GIA Đ̀NH SỐNG ĐẠO

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

MichelAnge

 

BÀI HAI

 

GIA Đ̀NH SỐNG ĐẠO LÀ THỂ HIỆN
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ TRUYỀN THÔNG
VỀ VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO CỦA GIA Đ̀NH Á CHÂU

 

VÀO ĐỀ

Trong sứ điệp gửi toàn thể Dân Chúa tại Châu Á, các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Daejon, Hàn Quốc, từ ngày 17 đến 23 tháng 8 năm 2004, với chủ đề "Gia đình Á Châu hướng đến nền văn hóa sự sống", đã lấy lại lời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để kêu gọi các gia đình Kitô hữu:

"HỠI CÁC GIA ĐÌNH, HÃY TRỞ NÊN CHÍNH MÌNH!"

"Hãy trở nên chính mình!" có nghĩa là các gia đình Kitô hữu thể hiện hoặc sống căn tính (identity) và ơn gọi (vocation) của gia đình công giáo. Cũng có nghĩa là các gia đình sống đạo như được mời gọi và có trách nhiệm. Nhưng xưa rày hễ nói đến sống đạo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc sống giáo lý đức tin, mà quên đi một yếu tố rất quan trọng là thể hiện những giá trị nhân văn thuộc truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia đình Á châu. Trong bài này chúng ta sẽ đề cập đến việc thể hiện những giá trị này trong đời sống gia đ́nh.

 

TRÌNH BÀY

 

1. Những giá trị và truyền thống về văn hóa và tôn giáo của gia đình Á Châu

Trong sứ điệp của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp lần thứ 8 nói trên, sau khi khẳng định xác tín của mình về "gia đình là quà tặng quý giá và ân phúc Chúa ban cho vùng Á Châu", các Giám Mục Á Châu đă đưa ra nhận định sau đây:

"Chúng tôi hân hoan đọc được các tín hiệu của niềm hy vọng tràn ngập trong các gia đình Á Châu. Được thôi thúc bởi các giá trị và truyền thống về tôn giáo và văn hóa, nhiều gia đình đang nỗ lực kiên trì dấn thân cho những lý tưởng của đời sống gia đình. Họ múc lấy sức mạnh từ những giá trị mang tính Á Châu, như lòng tôn kính sâu xa đối với sự sống, sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên, siết chặt tình thâm gia tộc, tình nhân ái giữa người với người, củng cố lòng hiếu khách, tôn trọng người già, đề cao lòng hiếu thảo, chăm sóc cho người trẻ. Duy trì được đời sống tâm linh và niềm tin tôn giáo trong gia đình, cảm nhận được sự thánh thiêng của hôn nhân, gia đình và con cái, là những yếu tố mang lại niềm vui và biến nhiều gia đình thành những vườn ươm cho ơn thiên triệu. Trước các gian truân trăm bề, họ luôn kiên cường chịu đựng. Gia đình Á Châu không ngừng được nâng đỡ bởi các giá trị đó và cũng không ngừng chuyển tải các giá trị đó. Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy những gía trị của dân bản xứ và của các tôn giáo khác đã làm phong phú các gia đình Á Châu biết chừng nào. Những cuộc hôn nhân khác đạo và khác văn hóa cũng tạo những cơ hội thuận lợi cho sự phong phú thiêng liêng, và đã trở thành các biểu tượng về một tình yêu vô điều kiện vươn lên từ những vấn đề phức tạp về văn hóa và tôn giáo mà các cuộc hôn nhân này phải đối mặt. Hỡi các gia đình chúng tôi cám ơn các bạn vì các bạn đã bảo vệ được các giá trị đích thực, và chúng tôi khuyến khích các bạn can đảm, kiên trì"

 

