Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 MỤC VỤ CỞI MỞ         -1985-
 ÐỔI MỚI SUY NGHĨ VỀ LOAN BÁO TIN MỪNG -1986-
 LO ÂU VÀ HY VỌNG         -1988-
 ÐỔI MỚI TÂM HỒN         -1989-
 TRUYỀN GIÁO          -1990-
 MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG   -1991-
 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-
 

MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG

Lãnh đạo tinh thần

 

Cao điểm chuyến đi Ad Limina là viếng Ðức Giáo Hoàng. Thấy Ngài, gặp Ngài, nói chuyện với Ngài, dùng bữa với Ngài, đồng tế với Ngài, tôi cảm thấy bị lôi cuốn bởi sức mạnh tinh thần của Ngài. Nơi Ngài có một vẻ đẹp tinh thần toả ra trên dung mạo, có một trọng lượng tinh thần hiện ra trong lời nói và trong ánh mắt. Ðức Thánh Cha quả là một vị lãnh đạo tinh thần. Tất nhiên, Ngài là một trường học sống động của tôi.

 Ðiều thứ nhất tôi nhận thấy nơi Ðức Thánh Cha là tinh thần quảng đại và những phán đoán nhạy bén trước các chuyển biến trong nội bộ Giáo Hội

Cách đây vài chục năm, thần học mà tôi đã học ở Chủng viện và Ðại học, chỉ là thần học hệ thống với các trường phái cổ điển. Nay tôi thấy xuất hiện những thần học mang tên mới lạ, thí dụ: La théologie Latino américaine, la théologie noire-américaine, la théologie noire Sud-Africaine, la théologie Africaine, la théologie asiatique. Ðọc Bruno Chenu, Théologies des tiers mondes, Le Centurion, 1989, và Eglise et Culture, N013, 1990, tôi đã bàng hoàng trước các vấn đề thần học mới. Những suy tư thần học mới này phát xuất từ ý muốn sống đạo và truyền đạo một cách tốt hơn trong những vùng đất có nền văn hoá, kinh tế, chính trị khác với Châu Âu. Công Ðồng Vatican II đã vạch ra hướng suy nghĩ mới đó, khi đưa ra nhãn quan về Hội Thánh trong thế giới hôm nay. Hội Thánh không ở ngoài thế giới. Hội Thánh không là một thực tại không có liên hệ gì với thế giới. Và thế giới không phải chỉ là châu Âu, hoặc phải chọn châu Âu làm trung tâm điểm nhân loại. Muốn sống đạo tốt, muốn truyền đạo tốt, Hội Thánh phải thực hiện mầu nhiệm Nhập thể ngay chính nơi mình hoạt động. Vì thế, những cố gắng của Hội Thánh địa phương trong vấn đề hội nhập văn hoá dân tộc và đồng hành với dân tộc đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II theo dõi với một tinh thần truyền giáo cởi mở. Ngài mong muốn mọi cánh cửa của mọi dân tộc đều mở ra, và tất nhiên, chính cánh cửa của Hội Thánh càng phải mở rộng ra hơn.

Cũng cách đây vài chục năm, cách sống đạo và truyền đạo thường tìm ổn định bằng tinh thần vâng phục và trung thành với Hội Thánh. Nhưng, từ khi Công Ðồng Vatican II nhận định Hội Thánh là toàn thể Dân Thiên Chúa, phải trở về với Ðức Kitô là trung tâm điểm, thì thần học, mục vụ, tu đức, cũng như mọi thành phần Dân Chúa đều cảm thấy có trách nhiệm giúp nhau đi theo hướng đó. Vì vậy, đã xảy ra những vụ góp ý có tính cách dấu chỉ thời đại. Thí dụ năm 1988, một trăm sáu mươi ba nhà thần học đã công bố một bản kiến nghị lên Toà Thánh, bày tỏ sự quan ngại của họ trước chính sách đường lối của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II về một số vấn đề. Bản kiến nghị này có nội dung nặng uy tín. Tôi không biết Ðức Thánh Cha có buồn vì bị phê phán không. Nhưng tôi không hề đọc thấy một lời nào của Ngài, và cũng không hề nghe thấy một thái độ nào của Ngài tỏ ra Ngài đã có phản ứng nhân loại tầm thường đối với biến cố ấy. Phản ứng đạo đức của Ngài là một vẻ đẹp tinh thần càng tăng thêm uy tín cho Ngài.

