TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Trẻ trung
Trong tạp chí Tuổi Trẻ Chúa Nhật, số tất niên ra ngày 04/02/1990, với chuyên đề “300 năm Saigon”, có bài viết của nhà văn Sơn Nam, tựa đề “Ðất Sàigon, chất người Sàigon”.
Phần nói về chất người Sàigòn, Sơn Nam đã viết như sau: “Người Sàigòn sống vui tươi, với phong cách rõ nét: Cốt lõi xưa còn được gìn giữ, nhưng không thu hình trong vỏ ốc”.
“Về tín ngưỡng, không kỳ thị tôn giáo, nổi bật nhất là tín ngưỡng dân gian, khấn vái thần thánh phù hộ trong cuộc sống, để được hăng hái làm thương mại, kinh doanh, không yếm thế”.
“Khi giao tiếp, không kỳ thị dân tộc. Người Hoa lai Việt, người Ấn lai, người Pháp lai, thậm chí Mỹ lai, vẫn được xem bình đẳng, lắm khi người Việt rất hiếu khách với người lai”.
“Thức ăn, biểu hiện lớn và cụ thể của văn hoá Việt, trở nên đa dạng, thường thay đổi để cạnh tranh nhau trên thị trường...”.
“Thích ăn uống bên lề đường, trong tiệm quán cho tiện lợi. Vì thường nhà ở xa, chật chội, vợ con không rảnh rang.”
“Ưa bóng đá, xem hát cải lương, rất tò mò về tin tức trong nước và ngoài nước. Ở bến cảng, không có lượng thông tin nhạy bén thì khó nắm bắt thị trường, dễ trở thành lẩm cẩm khi giao tiếp với bạn bè. Lắm khi biết tin tức để... giải trí suông. Nhật báo, tuần báo luôn được ưa chuộng...”.
“Nét tiêu cực có thể là xuề xoà, nhận xét người theo cảm tính, bộc trực, không thích nghe lý luận, không hờn giận dai, nói cho qua cơn giận rồi bỏ qua, đánh trống bỏ dùi. Hứa hẹn rồi quên lửng, không phải vì khinh bạn, nhưng vì đầu óc quá bê bối, với nhiều vấn đề lớn nhỏ. Lắm khi lười biếng, vì quá tin vào câu chữ xa xưa: “Thiên sinh nhơn, hà nhơn vô lộc...”. Cậy vào thiên nhiên ưu đãi, không thiên tai bão lụt, lãng phí đến mức liều mạng, không nghĩ đến ngày mai”.
“Ghét bất công áp bức. Trọng nhân nghĩa. Nghĩa là lẽ phải, là sự công bình. Nhân là sự khoan dung, thương xót kẻ sa cơ thất thế. Khi xảy ra thiên tai, sẵn sàng làm việc từ thiện, thi ân bất cần báo, nếu hợp tình hợp lý, tiền bạc lạc quyên được quản lý tốt”.
Ðọc xong những dòng trên tả chất người Sàigòn, tôi thấy đặc điểm của người Sàigòn là nét trẻ trung. Nét trẻ trung được thể hiện ở tính tình - thích vui tươi, cởi mở, lạc quan, đa dạng, xuề xoà, tình cảm chân thực, quảng đại. Nếu tôi không lầm, thì đó cũng là đặc điểm chung của người miền Nam.
Tính tình trẻ trung sẽ làm nên những tâm hồn trẻ trung, và bầu khí xã hội trẻ trung. Trong bầu khí xã hội trẻ trung với những con người mang chất trẻ trung ấy, Giáo Hội sẽ chỉ có một chọn lựa là chính mình cũng phải trẻ trung. Nhất là đang khi việc trẻ trung hoá cơ chế, và trẻ trung hoá lãnh đạo, đang là một phong trào có tính cách thời đại.
Trẻ trung, nói đây tất nhiên là trẻ trung về tinh thần, về não trạng, về tư tưởng, về cách nhìn, về hy vọng. Một Giáo hội địa phương cũng như một cộng đoàn tôn giáo sẽ được coi là trẻ trung hay già nua, điều đó tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố. Một trong những nhân tố đó là tinh thần những người lãnh đạo. Các Cha là những người lãnh đạo trực tiếp hoặc gián tiếp, chắc chắn các Cha cũng như tôi, chúng ta đang thấy hiện tượng trẻ trung rộ nở như một rừng hoa đầy màu sắc, ở khắp mọi lãnh vực, dưới mọi hình thức. Có thể coi đó là báo hiệu một mùa xuân lịch sử.