2. Sống Đạo là duy trì và phát huy những giá trị và truyền thống thuộc văn hóa và tôn giáo của gia đình Á Châu.

Chúng ta biết Châu Á là nơi sản sinh những nền văn hóa lâu đời (như Ấn độ, Trung Hoa..) và các tôn giáo lớn của nhân loại (Ấn Giáo, Phật Giáo, Lăo Giáo, Khổng Giáo...). Việt Nam ta cũng là mảnh đất có bốn ngàn năm văn hiến bên cạnh những nền văn hóa lớn Ấn-Trung. V́ thế mà gia đ́nh Á Châu nói chung và gia đ́nh Việt Nam nói riêng đă thấm nhuần những giá trị cao đẹp và truyền thống ngàn đời của văn hóa và tôn giáo Á Châu, trước khi tiếp nhận Tin Mừng Kitô giáo. Chúng ta cũng biết rằng Phúc Âm không những không tiêu diệt các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống của các dân tộc mà c̣n thăng hoa và kiện toàn những giá trị tốt đẹp ấy. Những giá trị này thường rất gần với các giá trị của Phúc Âm. V́ thế mà trong cách sống đạo của ḿnh, các gia đ́nh Á Châu nói chung và gia đ́nh Việt Nam nói riêng, thường làm nổi bật những giá trị nhân văn xuất phát từ truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia đ́nh Á Châu. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào từng giá trị và truyền thống tốt đẹp ấy:

 

2.1 Ḷng tôn kính sâu xa đối với sự sống:

Sự sống luôn là điều thánh thiêng đối với người Á Châu. Một trong những nét đặc trưng trong Giáo lư Phật Giáo là “không sát sinh”. Giáo lư này xuất phát từ quan niệm coi mọi dạng sự sống (thực vật, động vật) trên đời này đều có giá trị cao quư. Quan điểm của Kitô giáo có khác, cũng tôn kính sự sống của mọi sinh vật nhưng lại được dậy cho biết là con người được Thiên Chúa giao quyền bá chủ vũ trụ và vạn vật, nên con người có quyền sử dụng thực vật, động vật để phục vụ cho sự sống của ḿnh. Kitô giáo cũng cấm giết người, v́ quan niệm rằng sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, là bất khả xâm phạm và thuộc về Thiên Chúa. Con người chỉ có quyền đón nhận chứ không có quyền hủy diệt sự sống.

Nhưng ngày nay con người tự ban cho ḿnh quyền “sinh sát” trên sự sống là vi phạm nặng nề điều răn của Chúa. Giết người luôn là tội trọng, nhất là giết những người bé mọn, yếu ớt, không có khả năng tự vệ (như các bào thai hay trẻ sơ sinh). Kitô hữu phải là các chiến sĩ bảo vệ (pḥ) sự sống. Gia đ́nh Kitô hữu phải là cung thánh của sự sống như giáo huấn của Giáo hội về Gia đ́nh.

 

2.2 Sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên:

Con người là sinh vật có xă hội tính nghĩa là có nhiều mối tương quan: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với chính ḿnh, tương quan với tha nhân, tương quan với xă hội và tương quan với cả thiên nhiên nữa. Các bậc hiền triết từ Đông sang Tây đều là những người sống gần gũi và ḥa hợp với thiên nhiên. Theo triết lư của Đông phương “thiên thời / địa lợi / nhân ḥa” là ba yếu tố thiết yếu cho sự thành công của mọi công tŕnh.

Ngày nay con người tự gây hại cho ḿnh và cho tha nhân và xă hội khi - v́ vô t́nh hay v́ ḷng tham - mà phá vỡ sự hài ḥa của thiên nhiên. Thiên tai do nạn phá rừng, t́nh trạng ô nhiễm môi sinh và khí thải nhà kính là những tai họa đang và sẽ giáng xuống trái đất với hậu quả khôn lường. Người Kitô hữu phải là các chiến sĩ bảo vệ môi trường. Gia đ́nh Kitô hữu phải là trường dạy sự tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên.

 

2.3 T́nh thâm gia tộc:

Một nét đặc thù khác của gia đ́nh Á Châu là tính gia đ́nh trong quan hệ xă hội. Gia đ́nh không chỉ giới hạn ở cha mẹ và con cái, vợ và chồng mà c̣n mở rộng đến ông bà / cha mẹ / chú bác / cô d́ / anh chị em họ (bà con). Sợi dây ràng buộc giữa các phần tử của gia đ́nh Á Châu c̣n khá bền chặt mặc dầu bối cảnh xă hội Á Châu đă thay đổi rất nhiều. Những nước tiên tiến về mặt kinh tế, kỹ thuật như Nhật Bản, Trung Hoa, Hàn Quốc, Thái Lan….cũng vẫn tôn trọng và đề cao những cách ứng xử lễ phép, hiếu thảo là nét đặc trưng của gia đ́nh Á Châu..

