MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Dấu chỉ cầu nguyện
Nhân ngày lễ thánh Giuse 19/03/1991 là bổn mạng Giáo hội Việt Nam sắp đến, tôi xin nhắc lại mấy ước vọng về Giáo hội Việt Nam mà Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra trong diễn văn của Ngài, dịp tiếp các Ðức Giám mục Việt Nam ngày 24/11/1990. Theo nguyên văn, thì các ước vọng này được Ðức thánh Cha đặt nơi Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhưng theo ý nghĩa, thì thiết tưởng các ước vọng ấy cũng được đạt cho Giáo hội Việt Nam nói chung, và cho từng Giáo phận Việt Nam nói riêng, đặc biệt là cho mọi người giáo sĩ chúng ta.
Vậy xin tóm lược những ước vọng mà Ðức thánh Cha đã nói lên như sau:
1/ Ước vọng thứ nhất
Ðào sâu những suy tư của mình về các dấu chỉ thời đại, về các nhu cầu của tín hữu, về các linh-hoạt phụng vụ, và về các phương tiện huấn luyện cần được dự phòng.
Ðây là những đề tài Ðức thánh Cha kêu gọi chúng ta phải suy nghĩ và phải đào sâu những suy nghĩ đó. Tôi thấy ngay các vấn đề gọi là suy tư về dấu chỉ thời đại, mình vẫn chưa làm đúng, chưa làm nhiều. Nếu hỏi chúng ta rằng: Hiện nay, tại Việt Nam, những gì là dấu chỉ thời đại, chưa chắc chúng ta đã nắm bắt được, nói chi đến việc đào sâu suy tư về những dấu chỉ đó.
Rồi Ðức thánh Cha ước vọng đào sâu suy tư về những nhu cầu của tín hữu. Chúng ta cũng ít để ý nhu cầu khách quan, nhu cầu chủ quan, từng nơi, từng địa phương, từng thời điểm.
Rồi về các linh-hoạt phụng vụ. Phụng vụ phải làm sao cho đẹp, cho hay, cho có hồn, cho hấp dẫn, từ bài giảng cho đến những lễ nghi. Những cái đó, không biết chúng ta đã để ý, đã đào sâu chưa.
Rồi về những phương tiện huấn luyện cần được dự phòng. Những phương tiện thuộc về cơ cấu, như là các lớp giáo lý, các bài giảng trong nhà thờ, tất nhiên chúng ta phải quan tâm để ý. Nhưng cũng cần phải để ý đến những phương tiện huấn luyện ngoài cơ chế nữa, như là những nhóm cầu nguyện, những nhóm chia sẻ, những nhóm học hỏi Lời Chúa. Không biết chúng ta có để ý đến những vấn đề mà Ðức thánh Cha đã gợi lên không. Mà Ngài nói, phải để ý và dự phòng, để khi thời thế mở ra, chúng ta có sẵn những phương tiện và những người để huấn luyện. Ðó là ước vọng thứ nhất trong vấn đề đào sâu suy tư.
2/ Ước vọng thứ hai
Ðức thánh Cha mong muốn, là phát triển đời sống bên trong của Giáo hội Việt Nam.
Ðời sống bên trong không phải là các kỷ luật mà thôi, cũng không phải chỉ là học những chân lý về thần học, Kinh thánh. Ðời sống bên trong mà Ðức Thánh Cha muốn, thiết nghĩ chính là đời sống Ðức Kitô, đời sống của Thiên Chúa, đời sống bắt gặp được những bước đi, những suy tư, những tâm tình của Ðức Kitô đối với Ðức Chúa Cha, đối với nhân loại. Ðiều đó, nhiều khi chúng ta vẫn chưa làm đúng, vẫn chưa làm đủ theo nguyện vọng của Ðức thánh Cha.
3/ Ước vọng thứ ba
Của Ðức thánh Cha về Giáo hội Việt Nam, về từng Giáo phận, về từng giáo đoàn, là hãy hiểu rõ hơn vị trí của Giáo hội địa phương mình trong xã hội mình sống, và biết đặt Giáo hội địa phương của mình đúng chỗ của nó trong cuộc sống dân tộc. Thí dụ như bây giờ Toà giám mục Long Xuyên, giáo xứ Long Xuyên, giáo xứ Cần Xây, giáo xứ Thới Thạnh vv...Chúng ta cần phải hiểu xem, mình là men, là muối, là ánh sáng, thì địa vị của mình, chỗ đứng của mình trong xã hội hôm nay phải như thế nào, để đúng là men là muối, là ánh sáng. Ðức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta phải biết địa vị của mình trong xã hội mà mình được sai đến làm chứng cho Chúa. Không phải chỉ hiểu biết, mà còn phải biết cách đặt cộng đoàn của mình vào đúng vị trí của nó.
