuộc tính xúc cảm của t́nh yêu.

Nếu người chồng thực sự bần tiện, nghĩa là lúc nào cũng đưa cho vợ ít tiền hơn nhu cầu và bằng một thái nhục mạ, th́ cần phải đối chất với thực tại này càng sớm càng tốt. Cũng như đối với cha mẹ và bạn bè, nếu thực tại này không được đối chất sớm, nó sẽ đặt nền cho những thù ghét và giận dữ sau này. Chẳng thà một chút căi vă đắng cay lúc khởi đầu cuộc sống hôn nhân c̣n hơn phải thấy cơn giận cứ mỗi ngày một tích lũy thêm lên để cuối cùng đành mất niềm tin và ḷng trọng kính lẫn nhau. Thành thử gặp trường hợp như thế, người vợ nên đ̣i cho được số tiền mà nàng thấy cần thiết, nếu không sẽ không chợ búa chi cả. Không thể có những biện pháp nửa vời đối với những vấn đề căn bản, mà tiền bạc là một. Cũng thế, nếu người vợ thiếu khả năng quản lư, nàng phải mau chóng t́m cách học hỏi để vượt qua, và trong vấn đề này, nàng có thể nhờ chồng chỉ vẽ.

Thứ nhất, sự bần tiện của người chồng hoặc thiếu khả năng quản lư của người vợ hoặc của cả hai. Thứ hai, việc tiêu sài bừa băi vào bài bạc, rượu chè hoặc may sắm a dua. Thứ ba, biến tiền bạc thành thuộc tính xúc cảm của t́nh yêu.

Phí phạm tiền bạc trong bài bạc, rượu chè là những yếu tố phá hoại qủy quyệt, và một lần nữa phải thanh toán ngay từ lúc đầu mới lấy nhau, hoặc hay hơn nữa ngay từ lúc c̣n hẹn ḥ, như đă đề cập trên đây. Phần lớn là người chồng, chứ người vợ ít khi bài bạc hoặc rượu chè. Nếu yêu cầu nài nỉ mà không xong, th́ người phối ngẫu nên bỏ nhà một thời gian cho đến khi người kia chịu bỏ bài bạc, rượu chè.

Trong hôn nhân, tiền bạc là biểu tượng quan trọng của t́nh yêu. Vợ chồng nên cho nhau biết t́nh thế tài chánh của ḿnh. Thật không thể tin được có biết bao bà vợ không hề biết chồng ḿnh kiếm được bao nhiêu. Các ông chồng thường bào chữa là vợ họ không hiểu các vấn đề tài chánh và nhiều bà vợ lại bằng ḷng với lối giải thích ấy. Tuy nhiên, bom sẽ nổ khi bà khám phá ra chồng đang mắc rắc rối lớn về tài chánh hoặc đă sắp xếp tiền bạc theo những cách mà nếu biết trước bà sẽ không bao giờ chấp thuận. Buồn thay chỉ đến khi ra toà ly dị, chuyện tiền bạc mới được phanh phui chi tiết, lúc ấy chỉ c̣n đắng cay thất vọng làm cho vấn đề càng rối rắm thêm. Cho nên qui luật hữu ích cho cả hai vợ chồng là nên biết chính xác vị thế tài chính của ḿnh.

4.Sắp Xếp Việc Gia Đ́nh: Mặc dù các ông chồng càng ngày càng tham gia hơn vào công việc trong nhà, nhưng các bà vợ vẫn phải làm phần lớn công việc nội trợ, nhất là nấu nướng và giặt giũ.

Như thế dù đang có sự thay đổi theo hướng đó, người ta cũng cần phải đạt được sự chia sẻ thực sự các trách nhiệm trong nhà. Các bà vợ thường chịu đựng sự kỳ thị này với cái nh́n định mệnh. Tuy nhiên nhiều bà không chịu như thế và đ̣i chồng phải gánh vác nhiều hơn nữa công việc nội trợ trong nhà. Điều quan trọng là phải tuân giữ những điều đă được cả hai cùng thoả thuận. V́ nhiều khi ông chồng hứa nhưng chẳng giữ lới hứa chi cả và cái cảm thức bị coi thường như thế làm người vợ rất buồn bực. V́ thế điều quan trọng là người chồng đă hứa điều ǵ th́ phải làm điều ấy, dù chỉ là việc cỏn con, và những lúc người vợ yếu đau hoặc khi cần kíp th́ nên làm mọi sự theo hết khả năng của ḿnh. Đương nhiên người ta mong ông chồng làm nhiều hơn, khi các con ra đời. Thay tă, cho con ăn, thay phiên lúc đêm hôm đều là những việc chủ yếu cần chia sẻ, quan tâm.

5. Nghỉ Ngơi Giải Trí: Nếu việc hẹn ḥ trước đây tỏ ra thoả đáng, th́ hẳn hai vợ chồng mới cưới phải có nhiều điểm chung về các thú vui giải trí song song với các sở thích riêng. Điều quan hệ là người phối ngẫu này đừng nên loại bỏ dần các sinh hoạt giải trí của người kia và tự sắp đặt chúng theo cái qũy đạo sở thích riêng của ḿnh mà thôi. Tệ hơn nữa, có người v́ tự ḿnh không có sở thích giải trí nào hết, nên đă không chấp nhận bất cứ sinh hoạt xă hội nào và do đó dần dần giam hăm người kia luẩn quẩn trong nhà chẳng c̣n có ai ngoài chính hai vợ chồng. Phải chống lại những xu hướng như thế, v́ nếu không chúng sẽ tạo nên đắng cay thất vọng, và những đắng cay thất vọng này sẽ nổ bùng một ngày không xa.

Một số độc giả đề nghị phải cương quyết và mạnh mẽ chống lại người phối ngẫu không chịu chấp nhận nguyên tắc bất can thiệp hoặc cưỡng bức người kia thay đổi. Đă đành rơ ràng là vợ chồng phải kính trọng nhân cách của nhau, v́ nhân cách này thường làm phong phú lẫn nhau. Họ cũng phải chấp nhận một loạt những phong cách riêng, tuy làm ḿnh khó chịu nhưng không có hại đến chính mối liên hệ vợ chồng. Tuy nhiên, bất cứ khi nào người phối ngẫu này thấy ḿnh bị người kia đối xử một cách không thể nào chấp nhận được, mà cứ im lặng bỏ qua v́ sợ sệt th́ chỉ tổ chồng chất thêm giận hờn, một ngày kia sẽ nổ tung khi không c̣n sợ nữa. Chi bằng nên chặn cản những dị biệt quan yếu ngay từ buổi đầu mới lấy nhau hơn là để cho chúng sói ṃn dần sự tương hợp của mối liên hệ.

An b́nh

 

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

1. Lệ Thuộc: Trên thực tế, hai vợ chồng lệ thuộc nhau về xúc cảm. Họ cần được an toàn, chăm sóc, âu yếm và yêu thương. Họ muốn được khẳng nhận và vững tâm. Họ cần hy vọng, ủi an, tha thứ và khích lệ. Những điều này đều phải hỗ tương. Hai vợ chồng bổ túc các nhu cầu của nhau. Sáng kiến và thay đổi làm thăng bằng thụ động và đều đặn; óc mạo hiểm được bổ khuyết bởi ḷng cẩn trọng; óc lư luận bởi cảm quan; quá khích bởi chừng mực; quả quyết bởi dè dặt; tự tin bởi đa nghi; nhẫn nại bởi nóng nẩy. Hơn nữa, các vai tṛ trên có thể tạm thời đảo ngược hoặc lên xuống trồi sụt như những đức tính được chia sẻ chung trong các hoàn cảnh thích hợp.

