Những địa chỉ mới của đức tin
Khi Chúa Giêsu đi tìm những người có đức tin chân chính, Ngài đã đến nhà thờ. Ở đó, Ngài đã thấy có người tốt. Nhưng Ngài cũng đã thấy nhiều người lợi dụng nhà thờ để buôn bán, để gieo rắc tỵ hiềm và đạo đức giả.
Chúa Giêsu cũng đã đến giới lãnh đạo tôn giáo và các giới mang tên đạo đức, đó là các thầy cả, các thầy biệt phái, các thầy thông luật. Ngài đã thấy có người tốt. Nhưng Ngài cũng đã thấy nhiều người biến chất, chỉ lo đạo đức bề ngoài, chuyên lợi dụng quyền thế để bắt bẻ áp bức, thích vẽ ra ra luật lệ mới để trục lợi tư riêng.
Chúa Giêsu cũng đã đến với những người giàu có. Ngài đã thấy có người tốt. Nhưng Ngài cũng đã thấy có nhiều người hư hỏng, đến nỗi có lần Ngài đã phải nói: “Con lạc đà chui qua lỗi kim còn dễ hơn kẻ giàu vào nước thiên đàng”.
Chúa Giêsu cũng đã đến với những người nghèo, những người bệnh tật. Ngài đã thấy có người không tốt. Nhưng Ngài cũng đã thấy nhiều người có đức tin trong sáng khiến Ngài xúc động, và Ngài đã làm nhiều phép lạ cho họ.
Chúa Giêsu cũng đã đến với những người ngoại đạo. Ngài đã thấy có người không tốt. Nhưng Ngài cũng đã thấy có người có đức tin tuyệt vời, như viên sĩ quan Rôma nọ, đến nỗi Ngài đã khen: “Trong dân Israel, tôi chưa hề gặp được một đức tin mạnh như thế này”.
Chúa Giêsu cũng đã đến với những người tội lỗi. Ngài thấy nhiều người vẫn xấu. Nhưng Ngài cũng đã thấy có nhiều người có đức tin xuất sắc, như Mađalêna, người thu thuế nọ, kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa. Ngài rất bằng lòng với họ, đến nỗi có lần Chúa đã nói với các biệt phái: “Nhiều người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông”.
Những sự việc trên đây chỉ dẫn cho thấy địa chỉ của đức tin chân chính không phải là một nơi, một nhà, một giới, một ranh giới nào nhất định, mà là một số người. Những người ấy có thể ở đây ở đó, có thể là chức sắc trong đạo và cũng có thể chỉ là một người thường có thể được một số dư luận hoan nghênh trọng vọng và cũng có thể bị một số dư luận khinh khi chê trách. Họ là muối là men. Ảnh hưởng của họ có thể rất âm thầm. Chỉ một mình Chúa thẩm định đúng vẻ đẹp của đức tin họ. Họ là những địa chỉ của đức tin chân chính. Nhưng rất nhiều người có đạo đức không quen những địa chỉ đó. Cũng rất nhiều người có đạo xem ra coi thường các địa chỉ đó. Mặc dầu vậy, những đức tin này vẫn không ngừng phát triển. Họ vẫn luôn luôn mới.
Thời Chúa Giêsu là như thế. Thời này cũng vậy. Ðịa chỉ của đức tin chân chính tại Việt Nam hôm nay vẫn là một số người. Những người như thế rải rác khắp nơi. Người làm mục vụ cần nhận ra những địa chỉ đó. Ðiều quan trọng nhất ở đây là chính kẻ làm mục vụ phải trở thành địa chỉ đức tin chân chính. Thứ địa chỉ này cần được khắc sâu vào cuộc sống bản thân. Dưới đây là một số nét quan trọng.
Ðức tin sám hối
Sám hối là điều kiện đầu tiên mà Phúc Âm đặt ra cho kẻ tin theo Chúa. Sám hối là điều Ðức Mẹ đã thiết tha nhắn nhủ ở Fatima, và nhiều nơi khác. Sám hối là một phần thiết yếu của phụng vụ. Sám hối là một điều quan trọng mà các Ðức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh trong các lần cử hành Năm Thánh.
Sám hối của Phúc Âm không phải là một việc làm chóng qua, mà là một việc làm kéo dài trở thành thái độ sống. Chủ yếu của nó không phải là trở về với lề luật, mà là trở về với một tình yêu. Nước mắt của Mađalêna ngồi dưới chân Chúa Giêsu là tiếng nói của một trái tim trở về với tình yêu Chúa. Chúa đã xoá sạch tội lỗi cho bà, không vì bà đã kể cho Ngài nghe đầy đủ mọi tội lỗi của bà, mà vì bà đã yêu mến Chúa rất nhiều. Ðức tin sám hối của bà được tình Chúa xót thương giúp đỡ đã đổi mới trái tim bà.
