HÔN NHÂN, ĐỨC TIN VÀ T̀NH TÊU

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

marriage

 

Bản Việt ngữ của
Vincent Vũ Văn An
Sydney NSW, tháng Chín năm 1999

 

 

PHẦN III

 

CHU KỲ CUỘC SỐNG HÔN NHÂN

 

 

CHƯƠNG CHÍN

 

GIAI ĐỌAN HẸN H̉

 

Phần II sách này gồm các chương từ 4 đến 8 đă thăm ḍ những h́nh thức có thể có trong mối liên hệ nhân bản phát sinh từ bản chất của hôn nhân hiện đại. Trong Phần III này, gồm bốn chương kế tiếp, ta sẽ xem sét một vài thực tại phức tạp mà các cặp hôn nhân phải giáp mặt trong những thời kỳ khác nhau của chu kỳ cuộc sống.

Hôn nhân thường được miêu tả như một định chế có đặc tính tĩnh. Nhưng thực ra, hai vợ chồng và con cái họ không thấy điều chi tĩnh trong suốt diễn tŕnh ấy cả. Họ sống qua thời kỳ hẹn ḥ tán tỉnh nhau (courtship), rồi trở thành vợ chồng, có con, rồi con cái lớn lên trong khoảng hai mươi năm, và khi chúng rời bỏ gia đ́nh, hai vợ chồng lại trở lại với mối liên hệ tay đôi như trước. Mỗi giai đoạn trên đây đều có những đặc điểm riêng và các nhà khoa học xă hội đă cố gắng rất nhiều trong việc khám phá ra các yếu tố cấu thành của từng giai đoạn này.

Theo lối phân loại cổ điển của Duvall tại Mỹ (1), ta thấy có tám giai đoạn. Giai đoạn một cho thấy vợ chồng chưa có con; giai đoạn hai từ lúc đứa con đầu ra đời đến ba mươi tháng; giai đoạn ba kéo dài đến năm thứ sáu; giai đoạn bốn, các con đi học, đứa đầu tuổi giữa 6 và 13; giai đoạn năm, đứa con đầu từ 13 đến 20 tuổi; giai đoạn sáu, các con đă trưởng thành; giai đoạn bẩy, vợ chồng đến tuổi nửa đời người (từ lúc 'tổ vắng' đến lúc về hưu) và giai đọan tám, từ lúc về hưu đến lúc một trong hai vợ chồng qua đời.

Trong sách này, chúng tôi xin đề nghị một chu kỳ ngắn hơn (2). Đó là chu kỳ ba giai đoạn, mỗi giai đoạn được khảo sát dựa trên các yếu tố nổi bật về xă hội, thể lư, xúc cảm, tri thức và tâm linh. Ba giai đoạn đó là:

Giai đoạn 1: năm năm đầu từ tuổi trung b́nh kết hôn (25.1 đối với đàn ông và 22.8 đối với đàn bà) đến cuối năm 20 đầu năm 30;

Giai đoạn 2: từ 30 đến 50 tuổi;

Giai đoạn 3: từ 50 đến lúc một trong hai người qua đời.

Trong chương này, chúng tôi xin bàn về giai đoạn hẹn ḥ tán tỉnh nhau.

An b́nh

 

CÁC ĐẶC TÍNH XĂ HỘI CỦA VIỆC HẸN H̉

Về việc hẹn ḥ tán tỉnh ngày nay, một trong các yếu tố được tài liệu chứng minh đàng hoàng là việc người ta được tự do chọn lựa, không c̣n chịu áp lực của gia đ́nh và xă hội nữa. Trong lư thuyết, việc trà trộn chung đụng giữa hai phái tính đă cho phép người ta được chọn lựa rộng răi hơn. Chúng tôi thêm chữ 'trong lư thuyết', là bởi v́, mặc dù bề ngoài sự lựa chọn này xem ra như không có giới hạn, thực sự người ta lại thường chỉ chọn bạn bè trong khu vực họ sinh sống. Các nghiên cứu sâu rộng tại Mỹ cũng như tại Anh đều cho thấy các cặp vợ chồng tương lai không những là những người từng sống gần nhau mà họ c̣n có đặc điểm tương tự nhau. Khuynh hướng khiến đàn ông đàn bà chọn lựa người bạn đời v́ những đặc điểm tương tự như những đặc điểm của chính ḿnh được gọi là 'sự kén đôi đồng lựa' (assortative mating) (3).