Thế mà một số người, một số gia đ́nh Việt Nam đă đánh mất truyền thống tốt đẹp của gia đ́nh Á Châu. Đúng hơn là những người và những gia đ́nh này đă không hiểu ư nghĩa cao đẹp của t́nh thâm gia đ́nh mà ngộ nhận đó chỉ là những tập quán cổ hủ hoặc chẳng đem lại lợi ích ǵ cho con người thời nay nên loại bỏ. Xă hội Á Châu bền vững là do gia đ́nh Á Châu bền vững, nhờ t́nh thâm gia tộc, nhờ mối liên kết ḍng tộc. Gia đ́nh Kitô hữu phải là nơi t́nh thâm gia tộc được ǵn giữ và hoàn thiện hơn lên để trở thành nét đặc trưng của gia đ́nh Kitô hữu.

MichelAnge

 

2.4 T́nh nhân ái giữa người với người:

Giữa người với người th́ chẳng có ǵ cao quư hơn là t́nh nhân ái. Nhân là người. Ái là ḷng yêu thương. Người mà không có ḷng nhân ái th́ không c̣n là người nữa. Người với người mà chẳng khác ǵ sói (homo homini lupus) như châm ngôn của người La Mă xưa th́ c̣n ǵ là sự an b́nh, ấm êm của xă hội nữa. Bao lâu con người chưa có ḷng nhân ái th́ bấy lâu chiến tranh vẫn tồn tại. Nơi nào con người thiếu ḷng nhân ái th́ nơi ấy con người sống trong hận thù. Dân tộc nào thiếu ḷng nhân ái th́ những người nghèo khổ, túng thiếu sẽ không có được chăm sóc và nâng đỡ là điều cần thiết để vượt qua khó khăn, nghèo đói. Ḷng nhân ái là tiền đề của đức ái Kitô giáo. Gia đ́nh Kitô hữu là trường đào tạo những tấm ḷng nhân ái cũng như những tâm hồn bác ái yêu thương là dấu riêng của người môn đệ Chúa Giêsu.

 

2.5 Ḷng hiếu khách:

Tôn giáo nào cũng trân trọng ḷng hiếu khách, nhất là Kitô giáo. Thế nhưng lối sống đề cao chủ nghĩa cá nhân đă làm sói ṃn ḷng hiếu khách. C̣n một yếu tố khác làm phai nhạt và hạn chế việc thực hành ḷng hiếu khách trong đời sống những con người văn minh: đó là những tai hại do chính những người được đón tiếp gây ra cho người đón tiếp. Ví dụ người được đón tiếp ăn cắp ăn trộm tài sản của chủ nhà, thậm chí giết hại chủ nhà tiếp đón ḿnh, th́ làm sao người ta dám mở cửa đón tiếp nữa. Có lẽ chúng ta phải t́m một h́nh thái mới để duy tŕ sự đón tiếp, nhất là trong một cộng đồng tôn giáo. Chẳng hạn giáo xứ có nhà đón tiếp những người lỡ đường thay cho các gia đ́nh. Điều cần nghi nhận là ở các dân tộc thiểu số ḷng hiếu khách c̣n khá sống động.

 

2.6 Ḷng hiếu thảo (tôn trọng người già, chăm sóc người trẻ)

Một nét đặc trưng khác của gia đ́nh Á Châu là ḷng hiếu thảo. Người Việt có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con” để nói lên mối tương quan ruột thịt và t́nh hỗ tương giữa các thế hệ khác nhau. Đạo lư uống nước nhớ nguồn đă ăn sâu vào máu thịt của người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng. V́ thế theo quan điểm Đông Phương th́ tội lớn nhất của một con người là tội bất hiếu đối với tổ tiên ông bà cha mẹ.

Ngày này do ảnh hưởng của nền văn hóa thực dụng và duy vật, nhiều người trẻ Việt Nam không c̣n coi trọng ḷng hiếu thảo đối với các bậc sinh thành và học đ̣i cách sống của người Âu Mỹ, coi cha mẹ già là gánh nặng, là của nợ muốn chối bỏ. Thật đáng tiếc thay!