Trong sám hối, sự đổi mới tấm lòng cần hơn là đổi mới tư duy. Bởi vì mọi lựa chọn của con người. Kể cả lựa chọn hướng đi của tư duy, đều chịu ảnh hưởng của tấm lòng. Ðã hẳn, người ta vốn có ý chí tự do và chịu trách nhiệm về sự tự do của mình, nhưng khi chọn ý kiến này hơn ý kiến khác, ý chí tự do con người vẫn được lèo lái âm thầm bởi động lực của lòng mình. Khi lòng một người đã thích cái gì, đã ghét cái gì, với những thành kiến cứng nhắc rồi, thì dù cắt nghĩa thế nào, tư duy của họ về cái đó cũng vẫn thường đổi thay rất khó, rất chậm.
Lòng người là ý thức, với vô thức và tiềm thức, là những tình cảm, những đam mê, là tính tình do bẩm sinh, là cá tính do tính tình cọ xát với hoàn cảnh cuộc sống, là nhân cách do cá tính đấu tranh cho lẽ sống mình ưa chuộng. Do đó, việc thay đổi lòng người là việc không đơn giản. Thánh Phaolô tông đồ đã nói lên kinh nghiệm đó: “Sự tôi muốn, thì tôi lại không làm. Còn sự tôi không muốn thì tôi lại làm”.
Tuy việc thay đổi tấm lòng xấu ra tấm lòng tốt là việc hết sức khó, nhưng vẫn có thể làm, và phải làm, và tiếp tục làm. Ðó là trách nhiệm đạo đức. Do đó, ngoài sự phải vận dụng các phương cách tự nhiên mà khoa giáo dục càng ngày càng sáng kiến ra, người tín hữu vẫn còn một phương cách rất tốt, đó là sám hối. Trong sám hối đã có cầu nguyện và gặp gỡ Chúa. Người tín hữu sám hối, khi ý thức được tính cách khó khăn của sự đổi mới tấm lòng, sẽ cầu nguyện thiết tha hơn, khiêm tốn hơn, kiên trì hơn. Quyền năng của Chúa giàu lòng thương xót không những sẽ ban ơn tha thứ, mà cũng sẽ ban thần lực đổi mới tấm lòng.
Ðức Phaolô VI trong những giáo huấn về Năm Thánh 1973, đã có một cái nhìn không những rất thần học mà cũng rất khoa học về sự đổi mới tấm lòng. Không thiếu những người thiện chí đã cố gắng thực hiện lời Ngài trong tinh thần đức tin sám hối. Và họ đang là những địa chỉ của đức tin.
Ðức tin thương xót
Càng đi sâu vào tinh thần sám hối, người tín hữu càng thấy mình rất cần được ơn Chúa xót thương. Bởi vì mình đã thực sự phạm tội rất nhiều, đồng thời vẫn có khả năng trở thành người tội lỗi nhất.
Giả sử hôm nay, Chúa Giêsu lại giáng sinh làm người, sống như ta, sống giữa ta, như một người thường trong cộng đồng giáo xứ. Và nếu Ngài cũng lên tiếng phê phán đụng chạm như Ngài đã làm đối với đạo cũ nói chung, và đối với các thầy cả Pharisêu, luật sĩ thời đó nói riêng, thì chắc gì Ngài sẽ không bị đem ra xỉ vả, bôi lọ và buộc cho đủ mọi thứ tội. Và chắc gì những kẻ kết án Ngài mạnh nhất sẽ không phải là chính chúng ta. Nếu ta nghĩ rằng: dù mình có sống trong một hoàn cảnh y hệt như thế, và dù không có ơn Chúa giúp đỡ, mình cũng sẽ không làm như các thầy cả và dân Israel xưa đã làm cho Chúa, thì tôi sợ rằng chúng ta sẽ lại phạm một lầm lỗi như thánh Phêrô xưa, khi Ngài quả quyết: “Dù người khác có chối bỏ Thầy, phần con sẽ chẳng bao giờ chối bỏ Thầy”. Nhưng rồi kết quả ra sao, ai cũng rõ rồi.