Biết sống đạo một cách thích hợp và hữu ích giữa một xã hội trẻ đang làm mùa xuân, việc đó là việc không luôn dễ. Phương chi lại phải lãnh đạo tôn giáo trong một xã hội càng ngày càng thêm chất trẻ trung đa dạng. Chúng ta không chặn làn gió trẻ trung. Mà cũng chẳng chặn lại được. Giải pháp tốt nhất cho lãnh đạo là chính chúng ta cũng phải trẻ trung, với tất cả những ý nghĩa tốt đẹp nhất của từ đó. Nhưng làm thế nào để giáo sĩ chúng ta được trẻ trung hoá? Tôi có vài suy nghĩ đơn sơ xin được chia sẻ.
Học hỏi
Tuổi trẻ là tuổi đi học, tuổi của nhà trường. Người trẻ vốn được coi là cần phải học. Và khi được học, người trẻ được coi là có khả năng tiếp thu. Còn nếu học không vô, hoặc thấy mình không cần học gì thêm, đó là dấu trạng thái già, bất cứ ở tuổi nào. Nhưng cũng chính vì thế mà người giáo sĩ dễ mau già về tinh thần. Không già sao được, khi được người ta gọi là Cha, là cụ, là cố, là Thầy Cả đời đời, là Kitô thứ hai. Mang những từ đó vào mình là như chễm chệ ngồi trên đỉnh các bậc thang đời đạo. Ngoài ra, vì giáo sĩ là một địa vị tương đối cao trong Giáo Hội và trong xã hội, nên các ngài dễ được kính trọng, dễ được ổn định về nhiều mặt. Tất cả những ưu đãi như thế đều có khuynh hướng xây đắp trong lòng giáo sĩ một sự tự mãn. Sự tự mãn này lại hay được coi là bình thường, có khi lại được bảo vệ bằng quyền lực thiêng liêng. Từ đó chẳng thấy cần phải phấn đấu để học thêm. Thế là già.
Ðể không rơi vào tình trạng già nguy hại đó, hơn nữa, để trẻ-trung-hóa kể cả tuổi già, thiết tưởng chúng ta nên coi việc học hằng ngày là một bổn phận thiêng liêng. Những gì giáo sĩ cần học đều đã được ghi rõ trong sắc lệnh Optatam totius của Công đồng Vatican II. Mới rồi, cuốn: “Chỉ nam linh mục” của Bộ Truyền giáo đã nhắc lại và đã thêm. Vấn đề tài liệu hiện nay mới chỉ giải quyết được từng bước nhỏ. Nhưng ngăn trở lớn nhất thiết tưởng vẫn là thiếu ý chí học hỏi.
Phải nói sự thực đau lòng này là nhiều người chúng ta đã để trình độ trí thức của mình xuống cấp trầm trọng, đang khi lại phung phí quá nhiều thời giờ, và bỏ lỡ quá nhiều cơ hội bồi dưỡng, mở rộng kiến thức. Hằng ngày, nếu muốn, ta vẫn có những cơ hội tốt để nâng cao trình độ. Thí dụ như sách báo, giao tiếp, trao đổi, bàn bạc, tin tức, quan sát, nhưng nhất là đọc và suy ngắm Lời Chúa, cùng với những phúc giây tâm sự riêng với Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúa Giêsu nói: Chúng con chỉ có một Thầy. Rồi Thầy chí Thánh khuyên bảo ta học với Người: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Học với Người là sống bên Người. Hằng ngày sống thân thiết với Người, chúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của sự trẻ trung nơi Người. Thầy hiền lành khiêm tốn. Thấy được vẻ đẹp ấy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn chúng ta trẻ đẹp như đứa nhỏ, để được vào Nước Trời.
Nhận biết mình bé nhỏ, không chút tự mãn, nhưng hiền lành khiêm tốn đón nhận sự thực và tình thương, đó là một thái độ Phúc Âm, làm cho tâm hồn ta luôn trẻ. Người giáo sĩ có tinh thần trẻ như vậy sẽ biết lấy chính cuộc sống của mình trình bày Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội phục vụ, chứ không phải một giáo hội quyền lực, một thứ mô hình mà người thời nay rất ác cảm.
So sánh
Một đặc điểm khác tôi thấy ở tuổi trẻ là thích so sánh. Thực sự, nhờ so sánh mà trí óc, trái tim và lương tâm người trẻ đi dần vào thế giới chân lý, và gặp được động lực thúc đẩy mình phải dấn thân đi lên.
Ðứa trẻ hay so sánh mình với anh chị em trong nhà, với người trong khu xóm, với bạn bè trong nhà trường, với những người nó thấy trong xã hội, trên màn ảnh.
