Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 MỤC VỤ CỞI MỞ         -1985-
 ÐỔI MỚI SUY NGHĨ VỀ LOAN BÁO TIN MỪNG -1986-
 LO ÂU VÀ HY VỌNG         -1988-
 ÐỔI MỚI TÂM HỒN         -1989-
 TRUYỀN GIÁO          -1990-
 MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG   -1991-
 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-
 

Phần 1: Mục vụ

Ðổi mới suy nghĩ

 

Từ ít lâu nay, đời đạo đều kêu gọi đổi mới suy nghĩ.

Có những tư tưởng trước đây được coi là đúng, là hay, là hợp, nay cần phải được suy nghĩ lại cho đúng hơn, hay hơn, hợp hơn.

Lý do là vì xã hội đã đổi mới, tâm lý nhiều giới, nhiều nơi đã đổi mới, cuộc sống đã đổi mới.

Là linh mục, nếu không muốn trở thành lạc lõng, nếu ta muốn là người có ích cho Hội Thánh, cho Tổ Quốc, cho Ðồng Bào, ta cần mạnh dạn đổi mới cho chính bản thân ta, khởi đầu bằng sự đổi mới suy nghĩ về một số vấn đề đạo.

Muốn sự đổi mới này được thành công, ta phải khiêm tốn rất nhiều. Khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ. Nhưng kiêu căng một chút cũng đã quá nhiều.

Thực sự, nhiều tư tưởng đã cũ rồi, nhưng vì ta chưa nhìn nhận chúng, chưa để chúng thấm nhuần vào tâm tư và hướng dẫn hành động thái độ của ta, nên đối với ta còn là mới.

Ở đây, tôi giới hạn nội dung các buổi nói chuyện trong phạm vi mục vụ. Và trong phạm vi này, tôi sẽ chỉ đề cập tới một ít vấn đề đã được nêu lên trong thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 và Công đồng Vatican II.

Tôi nói vắn gọn, với tính cách gợi ý mà thôi.

Nhưng trước khi đi vào chi tiết phần gợi ý, tôi xin báo lại ở đây 2 phát biểu quan trọng, mà tôi cho là sẽ góp phần đáng kể vào việc đổi mới suy nghĩ của ta.

Phát biểu thứ nhất là của ông Nguyễn Văn Linh, Uỷ viên Bộ Chính Trị, Thường Trực Ban Bí Thư Trung Ương Ðảng, tại Ðại hội Ðảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh lần thứ 4, hôm 23-10-1986 về Thiên Chúa Giáo: “Ðối với giáo dân, kể cả giáo dân “di cư”, đa số là nhân dân lao động có lòng yêu nước, cần có chính sách, biện pháp giúp đỡ công ăn việc làm, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao giác ngộ chính trị, để họ ngày thêm gắn bó với sự nghiệp chung và hoà hợp trong cộng đồng dân tộc; nên có sự quan tâm đặc biệt với lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.

Ðối với hàng ngũ linh mục, nên tích cực gần gũi giúp đỡ người tốt, để họ làm tròn trách nhiệm đối với đạo, đối với đời, vì Chúa và vì Tổ Quốc. Ðồng thời phải đề cao cảnh giác, có biện pháp kịp thời phát hiện và nghiêm khắc trừng trị những phần tử phản động, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu và hành động của chúng, nhằm lôi cuốn giáo dân vào những hoạt động phản cách mạng”.

Trong phát biểu trên, có một điều chứa nhiều khả năng động viên đổi mới tư duy linh mục, đó là chủ trương của Ðảng tích cực gần gũi các linh mục tốt, để họ không những làm tròn trách nhiệm đối với đời, mà còn làm tròn trách nhiệm đối với đạo nữa, vì Chúa và vì Tổ Quốc.

Phát biểu thứ hai là của ông Ðặng Thành Chơn, Trưởng Ban Tôn Giáo của Chính Phủ trong dịp ông tiếp Thường Vụ Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam tháng 5, năm nay. Ông đã kiểm điểm tình hình Hội Thánh Việt Nam theo Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980. Tóm tắt như sau:

 * ƯU ĐIỂM:

-Ðã từng bước xoá bỏ mặc cảm và xây dựng đoàn kết tích cực hơn trước.

-Quan hệ của giáo quyền đối với chính quyền tốt hơn trước.

-Tinh thần trách nhiệm đối với xã hội đã tăng thêm.