4/ Ước vọng thứ tư
Mà Ðức Giáo Hoàng đặt ra cho chúng ta, là phải góp phần hàn gắn những vết thương quá khứ và xây dựng cuộc sống chung của Ðất Nước.
Những vết thương của quá khứ tại Việt Nam nói chung, tại từng địa phương nói riêng thì rất nhiều. Những vết thương ở trong lòng mỗi người, do chiến tranh để lại, do hận thù chia rẽ, nghi kỵ để lại, do những vết thương trên cầu cống, trên đường xá, trên nhà trường vẫn còn đó. Rồi vết thương trong nếp sống, những hủ tục, những thói quen xấu vẫn chưa sửa được. Có nhiều vết thương, mà Ðức Thánh Cha nói rằng: Giáo hội Việt Nam, chung cũng như từng địa phương, phải nghĩ đến vấn đề góp phần hàn gắn những vết thương đó, xoa dịu những vết thương đó, và phải góp phần xây dựng cuộc sống chung của Ðất Nước Việt Nam hôm nay.
5/ Ước vọng thứ năm
Của Ðức Thánh Cha gởi cho Việt Nam, là hãy làm thế nào để lôi cuốn mọi người vào phong trào cầu nguyện sốt sắng.
Khi nói đến vấn đề cầu nguyện, tôi nghĩ: Ðức Giáo Hoàng nghĩ sâu hơn vấn đề đọc kinh bằng môi bằng miệng. Cầu nguyện sốt sắng, thiết tưởng theo ý Ðức Thánh Cha, là một sự gặp gỡ Thiên Chúa, và mở rộng về phía con người, theo sự cầu nguyện của Ðức Kitô, và nếu Ðức Thánh Cha đã đưa ra vấn đề đó như là một ước vọng, tất nhiên là Ðức Thánh Cha thấy chúng ta đọc kinh nhiều, nhưng chưa chắc là đã cầu nguyện.
6/ Và ước vọng sau cùng
Của Người đặt ra cho Giáo hội Việt Nam chúng ta, là hãy hoạt động cho việc canh tân Giáo Hội trong tinh thần hoà giải giữa các người công giáo với nhau, và giữa các người công giáo và người đồng hương ngoài công giáo.
Về vấn đề này, ước vọng của Ðức Thánh Cha là chính đáng và khẩn cấp. Ngài coi việc hoà giải giữa các người công giáo với nhau và giữa các người công giáo và người đồng hương ngoài công giáo, như là một sự canh tân Giáo Hội Việt Nam.
Vậy hôm nay, trong tinh thần muốn đáp lại những ước vọng trên của Ðức thánh Cha, tôi xin chia sẻ một vài suy tư của tôi về dấu chỉ thời đại tại Việt Nam lúc này.
Tất cả những ước vọng của Ðức thánh Cha mà tôi vừa trình bày, sẽ là chương trình để chúng ta suy nghĩ cả năm nay trong các kỳ cấm phòng tháng. Nhưng hôm nay, tôi bắt đầu bằng sự chia sẻ suy tư của tôi về dấu chỉ thời đại Việt Nam lúc này.
I. DẤU CHỈ THỨ NHẤT
Theo tôi, là hiện tượng cầu nguyện đang bùng lên khắp nơi trong các người ngoài công giáo ở Việt Nam. Một hiện tượng đang bùng lên, đang bùng nổ, đang lan ra khắp nơi trong các người công giáo, và trong các đồng bào ngoài công giáo.
Cách đây mấy ngày, tôi ở thành phố Hồ chí Minh, và nhân dịp rằm tháng giêng (1991), tôi đã được chứng kiến, đúng là một sự bùng nổ về cầu nguyện của người Phật tử. Khắp các chùa chiền đầy ních những người. Khắp các đường phố đầy những người đi lại đến các chùa chiền cầu nguyện. Hiện tượng cầu nguyện của những người ngoài công giáo được nhận thấy ít lâu nay khắp nơi. Hoặc là tại các nơi thờ tự, hoặc là tại các gia đình, hoặc là tại các nghĩa trang, và trong mọi cơ hội: Như lễ tang, lễ giỗ, lễ cưới, ngày đầu năm.