Nhưng sự lệ thuộc có thể mang h́nh thức khác. Đó là trường hợp người phối ngẫu này cứ tiếp tục coi người kia như đại biểu của uy quyền, của khôn ngoan, của sáng kiến và trổi vượt. Họ thích được bảo phải làm ǵ, phải chọn ǵ, phải đi đâu, phải đọc ǵ; họ dễ dàng nhận trách nhiệm đối với bất cứ điều ǵ không hay xẩy ra và nói chung họ hành xử như một đứa trẻ c̣n lệ thuộc. Cái h́nh thức lệ thuộc này vô cùng nguy hiểm. V́ chẳng chóng th́ chầy, người như thế sẽ trưởng thành lên và lúc đó họ sẽ nổi lên chống lại người kia như họ đă chống đối cha mẹ họ, và điều này từng phá tan cả hàng triệu cuộc hôn nhân.

Khi một người phối ngẫu thấy ḿnh hành xử kiểu này, họ cần lượng giá đầy đủ hoàn cảnh của họ. Đây là hoàn cảnh cực kỳ khó khăn v́ họ thích kiểu mẫu hôn nhân này. Họ thích được chăm sóc, v́ họ đâu có trưởng thành trong các năm ấy. Nhưng v́ là những người phát triển chậm, nên rồi ra họ cũng sẽ lớn lên về phương diện xúc cảm. Lúc ấy họ sẽ thấy những cái làm họ ưng ư trước đây nay thật đáng ruồng bỏ, mạnh mẽ ruồng bỏ đến chính họ cũng phải ngạc nhiên. Bởi vậy, càng sớm nhận ra sự lệ thuộc của ḿnh, họ càng sớm thực hiện được những bước tự lập đầu tiên nhờ sự giúp đỡ của chính người phối ngẫu, nay được cảm nghiệm như người trợ lực chứ không c̣n là người áp chế nữa. Cũng thế, người phối ngẫu trổi vượt có thể cảm thấy vui khi được người kia trọng kính ḿnh, nhưng nếu họ ư thức được hoàn cảnh, họ phải giúp người bạn đời ḿnh đạt được tính tự lập càng nhanh càng tốt để họ khỏi cảm thấy âu lo không cần thiết.

2. Ḷng Tự Hào: Một trong những đặc điểm của hôn nhân hiện đại là nhu cầu của hai vợ chồng muốn được người bạn đời trân qúi, cảm thấy ḿnh quan trọng và nhờ thế duy tŕ được niềm tự hào riêng. Tuy nhiên, nhiều cuộc hôn nhân ngày nay đang phải sống trong cảnh thăng trầm về xúc cảm. Có khi niềm tự hào của người này xuống dốc v́ bị chỉ trích, th́, nói một cách tương đối, người kia lại cảm thấy lên cao v́ tạm thời đă lập được thế thượng phong. Điều này có thể chỉ xẩy ra rất ngắn v́ chẳng bao lâu sau t́nh thế bị đảo ngược lại. Cho nên, điều cần là cả hai vợ chồng cùng phải thẳng thắn phê b́nh lẫn nhau và, quan trọng hơn nữa, là biết đánh gía nhau một cách thích hợp và thường xuyên. Nếu một người phối ngẫu không biết khẳng nhận, th́ cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt. Hôn nhân hiện đại đ̣i hỏi t́nh yêu, nhưng cách biểu lộ t́nh yêu mạnh nhất chính là biết đánh giá một cách tích cực.

Các cặp vợ chồng thường đến than phiền với các huấn đạo viên rằng họ thấy họ không c̣n được yêu thương nữa. Ngay từ buổi đầu mới lấy nhau, người phối ngẫu của họ chưa bao giờ cho họ dấu ǵ là họ đáng yêu cả. Trước đó, có thể họ đă từng có một cuộc t́nh trong đó họ thấy họ được cần đến và được đánh giá cao. Nhưng nay rất giận v́ người bạn đời từ khước họ cái cảm quan ấy. Chấm dứt cuộc hôn nhân này há chẳng tốt hơn sao? Đôi khi họ rất ngạc nhiên khi thấy người phối ngẫu thực sự yêu ḿnh và sẵn sàng nói như thế trước sự hiện diện của huấn đạo viên. Tuy nhiên vợ chồng không thể sống mà cứ phải trả tiền cho mấy ông huấn đạo viên. Họ cần học cách biết nh́n nhận lẫn nhau một cách yêu thương, và những năm đầu tiên này là những năm chủ yếu để vượt qua các trở ngại trong phạm vi này. Vợ chồng cần nhấn mạnh đến những cách biểu lộ thích đáng t́nh âu yếm cho nhau, những lối biểu lộ mà người kia có thể nh́n và cảm nhận được. Nếu điều ấy không xẩy ra th́ đừng nhượng bộ, v́ nhượng bộ rất tai hại. Nếu cần có thể rời bỏ căn nhà vợ chồng để người phối ngẫu kia biết là ḿnh muốn câu chuyện được giải quyết.

3. T́nh Thân Mật: Trong thời gian hẹn ḥ t́m hiểu, chắc nhắn hai vợ chồng đă sống với nhau khá nhiều thời gian. 'Với nhau' phải là một trong những đặc điểm chính của giai đoạn hẹn ḥ v́ bản chất của mối liên hệ trong giai đoạn này chính là vậy. Tuy nhiên, nấp sau t́nh thân mật ấy ta thấy có hai điều nguy hiểm. Điều thứ nhất, một trong hai không sống một ḿnh được. Điều này sẽ lộ ra sau này trong cuộc sống hôn nhân là lúc cần có sự thăng bằng giữa gần gũi và phân cách. Nghĩa là mỗi người hôn phối, tuy sống với nhau phần lớn thời gian, vẫn cần có thời giờ riêng cho ḿnh. Ấy thế nhưng người không sống một ḿnh được lại cứ theo người kia hết pḥng này qua pḥng khác, lúc nào cũng muốn ở gần nhau bất kể trong hay ngoài nhà. Họ không chịu được khi không có người bạn đời bên cạnh và việc có nhau, vốn được hiểu như dấu hiệu của t́nh âu yếm thân mật, nay đă thành ra ngột ngạt khó chịu. Người không dễ ở một ḿnh kia thường cũng lại hay ghen sợ người yêu bị cướp mất. Để khỏi lôi thôi, người kia có thể cứ để họ theo đuôi ḿnh hoài, nhưng sự nhượng bộ như thế chỉ tổ gây thêm thù ghét. Cần phải khuyến khích họ tập tự lập, làm việc này việc nọ, đi đây đi đó một ḿnh trong một thời gian ngắn cho đến khi họ có thể đương đầu với sự lẻ loi. Cần phải giúp họ chấp nhận cảm thức lo âu khi phải ở một ḿnh và, nếu cần, nên nhờ những nhà chuyên môn giúp đỡ để vượt thắng nỗi lo âu kia.