Rồi, cũng trước đây vài chục năm, khi nền văn minh khoa học còn thấp, tinh thần Dân Chúa chưa cao, màng lưới truyền thông chưa rộng, thì người có đạo dễ tuyệt đối hoá Giáo Hội và các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Nay thời thế đó thay đổi, não trạng con người cũng đã đổi thay. Niềm tin của người tín hữu đối với Chúa vẫn tuyệt đối như xưa. Nhưng niềm tin của họ đối với Hội Thánh và các đấng các bậc đã trở thành tương đối. Có nơi mức độ tương đối của niềm tin ấy báo hiệu một cuộc khủng hoảng. Thí dụ, sự tín nhiệm của người công giáo Ðức hiện nay đối với Ðức Giáo Hoàng là một báo động. Theo bản điều tra của viện “Allensbach” do Hội đồng Giám Mục Ðức nhờ làm, thì lòng mộ mến của Giáo Hội Ðức đối với Ðức Thánh Cha đang giảm sút trầm trọng. Năm 1980, có 33% người công giáo Ðức đánh giá Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là rất tốt. Năm 1990 số người như thế chỉ còn 7%. Năm 1980, có 46% gọi Ngài là người tốt. Năm 1990, có 12% cho Ngài là tạm được. Năm 1990, số người như thế lên tới 26%. Năm 1980, chỉ có 3% coi Ngài là xấu. Năm 1990, số người như thế lên tới 15%. Năm 1980, chỉ có 2% kết án Ngài là rất xấu. Năm 1990, số người như thế lên tới 9%. Thình hình thay đổi trên đây không thể không làm cho Ðức Giáo Hoàng suy nghĩ. Tôi thấy mới rồi, Ngài đã làm việc với Hội đồng Giám Mục Ðức về một số vấn đề quan trọng. Chứng tỏ Ngài rất nhạy bén và biết giải quyết các vấn đề với ý thức trách nhiệm rất cao.

Dịp đi ad Limina vừa rồi, tôi cũng đã đọc một số sách bàn về việc chuẩn bị tương lai cho Giáo Hội. Thí dụ cuốn: Préparer l'avenir de l'Eglise, của Jean Rigal, Cerf 1990. Cuốn Préparer aujourd’hui l'Eglise de demain, của Ðức Cha Gabriel Matagrin, Cerf, 1976. Cuốn Vers une Eglise différente của Louis Lochet, Desclée de Br. 1989. Cuốn Un homme de foi et son Eglise của Marcel Légaut, đoạn 6: Pour préparer aujourd’hui des Eglises de demain, Desclée de Br. 1988. Tôi thấy: tác giả nào cũng cho rằng đạo công giáo sẽ không tránh được tình trạng suy thoái càng ngày càng tăng nếu cơ chế không được sửa lại, và từng cá nhân không lo trở về đời sống thiêng liêng. Tôi không biết Ðức Thánh Cha đã nghĩ gì về các ý kiến trên. Nhưng tôi chắc chắn rằng các ý kiến như thế của những người yêu mến Hội Thánh đã gợi ý cho Ðức Giáo Hoàng và cũng đang hỗ trợ cho Ngài trong việc đem lại mùa xuân cho Hội Thánh. Tôi nghĩ rằng tinh thần quảng đại và khả năng phán đoán bén nhạy của Ðức Thánh Cha đang giúp cho các sức sống đa dạng và các chuyển biến nội bộ trở thành những yếu tố xây dựng và phát triển một Hội Thánh đổi mới khuôn mặt trẻ trung của Ðức Kitô. Với cung cách lãnh đạo như thế, Ðức Thánh Cha đang nói lên một sự thực quan trọng, đó là người lãnh đạo tôn giáo lãnh nhận rất nhiều nơi Chúa và nơi đoàn chiên của mình.

 Ðiều thứ hai tôi nhận thấy nơi Ðức Thánh Cha là tinh thần hoà bình trong mọi đối thoại với các tôn giáo khác và với mọi xã hội

Tôi không thể không tin tinh thần hoà bình của Ngài, bởi vì ngay trong thời gian hai tháng cuối năm ở Rôma, tôi đã nghe Ngài đề cập đến vấn đề hoà bình nhiều lần, đặc biệt là trong vụ xung đột đẫm máu ở Liban, trong vụ căng thẳng ở vùng Vịnh, trong cuộc tiếp xúc giữa Ðức Thánh Cha và Tổng thống Liên Xô Goócbachóp. Thực sự, đã từ lâu, Ðức Thánh Cha vẫn tỏ mình là một khí cụ bình an của Chúa. Ngay đầu năm 1979, sau khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã tuyên bố là Ngài cầm chiếc gậy hành hương hoà bình của đấng tiền nhiệm trao lại, để lên đường với Phúc Âm hoà bình (Sứ điệp ngày 1/1/1979). Từ đó đến nay, Ngài không ngừng rao giảng Phúc Âm hoà bình và xây dựng những con đường hoà bình. Ðọc “Chemins de la paix” do Uỷ ban Toà Thánh Công lý và Hoà bình xuất bản, sẽ rõ tinh thần hoà bình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