Những người ngoài công giáo ở Việt Nam hôm nay cầu nguyện rất nhiều. Họ có thói quen cầu nguyện hằng ngày trong gia đình. Trước “Nhà ma” của tôi, tối nào tôi cũng được thấy cảnh mấy gia đình người Phật giáo cầu nguyện ban chiều. Cứ đến giờ đó, tôi thấy họ thắp nến, thắp nhang, mặc áo dài, và quỳ lạy đọc kinh, trước mặt mọi người qua lại.
Những người đi chùa cầu nguyện, phần đông lại là giới trẻ. Ðây cũng là một hiện tượng có tính cách khác thường. Mà giới trẻ này gồm đủ mọi thành phần: Không thiếu những người văn minh, không thiếu những người giàu sang, không thiếu những người có học. Tâm tình cầu nguyện, cũng đã nhận thấy xuất hiện ở nhiều kịch bản tôi đã xem: Ở tivi, ở nhiều bài thơ, ở nhiều bài hát, và ở nhiều tiểu thuyết hiện nay. Người ta chen vào những nét văn nghệ bây giờ những lời than thở, những lời cầu nguyện hoặc là với trời đất, hoặc là với thần linh nào đó. Những tâm tình cầu nguyện đó đã thấy xuất hiện khắp nơi, nơi những người ngoài công giáo.
Nói chung, thì việc cầu nguyện được thực hiện một cách tự phát, hồn nhiên, đơn sơ. Trong đạo mình thường cầu nguyện theo công thức, theo những kinh đã thuộc, còn hiện tượng đang bùng nổ trong những người ngoài công giáo ở Việt Nam thì có tính cách tự phát hồn nhiên, đơn sơ, hoặc là để thề hứa một điều gì, hoặc là để xin một ơn gì, hoặc là để tạ ơn thần linh. Xem ra phần đông người Việt Nam có tính dễ dàng trong vấn đề cầu nguyện với thần thánh. Họ cầu nguyện với bất cứ thần thánh nào, mà họ nghĩ rằng có quyền năng hỗ trợ cho họ, bất cứ thần thánh đó thuộc về tôn giáo nào. Ðiều này khác với não trạng của người công giáo.
Trước đây, tại nhiều nơi, việc cầu nguyện bị bài bác. Nhưng hôm nay, việc cầu nguyện xem ra được coi như bình thường và được kính nể. Ðấy là tôi vừa nói tất cả những cái đó, gói trọn trong cái từ “Hiện tượng cầu nguyện bùng nổ” như một dấu chỉ thời đại. Hiện tượng cầu nguyện đang lan rộng ra ở các người ngoài công giáo, đây, phải được coi là một dấu chỉ tốt. Nhìn hiện tượng này, tôi thấy Chúa Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Người làm việc một cách hết sức tự do, ngoài mọi khuôn khổ, ngoài mọi cơ chế. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi giải thích việc Ngài cầu nguyện chung với các đại diện các tôn giáo tại Assisie năm 1988 cho hoà bình, thì Ngài nói rằng: “Mọi việc cầu nguyện chính đáng, chân thành từ lương tâm, đều do thánh Linh” Và điều đó cũng hợp quan điểm của Công đồng Vatican II: "Bất cứ sự gì tốt, đều do Thánh Linh mà ra”. Chúa Thánh Thần hoạt động như một luồng gió, muốn thổi đâu thì thổi, để đổi mới con người, theo lương tâm của họ. Vậy đứng trước dấu chỉ thời đại đang bùng nổ tại Việt Nam, đó là hiện tượng cầu nguyện lan tràn, thì chúng ta, các Linh mục, tu sĩ, cần nhạy bén và suy nghĩ trước hiện tượng đó.
Trước hết, qua dấu chỉ hiện tượng cầu nguyện, chúng ta hiểu Chúa muốn chúng ta phải để ý hơn đến việc cầu nguyện của chính chúng ta. Những người ngoài Công giáo đang bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn, thì tại sao chúng ta lại lơ là việc cầu nguyện. Họ cầu nguyện tự phát, từ đáy lòng mình, thì tại sao chúng ta lại cầu nguyện bằng môi bằng miệng mà không để tâm hồn vào trong sự cầu nguyện.