 

SỰ GẦN GŨI VỀ ĐỊA DƯ

Nếu sự tương đồng về xă hội là yếu tố chủ chốt trong việc chọn lựa, th́ thường người ta hay ḥ hẹn và lấy nhau v́ cùng cư ngụ ở một khu vực. Các nghiên cứu tại Mỹ về nơi cư ngụ của những cặp đính hôn và lấy nhau cho thấy gần 50% những đôi gặp nhau, hẹn ḥ nhau và cuối cùng cưới nhau đă từng sống trong khoảng đường kính 30 khu phố hoặc ít hơn (4). Sự gần gũi về địa dư cũng đă được ghi nhận tại Anh (5).

Phát hiện trên không có chi đáng ngạc nhiên. V́ mặc dù đàn ông đàn bà làm việc xa nơi cư ngụ và thường gặp nhau nơi sở làm, nhưng sau giờ làm, họ trở về với cái cộng đoàn nơi họ cư ngụ. Chính tại cộng đoàn này, họ sống phần lớn những th́ giờ nhàn rỗi, nhờ thế có sự chung đụng về xă hội và do đó t́nh bạn nẩy nở. Thành ra, chính nơi cư trú gần nhau đă tạo nên một đường ranh trong đó nhiều cuộc chọn lựa bạn trăm năm đă diễn ra.

 

TUỔI TÁC

Nhiều cuộc hẹn ḥ chỉ là tiếp nối t́nh bạn vốn đă có từ thuở thiếu thời. Tuy nhiên, phần lớn bắt đầu ở cuối tuổi mười mấy qua đầu tuổi hai mươi. Nếu chỉ kể hẹn ḥ mà thôi th́ có thể đă bắt đầu sớm hơn, nhưng người ta thực sự chỉ si mê nhau ở cỡ tuổi trên. Các bằng chứng nghiên cứu cho thấy tuổi giữa những người kết hôn thường tuơng đối khá giống nhau, đến độ, cách tuổi nhau quá là một chuyện hiếm khi xẩy ra. Thực thế, năm 1977 tại Anh và Wales, tuổi trung b́nh kết hôn (6) đối với đàn ông là 25.1 và đối với đàn bà là 22.9. V́ những cuộc kết hôn dưới tuổi 20 rất dễ bị đổ vỡ, nên điều quan trọng là phải biết hiện có bao nhiêu đàn ông đàn bà kết hôn ở tuổi ấy. Cùng năm trên, 9.4% đàn ông và 30.3% đàn bà đă kết hôn lúc chưa đầy 20 tuổi. Tuy so với các năm trước có sút giảm, nhưng tỉ lệ ấy vẫn c̣n quá cao đối với phụ nữ. Như chương 6 đă đề cập, sự tăng trưởng về xúc cảm vẫn c̣n tiếp tục xẩy ra ở tuổi 20 và 30, nên nếu tuổi kết hôn càng nhỏ th́ sự tăng trưởng kia càng có nguy cơ xẩy ra trễ hơn, khiến cho cuộc hôn nhân luôn căng thẳng.

 

GIAI CẤP XĂ HỘI

Song song với sự tương đồng về tuổi, ta thấy có sự tương đồng về giai cấp xă hội. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự tương đồng này có khuynh hướng mờ nhạt đi (7). Bên trong cách phân loại giai cấp xă hội, ta thấy sự tương đồng ấy mạnh nhất ở Giai cấp Xă hội loại I, giảm xuống ở Giai cấp Xă hội loại II và III rồi lại gia tăng ở Giai cấp Xă hội loại IV và V (8). Cũng giống như các yếu tố khác, sự ổn định trong tương lai của hôn nhân được nối kết với sự tương đồng về giai cấp xă hội. Các lư do khá hiển nhiên. V́ sự tương đồng về giai cấp có khuynh hướng đem lại cho người ta một cái nh́n giống nhau về cuộc đời. Người ta dễ chia sẻ những vấn đề thuộc sở thích và có quan hệ chung, và giảm thiểu các nguy cơ ḱnh chống nhau. Trong một cuộc nghiên cứu 4,858 cuộc hôn nhân tại Anh, bao gồm các giai cấp xă hội, chỉ có 315 trường hợp trong đó, đàn ông cưới người đàn bà thuộc giai cấp xă hội và tŕnh độ giáo dục thấp hơn, và 134 đàn bà lấy người đàn ông có vị thế xă hội thấp hơn ḿnh (9). Các cuộc hôn nhân ấy có nguy cơ dễ tan vỡ, là điều cũng xẩy ra cho các cuộc hôn nhân khác đạo.