-Các giới Thiên Chúa giáo được an tâm hơn để tham gia việc xã hội, và coi sự tham gia ấy như là việc đạo đức.

-Ðạo đời gần gũi nhau hơn trước.

 * KHUYẾT ĐIỂM:

- Còn một số người chưa nhận thức đúng, và chưa có tình cảm thực sự đối với Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980.

- Còn một số người chậm đổi mới, nghĩa là còn nặng phong kiến, còn nặng thần quyền.

- Còn một số người chưa đủ tinh thần cộng tác vào trách nhiệm chung.

- Còn một số người chưa thực sự hoà mình vào Dân Tộc, chưa thực sự gắn bó với Dân Tộc, quan điểm của họ vẫn hững hờ.

Kiểm điểm trên đây khiến tôi càng thấy ta cần phải đổi mới cách suy nghĩ về đạo của mình. Bởi vì rõ ràng là trong xã hội chúng ta, Hội Thánh nói chung và các Giám mục, linh mục nói riêng, được nhìn và đánh giá theo các đức tính xã hội, hơn là theo bất cứ sự gì khác. Tinh thần đoàn kết, tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, sự hoà mình, sự quan hệ tốt, sự khiêm tốn, sự phấn đấu để nâng cao phẩm chất và đời sống của Ðồng Bào lên vv...Ðó là những phạm trù mà xã hội dùng để nhìn và suy nghĩ về ta. Ðó là những tiêu chuẩn mà xã hội đã đưa ra để đánh giá ta và đạo của ta.

Thực sự, những phạm trù và tiêu chuẩn như thế đã được Công đồng Vatican II, và nhiều thông điệp Toà Thánh những năm gần đây, nêu lên trong mục đích canh tân Hội Thánh. Thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980, đã nhắc lại. Kết quả nói chung là khá tốt. Nhưng việc canh tân vẫn còn phải tiếp tục.

Bây giờ tôi đưa ra một số đề tài đạo mà tôi thấy cần phải được tiếp tục đổi mới suy nghĩ.

 1. Ðổi mới suy nghĩ về “Hội Thánh

Hội Thánh hay được gọi là Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Suy nghĩ đó khó hiểu, siêu thoát và gây cho tín hữu cảm tưởng là, mỗi người trong Hội Thánh đều có một chỗ tất yếu theo cấp bậc ổn định, không cần mình phải có sáng kiến nào để tích cực thuộc về Hội Thánh.

Nay, theo Công đồng Vatican II, thì:

- Hội Thánh được gọi là Dân Thiên Chúa.

- Hội Thánh là dấu chỉ và là dụng cụ của sự kết hợp với Chúa và hợp nhất với nhân loại.

- Hội Thánh vì con người.

- Hội Thánh ôm trong lòng mình những kẻ có tội, nên Hội Thánh vừa là thánh, vừa luôn luôn phải được thanh luyện, không ngừng sám hối ăn năn và đổi mới.

Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980 nói: Hội Thánh Việt Nam là Hội Thánh của Chúa Kitô trong lòng Dân Tộc Việt Nam.

Những suy nghĩ mới này có tính cách khiêm tốn hơn, linh động hơn, dân chủ hơn, đòi nhiều sáng kiến để dấn thân hơn.

Theo những cách suy nghĩ mới này, thì Hội Thánh không muốn được coi là một quyền lực, mà thực sự muốn được coi là người phục vụ hạnh phúc, không phải riêng cho người có đạo, mà chung cho tất cả mọi người. Hội Thánh không muốn được coi là kẻ đối đầu, mà là người đối thoại, xây dựng sự đoàn kết. Hội Thánh không phải là lề luật, mà vì con người. Hội Thánh không tự coi là hoàn hảo, nhưng là một cộng đoàn có nhiều khuyết điểm, cần phải sám hối và không ngừng phấn đấu đổi mới. Hội Thánh Việt Nam không đứng trên hay đứng ngoài Dân Tộc Việt Nam, mà đứng trong Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.

Những suy nghĩ trên đây là của Công đồng và của Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Tuy thế, vẫn còn nhiều người theo não trạng cũ lỗi thời, ưa sùng bái một thứ Giáo Hội quyền lực, một thứ Giáo Hội khép kín, chỉ lo bảo vệ quyền lợi riêng của đạo, một thứ Giáo Hội đối đầu, một thứ Giáo Hội đứng trên và đứng ngoài, một thứ Giáo Hội không cần đổi mới. Theo tôi, lúc này ai còn theo não trạng cũ đó, thì mắc lỗi với Hội Thánh, vì đi sai đường lối của Hội Thánh và làm hại đạo.