So sánh là một cuộc đối thoại với chính mình qua thực tế kẻ khác.
Thực tế kẻ khác là cả một rừng hoa trái xung quanh ta. Ai có cái nhìn của Chúa Kitô, sẽ thấy Chúa Thánh Thần cho hoa trái nở một cách rất tự do, nhiều khi rất bất ngờ. Sự tạo dựng liên tục của Người không bị cơ chế hoá bởi bất cứ quyền lực đời đạo nào.
Thực là bất ngờ khi Chúa Giêsu kêu mời dân có đạo thời đó hãy so sánh mình với những gương sáng rất gần gũi với mình, nhưng lại bị dân có đạo coi thường khinh khi. Khi nói về lòng biết ơn, Chúa Giêsu so sánh thái độ 10 người phong hủi được Chúa chữa, rồi Chúa cho thấy chỉ có một người biết ơn, và người đó lại là người ngoại đạo. Khi nói về tinh thần bác ái, Chúa Giêsu so sánh thái độ những vị thuộc cấp bậc đạo đức trong tôn giáo với người ngoại giáo Samaria, rồi Chúa cho thấy, người ngoại đạo Samaria đó có thái độ thương người hơn các vị đạo đức kia. Khi nói về tinh thần cầu nguyện, Chúa Giêsu so sánh thái độ người Pharisêu là người thuộc loại đạo đức với người thu thuế là người thuộc loại tội lỗi, rồi Chúa cho thấy người thu thuế đã cầu nguyện nên, được Chúa chấp nhận, còn người pharisêu ra về bị Chúa ruồng bỏ. Khi nói về sự đón nhận ơn Chúa, Chúa Giêsu đã so sánh các người Pharisêu với các đĩ điếm và người thu thuế, Chúa cho thấy các đĩ điếm và người thu thuế sẽ biết hối cải vào thiên đàng dễ hơn các người đạo đức Pharisêu.
Chúa Giêsu không hay kêu mời các môn đệ của Người hãy so sánh mình với các thánh trên trời, nhưng một cách khiêm tốn hơn, thực tế hơn, hãy so sánh mình với chính những kẻ bị tôn giáo mình hạ cấp, xem mình có thực sự khá hơn họ không. So sánh để thấy sự thực, và sự thực sẽ giúp mình cải thiện, đi về với Chúa.
Mới rồi, tôi tham dự buổi tọa đàm thân mật của một nhóm nhỏ, gồm giáo dân, tu sĩ, linh mục thuộc nhiều tỉnh. Mỗi người đều chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo của mình. Hầu như ai cũng có một vài so sánh giữa người công giáo và người ngoài công giáo. Khi nói về tình hình cầu nguyện, một người đã đưa ra nhận xét này: Ở vùng tôi, người đạo Hồi xem ra cầu nguyện nhiều hơn, sốt sắng hơn, và xác tín hơn người công giáo. Khi nói về tình hình công bình bác ái, một người có cảm tưởng là ở vùng đó, người lương làm việc từ thiện nhiều hơn, và sợ các tội làm hại người khác hơn người công giáo. khi nói về tình hình ham mộ Lời Chúa, một người phát biểu là ở vùng đó, người đạo Tin Lành học hỏi và tôn kính Lời Chúa hơn người công giáo. Khi nói về tình hình đấu tranh cho nền độc lập của Tổ Quốc, một người cho biết ở vùng họ, nhiều người ngoài công giáo đã có những thành tích cao mà người công giáo không có. Mấy so sánh như thế làm chúng tôi xúc động.
Chúng tôi thấy mình cần phải khiêm tốn hơn, cần trân trọng những cái hay, cái tốt của người khác hơn, cần cố gắng phấn đấu để bản thân mình và những người thuộc về mình biết sống Phúc Âm hơn. Thú thực là khi so sánh mình với người giáo hữu, tôi thấy mình thua kém xa về nhiều đức tính. Nhưng tôi không buồn.
So sánh trong tinh thần cởi mở khiêm tốn với mục đích tái truyền giáo cho chính mình và tìm cách mở rộng Nước Chúa, việc làm đó chẳng có gì đáng sợ. Ðiều đáng sợ và cũng đáng buồn chính là nhân danh đức tin mà tránh né mọi so sánh, hoặc luôn có những kết luận sẵn ngay trước khi so sánh, để rồi lại nhân danh đức trung tín và vâng phục kéo dài một sự an phận đồng nghĩa với sự ù lì.
Người trẻ thường ít bị các thiên kiến thống trị. Hơn nữa, họ thường bất bình với mọi thứ thiên kiến. Thế thì người giáo sĩ có tinh thần trẻ Phúc Âm càng phải độc lập với các thiên kiến che lấp sự thực trong khi so sánh.