 

TÔN GIÁO

Tôn giáo là sức mạnh rất lớn nối kết con người lại với nhau. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy khuynh hướng chung là các cuộc hôn nhân thường xẩy ra giữa những người cùng một tín ngưỡng (10). Tỷ lệ các cuộc hôn nhân cùng một đức tin như nhau (intra faith=giữa những Kitô hữu cùng hệ phái) dĩ nhiên tùy thuộc sự sẵn sàng có những người đồng đạo. Các cuộc hôn nhân liên phái (mixed marriages=hôn nhân giữa Kitô hữu với nhau nhưng khác hệ phái) đă được chứng tỏ là dễ đổ vỡ hơn (11). Tuy nhiên, cũng như với giai cấp xă hội, những cuộc hôn nhân cùng hệ phái càng ngày càng ít đi (12). Việc giảm thiểu các cuộc đồng hôn (endogamy) do giai cấp xă hội hay tôn giáo là một phần trong khuynh hướng đă đề cập trên đây về việc càng ngày các tiêu chuẩn từng được chấp nhận trong quá khứ càng bị thu nhỏ lại và càng ngày người ta càng khích lệ sự gắn bó t́nh cảm dù phải hy sinh sự gắn bó về xă hội. Khuynh hướng trên đem lại nhiều hệ lụy quan trọng cho các giáo hội đang phải đương đầu với các cuộc hôn nhân khác đạo và phải chăm sóc mục vụ cho các gia đ́nh Kitô hữu gồm nhiều niềm tin khác nhau. Hôn nhân luôn thánh thiêng và thánh thiện đối với cả hai vợ chồng và với tư cách là biểu tượng của mối liên hệ giữa Thiên Chúa với Dân Ngài, nó phải là nguyên tắc hợp nhất hai vợ chồng lại với nhau.

An b́nh

 

HOÀN TẤT VIỆC HỌC

Sau tuổi kết hôn là tuổi hoàn tất việc học, nó cho thấy mức độ cao trong việc kết thân đi lại giữa hai vợ chồng và là yếu tố rất mạnh quyết định việc lựa chọn t́nh bạn khắng khít đưa đến hôn nhân sau này (13). Coleman đă đi đến kết luận sau đây trong bài nghiên cứu của ông:

"Sự giống nhau về tuổi lúc chấm dứt việc học mà không giống nhau về giai cấp xă hội là yếu tố có tính cách trực tiếp quyết định việc lựa chọn bạn trăm năm hơn là sự giống nhau về giai cấp xă hội mà không giống nhau về tuổi lúc chấm dứt việc học. Hoặc nói cách khác, sự giống nhau trong việc hoàn tất giáo dục làm người ta dễ kết hôn với nhau bên ngoài ranh giới xă hội hơn là sự giống nhau về giai cấp mà bất tương xứng về giáo dục" (14).

 

TÓM LẠI

Về các đặc điểm xă hội trong thời gian hẹn ḥ, ta thấy có nhiều chứng cớ cho thấy sự tương đồng đóng một vai tṛ quan trọng trong việc xác định ra ai là những người đáng được kết thân. Dĩ nhiên có những trường hợp ngoại lệ và điều này cần được chú ư. Nếu những ngoại lệ này có nhiều và đi ngược lại khuynh hướng chung, th́ thường không hy vọng ǵ được xă hội chấp nhận và do đó sẽ dễ bị thương tổn khi gặp căng thẳng trong hôn nhân. Như thế, đối với những cuộc hôn nhân vượt ra ngoài các tiêu chuẩn đă có dấu ấn rơ ràng của quá khứ, ta thấy hậu quả khá bấp bênh. Nhưng mặt khác, nếu các ngoại lệ kia là một phần của một khuynh hướng lớn hơn, thí dụ lấy một người khác tín ngưỡng hoặc khác giai cấp xă hội, th́ sự khác biệt ít bị xă hội công kích và nhờ thế vợ chồng sẽ tránh được cái nguy cơ nói trên.