Tinh thần hoà bình của Ngài là một lý tưởng cuộc sống với những tương quan hợp tình hợp lý, được xây dựng trên sự tôn trọng công bình, chân lý, tự do, và nhất là thực thi bác ái. Việc xây dựng này là một cuộc đấu tranh kiên trì. Ở đây, tôi nhớ lại một lời mà Ðức Thánh Cha đã nói với tôi cách đây mấy năm. Trong một buổi tiếp kiến riêng, khi đề cập đến một mục tiêu cần phải tranh đấu, Ðức Thánh Cha đã nói: “Ne luttons pas contre, mais luttons pour”. Qua lời đó, tôi hiểu rằng, khi đấu tranh, phải luôn luôn nhắm mục đích tích cực và dùng những phương tiện tích cực. Ðấu tranh cho hoà bình cũng vậy. Phải xây dựng một nền hoà bình có nội dung tích cực, bằng những phương tiện có tính cách tích cực. Thí dụ, để xua đuổi bóng tối, thì phải có ánh sáng, và hãy thắp lên nhiều ngọn đèn sáng. Cũng thế muốn đẩy lùi một bầu khí nặng tinh thần chia rẽ nghi kỵ, thì cách tốt nhất là hãy đào tạo nhiều người có tinh thần hoà bình và trước hết chính mình phải là người có tinh thần hoà bình. Như vậy, ai muốn rao giảng hoà bình, thì phải bắt đầu từ quyết tâm đấu tranh với chính mình, để chính mình trở thành ngọn đèn bác ái, chân lý tự do và công lý.

Trong cuốn “Assise, journée mondiale pour la paix, 27, October 1986”, tôi thấy Ðức Gioan Phaolô II đúng là một ngọn đèn hoà bình rực sáng. Hôm đó, do sáng kiến của Ðức Thánh Cha, một cuộc họp mặt các vị lãnh đạo các tôn giáo đã được tổ chức tại Assisi, để cầu nguyện cho hoà bình. Hơn 100 đại diện cấp cao các tôn giáo từ năm châu đã tới dự. Hình ảnh Ðức Thánh Cha đứng giữa các vị đại diện các tôn giáo cầu nguyện cho hoà bình là một hình ảnh tuyệt đẹp đầy ý nghĩa. Theo Ðức Thánh Cha (Diễn văn 22, XII, 1986), thì hình ảnh này muốn cụ thể hoá phần nào định nghĩa về Hội Thánh là “Dấu chỉ và là dụng cụ của sự kết hợp mật thiến với Chúa, và của sự hợp nhất với nhân loại” (Lumen Gentium, 1.9). Ngoài ra, qua hình ảnh này, Hội Thánh Công giáo muốn tuyên xưng một điều mà Công Ðồng Vatican II đã xác định, đó là: “Hội Thánh Công giáo không loại trừ bất cứ sự gì là chân lý và thánh thiện trong các tôn giáo. Hội Thánh cũng hô hào con cái mình đang khi làm chứng về đức tin và đời sống đạo của mình, thì cũng hãy nhìn nhận, gìn giữ và làm phát triển thêm những giá trị thiêng liêng, luân lý và xã hội văn hoá có trong các tôn giáo khác” (id.). Hơn nữa, qua hình ảnh này, Ðức Thánh Cha muốn nói lên một tinh thần còn cao sâu hơn tinh thần hoà bình. Ngài nói: “Mọi lời cầu nguyện chính đáng đều do ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần... do Chúa Thánh Thần thúc đẩy, là Ðấng hiện diện một cách mầu nhiệm trong lòng mọi người”. Ðức Thánh Cha cũng còn muốn nói lên một sự hiệp thông sâu xa về mục đích chung mà mọi người thuộc mọi tôn giáo đều nhắc tới.

Tôi thấy nội dung tinh thần hoà bình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một kho tàng truyền giáo. Nó đang được coi như một sức mạnh quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền hoàn bình thế giới hiện nay.