 2. Ðổi mới suy nghĩ về “sống đạo

Người ta thường hiểu sống đạo là giữ luật đạo. Nhưng nhiều người hiểu luật đạo một cách tùm lum và tuỳ tiện.

Nay Công Ðồng Vatican II nhấn mạnh đến căn bản của đạo là bác ái. Hiến chế “Ánh sáng muôn dân” nói: “Dấu chỉ người môn đệ đích thực của Chúa Kitô là sống đức ái đối với Chúa và đối với tha nhân... Ðể vun trồng đức ái, người tín hữu cần lắng nghe Lời Chúa, chuyên cần cầu nguyện, năng lui tới bí tích, nhất là phép Thánh Thể, tập sống quên mình, giúp đỡ phục vụ nhau...

Hiến chế “Vui Mừng và có Hy Vọng” nói: “Các tín hữu hãy nhớ lại Lời Chúa dạy: Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”, để không mong ước gì hơn là phục vụ con người hôm nay một cách quảng đại hơn và hữu hiệu hơn... Người tín hữu sao lãng với bổn phận trần thế, tức là sao lãng bổn phận đối với tha nhân, và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe doạ.

Thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980, sau khi nói đến bổn phận gắn bó với Chúa và Hội Thánh thêm: “Là Hội Thánh trong lòng Dân Tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng Quê Hương, nói theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của Ðất Nước”.

Với những suy nghĩ trên đây, Công Ðồng và Thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980 muốn cải tạo một số não trạng thiếu trưởng thành, và thiếu cân đối trong quan niệm sống đạo.

Mô hình người sống đạo tốt hôm nay không phải chỉ là người năng cầu nguyện, nghe Lời Chúa, lui tới bí tích, gắn bó với Hội Thánh, mà còn phải là người tích cực phục vụ gia đình, tha nhân, Tổ Quốc, biết sống đạo để có cuộc sống hài hoà với xã hội của mình, biết sáng kiến để có những thái độ bên trong và bên ngoài thực tốt, trước các vấn đề lớn nhỏ mà cuộc sống hằng ngày đặt ra.

Ở đây, có một điều rất cần chú ý, đó là thời nay sự phát huy những đức tính xã hội, đang dần dần trở thành một vấn đề có tính cách sống còn. Phải sống làm sao để đạo mình và bản thân mình được coi là có lợi ích cho xã hội. Tất nhiên mình vẫn giữ trọn bản chất đức tin của mình. Thời nay, Phúc Âm thường được nhìn qua góc độ những đức tính xã hội, vì thế, có thể nói, sống đạo hôm nay, là đặc biệt sống những đức tính xã hội một cách phong phú và trong sáng, đầy đức ái Phúc Âm.

Mô hình gợi ý trên đây gồm những nét căn bản Phúc Âm, được Công đồng và Thư chung khai triển. Ta nên căn cứ vào đó mà xây dựng một nếp sống đạo trưởng thành sinh động, đồng thời từng bước xoá bỏ những lối sống đạo ấu trĩ, vụ lợi, nặng về hình thức và tục lễ lỗi thời.

 3. Ðổi mới suy nghĩ về những đức tính xã hội

Ðề cập đến đức tính xã hội, người ta có thể nghĩ đến nhiều đức tính khác nhau, như dễ sống, hay giúp đỡ, có tài giao thiệp vv... Ở đây, dựa theo Phúc Âm, Công đồng và Thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, tôi xin nêu lên mấy đức tính sau đây, thiết tưởng cần được phát huy nhiều hơn nữa trong nếp sống đạo hôm nay.