Những thay đổi có tính xă hội trong việc hẹn ḥ này cũng giống như những thay đổi đă diễn tả liên quan đến các vai tṛ trong hôn nhân. Giống như các vai tṛ ấy hiện đang trở nên ít cứng ngắc hơn và đang được thay thế bằng việc tham dự của các tầng sâu nhân cách, hôn nhân dựa trên các yếu tố giống nhau (endogamy) dường như cũng đang lùi bước nhường chỗ cho những tiêu chuẩn khác trong việc lựa chọn người để hẹn ḥ; các tiêu chuẩn này chủ yếu dựa vào tuổi và tŕnh độ giáo dục hơn là dựa vào giai cấp xă hội hoặc tôn giáo. Nếu phong trào này gặp được sức đẩy thích hợp (momentum), th́ hôn nhân sẽ được nâng đỡ hơn bao giờ hết nhờ các tài nguyên bên trong và sự gắn bó của vợ chồng hơn là nhờ các nâng đỡ bên ngoài của xă hội. Nếu không, có lẽ xă hội nên thẩm định lại các nhu cầu của người kết hôn và nâng đỡ họ theo các tiêu chuẩn mới phát sinh từ các năng động lực bên trong của chính cuộc hôn nhân.

 

CÁC YẾU TỐ TÂM LƯ HỌC CỦA VIỆC HẸN H̉

Các biến tố xă hội trên đây xác định ra nhóm người để ta có thể chọn lựa sau cùng. Các yếu tố có ảnh hưởng quyết định đối với việc chọn lựa sau cùng này là điều chưa rơ rệt. Sự lôi cuốn thể lư, sự thoả măn các nhu cầu t́nh cảm, và nhiều yếu tố vô danh khác đều góp phần làm con đường hẹp lại dẫn tới một con người để ta hẹn ḥ tán tỉnh nhằm tiến tới cam kết độc chiếm là hôn nhân.

 

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ BỔ TÚC NHAU VỀ TÂM LƯ

Trên căn bản tương đồng xă hội, các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy sự tương đồng tâm lư, tức là việc hai vợ chồng được lôi cuốn vào nhau bởi những nét tâm lư giống nhau và người ta đă trưng được bằng cớ để chứng minh quan điểm này (15). Những nhu cầu bản thân được hai vợ chồng t́m kiếm trong hôn nhân chính là t́nh yêu và t́nh âu yếm, sự tin cậy, thiện cảm, hiểu nhau, lệ thuộc nhau, khích lệ nhau, nâng niu thân mật và an toàn xúc cảm (16).

Có điểm quan trọng cần nói ở đây là sự kén đôi đồng lựa không những có khả năng đưa các nhân cách ổn định là những nhân cách đă vượt qua được các nhược điểm lại với nhau nhưng cũng có khả năng ngược lại. Điều này sẽ được đề cập cách đầy đủ hơn ở Chương 13 khi bàn về các nguyên nhân đổ vỡ của hôn nhân. Tuy thế, lư thuyết về tương đồng tâm lư vẫn là lư thuyết trổi vượt.

Một lư thuyết khác là lư thuyết về tính bổ túc (complementarity). Winch, tác giả đưa ra quan điểm này, đă chủ trương rằng mặc dầu sự tương đồng về xă hội xác định ra con số những người có thể được ta chọn kết thân, nhưng sự lựa chọn cuối cùng lại do tính bổ túc quyết định, nói cách khác những cái đối nghịch nhau thường lại lôi cuốn lẫn nhau (17). Thí dụ, người ưa thống trị thích lấy một người không thích thống trị, người ưa săn sóc bị người thích được nâng niu lôi cuốn, người ưa tạo thành tích lấy người ưa ẩn ḿnh trong bóng tối. Lư thuyết về tính bổ túc là một lư thuyết hấp dẫn, nhưng cho đến nay, nhiều cuộc nghiên cứu chỉ ủng hộ lư thuyết này một cách hạn chế, tuy trên thực tế, người ta chứng kiến được nhiều hiện tượng do lư thuyết này mô tả.