Nguy hiểm thứ hai là thiếu sự thân mật. Sau ngày cưới, người chồng có thể trở lại gặp bạn bè tại các bóp bia hoặc các câu lạc bộ, ở lại làm trễ và nói chung khước từ sự gần gũi vốn có trong thời gian hẹn ḥ. Người chồng có thể nại cớ làm trễ v́ lợi ích gia đ́nh mặc dù vợ con ít được nh́n thấy ông. Nhưng nếu hỏi cho cặn kẽ, có thể ông ta sẽ cho hay rằng cuộc sống hôn nhân làm ông ta ngột ngạt khó thở về phương diện xúc cảm. Trong trường hợp này, người vợ phải đương đầu với chồng, kiên tŕ đ̣i ông phải dành số giờ tối thiểu cho gia đ́nh. Đồng thời t́m hiểu xem bầu không khí nào làm ông vui, bầu khí nào trái lại làm ông xa lánh không thích gần gũi vợ con. Nếu người chồng không chịu đáp ứng, th́ cần phải làm mạnh cho ông ta thấy. Thà một màn tŕnh diễn ngọan mục khi thiện chí c̣n đó hơn là sau này khi kiên nhẫn đă tàn lụi.

4. Cô Lập Và Giao Du: Liên hệ mật thiết đến việc có nhau trong thời gian hẹn ḥ ta phải nói đến sự giao du ngoài xă hội. Nếu hai người cứ dính cứng lấy nhau trong thời gian hẹn ḥ, nhất định không chịu ḥa ḿnh với người khác, th́ ít khi họ thay đổi được sau khi đă kết hôn. Thời gian hẹn ḥ c̣n nói được là họ không muốn ai xâm nhập vào cái thiên đường nhỏ bé của họ. Nhưng nên thận trọng coi chừng thái độ tự cô lập ấy, nhất là khi một trong hai người muốn được ḥa ḿnh với người ngoài.

Sau khi lấy nhau, người phối ngẫu sống cô lập và xa lánh người đời trên chắc chắn sẽ hạn chế các giao du ngoài xă hội của người bạn đời và do đó thế giới của họ trở nên chật hẹp chỉ c̣n lại họ và những người thân thiết ruột thịt, trong đó người bạn đời của họ tức người muốn giao du ngoài xă hội sống như bị cầm tù. Nếu thấy mẫu tác phong này phát triển, ta không được thông đồng. Người muốn ra ngoài và có bạn tới nhà cần phải thi hành ư muốn chính đáng của ḿnh. Và nên khích lệ người bạn hay lo sợ trên để họ có thể vượt qua đuợc nỗi sợ sệt về phương diện xă hội của họ. Nhiều khi những người đó chỉ dự cảm trước một biến cố giao dịch nhưng khi đă tham dự rồi th́ họ lại vui vẻ hân hoan.

5. Chống Chế: Để có thể đương đầu với những hạn chế trên đây, hai vợ chồng thường dựa vào những cơ chế tâm lư giúp họ duy tŕ cái hoàn cảnh méo mó ấy.

Ta nên nhấn mạnh cho người phối ngẫu hiểu ta không phải là mẹ hoặc cha, mà là chồng hoặc vợ, và nên từ khước hành xử theo vai tṛ tưởng tượng do họ đ̣i hỏi. Ta nên luôn nhấn mạnh đến thực tại.

(a) Phóng Chiếu: Trong các năm đầu mới lấy nhau, có một sự bóp méo đặc biệt dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (projection). Cơ chế phóng chiếu này làm thay đổi cảm nghiệm của họ về người phối ngẫu. Thay v́ coi họ như con người thực sự của họ, người bạn đời lại tô vẽ họ theo h́nh ảnh của cha, của mẹ hay của một người ḿnh tôn sùng. Như thế, họ không cảm nghiệm con người thực của người phối ngẫu nhưng theo h́nh ảnh họ muốn về người đó và họ liên hệ với người đó trên căn bản hoàn toàn tưởng tượng. Đôi khi, có thể có người phối ngẫu thích cái bản sắc do họ vẽ về ḿnh. Người chồng thích coi vợ như đứa con gái nhỏ, người vợ coi chồng như đứa con trai bé, người chồng coi vợ như em gái, và người vợ coi chồng như anh trai - người bạn đời lại thích làm theo như vậy. Cả hai chuyện ấy, chuyện lựa chọn và chuyện bên kia đáp ứng theo, đều thuộc b́nh diện thiếu trưởng thành về xúc cảm. Những liên hệ có tính thông đồng này có thể bao gồm các mẫu tác phong thống bạo (sado-masochistic) trong đó tính tự cao tự đại và hay gây hấn của người này gặp được tính tự ti mặc cảm và cảm quan muốn-bị-phạt của người kia. Ta thấy có sự nối dài tế vi giữa bổ xung tính và lối tưởng tượng thông đồng này. Đương nhiên, tưởng tượng là t́nh trạng rất bất ổn, v́ chẳng chóng th́ chầy, thực tại của người phối ngẫu sẽ trồi lên và phá tan tưởng tượng. Nếu bị đối xử theo lối tưởng tượng, ta nên nhấn mạnh cho người phối ngẫu hiểu ta không phải là mẹ hoặc cha, mà là chồng hoặc vợ, và nên từ khước hành xử theo vai tṛ tưởng tượng do họ đ̣i hỏi. Ta nên luôn nhấn mạnh đến thực tại.

(b) Biện Giải: Phóng chiếu là một cơ chế vô thức qua đó việc lựa chọn và đáp ứng chính là cái con người đă mất, đă được thần tượng hóa và do đó không bao giờ bắt được. Khi hai vợ chồng về sống chung với nhau, họ phải làm cho nhau trở nên có nghĩa, cả hiện tại lẫn quá khứ. Để làm việc đó, có khi họ dùng đến cơ chế biện giải (rationalization). Cơ chế này không chỉ được dùng trong các cuộc hôn nhân thông đồng mà là trong bất cứ cuộc hôn nhân nào trong đó người ta không chịu đương đầu trực diện với một vấn đề xúc cảm hoặc một mối âu lo nào đó. Thay vào đó họ xử lư chúng bằng cách rút gọn chúng lại trong một giải thích hoàn toàn thuần lư. Theo lối đó, một hoặc cả hai vợ chồng nhất định từ khước không chịu bàn đến mối tranh chấp xúc cảm mà họ đang gặp phải. Trong vấn đề này, người phối ngẫu nh́n ra thực tại phải đ̣i giải quyết các vấn đề trên b́nh diện thực tại. Phải cởi bỏ những điều không đúng của biện giải cũng như mối lo âu nằm bên dưới chúng, để trực diện công khai với nỗi sợ và mặc cảm tội lỗi.

(c) Chối: Nếu biện giải không thành công, người ta sẽ chạy tới cơ chế chối phắt (denial). Khi bị người bạn đời cáo buộc một hành động vi phạm nào đó (rất thường) hoặc được họ khen đă làm một điều tốt ǵ đó (ít thường hơn), ta thường nhào tới chống chế bằng cách chối phắt cái hại hoặc cái động lực đứng đàng sau. Chối không hẳn là nói dối. V́ nói dối là hành vi hữu thức và có suy nghĩ. Chối là một bác bỏ được thai nghén từ vô thức vốn không muốn nhận trách nhiệm về những chuyện không vui và đôi lúc không chịu được lời khen.

Ba cơ chế phóng chiếu, biện giải và chối phắt này góp phần bóp méo sự trao đổi qua lại của vợ chồng khiến họ ṃ mẫm trong bóng tối, trừ khi họ nh́n ra các động lực của chúng. Chính đây là chỗ sự giải thích xây dựng của một người thứ ba sẽ giúp ích rất nhiều.

 

CÁC VẤN ĐỀ TÍNH DỤC

Chương Tám đă tŕnh bầy bằng chứng cho thấy sự thỏa măn tính dục và hạnh phúc hôn nhân có liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó điều quan trọng là phải t́m cách vượt qua các khó khăn về tính dục đang hiện diện hoặc đang xuất hiện trong giai đoạn đầu của hôn nhân.