a)- Chia sẻ và hoà mình

Theo gương thánh gia ở Nagiarét và Ngôi Hai nhập thể, chúng ta hoà mình vào cuộc sống Dân Tộc ta, chia sẻ việc giải quyết các vấn đề chung của địa phương, của địa phận, của Ðất Nước, và chia sẻ hậu quả của những giải quyết ấy, dù là thành công, dù là thất bại. Cũng trong tinh thần chia sẻ và hoà mình, chúng ta tổ chức các cuộc lễ tôn giáo một cách đơn sơ, vắn gọn, tiết kiệm, để phù hợp với tình hình kinh tế eo hẹp chung. Chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể của các gia đình lao động khắp nước ta, để biết thông cảm và kính phục họ. Nhiều người rất nghèo nhưng quảng đại hơn ta, can đảm hơn ta. Nhiều người còn mắc những thói xấu này, những tội lỗi kia, nhưng họ khiêm tốn hơn ta, có tình người hơn ta, và có tinh thần đoàn kết và tinh thần kỷ luật hơn ta. Chúng ta muốn là muối, là men. Nhưng vì thiếu chia sẻ và hoà mình, chúng ta vẫn là thứ muối không tan, thứ men không hoà vào bột được.

b)- Cởi mở

Khi Chúa Giêsu nêu lên những mô hình, Người đã rất cởi mở. Ðể nêu gương đức tin, Người đã chỉ vào một sĩ quan ngoại giáo. Ðể nêu gương bác ái, Người đã chỉ vào một người Samari, cũng là ngoại đạo. Ðể nêu gương cầu nguyện, Người đã chỉ vào người thu thuế, là thứ người bị tiếng xấu... Chúa Giêsu đã nhìn bản chất, chứ không căn cứ vào nhãn hiệu.

Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta tán dương và phát huy khích lệ tất cả những gì là tốt, là đẹp, là hay do bất cứ ai làm được. Hãy phấn đấu loại trừ thành kiến và cách nhìn lệch lạc đối với những giá trị trần thế. Không nên coi Nước Trời là danh sách những người rửa tội, năng đi lễ đọc kinh, bởi vì Nước Trời ở trong lòng mọi người có phấn đấu hướng về chân lý và tình thương. Số người như thế rất lớn, thuộc mọi tín ngưỡng và vô tín ngưỡng. Sẽ có lợi gì cho mình, nếu ai vẫn một mực khép kín, chỉ cái gì trong Hội Thánh của mình và do Hội Thánh của mình làm mới cho là tốt, là lành, đang khi đó, Chúa Giêsu cảnh cáo nghiêm khắc: Sau này, vô số những người ngoại, từ bốn phương sẽ được vào Nước Trời, còn vô số con cái trong nhà sẽ bị loại ra!

c)- Khiêm nhường

Suốt đời, Chúa Giêsu đã rất khiêm nhường. Có thể nói, một trong những đức tính đã làm cho Người được mến thương nhiều nhất, đó là đức khiêm nhường sâu thẳm. Hang đá Bêlem, thánh giá Calvariô, cũng như hình ảnh Chúa chiên lành vác con chiên lạc trên vai, vẫn khẩn thiết kêu gọi các môn đệ Chúa hãy bước theo con đường khiêm tốn của Người.

Bước theo Chúa Giêsu, chúng ta để ý thực hiện đức khiêm nhường ở mọi chi tiết cuộc sống xã hội thường ngày. Thí dụ: Giữ lịch sự và tư cách trong mọi giao tiếp, biết ý thức về thực tế xã hội, là mình cần phải nương tựa vào cộng đoàn, vào nhân dân, vào địa phương, vào Nhà Nước, để có thể sống đạo và giữ đạo tốt, biết tế nhị nâng đỡ những người làm việc chung, biết mừng khi thấy người khác làm tốt và được hơn mình, biết đặt công ích trên tư lợi, thấy làm được gì tốt cho ích chung thì làm mà không so đo đòi hỏi, không quan trọng hoá chính mình, thích đòi hỏi chính mình hơn đòi hỏi người khác, nhận biết mình yếu đuối để sám hối ăn năn vv...

d)- Phục vụ

Chúa Giêsu đã xác nhận rõ mục đích việc xuống thế của Người là phục vụ. Người đã phục vụ mọi người, ưu tiên là những người nghèo, những người tội lỗi yếu đuối, những người bị quyền lực đạo đời thời đó bắt nạt. Người đã phục vụ bằng nhiều việc để nâng cao con người, chăm sóc con người cả phần hồn lẫn phần xác, Người đã dùng nhiều cách để giúp con người có những suy nghĩ mới, để họ biết kiến tạo một cuộc sống công bình hơn, bác ái hơn, hạnh phúc hơn. Người đã phục vụ nhất là bằng sự tự hạ, vâng phục Chúa Cha cho đến chết. Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ phục vụ như thế.