Sự chọn lựa bản thân có thể được thực hiện trên căn bản giống nhau, bổ túc nhau, những yếu tố vô thức hoặc bất cứ sự phối hợp nào giữa các yếu tố này. Vẫn c̣n nhiều chỗ để nghiên cứu thêm về sự chọn vợ chọn chồng...

Từ trước đến nay, sự lôi cuốn đă được xem sét dựa trên tính tương đồng và tính bổ túc. Nhưng một quan điểm thứ ba (18) lại cho rằng bên cạnh các động lực hữu thức, các động lực vô thức cũng giữ một vai tṛ, rằng hai cá nhân có thể chọn nhau v́ các tâm tư và xúc cảm vô thức của họ thấy như hợp với nhau. Như thế, một người hay chê trách ḿnh có thể lấy một người hay thích chỉ trích, và người thiếu thốn t́nh cảm có thể lấy một người lạnh lùng không thích biểu lộ t́nh cảm; nói cách khác, người ta chọn nhau để đáp ứng cái thế giới nội tâm c̣n đang phát triển chưa hoàn tất hoặc đang bị thương tổn, và người bạn được chọn một cách vô thức v́ họ tỏ ra rất thích hợp với hệ thống vô thức của cảm xúc đang phát triển. Những mối liên hệ và những cuộc hôn nhân này có khuynh hướng không vững ổn v́ chẳng chóng th́ chầy những nhu cầu thực sự của hai vợ chồng sẽ trồi lên. Lúc đó mới thấy rằng chẳng người nào có đủ tài nguyên để đáp ứng các nhu cầu chung ấy.

Tóm lại, sự chọn lựa bản thân có thể được thực hiện trên căn bản giống nhau, bổ túc nhau, những yếu tố vô thức hoặc bất cứ sự phối hợp nào giữa các yếu tố này. Vẫn c̣n nhiều chỗ để nghiên cứu thêm về sự chọn vợ chọn chồng hầu có thể định nghĩa nó một cách chính xác hơn.

 

TRÍ HIỂU

Một yếu tố khác dường như cũng cho thấy sự tương đồng, đó là trí hiểu của những người hẹn ḥ nhau và của các cặp vợ chồng. Bằng chứng về bản chất của trí hiểu th́ khá mạnh mặc dù nó quan trọng hơn đối với các giai cấp xă hội I và II hơn là với các giai cấp xă hội III, IV và V (19).

 

THỜI GIAN KÉO DÀI CỦA HẸN H̉

Những cuộc đi lại hẹn ḥ càng ngắn th́ nguy cơ bất ổn cũng như tan vỡ hôn nhân càng nhiều. Một cuộc nghiên cứu sâu rộng về 520 cặp ly dị và 570 cặp vợ chồng liên tục sống chung với nhau cho thấy sự khác biệt và những hậu quả giữa các thời kỳ hẹn ḥ nhau như sau (20):

BẢNG 1             Ly dị          Liên tục sống chung 

                          (520)          (520)

                             %              %

Ít hơn 6 tháng       6                  1
Ít hơn 12 tháng    14                 7
ít hơn 2 năm        39                 34
Hai năm trở lên   41                 57

Dù không bao giờ có được một thời gian hẹn ḥ chính xác có thể thích hợp cho mọi người, nhưng rơ ràng là những cuộc hôn nhân vội vă dễ đưa đến ly dị hơn. Điều này không có chi đáng ngạc nhiên cả. V́ việc theo đuổi một cam kết kéo dài trọn cuộc sống hôn nhân đ̣i hỏi phải hiểu biết và lượng giá tận tường xem người phối ngẫu tương lai của ḿnh là loại người nào và điều này đ̣i thời gian.