 Ðiều thứ ba tôi nhận thấy nơi Ðức Thánh Cha là tinh thần tông đồ. Tông đồ là kẻ được sai đi, để làm chứng về Ðức Kitô, mà chính mình đã gặp

Tôi thấy Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một nhân vật được rất nhiều người đến viếng thăm. Mỗi tuần có từng ngàn người đến từ khắp nơi trên thế giới, thuộc đủ mọi tầng lớp. Họ đến với Ngài, không phải để chiêm ngưỡng một ngôi sao khoa học, văn hoá hay chính trị, nhưng để thấy một vị lãnh đạo tinh thần, một người mang trong con người mình một cái gì rất thiêng liêng, một người đang đi trên một con đường vô hình hướng về những giá trị siêu việt cao cả.

Ðức Thánh Cha gặp họ, tiếp xúc với họ, chỉ trong khoảnh khắc. Ngài không nói nhiều và thực sự những người đến với ngài cũng không cố ý đến để nghe ngài nói nhiều. Tuy nhiên, các cuộc tiếp xúc vắn vỏi ấy vẫn đem lại kết quả tốt nơi các người đến viếng thăm ngài.

Qua một lời nói, qua một cử chỉ của Ngài, hình như có một ánh lửa thiêng liêng nào đó đã từ Ngài bay sâu vào trái tim người khác, để thắp sáng lên trong lòng họ một niềm vui, một niềm hy vọng, một chân lý vốn tiềm ẩn nơi lòng họ. Tia lửa đó không phải là một điều về thần học, càng không phải là một chỉ thị, cũng không phải là những lời khuyên răn khích lệ hay là một phán quyết, nhưng chính là một sự sống Thiên Chúa vốn bừng sáng trong nội tâm Ngài. Ngài có sự sống ấy, Ngài có nhiều kinh nghiệm về sự sống ấy. Và Ngài có khả năng chia sẻ sự sống ấy cho người khác.

Ngài không giống những người giảng dạy giáo lý mà không có sự sống Thiên Chúa, không có kinh nghiệm về sự sống ấy và không có khả năng chia sẻ sự sống ấy, Ðức Thánh Cha truyền đạt những chân lý đã trở thành sự sống thiêng liêng. Sự sống ấy được diễn tả ra qua vẻ đẹp tình nhân ái bao la chân thành. Vẻ đẹp của tình nhân ái này nơi Ðức Thánh Cha có sức lôi cuốn, bởi vì nó phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót, từ tình yêu Ðức Kitô, Ðấng cứu độ loài người, từ tình yêu Chúa Thánh Thần, Ðấng thánh hoá con người, và tình yêu Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ của mọi người và của mọi dân tộc.

Nói cho ngay, thì những kẻ đến với Ðức Thánh Cha vốn đã mang trong mình phần nào sự sống thiêng liêng, hoặc với một mức độ tương đối, hoặc chỉ là tiềm năng như một hạt giống. Nay gặp được Ngài như một nhân tố có sức khơi dậy và giải phóng, sự sống nội tâm nơi họ sẽ nảy nở và phát triển. Tôi thấy kết quả đó không do số lượng những gặp gỡ, mà do phẩm chất sự gặp gỡ. Tất nhiên, phẩm chất cuộc gặp gỡ nào cũng từ hai phía: kẻ gặp và kẻ được gặp, mặc dầu với những mức độ trách nhiệm khác nhau.

Ðến Rôma, nhìn số lượng khách thập phương hằng ngày đến thăm viếng Ðức Thánh Cha, tôi thấy rõ Ngài đúng là một tông đồ đang loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc, tới tận cùng trái đất. Tin Mừng mà Ðức Thánh Cha loan báo là chính Ðức Kitô, Ðấng Cứu độ loài người. Ngài hoàn toàn sống cho Tin Mừng ấy. Khẩu hiệu của Ngài là “Totus tuus”: con hoàn toàn là của Chúa, tất cả đời con là thuộc về Chúa, con tuyệt đối tin cậy Chúa, con luôn luôn trở về với Chúa. Huy hiệu của Ðức Thánh Cha là thánh giá có mẫu tự M đứng một bên. Có nghĩa là Ðức Thánh Cha nhìn con đường cứu độ chính là con đường thánh giá của Chúa Kitô, mà Ðức Mẹ đã từng tham dự. Ngoài con đường ấy, sẽ không có con đường nào khác. Ðầy tớ không trọng hơn Thầy. Nếu Chúa Giêsu là Thầy đã chọn con đường ấy để cứu các linh hồn, thì các tông đồ được sai đi cũng phải bước theo con đường ấy. Với lòng tin tưởng và hân hoan. Bởi vì lúc nào đó, tông đồ là ké nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Ðức Kitô sống trong tôi”.

Tuần tĩnh tâm Linh mục giáo phận Long Xuyên, năm 1991