Qua dấu chỉ thời đại này, Chúa muốn chúng ta chỉnh đốn lại việc cầu nguyện của chính chúng ta. Cầu nguyện làm sao để trở thành sự gặp gỡ Chúa bằng đức tin, đức cậy, đức mến, bằng sự phó thác đơn sơ. Nhưng đồng thời, cầu nguyện cũng là nâng tâm hồn lên tới Chúa và mở tâm hồn ra về khía cạnh khác. Thường khi cầu nguyện chúng ta chỉ chú ý tới hướng tâm hồn lên tới Chúa. Nhưng suy nghĩ kỹ về cách Chúa Kitô cầu nguyện với Ðức Chúa Cha, chúng ta thấy, ngoài việc nâng tâm hồn lên với Chúa Cha, Ðức Kitô còn mở tâm hồn mình ra về phía kẻ khác: "Lạy Cha, xin Cha tha tội cho chúng, vì chúng lầm không biết”. Một đàng thì nâng tâm hồn lên với Ðức Chúa Cha. Nhưng một đàng mở tâm hồn ra về phía kẻ khác. Phúc Âm nói: Chúa Kitô ngước mắt lên trời cầu nguyện: ”Lạy Cha, con cầu nguyện cho những người sẽ tin con”.
Qua dấu chỉ cầu nguyện đang bùng nổ nơi những người ngoài Công giáo Việt Nam hôm nay, chúng ta cũng hiểu Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta, hãy lưu ý hơn nữa các tín hữu của ta quan tâm đến việc cầu nguyện. Nhiều người bỏ cầu nguyện, nhiều người cầu nguyện bằng môi bằng miệng, nhiều người chỉ cầu nguyện với Chúa mà quên mở tâm hồn mình ra với con người, nhiều người mở tâm hồn mình ra với con người, nhưng lại quên nâng tâm hồn lên tới Chúa. Chúa kêu gọi chúng ta lưu ý đến tín hữu của ta về việc cầu nguyện.
Tại bên Tây bây giờ, để tái Phúc-Âm-hoá những nơi bỏ đạo, Ðức Thánh Cha nhấn mạnh đến những nhóm cầu nguyện tự phát. Ngài muốn cho những người tin Chúa hãy cầu nguyện tự đáy lòng mình. Không phải bỏ những công thức kinh kệ có sẵn thuộc lòng. Nhưng cũng khuyên người ta, ngoài những công tác đó, hãy năng cầu nguyện riêng, cầu nguyện vắn tắt, cầu nguyện khắp nơi, cầu nguyện gắn liền với cuộc sống và nhịp sống, để sự cầu nguyện trở thành lương thực thường xuyên của linh hồn.
Tôi đi nhiều xứ thấy rằng, giáo dân của mình thuộc kinh nhiều, đọc kinh nhiều nhưng hễ rời những công thức đó ra, là không biết cầu nguyện, không biết làm gì khi chưa xướng kinh, chưa “Nhân danh Cha. ..” Họ không biết làm gì, là bởi vì họ chưa được huấn luyện đầy đủ về sự cầu nguyện riêng. Họ chỉ biết đọc kinh mà không cầu nguyện.
Ðề cập đến việc cầu nguyện, tưởng cũng nên tạo những điều kiện thuận lợi, để nhà thờ chúng ta, để lễ lạy của ta, tượng ảnh của ta, thánh ca của ta có sức hấp dẫn, giúp cho các người ngoài Công giáo dễ cầu nguyện với ta, theo lương tâm của họ.
Tôi đi nhiều nơi và ngay tại chính Long Xuyên này, tôi nhận thấy rằng, một số người ngoài Công giáo đã đến dự lễ của ta, cầu nguyện với ta, đa số là thanh niên. Lý do một phần là vì nhà thờ chúng ta có một cái gì hấp dẫn, là vì phụng vụ chúng ta có cái gì hấp dẫn, là vì bài giảng của vị chủ lễ có một cái gì hấp dẫn, là vì ảnh tượng của chúng ta, thánh ca của chúng ta, có một cái gì hấp dẫn. Vậy, hãy tạo ra điều kiện thuận lợi, để những phương tiện cầu nguyện của chúng ta có sức hấp dẫn, lôi cuốn những người ngoài Công giáo, những tâm hồn thích cầu nguyện, để họ cùng với ta mà cầu nguyện theo lương tâm của họ. Và như vậy, dấu chỉ thời đại hôm nay tại Việt Nam, là sự bùng nổ tinh thần cầu nguyện nơi các người ngoài Công giáo sẽ là một thác nước bắt đầu chảy, mà nó chảy do động lực của Chúa Thánh Linh. Chúng ta nhìn dấu chỉ đó, để đồng hành với dòng thác đó, do Chúa Thánh Linh đang khơi dậy trong tâm hồn người Việt Nam hôm nay.