1. Chuẩn Bị Giao Hợp Tính Dục: Ngày nay, thật hiếm có cặp vợ chồng nào đến ngày cưới mà lại chưa từng giao hợp với nhau. Tuy vậy, chỉ trong cái cảm nghiệm liên tục của một cuộc hôn nhân đă được xây dựng đàng hoàng, người ta mới có được sự an toàn tuyệt đối và cơ hội dạy cho nhau biết thế nào là gợi hứng tính dục. Nếu nhận rằng việc giao hợp tính dục là một cử hành, th́ các chi tiết chung quanh nó hẳn phải có tầm quan trọng rất lớn. Sự hiệp thông tính dục cần có chuẩn bị, một chuẩn bị cần hai vợ chồng phải thông đạt đầy đủ với nhau. Mỗi người phải nói cho bạn ḿnh biết điều ǵ làm ḿnh thích thú đang khi mơn trớn nhau (foreplay). Họ cần cho nhau biết các chi tiết về dáng dấp, rờ mó, vuốt ve, mơn trớn, hôn hít và thời gian cần để cả hai cùng có hứng. Đàn ông thường hay vội vàng tiến tới giao hợp, quên rằng vợ chưa sẵn sàng nhập cuộc, c̣n người vợ th́ quá thẹn thùng hoặc sợ sệt không dám cho chồng hay ḿnh thích ǵ. Do đó thông đạt tốt là điều chủ yếu, không được làm ǵ khiến vợ chồng hăi sợ không dám bộc lộ các ư thích tính dục đích thực của ḿnh sợ bị bài bác. Trái lại nên khích lệ lẫn nhau để nhận ra ư thích của nhau và ráng làm cho nhau thích thú càng nhiều càng tốt.

2. Giao Hợp: Sự gợi hứng kết thúc bằng việc giao hợp tính dục. Ở đây ta thấy tư thế làm t́nh do hai vợ chồng chọn, thời gian kéo dài của việc giao hợp, việc đạt tới tuyệt đỉnh cũng như những giây phút tiếp sau đó tất cả đều có ư nghĩa. Việc người vợ giả vờ khóai ngất là một nghệ thuật được nhiều phụ nữ thực hành trong nhiều thời đại. Nhưng ở thời đại người ta chuộng những cái chân thực của bản thân này, đó không phải là giải pháp thỏa đáng. Nếu người vợ không vui thích việc giao hợp, nàng cần nói thẳng cho chồng biết và cả hai sẽ phải t́m ra nguyên do và sửa chữa các nguyên do ấy.

Việc giao hợp tính dục có thể không diễn tiến được. Một số ít các cặp vợ chồng không hoàn hợp được cuộc phối ngẫu của ḿnh. Ngày nay gặp trường hợp như thế họ nên đi t́m sự giúp đỡ với rất nhiều hy vọng thành công.

Việc xuất tinh sớm và bất lực sơ khởi nơi người chồng, cũng như việc thiếu khoan khóai khi làm t́nh, khó khăn lắm mới đạt cực khóai hoặc chứng co đau âm đạo (vaginismus) nơi người vợ đều có thể nhận được giúp đỡ qua các phương pháp hiện hành trong khoa trị liệu tính dục.

 

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Việc pḥng ngừa chủ yếu đối với sự bất tương hợp về tri thức và tâm linh phải bắt đầu ngay lúc mới hẹn ḥ nhau. Đấy là lúc hai bên phải làm sao để tŕnh độ giáo dục cũng như hệ thống giá trị của ḿnh tương xứng với nhau. Phải có mức thông cảm với nhau về tŕnh độ tri thức để có thể hiểu nhau. Cũng thế, cần phải biết các quan điểm của nhau về chính trị, thẩm mỹ, văn hóa và v.v. Một nhà mà chia rẽ ngay bên trong th́ khó mà sống c̣n được. Vợ chồng nào không thể hiểu nhau cũng như không thể hợp với các giá trị của nhau th́ khó mà sinh hoạt được với nhau. Những vụ kết hôn vội vàng trong đó sự lôi cuốn về thể xác giữ phần chủ động hoặc do nhu cầu chạy trốn một hoàn cảnh không thể chịu đựng được thường là nguyên nhân cho những hoàn cảnh trong đó vợ chồng thấy họ có rất ít điểm chung với nhau.

 

GIAI ĐOẠN HAI CỦA HÔN NHÂN

Với điều kiện có được một vài phúc lợi vật chất giúp họ có một tiêu chuẩn tối thiểu về lương thực, y tế, nhà ở và việc làm, hai vợ chồng trong giai đoạn này có thể tập trung vào việc nuôi dưỡng gia đ́nh và làm dễ dàng việc nâng đỡ nhau, chữa lành nhau và cùng nhau tăng trưởng. Việc bế tắc hôn nhân trong những năm này bề ngoài có vẻ khó hiểu. V́ nếu đă sống qua được giai đoạn thứ nhất, th́ tại sao họ lại gặp những khó khăn quá lớn để có thể phá vỡ được cuộc hôn nhân; nếu như thế th́ ta làm được ǵ cho vấn đề này? Há sự kiện họ đă lấy nhau được nhiều năm nay chẳng là bằng chứng cho thấy họ đă thực sự lấy nhau đó sao, vậy tại sao bây giờ lại chấm dứt chia tay? Há hôn nhân đă không chết một cách giản đơn trong giai đoạn này cũng như trong giai đọan kế tiếp đó sao?

 

CHIỀU KÍCH XĂ HỘI

1. Thay Đổi Đơn Phương: Trong giai đọan này, có lẽ những lư do thông thường nhất tạo nên các thay đổi về xă hội là việc di chuyển đi lên hoặc đi xuống nấc thang xă hội. Việc đi lên nấc thang xă hội thường có nghĩa là nay người chồng đă có một môi trường xă hội mới, môi trường này có thể phù hợp có thể không đối với người vợ. Lư do làm nàng khó chịu có thể là những ngượng ngùng nói chung trong một thế giới mà nàng không thể ḥa ḿnh vào được. Tuy nhiên cũng có nhiều người đàn bà thay đổi được con người của ḿnh và do đó tiếp tục sống chung với chồng. Ch́a khóa của sức mạnh giúp họ tiếp tục sống chung như thế hệ ở thái độ mềm dẻo và dễ thích nghi. Nếu người vợ có được hai đức tính ấy, th́ nàng có thể đương đầu với hoàn cảnh mới mà không phải lo âu thái quá. Lo âu thường liên kết với thái độ quá cứng ngắc, nhất định không chịu chuyển dịch ra khỏi cái cũ, cái quen thuộc. Chồng có thể giúp đỡ và khích lệ vợ đối đầu với hoàn cảnh mới. Cần nhất phải cho nàng thấy hoàn cảnh mới không hề giảm thiểu hóa t́nh yêu của ḿnh đối với nàng. Trong một số trường hợp ta thấy có hiện tượng ngược lại nghĩa là người vợ thăng tiến về xă hội. Một khi đă nh́n nhận hôn nhân là một diễn tŕnh năng động, th́ các thay đổi này không làm ai ngạc nhiên, vợ chồng phải chuẩn bị tốt hơn để đương đầu với chúng. Việc đi xuống nấc thang xă hội có những đặc điểm đối nghịch. Bệnh tật thường đóng một phần quan trọng vào sự xuống dốc này, trong đó, bệnh tâm thần giữ vai chủ chốt. Nếu người chồng tụt thang xă hội do bệnh tâm thần, rượu chè hay phạm pháp, th́ công việc của ông sẽ bị ảnh hưởng và tiêu chuẩn của gia đ́nh sẽ tuột dốc theo. Người phối ngẫu có thể bỏ đi và dán cho ông cái nhăn hiệu 'hết sài'. Lời thề nguyền sống với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan đặc biệt có giá trị trong những hoàn cảnh như thế này. Người chồng cần sự nâng đỡ của vợ mới có thể thoát ra ngoài cơn khó khăn không may mắn này.