Tất cả những đức tính xã hội ở trên đều cùng chung một nguồn là bác ái. Thời nay, khi khắp nơi trên thế giới, nhất là tại nước ta, trong giai đoạn này, đang đặt nặng việc phát triển kinh tế, xây dựng con người, nâng cao cuộc sống, thì những đức tính xã hội rút từ Phúc Âm là rất cần thiết cho người có đạo. Với những đức tính xã hội đó, ta sẽ có nhiều khả năng và may mắn sáng tạo nên một cuộc sống có lợi ích lâu dài cho Tổ Quốc, cho Hội Thánh và cho chính bản thân ta.

Tôi nói “sáng tạo”, có nghĩa là chúng ta cần suy nghĩ thêm, học hỏi thêm, nghiên cứu thêm, để tìm cách làm cho mọi người có đạo thuộc về ta từ nhỏ đến lớn nhận thức được sự cần thiết phải sống đức tính ấy, và ra sức sống thực sự những đức tính ấy, coi đó như một chương giáo lý quan trọng, có tầm mức quyết định cho tương lai Hội Thánh Việt Nam. Hiểu được như thế, là một đổi mới suy nghĩ rất đáng mừng.

 4.- Ðổi mới suy nghĩ về ” thích nghi

Nhiều người hiểu sự thích nghi do Công đồng Vatican II đề xướng, chỉ là thay đổi Phụng vụ, kinh lễ, và các tổ chức của Hội Thánh sao cho thích hợp với xã hội mới thời nay. Thực sự, Công đồng muốn một sự thích nghi sâu xa hơn nhiều. Thích nghi trước hết và chủ yếu là thay đổi chính con người của mình từ thái độ bên trong, đối với xã hội của mình.

Ðúng như vậy. Thí dụ, khi nói: Ta phải thích nghi với gia đình, với họ đạo, với giáo phận mà ta được sai đến, thì thích nghi đó, trước hết đòi hỏi ta phải thực sự kính trọng và yêu mến gia đình, họ đạo và giáo phận ấy, vì là của ta. Cũng thế, khi nói: Ta phải thích nghi với Quê Hương Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa của ta, thì thích nghi đó trước hết đòi hỏi ta phải thực sự kính trọng và yêu mến Quê Hương Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa của ta. Thư chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980 nói: “Quê Hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người. Ðất Nước này, là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Dân Tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta, để phục vụ với tính cách vừa là công dân, vừa là thành phần Dân Chúa”. Thư chung 1980 nói đến Quê Hương 1980, tức là Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, và kêu gọi chúng ta gắn bó với Tổ Quốc Việt Nam hôm nay của ta. Chúng ta không có quê hương nào khác, để thực hiện ơn gọi làm con Chúa và ơn gọi làm linh mục, giám mục.

Là mục tử, nếu mình không thích nghi, không kính trọng, không yêu mến, không gắn bó với nơi mà chính mình được sai đến, thì làm sao gọi được là mục tử đích thực của Chúa Kitô. Chúa Giêsu không hằn học và chỉ trích dân vô đạo, trái lại, Người tỏ ra nghiêm khắc với các thầy cả, các kỳ lão, các thầy thông luật, các Pharisêu, mà Người gọi là đạo đức giả. Thánh tông đồ Phaolô cũng như thánh Phanxicô Xaviê nhờ sự biết kính yêu và bênh vực những người vô đạo mà các Ngài đã có thể loan báo Tin Mừng cứu độ ở chính những nơi không phải quê hương các Ngài.

Mầu nhiệm nhập thể của Chúa giáng sinh, là một bài học can đảm nhất về thích nghi mục vụ. Chúa khác xa con người vô cùng, nhưng Chúa đã mến yêu con người đến nỗi đã trở nên giống con người về mọi mặt, ngoại trừ tội lỗi. Hình ảnh Chúa chiên lành trong Phúc Âm kêu gọi lương tâm các mục tử trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay hãy nhìn mọi người Việt Nam, dù có đạo, dù không, bằng con mắt thanh thản của đức tin, chứ đừng bằng con mắt cá nhân phàm tục.