Sự khiêm tốn sẽ giúp ta nhận ra sự thực về mình, đó là để được tha thứ, ta rất cần ơn Chúa. Và để không phạm tội, ta cũng cần ơn Chúa. Một khi nhìn nhận sự thực đó một cách sâu sắc và chân thành, ta sẽ có một trái tim hiền lành và khiêm nhường, và sẽ có một cái nhìn mới về nhân loại, về đồng bào, về những người xung quanh. Tương quan của ta với họ cũng sẽ phải mới. Ta đến với họ, không phải như kẻ vô tội đến với người tội lỗi, mà như kẻ có tội được ơn thứ tha đến với những người anh em cũng cần được tha thứ. Ta gặp gỡ họ với một đức tin không do công phúc của ta, mà do ân huệ Chúa ban để chia sẻ lại cho những người khác. Ta loan báo Tin Mừng đức tin cho kẻ khác, không phải bằng cách nói lên những tín điều cho bằng cách để họ thấy họ được Chúa xót thương. Ta nhìn kẻ lỗi lầm không phải như những phạm nhân để kết án, mà như những người anh em cần được cứu chữa.
Tình xót thương như thế khác hẳn tình yêu nhu nhược. Nó chính là tình yêu can đảm mà Chúa Giêsu dạy trên thánh giá, khi Ngài nhìn những lý hình của Ngài và nài xin Chúa Cha: “Xin Cha tha thứ những anh em này vì họ lầm không biết”. Nó chính là thái độ truyền giáo của Công Ðồng Vatican II, một Công Ðồng được nhiều người gọi là Công Ðồng của lòng thương xót. Nó chính là vẻ đẹp thu hút những người ngoài công giáo của Ðức Giáo Hoàng Gioan XIII. Nó chính là điểm cao mục vụ của thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” do Ðức Gioan Phaolô II đã giới thiệu và cổ võ.
Tình xót thương cũng như sự hiền lành và khiêm nhường, có sức hàn gắn những vết thương lòng do đụng chạm cảnh đời gây nên. Nó giúp ta sẵn sàng chấp nhận phần thua thiệt khổ đau, để cùng với Chúa Kitô, kiên trì đi tới những người chưa thuộc về đoàn chiên Chúa, chia sẻ Tin Mừng tình thương với họ, tình xót thương đó cũng sẽ giúp cho ta hiểu thấm thía hơn đường hướng mục vụ này của Chúa Kitô. Ngài đã đành bỏ mọi vinh quang đến cả hy sinh mạng sống để nhân loại dễ nhận ra tình yêu vô biên của Ngài.
Tình xót thương là một ngôn ngữ dễ hiểu. Ðức Giêsu được phiên dịch ra ngôn ngữ đó chính là một Tin Mừng mà Chúa mong muốn. Nhiều người đã cố gắng làm theo ý Chúa. Và họ đang trở thành những địa chỉ của đức tin.
Ðức tin đối thoại
Khi nhận định một đức tin đồng hành là một đức tin phải biết đối thoại vì mục đích loan báo Tin Mừng trong xã hội không phải là truyền thống Thiên Chúa giáo, ta sẽ thấy đối thoại là một vấn đề mục vụ quan trọng có hậu quả lớn. Vấn đề này khá rộng. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc tới mấy điều cần.
Ðối thoại có nhiều hình thức. Hoặc bằng lời nói trong các bài giảng dạy, các trao đổi tiếp xúc hằng ngày. Hoặc bằng tranh luận, bàn cãi, tranh đấu trên sách báo, trong các cuộc họp. Hoặc bằng các việc chứng minh được là mình có thiện chí và có khả năng làm tốt. Sự Chúa Giêsu làm cho những người bệnh tật được khỏi, kẻ đói được ăn, đã là những việc làm có tính cách đối thoại với cách sống đạo của của Pharisêu. Hoặc bằng thái độ sống của mình. Thái độ im lặng của Chúa Giêsu trên thánh giá, đầy nhân ái, hiền lành khiêm tốn là một cách đối thoại đi sâu vào lòng người mấy chục thế kỷ nay.
Ðối thoại là việc không dễ. Nhưng, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy: “Mặc dầu phức tạp và khó khăn, đối thoại vẫn đồng thời là việc khẩn cấp và cần thiết” (Diễn văn tiếp Hội nghị Uỷ ban Toà Thánh đối thoại với những người không tin, 1985). Ngài cũng quả quyết, đối thoại là việc có thể làm được, mặc dầu đôi khi gặp thất bại. Bởi vì Ngài tin rằng, trong chiều sâu bản tính con người, ở mọi cá nhân đều có một khuynh hướng đi tìm lẽ phải, tình thương, công lý và hy vọng (Sứ điệp Hoà Bình 1/1/1983).