2. Căng Thẳng Xă Hội: Trong thập niên thứ hai của giai đoạn này, sẽ xẩy ra một số biến cố xă hội có ảnh hưởng tới kết quả của hôn nhân. Con cái đến tuổi thiếu niên và một trong số cha mẹ, thường là người mẹ, sẽ phải nhờ đến người kia để răn dạy chúng. Đôi khi vợ chồng cảm thấy không được người bạn đời nâng đỡ trong những hoàn cảnh như vậy. Việc cả hai cùng phối hợp sớm để dưỡng dục con cái sẽ đem lại cho cha mẹ một cảm thức tin tưởng lẫn nhau giúp họ vững tin cùng nhau đương đầu với cái thách đố của tuổi thiếu niên.

Một hoặc cả hai đấng sinh thành ra vợ chồng có thể qua đời, và cái chết này có thể gây nhiều sức ép xúc cảm nơi người phối ngẫu nào cảm thấy đau đớn về sự mất mát ấy. Nó có thể làm gia tăng mức lo âu khiến người này bị trầm cảm, và người kia có thể thấy điều ấy khó đương đầu nếu họ không quen chấp nhận các nhu cầu xúc cảm thoái bộ của bạn ḿnh. Người này có thể đ̣i được trấn an, được yêu thương, ôm ấp vỗ về (không có tính tính dục). Nếu hai vợ chồng vốn được huấn luyện để biết cung hiến sự trợ giúp này từ sớm lúc mới kết hôn, th́ họ có thể làm được điều đó trong giai đoạn hai này lúc các biến cố xă hội đẩy họ vào t́nh huống căng thẳng về xúc cảm.

Hôn nhân hiện đại chủ yếu là một gắn bó xúc cảm tạo nên sợi dây t́nh cảm liên kết hai vợ chồng, th́ việc tan vỡ của sợi dây này sẽ đem lại một loạt những triệu chứng như lo âu, giận dữ và trầm cảm.

Trong giai đoạn hôn nhân này, người chồng cũng có thể có những vấn đề đặc biệt riêng. Bất cứ lúc nào, nhưng đặc biệt ở tuổi 40, ông ta cũng có thể bị mất việc hoặc nhận ra rằng ḿnh chẳng c̣n có hy vọng ǵ được thăng thưởng hơn nữa. Những ngỡ ngàng xă hội như thế đem theo nhiều chấn động về xúc cảm và họ cần được người vợ thương yêu nâng đỡ.

Không một biến cố nào như trên sẽ làm gia tốc sự tan ră của hôn nhân khi cuộc sống xúc cảm của hai vợ chồng c̣n nguyên vẹn. Nếu từ trước đến nay vợ chồng vốn nâng đỡ nhau về phương diện xúc cảm, họ có thể chịu được một hoặc nhiều cơn khủng hoảng như thế mà không bị quá nhiều căng thẳng. Nhưng nếu từ buổi đầu hôn nhân, đă có sự thoái hóa đều đặn, với việc hai vợ chồng sống bên lề cuộc đời của nhau, th́ những khủng hoảng trên sẽ là những biến cố sau cùng của một chuỗi thất vọng và trống rỗng. Dù vậy, ngay cả khi mối liên hệ không được gần gũi hoặc an toàn đi chăng nữa, hai vợ chồng vẫn có thể vượt qua được sự thoái hóa trong giai đoạn này bằng cách cùng nhau cố gắng khám phá ra các nhu cầu của nhau và đáp ứng chúng.

 

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

1. Tăng Trưởng Về Xúc cảm: Trong những năm này, song song với sự thăng tiến đơn phương về xă hội, ta cũng thấy có sự tăng trưởng đơn phương về xúc cảm nữa. Một bà vợ đă lên tiếng một cách văn hoa và xúc tích rằng: "Cho đến nay tôi là điều mà những người khác như cha mẹ, thân quyến và chồng tôi muốn tôi là. Bây giời tôi muốn tôi là tôi". Những tâm trạng tương tự như thế cho ta thấy những lư do chính tại sao hôn nhân đă đổ vỡ trong giai đoạn này, và v́ vậy pḥng ngừa rất là quan trọng. Tuy nhiên việc này không dễ v́ do định nghĩa, người phối ngẫu kia đă từng mù mờ về bản sắc của họ và đă từng vui vẻ làm theo những điều người khác gợi ư. Sự cộng tác chặt chẽ với các ư muốn của người khác bao giờ cũng đáng hoài nghi. Bởi lẽ tuy hai vợ chồng thường vui vẻ thỏa măn các nhu cầu của nhau, nhưng trong tiến tŕnh sống chung, cũng có khi có bất đồng hoặc rơ rệt từ khước làm cái ǵ đó hoặc không làm cái ǵ đó, một sự từ khước không hẳn do bướng bỉnh ngang ngược, nhưng chỉ v́ nếu đồng ư sẽ đi ngược lại bản chất của người phối ngẫu. Như thế vợ chồng sẽ dần dần nhận ra họ có thể cùng tiến được bao xa với nhau và đến điểm nào th́ không nên nài nỉ nhau nữa. Những căng thẳng, chống đối để thiết lập ra bản sắc riêng như thế rất lành mạnh trong hôn nhân. Cho nên cần phải dóng tiếng báo nguy khi một người phối ngẫu thuận để người kia muốn uốn nắn ḿnh, muốn bẻ cong ḿnh ra sao tùy ư. Người như thế chưa tách ḿnh ra khỏi cái ta gọi là sự lệ thuộc cộng sinh (symbiotic dependence) với người phối ngẫu. Kiểu hôn nhân này được gọi là kiểu hôn nhân 'hoàn toàn' với nghĩa một người 'hoàn toàn' điều khiển c̣n người kia 'ḥan toàn' tuân theo. Nhưng rồi sẽ đến lúc, sự nên một toàn diện ấy bị nứt rạn, và người vợ hoặc người chồng sẽ bắt đầu lẩm bẩm, lúc đầu c̣n thấp giọng sau lớn dần. Thực thế, lúc đầu những phản đối mới chỉ như ḍng nước êm ả, nhưng chúng sẽ thành cơn thác lũ, nhanh hay chậm tùy ở cung cách đối phó. Nếu điều đó được quan niệm là dấu một bản vị riêng đang trồi lên, th́ các đ̣i hỏi của họ phải được nh́n nhận và thoả măn theo cung cách nh́n nhận ấy. Ngược lại, nếu những phản đối dù rất nhỏ lại bị coi như những chống đối ích kỷ th́ cuộc hôn nhân kể như hết thuốc chữa.

2. Không Thỏa Măn Liên Tục Về Xúc Cảm: Trong hai thập niên này, những thất vọng chán chường của giai đoạn đầu có thể đă thành như những giao thông hào kiên cố không thể làm ǵ hơn được. Người phối ngẫu trở nên câm nín, không can dự, không c̣n tin cậy ǵ được, hết lăng nhăng này đến lăng nhăng khác, thô lỗ cộc cằn, uống như hũ ch́m hoặc không c̣n nom ḍm ǵ tới con cái. Người chồng có thể có thành tích bất hảo trong việc làm ăn, và cả hai có thể bị nhận ch́m bởi các đ̣i hỏi của hôn nhân mà họ không được chuẩn bị đối phó. Những cuộc hôn nhân đó tuy chưa tan vỡ ngay nhưng chắc chắn sẽ đuối dần rất sớm ở giai đoạn hai này. Chỉ v́ hai người chưa hề sẵn sàng để kết hôn.