Ðạo Công giáo đã hoạt động trên thế giới từng gần 2000 năm và trên Ðất Nước này từng 300 năm nay, với nhiều thời điểm có các trợ lực siêu nhiên và tự nhiên rất thuận lợi, thế mà hôm nay, các người của Hội Thánh vẫn còn vô số tiêu cực, Hội Thánh vẫn chưa đổi mới được con người và xã hội như mình muốn. Sự thực đó, đòi hỏi phải có một cái nhìn khiêm tốn hơn về Hội Thánh và về bản thân, đồng thời biết thông cảm với Nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa trước hiện tình chưa tốt của Ðất Nước ta bây giờ. Những lúc gặp khó khăn mà biết yêu thương bênh vực, nâng đỡ mới thực là quý và bác ái chân thành. Nhất là yêu thương mà không có hậu ý tìm lợi cho mình, mới càng là bác ái trong sáng Phúc Âm. Những tấm lòng bác ái như thế đã làm lợi vô vàn cho Hội Thánh và cho xã hội, chứ không phải những tinh thần thánh chiến, những thập tự chinh.

Như vậy, thích nghi với xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa theo tôi là vấn đề đổi mới trái tim, đổi mới cách nhìn. Những suy nghĩ trên đây sẽ giúp ta ổn định tâm tư, hầu dễ sẵn sàng đón nhận những ơn Chúa soi sáng về tương lai Hội Thánh.

 5.- Ðổi mới suy nghĩ về “giảng dạy đạo

Linh mục có ba chức năng: Ban bí tích, đứng đầu cộng đoàn Dân Chúa và giảng dạy đạo, cũng gọi là loan báo Tin Mừng cứu độ. Nhiều người vẫn quen coi việc làm lễ, ban bí tích là chức năng chủ yếu của linh mục. Nay theo các văn kiện Công đồng, chức năng ưu tiên số một của linh mục chính là loan báo Tin Mừng. Ưu tiên đó hợp Phúc Âm hơn, cần thiết hơn, và khiêm tốn hơn. Với nhận thức như thế, mọi linh mục dù ở hoàn cảnh nào vẫn đều thấy mình mang trách nhiệm của kẻ được sai đi loan báo Tin Mừng. Các Ngài sẽ được an tâm và tự hào nếu hiểu đúng như thế nào là loan báo Tin Mừng và có những sáng kiến để thực hiện một cách thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Trong tinh thần ấy, ở đây, tôi xin đưa ra một số suy nghĩ, cũng rút ra từ Phúc Âm và Công đồng.

Tiên vàn, ta đừng bao giờ coi mình là kẻ ban đức tin cho ai. Ðức tin là một ơn Chúa ban. Kẻ loan báo Tin Mừng là kẻ làm chứng, là kẻ dọn đường, là kẻ gặp gỡ, là kẻ tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần.

a)- Loan báo Tin Mừng là làm chứng

Làm chứng nói đây chủ yếu là bằng những gì người ta thấy được nơi Hội Thánh hôm nay, nơi nếp sống người có đạo bây giờ, nơi chính con người kẻ giảng dạy đạo.

Ðạo nói về sự gắn bó với Ðấng vô hình đời đời hằng sống, về sự quan trọng của phần rỗi đời sau, về bổn phận yêu nước thương nòi, về thăng tiến con người toàn diện, về phục vụ đồng bào. Ðó là lý thuyết. Nhưng nếu trên thực tế hôm nay, kẻ có đạo, nhất là kẻ giảng đạo không làm chứng được lý thuyết đó bằng một đời sống có những thái độ và việc làm đúng hợp như đạo lý của mình, thì chưa đúng là loan báo Tin Mừng. Nhất là nếu chẳng may thực tế lại có nhiều phản chứng hơn là làm chứng.

Xin nêu lên ở đây một số thí dụ phản chứng, thường là vô tình nhưng rất tai hại. Cách dạy đạo quá nặng về hình thức, mà coi nhẹ bản chất đạo, quá nặng về cái phụ thuộc mà coi nhẹ cái chính của đạo, quá nặng về vụ lợi mà coi nhẹ vị tha, quá nặng về mầu nhiệm và siêu nhiên mà coi nhẹ con người tự nhiên, quá nặng về phần hồn mà coi nhẹ phần xác, quá nặng về Hội Thánh mà coi nhẹ Tổ Quốc, quá nặng về đời sau mà coi nhẹ đời này.