 

SÓNG GIÓ

Trong khi nghiên cứu về thời gian hẹ ḥ, một trong các điểm làm người ta chú ư là đặc tính báo trước sự vững ổn về hôn nhân của nó. Những cuộc hẹn ḥ đầy sóng gió với những căi cọ và hay chia tay một cách trầm trọng là dấu chỉ cho thấy cũng một khuynh hướng như thế sẽ tiếp diễn trong cuộc sống vợ chồng sau này. Cũng trong cuộc nghiên cứu trên đây, người ta thấy rằng những cặp sau này ly dị lúc c̣n đang hẹn ḥ nhau đă chia tay nhau nhiều hơn những cặp vẫn tiếp tục sống bên nhau (21). Điều ấy cũng đúng đối với những vụ hủy đính ước.

Một điểm có ư nghĩa nữa là việc cha mẹ chống đối cuộc hôn nhân sắp diễn ra. Dường như những cặp ly dị gặp nhiều chống đối của cha mẹ đối với con dâu hoặc con rể tương lai hơn. Nếu những chống đối này cứ dai dẳng măi, chắc chắn chúng sẽ gây thêm căng thẳng cho những người đang hẹn ḥ, và người phối ngẫu liên hệ có thể phải khởi sự cuộc hôn nhân ḿnh mà thiếu mất một nguồn nâng đỡ quan trọng. Con cái bao giờ cũng muốn bảo vệ danh thơm của cha mẹ, dù cha mẹ có vụng về bao nhiêu đi nữa. Điều ấy sẽ dẫn đôi trẻ đến chỗ có thể tranh luận với nhau, và sau này trong cuộc sống hôn nhân, vấn đề bên chồng bên vợ có thể trở thành vấn đề nổi bật.

 

GIAO HỢP VÀ SỐNG CHUNG TRƯỚC HÔN NHÂN

Ít ai c̣n hoài nghi là ngày nay việc giao hợp trước hôn nhân xẩy ra rất nhiều và càng ngày càng trở nên thông thường hơn đối với những người đang hẹn ḥ nhau đến mức đă cùng ngầm hiểu là họ sẽ cưới nhau hoặc sống bên nhau. Bảng 2, dựa trên một cuộc thăm ḍ toàn quốc về những người đàn bà có chồng, cho thấy sự gia tăng đáng kể các vụ giao hợp trước hôn nhân với người chồng tương lai của họ (22)

BẢNG 2

Tỷ lệ những người đàn bà thuộc đủ lớp tuổi kết hôn lần đầu trong các năm khác nhau cho biết họ đă giao hợp với người chồng tương lai trước khi lấy nhau

Năm kết hôn                   %Giao hợp trước khi lấy nhau
1959-60                          35
1961-65                          47
1966-70                         61
1971-75                         74

Bảng 2 chứng tỏ quả có sự gia tăng các vụ giao hợp tiền hôn nhân tại Anh trong 20 năm qua. Hiện tượng ấy cũng xẩy ra tại nhiều vùng khác thuộc các xă hội phương tây.

An b́nh

Cùng với đà gia tăng ấy, ta thấy việc sống chung với người chồng tương lai (trước khi kết hôn) cũng có gia tăng. Tỷ lệ này tăng từ 1% lên 9% giữa các năm 1956 và 1975. Trong số những người nh́n nhận có sống chung, 26% báo cáo là họ sống chung ít hơn 3 tháng, 15% từ 3 dến 5 tháng, 24% từ 6 tháng đến 1 năm, cho thấy 2/3 những người sống chung đă sống chung như thế dưới 1 năm. 20% báo cáo là họ sống chung từ 1 đến 2 năm và 15% c̣n lại báo cáo đă sống chung với nhau từ 2 năm trở lên (24).

Khuynh hướng gia tăng các vụ giao hợp và sống chung trước hôn nhân là mối ưu tư đối với các truyền thống Do thái và Kitô giáo. Mối ưu tư này không hoàn toàn là vấn đề giới hạn việc giao hợp trong hôn nhân mà thôi. V́ thực ra nhiều cặp sống chung đă chỉ lấy nhau cho có tên. Những cặp này thường đặt câu hỏi là cái mảnh hôn thú kia thêm được ǵ vào mối t́nh họ đă dành cho nhau?