An b́nh

 

CHIỀU KÍCH THỂ LƯ

1.Không Thỏa Măn Tính Dục: Việc không được thỏa măn về tính dục cũng thế. Các vấn đề của giai đoạn đầu như ít khả năng làm t́nh, các khó khăn về nam tính và nữ tính, bất lực không hoàn hợp được hôn nhân vẫn c̣n đó. Khi các khó khăn về tính dục phối hợp với các khó khăn về xúc cảm, th́ mối liên hệ chẳng c̣n lại bao nhiêu. Tuy thế, ngày nay, các khó khăn tính dục như ít thích làm t́nh, bất lực và xuất tinh sớm có thể chữa trị được, nếu dai dẳng, th́ nên đi t́m phương thuốc tránh đừng để cảm thức tuyệt vọng phát triển.

2. Mất Hứng Thú Làm T́nh Sau Khi Sinh Con: Có những người đàn bà trước khi sinh con vẫn thích làm t́nh b́nh thường và làm t́nh thường xuyên, nhưng sau khi sinh con th́ tuyệt nhiên không thích nữa. Việc mất ư thích này là một hiện tượng khá phức tạp, được giải thích trái ngược nhau. Nếu hiện tượng ấy dai dẳng trong nhiều tháng, vợ chồng cần đi gặp bác sĩ để được giúp đỡ. Việc dai dẳng mất hứng thú làm t́nh trong nhiều năm sau khi sinh con vẫn thường được kể trong số các vấn đề giữa vợ chồng và chỉ cần loại trừ vấn đề độc nhất này thôi, nhiều tan vỡ của hôn nhân cũng đă không xẩy ra.

3. Không Trung Thành: Trong các năm này, việc không trung thành với nhau xẩy ra rất nhiều. Một hoặc cả hai người phối ngẫu có khi can dự vào một hoặc nhiều lần như thế. Trong trường hợp cứ xẩy ra hoài, người phối ngẫu kia có thể chịu hết nổi. Cho đến nay, có thể chữ tín của họ vốn cũng đă rất thấp rồi và sở dĩ họ c̣n đeo đẳng được nhau có lẽ bởi v́ họ không tin là ḿnh có thể kiếm ra ai khác. Giờ đây, h́nh ảnh về chính họ đă bắt đầu thay đổi và họ thấy họ không cần phải chịu đựng cái cảnh không thể chịu đựng ấy nữa. Nhưng bất cứ hành động thiếu trung thành nào cũng phải được thấu hiểu ngay từ đầu, chứ không phải khoan dung. Điều sinh tử là phải cho người phối ngẫu dễ có tác phong này biết rằng cứ phạm đi phạm lại sẽ lănh hậu quả nghiêm trọng, nghiêm trọng đủ để họ sợ đừng có cái kiểu tác phong ấy nữa.

Trong giai đoạn này, đôi khi chỉ cần một hành vi thiếu trung thành thôi cũng làm ngưng trệ cả một cuộc hôn nhân. Điều này hệ ở hậu cảnh của chính cuộc hôn nhân ấy, có thể nó đă tồi tệ đi từ lâu rồi về cả ba phương diện xúc cảm, tính dục và xă hội.

 

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Trong giai đoạn hôn nhân này, sự lệ thuộc vào quyền bính thường đă giảm đi và điều này cũng có nghĩa là tương quan đối với Chúa đă thay đổi và các giá trị khác được thiết định ra. Nói chung, những giá trị này bao gồm việc ra khỏi các tiêu chuẩn bên ngoài của tính chân thực (authenticity), tức là, từ chỗ chỉ biết kính trọng các phong thái về xă hội và luân lư của xă hội, người ta tiến tới việc tin tưởng vào chính các tài nguyên riêng của ḿnh để thiết định ra điều đúng điều sai. Sự thay đổi này có thể khiến người ta hết c̣n thực hành đức tin nữa bằng cách thôi đi nhà thờ. Người phối ngẫu nên thử nghiệm một cách sâu xa sự thay đổi niềm tin và hệ thống các giá trị kia, để phân biệt xem đó là sự từ bỏ trách nhiệm có tính căn để, hay chỉ có ở bề mặt.

 

GIAI ĐOẠN BA CỦA HÔN NHÂN

Giai đoạn cuối cùng này xẩy ra giữa tuổi năm mươi và lúc một trong hai người phối ngẫu qua đời. Trong giai đọan này, cuộc hôn nhân vẫn có nguy cơ tan vỡ, và do đó cần đưa ra những bước ngăn ngừa việc đó.

 

CHIỀU KÍCH XĂ HỘI

Có lẽ biến cố duy nhất quan trọng trong giai đoạn này là việc con cái rời khỏi gia đ́nh. Việc này sẽ được bàn kỹ hơn. Sự nghiệp cả đời của người chồng có thể kết thúc trong giai đoạn này và có thể v́ vậy mà hôn nhân tan vỡ. Một số viên chức cao cấp thường liên hệ với vợ trên căn bản coi các bà như một cái ǵ phụ thuộc về phương diện xă hội (social adjuncts) đối với nghề nghiệp của ḿnh, nên giờ đây nếu nghề nghiệp đă chấm dứt, th́ các bà đâu c̣n ăn nhằm ǵ đến các ông nữa. Bởi thế, vợ chồng cần phải vun xới các mối dây tâm t́nh cũng như xă hội, để nếu mối này không c̣n cần nữa, th́ mối khác c̣n đó để duy tŕ mối liên hệ vợ chồng.

 

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

1. Lệ Thuộc: Có một số cuộc hôn nhân đổ vỡ trong giai đoạn ba này. Khi được hỏi lư do, một hoặc cả hai người phối ngẫu giải thích là do nhàm chán hoặc thiếu các yếu tố hợp nhất. Xem sét kỹ hơn, ta thấy một lư do gây ra sự thái hóa trên là việc tiếp tục di chuyển từ lệ thuộc qua tự lập. Có những người đàn ông và đàn bà chỉ đạt tới tŕnh độ thiếu niên về xúc cảm khi đă đến tuổi năm mươi. Lúc ấy họ mới thấy họ vừa mới đạt tới giai đoạn biết định ra bản sắc riêng của ḿnh, ḿnh là ai và ḿnh muốn cảm nghiệm điều ǵ. Trong một số trường hợp, chẳng đáng ngạc nhiên chút nào khi họ muốn rẫy bỏ chính người bạn đời của họ, v́ họ thấy họ có rất ít điểm chung với người đó. Người đó ấy từ trước đến nay thường chỉ coi họ như kẻ lệ thuộc, có rất ít hoặc không có đời sống tự lập hay một thú vui ǵ riêng.

Việc ngăn ngừa hiện tượng đáng buồn này (đáng buồn lắm chứ v́ phải chia tay nhau sau hai ba mươi năm lấy nhau) tùy thuộc ở việc người phối ngẫu kia có sớm biết giúp họ trưởng thành hay không, v́ mặc dù sự tùng phục ḿnh có vẻ hấp dẫn đấy nhưng nên nhớ rằng ở một lúc nào đó, cuộc nổi loạn mạnh mẽ có thể sẽ xẩy ra.