II. DẤU CHỈ THỨ HAI LÀ HIỆN TƯỢNG KHAO KHÁT VƯƠN LÊN VÀ ĐỔI MỚI
Hầu như mọi người Việt Nam lúc này, dù ở bất cứ cương vị nào, tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, đều cảm thấy mình cần được giúp đỡ, cần được nâng lên, cần được đổi mới.
Khi tiếp xúc với các giới trong Hội Thánh Công giáo, nhất là giới trẻ, tôi thấy người ta mong muốn cái gì đổi mới, đổi mới cách nào đó trong Hội Thánh mình. Họ có một khao khát đổi mới để vươn lên, chứ không phải đổi mới bề ngoài đâu. Họ cũng có một khao khát một sự đổi mới thật sự trong Hội Thánh, trong tinh thần bác ái, trong tinh thần công bằng. Họ khao khát thiệt, khao khát được vươn lên, khát khao đổi mới. Khát khao được nâng đỡ ấy, bây giờ, nó tràn lan khắp mọi người Việt Nam.
Tôi thấy tinh thần tự mãn, tự ái, tự phụ, nay đã giảm nhiều. Phần đông đồng bào ta ở bất cứ cương vị nào, tầng lớp nào, cũng đều đang cảm thấy thấm thía những giới hạn của mình, những thiếu thốn lớn lao của mình, những nguy cơ đang đe doạ mình về mặt vật chất, lẫn về mặt tinh thần. Tôi thấy bây giờ đúng như vậy. Chắc các Cha, khi tiếp xúc với đồng bào, có đạo hay không có đạo đều cảm thấy người ta mong nuốn có một sự giúp đỡ nào đó, để họ sống cho ra người, để con em của họ có một tương lai, để Ðất Nước mình tươi sáng hơn lên. Và sự cảm thấy mình cần được giúp đỡ, và mong chắc được giúp đỡ để vươn lên như vậy, đúng là một dấu chỉ thời đại. Ðây là một dấu chỉ tốt, bởi vì người ta ước muốn điều tốt thôi, những điều rất tốt. Dấu chỉ này rất thuận lợi cho việc thực thi bác ái và xây dựng tinh thần liên đới.
Lịch sử truyền giáo cho thấy là những hoàn cảnh như thế này, khi biết nắm bắt, đã hỗ trợ rất nhiều cho việc rao giảng Tin Mừng cứu độ. Những thời điểm nào mà người ta đang cần đến Giáo Hội để chấn hưng đạo đức, người ta đang cần đến Hội Thánh, để xây dựng hoà giải, người ta đang cần đến Hội Thánh, để xây dựng tình bác ái, tình huynh đệ, tình liên đới, công bằng, những thời điểm đó, nếu không nắm bắt được, nếu không nắm lấy để thực thi, thì chúng ta lỡ một chuyến tàu lịch sử. Nếu sau này, qua thời điểm người ta cần đến mình, thì chúng ta sẽ mất cơ hội để truyền giáo.
Cũng như bên Tây, khi nền văn minh đã cao, người ta cảm thấy không cần đến Hội Thánh, không cần đến tôn giáo, bấy giờ việc truyền giáo cũng khó. Còn tại Việt Nam, nhất là lúc này, tôi có thể nói, từ Ðảng Cộng Sản cho đến người dân thường, ai cũng nhận thấy giới hạn nhất định của mình, ai cũng cảm thấy mình cần được giúp đỡ. Và nơi mà người ta nhìn vào với nhiều hy vọng, chính là đạo Công giáo, Hội Thánh Công giáo, các Giám mục, các Linh mục, các cộng đoàn tín hữu. Phải nói như vậy một cách lương thiện.
Vậy, hoàn cảnh này, đúng là một thách đố đặt ra cho Giáo Hội Việt Nam nói chung, và cho từng cộng đoàn tín hữu nói riêng. Hoàn cảnh này cũng là một cách trắc nghiệm về thiện chí cứu độ và khả năng cứu độ của Hội Thánh chúng ta đối với Ðất Nước, đối với đồng bào.