Nếu ta không thích so sánh mình với những kẻ khác, thì ít ra cũng phải so sánh mình với những mô hình khác đã được Chúa Giêsu kể ra trong Phúc Âm, thí dụ: Cha trên Trời, Thầy chí thánh, Ðấng chăn chiên lành, ngành cây nho, cây đèn sáng, tấm men. Việc so sánh như vậy nếu được thực hiện hằng ngày, trước Nhà Tạm, trong giờ suy gẫm xét mình, sẽ giúp ta nên nhẹ nhàng khiêm tốn, để dễ đón nhận sức sống trẻ trung của Chúa Thánh Thần.
Vui tươi
Một nét khác thiết tưởng cũng là đặc điểm của tính trẻ, đó là thích vui. Ðối với người trẻ, vui là một thứ lương thực. Vì thế, họ thích vui, họ tìm vui, họ tạo nên vui. Các chân lý qua hình thức vui tươi sẽ dễ vào lòng người và ở lại lòng người hơn là qua những hình thức nhạt nhẽo u sầu.
Vui không có nghĩa là phải cười. Mà nhiều lúc cũng chẳng nên cười. Riêng đối với người sống đức tin, niềm vui ngọt ngào nhất vẫn là hạnh phúc được Chúa yêu thương và được hân hạnh thương mến Chúa. Hạnh phúc ấy rất sâu lắng êm đềm. Nó đầy tâm tình cảm tạ. Và vì thấy mình rất mực bất xứng mà còn được Chúa Giêsu thương vô vàn, người sống đức tin sẽ nhìn mọi người đều là đối tượng của tình xót thương Chúa. Từ cái nhìn ấy, họ mến thương Chúa, đồng thời cũng kính trọng và mến thương mọi người. Yêu là hạnh phúc. Yêu là niềm vui nói lên sự sống trẻ trung. Nhưng yêu cũng là chấp nhận thử thách, cũng là dấn thân vào những chặng đường tăm tối, để sau cùng làm chứng rằng yêu Chúa yêu người là niềm vui lớn nhất.
Từ ít năm nay, tại một số Giáo Hội, có nhiều vấn đề phức tạp, đã mọc lên những cộng đoàn tuổi trẻ rất dấn thân. Chính họ vui, và đem lại niềm vui cho những kẻ khác, nhất là cho những người bất hạnh thiếu thốn niềm vui. Bầu khí vui tươi của họ là do tình yêu thương, phát xuất từ đức tin mạnh. Dưới đây là một số cộng đoàn đó.
Cộng đoàn Tàu Noe (Commaunauté de l'Arche), thành lập do ông Jean Vanier. Dầu là Tiến sĩ Triết và Giáo sư đại học Torinto, Jean Vanier đã can đảm bỏ lại tất cả để dấn thân lo cho những người tàn tật. Tháng 8-1964, ông mua một căn nhà ở Trosly để đón mấy người tàn tật. Ông đặt tên nhà đó là Arche. Ông nói: “Chớ gì tàu Noe mới này cứu được những người tàn tật khỏi chết đuối trong trận hồng thuỷ của thế giới văn minh này”. Jean Vanier thường nói: Nhiều người khoẻ mạnh lại là những người tàn tật về tâm hồn, còn người nghèo túng tàn tật thể xác lại là những trợ tá viên cho người khoẻ mạnh nhờ đức tính đơn sơ và hiền dịu của họ.
Tàu Noe được nhân lên mau chóng. Nay có hơn 60 Foyers de l'Arche rải rác khắp năm châu, làm thành một Fédération internationanle de l'Arche. Những ai tới thăm các tổ ấm này đều ngạc nhiên về vẻ vui tươi chan hoà hiện trên nét mặt của mọi người trong nhà, và chính bầu khí đó là một sứ điệp của Chúa Thánh Linh kêu mời mọi người hãy cải tổ xã hội bằng cách sống lý tưởng mới, đó là tình thương, thông cảm, gặp gỡ với người nghèo.
Cộng đoàn huynh đệ những người bệnh (Fraternité des malades). Một người của huynh đệ hiện nay được nói đến nhiều đó là thầy sáu Jacques Lebreton. Jacques Labreton, năm nay 78 tuổi, chịu chức sáu năm 1974. Trong lễ truyền chức sáu, trước mặt bạn bè, trong đó có nhiều người tàn tật và các chiến sĩ Cộng Sản, Ðức Giám Mục địa phận Beauvain nói: “Thầy Jacques nay cụt hai tay, nên sẽ không thể giúp lễ và rửa tội. Thầy Jacques nay mù hai mắt, nên sẽ không thể đọc sách thánh được. Nhưng Thầy còn tiếng nói, và với tiếng nói, Thầy sẽ có thể rao giảng niềm vui của sự sống”.