Hôn nhân hiện đại chủ yếu là một gắn bó xúc cảm tạo nên sợi dây t́nh cảm liên kết hai vợ chồng, th́ việc tan vỡ của sợi dây này sẽ đem lại một loạt những triệu chứng như lo âu, giận dữ và trầm cảm.

2. Thiếu Mối Liên Hệ: Việc rời khỏi gia đ́nh của con cái cũng có thể bật đèn xanh cho một người phối ngẫu ra đi. Lại một lần nữa, một cuộc hôn nhân lâu năm nay bỗng tan tành, nhưng lư do ở đây có khác. Khi khảo sát mối liên hệ của họ một cách kỹ càng hơn, họ mới thấy rằng mặc dù lâu nay họ đă từng sống, từng ăn, từng ngủ, từng làm t́nh với nhau, trong cái điển h́nh xem ra như một cuộc nhân duyên, nhưng thực ra họ không sống qua nhau mà là qua con cái hoặc qua công việc. Cuộc sống xúc cảm của họ xưa nay hoàn toàn can dự vào người khác chứ không vào nhau và bỗng nhiên họ thấy họ như những người xa lạ. Chẳng có ǵ giữ họ lại với nhau trừ những kỷ niệm. Họ có ít nghĩa lư với nhau ngoại trừ, may ra, là bạn tốt. Đương nhiên điều này không có nghĩa là không có những biến động lớn đối với cuộc sống bản thân của họ khi họ chia tay nhau.

Để tránh những biến động đau đớn ấy, ta cần để tâm đến phẩm tính của mối liên hệ xuyên suốt cuộc sống hôn nhân. Người mẹ có thể đă quá quan tâm đến con cái c̣n người cha th́ quá mải mê với công việc. Cứ thế dần dần họ dạt xa nhau. Thành ra, mặc dù có con, vợ chồng vẫn cần phải duy tŕ cuộc sống phu thê với những nhịp bước xă hội, xúc cảm và tính dục của nó. Nếu họ nhấn mạnh đến điều đó, th́ việc các con rời bỏ gia đ́nh sẽ không để lại khoảng chân không trống rỗng nào.

An b́nh

 

CHIỀU KÍCH TÍNH DỤC

Trong giai đoạn này, số các ông chồng hết sung sức bắt đầu gia tăng nhưng xét một cách toàn diện th́ điều ấy không ảnh hưởng đến sự vững ổn của hôn nhân. Nếu sự bất lực không thể cứu văn được th́ việc thông cảm bản chất thể lư của nó cũng như việc bù trừ bằng t́nh âu yếm sẽ giúp ta rất nhiều.

 

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Trong giai đoạn hôn nhân này, các yếu tố đối nghịch nhau trong nhân cách bắt đầu được giải quyết dần. Người ta nói rằng đàn ông và đàn bà, nhất là đàn ông, sẽ chín mùi và điều này có nghĩa là họ dần dần hội nhập hữu thức với vô thức, luận lư với cảm quan, giận dữ với khoan dung, nam tính với nữ tính, và tất cả các phẩm tính bổ xung khác. Sự hội nhập này biến đổi các ưu tiên, các giá trị, các ư kiến, các mục tiêu và động lực. Vợ chồng có thể thấy ḿnh đang dạt ra xa nhau v́ cảm thức về điều có ư nghĩa đă không c̣n tương phùng nữa. Tuy nhiên nếu c̣n nể v́ nhau, kính trọng nhau và yêu thương nhau, th́ những khác biệt này có thể được giải quyết, nhưng cần phải duy tŕ những khía cạnh đó, v́ chỉ có thế ta mới xây được cái giá nâng cho những dị biệt nội bộ về ưu tiên.

 

NHỮNG DẤU BÁO NGUY BẤT CỨ LÚC NÀO

Các nhận định từ trước đến nay, trong Chương bàn về vấn đề pḥng ngừa này, phần lớn chỉ nhằm các vấn đề và các khuôn mẫu đặc thù mà các cuộc nghiên cứu cũng như các kinh nghiệm bệnh lư học cho là quan trọng. Ngoài ra, c̣n có thêm ba khuôn mẫu tác phong có ư nghĩa đáng kể đó là thiếu thông đạt, hay căi cọ và lănh cảm (apathy).

 

THÔNG ĐẠT

Trong kiểu mẫu hôn nhân cổ truyền, thông đạt chẳng có chi quan trọng ngoại trừ để giải quyết các nhu cầu thường nhật của cuộc sống. C̣n vế vấn đề yêu đương âu yếm, tuy các cặp vợ chồng có được một liên hệ ấm áp và gần gũi, nhưng thật ra sự thân mật ấy không phải là một thành phần phải có trong mối liên hệ. Nhưng nay, càng ngày người ta càng đ̣i hỏi điều ấy. Điều này không có nghĩa là hiện nay không hề có những cuộc hôn nhân trong đó người ta kém đối thoại với nhau, mà chỉ có nghĩa là khi không thể chấp nhận được, th́ sự kém đối thoại kia đă được xă hội nh́n nhận như là lư do chính đáng để ta thán và nếu cần để ly dị.

Thông đạt có nhiều h́nh thức: lời nói, thể lư, xă hội, xúc cảm, tri thức hoặc tâm linh. Vợ chồng nói chuyện và lắng nghe nhau, đụng chạm và đáp ứng, làm t́nh, giao du và hành động như một nhóm, biểu lộ và tiếp nhận âu yếm, trao đổi ư tưởng, cho và tiếp thu các nh́n nhận tâm linh của nhau. Ít có cặp vợ chồng nào thành công trong tất cả các khía cạnh trên, mà thực ra cũng chẳng cần như vậy. Điều quan trọng là hai vợ chồng cảm nhận và biết được rằng họ tin tưởng lẫn nhau và có thể vươn tới nhau trong bất cứ cách phối hợp nào thích hợp nhất. Những bế tắc tạm thời về thông đạt là chuyện thường t́nh trong mọi cuộc hôn nhân.

Chỉ khi nào người ta không thông đạt với nhau cả tuần, cả tháng, cả năm, th́ đó mới là dấu báo nguy cho thấy đang có cái ǵ rất trầm trọng xẩy tới cho mối liên hệ. Không thể để cái cảnh thiếu thông đạt ấy tiếp diễn thêm nữa, v́ nếu không, cuối cùng chả c̣n mối liên hệ nào nữa để ḥng lập lại. Cần phải tái lập lại thông đạt và bóc trần mọi mích ḷng, giận dữ, rẫy bỏ, sợ sệt để vợ chồng thấy rơ điều sai điều đúng.

 

CĂI CỌ

Vợ chồng nào cũng căi nhau. Nếu họ không căi nhau, ta có thể hoài nghi không biết thực sự họ có hạnh phúc hay không. Thế nào cũng có dị biệt, lăng quên, tranh chấp, thiếu sót, sa phạm gây đau đớn, hiểu lầm dẫn đến căi vă. Căi nhau ít hay nhiều, điều ấy thực không quan trọng. V́ nhân cách rất khác nhau. Có những người tâm tính hướng ngoại nhẹ dạ, động một tí cũng có thể căi nhau, nhưng cơn giận không dài, tan đi trong giây phút. Ư xấu cũng mất đi và cơn căi vă kết thúc nhanh như khi bắt đầu. Lại có những cặp rất ít khi căi nhau, nhưng đă căi là căi chết bỏ và phải lâu lắm mới giảng ḥa được.