Những cách giảng đạo như thế gọi là phản chứng, bởi vì chúng làm cho người ta hiểu sai đạo Chúa. Do những phản chứng đó mà nhiều người đã ác cảm với đạo, đã rời xa đạo, đã phẫn nộ với đạo.

b)- Loan báo Tin Mừng là dọn đường

Dọn đường mà tôi nói đây là dọn lòng con người. Làm sao để con người có được lòng tốt, biết phân biệt được cái gì là tốt, cái gì là xấu, biết mộ mến sự tốt, biết hướng về sự tốt, biết tìm kiếm sự tốt, biết can đảm phấn đấu cho những lý tưởng tốt. Dọn đường như thế không cần gì lắm đến những mầu nhiệm xa vời. Chính những gì đơn giản thiết thực lại có sức uốn nắn lòng người một cách hữu hiệu. Lòng tốt sẽ là đất tốt. Tấm lòng tốt đã là một sự đợi chờ Chúa đến. Thiện chí khát khao sự tốt đã là một lời cầu nguyện trung thành. Rồi chính Chúa sẽ làm những sự mà kẻ loan báo Tin Mừng không làm được.

c)- Loan báo Tin Mừng là gặp gỡ

Gặp gỡ nói đây là gặp gỡ những người tin nhau. Khi Giacôbê, Gioan, Phêrô và Anrê thấy Thầy Giêsu tin mình, và mình cũng tin Thầy, nên xin đi theo. Chứ lúc ấy, các tông đồ đâu có hiểu gì lắm về đạo lý của Thầy. Các Ngài tin vào con người của Thầy, rồi sau này mới tin vào lời của Thầy. Các ngài tin vào con người của Thầy vì thấy Thầy rất là người, dễ thương, dễ mến, đáng tin, và nhất là vì thấy Thầy dám đặt niềm tin vào mình. Ðúng thế, nếu người giảng dạy đạo không được coi là người đáng tin, dễ mến, không trao đổi được niềm tin tưởng với người nghe, thì dù giảng dài, giảng hay tới đâu, cũng chưa gọi được là gặp gỡ.

d)- Loan báo Tin Mừng là tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần hướng dẫn lịch sử cứu chuộc qua các chặng đường khác nhau, bằng những cách đa dạng, ta không sao hiểu hết được. Chỉ biết chắc rằng, Người vẫn âm thầm phù giúp Hội Thánh, Người vẫn âm thầm đưa nhân loại về cứu cánh sau cùng. Phải nhận rằng nhân loại hôm nay dù vẫn có vô số tiêu cực nhưng đã có những bước tiến rất đáng kể về đạo đức hơn xưa rất nhiều. Lúc này hơn bao giờ hết, ý thức về hoà bình, về công bằng xã hội, về liên đới bác ái đã phát triển rất cao và rất rộng, số người can đảm và phấn đấu cho lý tưởng vì hạnh phúc con người mỗi ngày một tăng lên. Họ là những người thuộc mọi dân tộc, có tín ngưỡng và vô tín ngưỡng. Chúa dùng ai thì tuỳ ý Chúa, đó là quyền của Chúa. Cả đến những khó khăn để thanh luyện Hội Thánh cũng không ngoài ý Chúa. Nếu khó khăn có mang tính cách cứu độ thì khó khăn đó là Tin Mừng. Cây thánh giá Chúa Kitô là vui mừng và hy vọng cho Hội Thánh, không phải chỉ trong tuần thánh mà là cho đến tận thế.

Trên đây là mấy suy nghĩ có tính cách gợi ý. Tôi nghĩ là sẽ còn phải thêm nhiều. Nhưng nếu ta đổi mới được cách suy nghĩ về 5 vấn đề trên đây mà thôi, thì lương tâm mục tử của ta cũng sẽ được nhẹ nhàng nhiều lắm. Bởi vì chúng ta làm một việc mà Phúc Âm đòi hỏi, Công đồng hối thúc và xã hội mong chờ.

Ðổi mới suy nghĩ, đó là một yêu cầu bức thiết từ bên trong Hội Thánh và từ bên ngoài xã hội. Nếu ta không thoát ra được khỏi những suy nghĩ bảo thủ lỗi thời, ta sẽ tự tách mình ra khỏi con đường đi lên. Nhưng cần phải đổi mới thật lòng, chuyển những đổi mới suy nghĩ thành hành động và thái độ thích hợp.

Ðổi mới, vấn đề có tầm quan trọng sống còn”. “Ðổi mới xu thế thời đại”. Ðó là hai cuốn sách mới xuất bản rất nên đọc. Tôi xin phép dùng hai tựa đề đó để kết thúc bài nói chuyện của tôi.

Tuần tĩnh tâm Linh Mục Giáo phận Long Xuyên, năm 1986