Thực vậy, Thầy đi giảng khắp mơi, khoảng 200 bài mỗi năm. Trước khi chịu chức, Jacques Lebreton đã bị tai nạn, rồi đã tham gia Ðảng Cộng Sản. Sau đó, Thầy trở về tôn giáo, lo cho người bệnh tật. Khi được hỏi, từ nào thầy muốn chọn, Jacques Lebreton thưa: “Tình yêu. Tật bệnh nặng nhất chính là không còn yêu thương và không được yêu thương”.
Cộng đoàn những người Samaritains (Les Samaritains), thiết lập do mục sư Varahx, mục đích để giúp cho những người thất vọng muốn tự tử tìm được lý do để sống. Cùng liên hệ với tổ chức đó là S.O.S Amitie, La main tendue, La Porte Ouverte, La Ligue des Confidences. Hiện nay, cộng đoàn này đã lan ra trên 30 nước.
Cộng đoàn “Hy vọng Ðẹp” (Les Soeurs de la réconciliation), thành lập do 2 phụ nữ Tin Lành: Chị Klara Schlink Tiến sĩ Triết và sử nghệ thuật, và chị Erika Madauss, trợ tá xã hội. Hai chị đã đứng đầu một tu viện mới, mục đích giúp hoà giải các người thuộc các dân tộc, các tôn giáo khác nhau. Phải nói ngay là cộng đoàn này sống tinh thần cầu nguyện rất sâu sắc và tinh thần bác ái rất trong sáng. Họ luôn vui vẻ đón tiếp mọi thứ người, thuộc mọi tôn giáo đến tĩnh tâm. Cộng đoàn này đã tràn qua nhiều nước khắp năm châu.
Cộng đoàn những người nghiện rượu vô danh (Les Alcooliques Anonymes), một phong trào dựa trên tình bạn, giúp nhau thoát khỏi bệnh nghiện rượu bằng 12 giai đoạn. Phong trào này nay có một triệu rưỡi thành viên. Trong đó có một thành viên nổi tiếng, đó là Cha Aimé Duval, nhạc sĩ của giới trẻ trong những thập niên 61 đến 70.
Cộng đoàn nữ tu truyền giáo bác ái (Les Soerus Missionnaires de la charité), thành lập do Mẹ Têrêsa, người gốc Nam Tư. Hoạt động đa dạng. Thí dụ: Ngành lo cho những người sắp chết mà không có nhà ở hẳn hoi để chết. Ngành lo cho trẻ em bị bỏ rơi. Ngành lo cho những người cùi. Ngành lo giúp các bà mẹ biết điều hoà sinh sản. Cộng đoàn này rất phát triển. Từ 1963, đã có ngành nam gọi là Frères Missionnaires de la Charité.
Trên đây là một số nhỏ tượng trưng. Họ thuộc đủ mọi loại tuổi, nhưng rất dấn thân, sống quên mình, làm chứng niềm vui của Tám Mối Phúc. Do đó mà tâm hồn họ rất trẻ.
ù
Ðầu tháng năm này, đài truyền hình Thành phố Cần Thơ có cho phát một loạt bài hát về Thành phố Hồ Chí Minh, tựa đề: “Thành phố tình yêu và nỗi nhớ”. Trong đó có bài “Thành phố trẻ”. Nội dung gợi lên hình ảnh những con người dấn thân chan hoà yêu cuộc sống, như những cây tươi trồng ở đâu cũng nở hoa được. Khi nghe những bài đó, tôi nghĩ: Thành phố trẻ đòi giáo phận thành phố phải trẻ. Và tôi nhìn mục tử Giêsu trẻ trung đang nói: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta... Ta hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Ta còn nhiều chiên khác không thuộc về đàn này. Cả những con chiên ấy Ta cũng phải mang về đàn” (Ga 10). Và tôi hiểu Chúa rất thương dân tộc Việt Nam của tôi. Tôi cầu xin Chúa cho mọi chủ chiên tại các nơi, thuộc mọi cấp, biết yêu thương, quý mến và tận tình chăm sóc các con chiên trong đàn và ngoài đàn, trên Ðất Nước trẻ trung chúng ta. Chỉ có cách đó, ta mới là những môn đệ trung tín của Chúa Kitô, Ðấng chăn chiên lành, đã sai ta đến với thế hệ đồng bào Việt Nam hôm nay.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990