Trong hoàn cảnh hiện nay, nhất là cách đây mấy năm, nhiều tôn giáo đã nắm bắt những điều kiện trước mắt, để làm chứng chiều hướng cứu độ và khả năng cứu độ của tôn giáo họ. Tôi thấy nhiều nơi, Tin Lành và nhiều giáo phái Tin Lành cũng như một vài tôn giáo gần chúng ta đây, đã nắm bắt hoàn cảnh hiện nay: Con người khao khát được cứu độ, để họ làm chứng thiện chí cứu độ của đạo họ và làm chứng khả năng cứu độ của tôn giáo họ. Và kết quả có phần tích cực. Họ đã làm chứng được một cách có hiệu quả về khả năng cứu độ và thiện chí cứu độ của tôn giáo họ.
Trái lại, tại một số nơi, Linh mục, tu sĩ, giáo dân chúng ta đã không làm chứng được thiện chí cứu độ và khả năng cứu độ, một phần vì hoàn cảnh, một phần cũng do tại chúng ta. Thiết tưởng chúng ta cần phải suy nghĩ nhiều về dấu chỉ thời đại đang diễn ra trước mắt chúng ta đây, để chúng ta tìm cách đáp ứng những lời Chúa kêu gọi qua dấu chỉ này.
Tôi nhìn dấu chỉ thời đại trước mắt, nhưng tôi đọc kỹ ý nghĩa của nó, là ý Chúa muốn: Chúa muốn gì trong dấu chỉ đó chứ không phải là tìm nguyện vọng của dân, khát vọng của dân, để thoả mãn, để gây uy tín cho đạo. Không phải. Mà mình hiểu rằng qua dấu chỉ này, Chúa đang muốn mình làm gì, Giáo hội mình cần đáp ứng gì, để đưa họ về với Chúa, để giới thiệu khuôn mặt Ðức Kitô và Hội Thánh mình. Khi đọc thấy ý muốn của Chúa, là muốn cho chúng ta nghiên cứu và đáp ứng một cách nào đó khát vọng này của dân, chúng ta sẽ cố gắng đem lại cho họ một cách nào đó Tin mừng cứu độ.
Tôi thấy trong địa phận Long Xuyên của ta, nhiều Cha, nhiều Thầy phục vụ ở những địa điểm rất nghèo, bản thân các Cha, các Thầy ấy cũng rất nghèo. Nhưng cũng có nhiều cố gắng đổi mới, nhất là đổi mới cách đối xử, thì các Cha, các Thầy ấy đã giúp đỡ được nhiều người trong địa phương mình, đã góp phần đổi mới được nhiều người, từ não trạng đến nếp sống, và đã giúp cho nhiều người trong địa phương của mình có thiện cảm hơn với Hội thánh. Nhờ đó, mà nhiều đồng bào ngoài Công giáo cũng như trong đạo, đã nhìn thấy được dung mạo thực của Ðức Kitô, Ðấng hiền lành, khiêm nhường, nhân ái cứu độ. Và cũng nhìn thấy dung mạo thực của Hội Thánh. Nhờ đó, hậu quả truyền giáo đã trở thành tích cực lớn lao. Kinh nghiệm cho thấy là những địa điểm đó, các Cha, các Thầy không có tiền bạc nhiều, ít tiền bạc lắm, cũng không có nhiều hoạt động lắm đâu. Thế nhưng, nhờ tấm lòng của mình, cách đối xử của mình, cái hiền lành, khiêm tốn, thông cảm của mình, những người ngoài Công giáo cũng như trong Công giáo, nhìn thấy hương mát trong sáng của đạo. Nhờ đó, việc truyền giáo bắt đầu nở rộ ra như một mùa xuân ở những địa điểm đó.
Ðang khi ở những nơi có nhiều tiền, nhiều bạc, xây dựng nhiều cơ sở vật chất, nhưng thiếu tâm tình của Ðức Kitô hiền lành khiêm tốn, quảng đại, thông cảm, nên cơ sở vật chất ấy, cũng không lấy lại được tình cảm của người ngoài Công giáo.
Vậy, trong ngày lễ thánh Giuse, chúng ta xin Thánh Cả Giuse giúp cho chúng ta bắt chước Người. Thánh Giuse xưa kia đã tận tình phục vụ Chúa Kitô đến hy sinh, đến quên mình, thì nay xin Thánh Cả Giuse giúp cho chúng ta biết mở rộng Nước Chúa, biết phục vụ Chúa, trong thời điểm này, với tất cả nhiệt tình của mình. Nhất là phục vụ Chúa nơi những người ngoài Công giáo, nơi những người chưa biết Chúa.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 3/91