Chính phẩm chất của hành động hỗ tương giữa hai con người mới là chủ yếu làm cho hôn nhân vững ổn. Giao hợp tính dục là phương thế đóng ấn nh́n nhận việc khám phá ra mối tương quan thích hợp chứ không phải là phương thế khám phá ra chính mối tương quan ấy. Giao hợp do đó là căn bản quá hẹp không cho phép người ta có cái nh́n sáng suốt để thấy ra sự hoà hợp trong tương lai.

Sự thật là xă hội đ̣i hỏi phải có sự rơ ràng trong các mối liên hệ của con người. Thực vậy, xă hội cần biết rơ ai có quan hệ với ai, ai nhận trách nhiệm chăm sóc con cái, ai sở hữu của cải và ai cam kết sống lâu dài với nhau để không c̣n được coi là người độc thân nữa. Hôn nhân có chiều kích tư mà cũng có chiều kích công, nên thiếu chiều kích công không những gây lẫn lộn và đe dọa xă hội mà c̣n làm cho vợ chồng mất đi sự trợ giúp họ có quyền đ̣i hỏi với tư cách người kết hôn.

Một nguy hiểm nữa trong cái gọi là các cuộc hôn nhân thử là v́ thiếu sự công bố cho mọi người biết, nên hai người có thể có cơ hội rẫy bỏ nhau dễ dàng hơn. Nói cho ngay, đó không phải là hôn nhân chút nào, v́ hai người tự ư dành cho nhau một ngơ thoát khi mối liên hệ gặp trục trặc. Sự cam kết công khai tăng thêm sức mạnh để khích lệ hai người phải ráng hơn nữa trong việc duy tŕ mối liên hệ.

Điểm cuối cùng về việc giao hợp trước hôn nhân, một điểm có giá trị căn bản là việc giao hợp không phải là phương thế thích hợp nhất để thăm ḍ xem mối liên hệ có cân xứng hay không. Chính phẩm chất của hành động hỗ tương giữa hai con người mới là chủ yếu làm cho hôn nhân vững ổn. Giao hợp tính dục là phương thế đóng ấn nh́n nhận việc khám phá ra mối tương quan thích hợp chứ không phải là phương thế khám phá ra chính mối tương quan ấy. Giao hợp do đó là căn bản quá hẹp không cho phép người ta có cái nh́n sáng suốt để thấy ra sự hoà hợp trong tương lai. Vậy sống chung th́ sao? Xét bề ngoài, phương thức này có vẻ rất hấp dẫn, tuy nhiên v́ sống thử, hai người có lư do thúc đẩy họ lúc nào cũng phải tỏ ra là người tốt để gây ấn tượng cho nhau. Nên khó có thể thành thực với nhau được, v́ cứ ám ảnh sợ bị rạn nứt. Hôn nhân với thề nguyền long trọng có tính cách bản thân và công khai sẽ đem lại một hạ tầng cơ sở vững mạnh hơn nhiều để vợ chồng có thể hành động như những con người đích thực.

Cũng có thể là những người ca ngợi việc sống chung cũng chính là những người tự bản thân không thấy việc gần gũi và vững bền là việc dễ dàng. Họ thấy sự cam kết như là cảm nghiệm bị chết ngạt, như một nhà tù, nên họ thích sống chung hơn, v́ điều ấy cho phép họ lợi dụng những lợi điểm của hôn nhân mà không phải chịu những xao xuyến âu lo của mối cam kết vĩnh viễn ấy. Họ ca ngợi tính tự do của một cam kết tư riêng v́ họ không chịu được cảm quan bị mắc bẫy. Cho nên điều quan trọng là phải khảo sát các lư do xă hội và tâm lư khi người ta đưa phương thế sống chung ra như câu trả lời thích đáng đối với các vấn nạn của hôn nhân hiện đại.

 

CÓ THAI TRƯỚC KHI KẾT HÔN

Việc có thai trước hôn nhân càng làm gia tăng nguy cơ ly dị. Đây là một khám phá đă được kiểm chứng nhiều lần (24, 25, 26). Tại Anh và Wales, kể từ năm 1967 đang có sự suy giảm, trong một thời gian dài, hiện tượng cô dâu mang bầu (pregnant brides), đặc biệt đối với những cô trong cỡ tuổi từ 18 đến 22. Có điều hiện tượng này đi song song với hiện tượng gia tăng phá thai (27).