Có hai dấu báo nguy cho thấy có điều trầm trọng đang hiện diện trong mối liên hệ. Dấu thứ nhất khi cuộc căi vă bắt đầu leo thang, cứ lặp đi lặp lại và vấn đề không được giải quyết. Dấu thứ hai, cuộc căi vă từ từ hoặc đột ngột chấm dứt nhưng vấn đề c̣n đó chưa giải quyết. Trong cả hai trường hợp, một hoặc nhiều vấn đề quan trọng không được giải quyết và có thể sẽ xuất hiện dưới h́nh thức khác, có thể trong lúc cuộc hôn nhân hết đường cứu chữa.

 

LĂNH CẢM

Việc ngưng căi cọ có thể là một h́nh thức lănh cảm sẽ được tổng quát hóa và đưa đến cảnh vợ chồng bắt đầu mất quan tâm đối với nhau. Trong các cảm quan mạnh, kể cả giận dữ, hai vợ chồng vẫn c̣n tích cực can dự vào nhau. Khi xúc cảm và cảm quan bắt đầu nguội tàn, người ta sẽ cũng bắt đầu giảm hứng thú đối với bất cứ điều ǵ xẩy tới cho cuộc hôn nhân. Họ chẳng c̣n tranh luận chi nữa v́ chẳng c̣n ǵ quan hệ. Sự tương hành giữa vợ chồng dần dần giảm xuống tới mức âu yếm chỉ c̣n là lịch sự, làm t́nh biến mất, hành động hỗ tương có tính xă hội chỉ c̣n là sống chung và cái mùi vị của mối nhân duyên không c̣n nữa, chỉ c̣n lại cái t́nh bạn nhạt thếch hoặc sự hiện diện nhửng nhưng có tính tượng trưng. Sự hiện diện ấy là khúc nhạc dạo trước khi kết thúc. Lănh cảm, v́ thế, cùng với căi cọ và thông đạt là ba dấu báo nguy quan trọng báo trước những nguy hiểm trầm trọng trong mối liên hệ hôn nhân.

 

MÀN THỨ NHẤT

Trong cuốn sách này, hôn nhân từng được diễn tả như màn thứ hai của một vở kịch hai màn. Màn thứ nhất là mối liên hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ. Chính trong tuổi thơ, đứa trẻ học được những điều chính yếu về sự tin cậy mà nếu thiếu chúng, liên hệ thân mật không thể nào tạo ra hoặc duy tŕ được. Mỗi cố gắng của cha mẹ để hành động một cách đáng tin cậy, một cách sẵn ḷng và một cách dự đóan được sẽ làm đứa trẻ vững mạnh hơn trong cảm nghiệm của nó về ḷng tin cậy, tin cậy chính nó và tin cậy người khác.

Trong hệ thống tin cậy, người trẻ học cách nhận và đáp trả yêu thương, cho và nhận, và đó là thành tố chủ yếu khác của liên hệ vợ chồng. Cả cho và nhận đều quan trọng. Có những người chỉ biết nhận, người ta gọi họ là những người lớn chưa trưởng thành, chỉ biết yêu ḿnh (narcissistic), nói trắng ra là ích kỷ. Họ không thoát ra được cái nhu cầu chỉ muốn thu vào và được chăm sóc. Có người lại chỉ biết cho mà không biết nhận v́ cho là ḿnh không xứng. Cho nên cần khuyến khích người trẻ biết đón tiếp và ghi nhận yêu thương cũng như biết quảng đại cho đi, sự phối hợp này sẽ bảo đảm tính cách liên tục của t́nh yêu sau này trong hôn nhân.

Trong cuốn sách này, hôn nhân từng được diễn tả như màn thứ hai của một vở kịch hai màn. Màn thứ nhất là mối liên hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ.

Mật thiết liên quan đến việc cho và tiếp nhận t́nh yêu là cảm thấy ḿnh đáng tự hào tức là thấy ḿnh đáng giá và đáng yêu. Cha mẹ có cơ hội đặc biệt giúp các con cảm thấy chúng đáng yêu. Họ có thể làm thế bằng cách khẳng nhận, khen ngợi và làm cho các bản vị đang xuất hiện này cảm thấy chúng sở hữu thân xác, tâm trí chúng và những ǵ chúng sở hữu đều tốt một cách vô điều kiện. Cần cho chúng thấy chúng được yêu không phải v́ những điều chúng làm hoặc thực hiện được nhưng chỉ v́ chúng hiện hữu mà thôi. Sự chấp nhận bản thân và người khác chỉ v́ họ là người chứ không phải v́ những giá trị họ có đối với ta, chính là những chuẩn bị cần thiết để ta đối xử với người khác như những con người chứ không phải như những đồ vật. T́nh yêu thuộc nhân vị tính (personhood) và một trong những khát vọng của hôn nhân hiện đại là muốn được đối xử như những con người.

Khả năng của cha mẹ, thân nhân và thầy cô trong việc giúp người ta lớn lên để cảm thấy ḿnh có giá trị và có thể tin cậy người khác, đáng yêu và có thể yêu người khác, biết chấp nhận ḿnh và chấp nhận người khác vô điều kiện, là những dấu hiệu tốt đối với màn yêu thương thứ hai trong hôn nhân. Dĩ nhiên những đức tính ấy không hoàn toàn tùy thuộc sự dưỡng dục; chúng cũng phản ánh bản nhiên và khả năng đáp lại các sáng kiến của cha mẹ, nhưng đáp ứng nào cũng cần sáng kiến trước.

 

CAM KẾT

Trong Chương này, chúng tôi đă bàn nhiều về việc pḥng ngừa dựa trên các khám phá của nghiên cứu và bệnh lư học. Điều này có thể cho ta cảm tưởng rằng như thế đă đủ để pḥng ngừa hôn nhân khỏi tan vỡ. Thực ra không phải như vậy. Chẳng có biện pháp nào có thể cứu văn được hôn nhân nếu người ta không cam kết sống chết với cuộc hôn nhân ấy. Chúng tôi tin rằng tính vĩnh viễn (permanency) là bản chất của hôn nhân. Và phương cách tiếp cận có tính toàn bộ của cuốn sách này là để chứng tỏ rằng cái bản chất bền vững của hôn nhân, nh́n trên phương diện xă hội, thể lư, xúc cảm và tri thức, đă có hạ tầng cơ sở ngay trong việc h́nh thành ra sự gắn bó hay sợi dây nối kết của con người. Nhưng sợi dây này rất mỏng ḍn, cho nên toàn bộ truyền thống Do thái và Kitô giáo đă nhấn mạnh đến việc sự mỏng ḍn ấy cần có ơn Chúa mới vượt qua được. Bí tích Hôn phối là điểm hẹn giữa bản nhiên và thần thiêng, được thần linh thấm nhiễm toàn diện. Hôn nhân là thực tại trần thế được trật tự thần thiêng thăng hoa và biến đổi. Cam kết qua đức tin cần kiến thức tự nhiên của khoa học, và khoa học cần sự khích lệ của trật tự thần thiêng. Chính cái hợp lực ấy mang lại sự sống cho hôn nhân. Cam kết sống vĩnh viễn hôn nhân là sự khích lệ mà chỉ có Chúa mới có thể và mới cung cấp được trong bí tích này.

 

TÓM LƯỢC

Ngăn ngừa hôn nhân khỏi tan vỡ là vấn đề phải theo các giai đoạn của hôn nhân, và hết sức để ư đến các chi tiết thuộc nhu cầu xă hội, thể lư, xúc cảm, tri thức và tâm linh. Việc phối hợp được sự chú tâm đến các chi tiết ấy với ḷng cam kết sống qua đức tin sẽ là bảo đảm tốt nhất ǵn giữ hôn nhân.

 

Vinc. Vũ Văn An

 


 

Tài Liệu Tham Khảo:

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.