 

2.7 Đời sống tâm linh và niềm tin tôn giáo:

Một đặc trưng quan trọng khác của các dân tộc Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng là ḷng sùng đạo và đời sống tâm linh của người dân. Dù cách thể hiện khác nhau nhưng hầu hết người Việt Nam là người có tín ngưỡng. Có thể quả quyết dân tộc Việt Nam là dân tộc có tâm hồn đạo và có tôn giáo. V́ thế mà ở Việt Nam sẽ khó mà có hiện tượng nhà thờ hay chùa chiền vắng bóng tín đồ hay thiện nam tín nữ! Cũng v́ thế mà vô thần, duy vật là đi ngược với truyền thống văn hóa và tôn giáo của cha ông chúng ta và cũng đi ngược với bản tính con người là sinh vật có đời sống tâm linh, có tôn giáo.

Dĩ nhiên người và gia đ́nh Kitô hữu được mời gọi đi sâu vào đời sống tâm linh và tăng cường niềm tin tôn giáo. Giáo hội Việt Nam đă có 117 Thánh Tử Đạo, nhưng chưa có một vị Thánh Hiển Tu hay Thần Bí (mystic) nào. Không thể nói là đời sống chiêm niệm không phù hợp với tâm hồn Việt. Bằng chứng là các Ḍng chiêm niệm có rất nhiều ơn gọi. Nhưng chiều kích chiêm niệm trong đời sống đức tin nơi người giáo dân cần được đầy mạnh và cổ vơ nhiều hơn nữa.

 

2.8 Sự thánh thiêng của hôn nhân, gia đ́nh và con cái:

Như trên đă nêu sự bền vững của gia đ́nh là một đặc trưng của các nước Á Châu nói chung và của Việt Nam nói riêng. Dù ly hôn đă được pháp luật nh́n nhận nhưng trong suy nghĩ của đại đa số người Việt Nam, ly hôn vẫn là một tai họa, một điều đáng tiếc xẩy ra chứ không phải là một điều ǵ tốt đẹp đáng hănh diện và khoe khoang. Sở dĩ gia đ́nh được bền vững như vậy là nhờ ở quan niệm về hôn nhân, gia đ́nh và con cái là thánh thiêng, là báu vật.

Hy vọng rằng, dù xă hội đang thay đổi sâu rộng và nhanh chóng, th́ những truyền thống tốt đẹp này vẫn luôn được duy tŕ và đề cao.

 

2.9 Đức chịu đựng:

Nét đặc trưng cuối cùng của người Á châu nói chung và của người Việt Nam nói riêng và nhất là của người phụ nữ Việt Nam, là đức chịu đựng. Phần lớn các gia đ́nh tan vỡ là v́ con người thời nay không c̣n biết chịu đựng nhau nữa. Do đó trong gia đ́nh có chuyện ǵ xảy ra là người ta nghĩ ngay đến biện pháp “chia tay”. Đă đành có nhiều trường hợp chỉ có chia tay mới giải quyết được vấn đề, nhưng chia tay cũng chẳng phải là cây đũa thần giải quyết được mọi khó khăn, mọi vấn đề.

 

KẾT LUẬN

Những gía trị và truyền thống về văn hóa và tôn giáo là kho tàng vô giá của các dân tộc Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng. Gia đ́nh sống đạo là thể hiện những giá trị và truyền thống đặc thù hay có tính Á Châu ấy cùng lúc với việc thể hiện những giá trị Kitô giáo. V́ thế gia đ́nh Kitô hữu Việt Nam, dù sống ở phương trời nào, càng phải biết trân trọng, duy tŕ và phát triển những giá trị và truyền thống tốt đẹp về văn hóa và tôn giáo ấy. Đó chính ta một chứng tá mà nhân loại nói chung và các dân tộc tiên tiến nói riêng đang chờ đợi ở chúng ta.

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Ngày 24 tháng 01 năm 2006
nhằm ngày 25 Tháng Chạp Năm Ất Dậu.



Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

Xem các bài viết khác trong Bài Viết của Anh Nguyễn văn Nội, khóa 6 GHHV, niên khoá 1963.