Theo quan điểm Kitô giáo, việc giảm thiểu các vụ có bầu trước hôn nhân là điều đáng ước mong như biện pháp pḥng ngừa cho hôn nhân khỏi tan vỡ, nhưng không được v́ thế mà gia tăng phá thai. V́ chẳng c̣n ǵ để mà nói nữa khi đă tự ư phá thai.

 

TÓM LƯỢC

Hẹn ḥ tán tỉnh là thời kỳ phức hợp và chủ yếu, đưa lại nhiều cơ hội để giáo dục và nâng đỡ các cặp hôn nhân tương lai. Rất nhiều điều chưa được biết đến, nhưng nhiều điều cũng đă được biết đến mà ta có thể sử dụng ở đây và bây giờ để ngăn ngừa những đổ vỡ trong tương lai. Như thế, tuổi, giáo dục, giai cấp xă hội, có bầu trước hôn nhân, thời gian kéo dài và đặc điểm của giai đoạn ḥ hẹn đều được thống kê coi như có liên hệ đến việc đổ vỡ ấy. Những yếu tố này có thứ cần được loại trừ, có thứ cần được chăm sóc, th́ hôn nhân mới được củng cố thêm.

 

Vinc. Vũ Văn An

 


 

Tài Liệu Tham Khảo:

 

1. Duvall, E.E., Marriage and Family Development. Lippincott, Philadelphia, 1977.

2. Dominian, J., 'Marital Therapy' in Introduction to the Psychotherapies (ed. S. Bloch). Oxford University Press, 1979.

3. Coleman, D.A., in Equalities and Inequalities in Family Life (ed. R. Chester and J. Peel). Academic Press, 1977.

4. Clark, A.C., in American Sociological Review (1952) 17, p.17.

5. Coleman, p.30

6. Population Trends, No.16: Mean Age at Marriage. Office of Population Censuses and Surveys, HMSO, 1979.

7. Coleman, p.34.

8. Giai cấp Xă hội - Định nghĩa của Thống Kê Dân số (Census): Năm loại giai cấp xă hội sau đây được phân loại căn cứ vào cách phân loại theo nghề nghiệp:

Giai cấp I: Chuyên nghiệp và những nghề tương tự
Giai cấp II: Những chức nghiệp trung cấp
Giai cấp III: Những nghề có kỹ năng (skilled)
Giai cấp IV: Những nghề bán kỹ năng (semi skilled)
Giai cấo V: Những nghề không có kỹ năng (unskilled).

9. Glass, D.V., (ed.) Social Mobility in Britain. Routledge and Kegan Paul, 1954.

10. Coleman, p.35.

11. Landis, J.T., 'Marriages of Mixed and Non-mixed Religious Faith' in Selected Studies in Marriage and the Family. Holt, Rinehart and Winston, 1962.

12. Coleman, p.37

13. Ibid., p. 38

14. Ibid., p. 44

15. Burgess, E.W., and Wallin, P., Engagement and Marriage. Lippincott, New York, 1953.

16. Ibid., p.199

17. Winch, R.F., Mate Selection, a Study of Complementary Needs. Harper, New York 1959.

18. Dicks, H.V.,Marital Tensions. Routledge and Kega Paul, 1967.

19. Coleman, p.28

20. Thornes, B. And Collard, J., Who Divorces? Routledge and Kegan Paul, 1979.

21. Ibid., P.65

22. Dunnell, K., Family Formation 1976. HMSO, 1979.

23. Ibid.

24. Christiansen, H.T., 'Time of the First Pregnancy as a Factor in Divorce' Eugenic Review, 1963: 100, 119.

25. Population Trends, No. 3. Office of Population Censuses and Surveys, HMSO, 1976.

26. Thornes and Collars, p.77

27. Thompson, J., 'Fertility and Abortion, Inside and Outside Marriage', Population Trends nos.5, Office of Population Censuses and Surveys, MHSO.

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.