Ðể việc đối thoại được tiến hành đúng đắn khả dĩ dẫn tới kết quả tốt, Ðức Giáo Hoàng đã nhắc lại những đức tính sau đây mà người đối thoại cần có:
+ Phải thực sự có ý tìm kiếm sự gì là đúng, là tốt, là công bình cho mọi người.
+ Phải thực sự cởi mở và biết tiếp đón. Mình trình bày ý kiến và các dữ kiện của mình. Rồi lắng nghe ý kiến và dữ kiện người khác, biết cảm nhận chân thành các khía cạnh của các vấn đề họ đặt ra, với những quyền lợi và những bất lợi về phía họ, cùng với những cách giải quyết họ đề nghị.
+ Phải biết chấp nhận tính cách khác biệt của người khác, và biết đo lường khoảng cách giữa họ và mình, để tìm cách rút vắn lại khoảng cách ấy.
+ Phải biết tìm những mẫu số chung, để cùng nhau chia sẻ trách nhiệm trước công lý và chân lý. Ðó là nghiên cứu và đưa ra những phương cách giải quyết có tính cách hoà giải lương thiện, vừa bênh vực được quyền lợi và danh dự của phía mình, vừa thông cảm và tôn trọng những lý lẽ của phía bên kia, để cả hai phía cùng đạt được ích lợi chung mà cả hai bên cùng theo dõi.
+ Phải dùng những phương cách hoà bình. Do đó, phải kiên trì tìm giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng cách điều chỉnh, trung gian và trọng tài. Làm sao để các yếu tố giúp hai bên gần lại với nhau mạnh hơn những yếu tố chia rẽ và hận thù.
Năm đức tính trên đây mà Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nêu lên trong sứ điệp về Hoà Bình ngày 1/1/1983 cần được mỗi người chúng ta suy gẫm và thực hiện nghiêm túc. Nếu không, những đối thoại của chúng ta, nhất là khi mang hình thức đấu tranh, sẽ mất đi tính cách đạo đức của một đức tin chan hoà đức ái, mà chỉ còn là những cuộc vật lộn để tìm thua thắng bằng mọi cách, kể cả những cách trái công bình bác ái, chỉ vì mục đích uy tín thế tục.
Phải cảm tạ Chúa, vì trong Giáo Hội Việt Nam vẫn có những người biết trung thành với những giáo huấn trên đây của Ðức Giáo Hoàng.
Người sống đức tin là kẻ loan báo Tin Mừng cho những kẻ đồng hành trên con đường cuộc sống. Cùng với Chúa cứu thế, họ đối thoại với nhân loại, với Quê Hương Dân Tộc, với những người xung quanh. Trong một thế giới tục hoá và dửng dưng với tôn giáo, thì đối thoại của đức tin phải có chất lượng và thức thời. Một đức tin thiếu chiều kích sẽ không có khả năng đối thoại. Cuốn La Foi des catholiques, catéchèse fondamentale, 1984, nhắc đến những chiều kích sau đây của đức tin:
+ Ăn rễ vào lịch sử Chúa cứu thế, với các môn Kinh Thánh, thần học mang những chuyển biến mới.
+ Ăn rễ vào lịch sử và đời sống Dân Tộc.
+ Ăn rễ vào lịch sử thời đại.
+ Cởi mở, lắng nghe những câu hỏi, những chất vấn và các ý kiến khác nhau xuất phát từ mọi phía, hướng về tôn giáo của mình.
+ Nhạy bén trước những chuyển biến của nhân loại, xã hội, Dân Tộc để thấy trước được phần nào tương lai tôn giáo.
Nhìn qua những đòi hỏi trên đây, có lẽ ta có lý do để lo sợ cho chính mình: đối với đa số đồng bào Việt Nam hôm nay, không biết ta có được coi là địa chỉ thực sự của đức tin không.
Ðức tin trong lòng Dân Tộc
Trong thế giới hôm nay, tương quan giữa người với người, giữa đạo với đời, giữa nước này với nước kia thường dựa trên tiêu chuẩn lợi ích. Nếu ta minh chứng được ta và tôn giáo của ta có ích lợi cho dân tộc Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, thì ta và tôn giáo của ta được chấp nhận và kính trọng. Nếu ta và tôn giáo của ta bị coi là không có ích lợi, hoặc có hại cho dân tộc Việt Nam, thì ta và tôn giáo của ta sẽ bị thái độ dửng dưng đẩy dần ra lề xã hội.
Vì thế, một điều quan trọng mà người hoạt động tôn giáo tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ nghiên cứu, đó là phải minh chứng thế nào để 55 triệu đồng bào ngoài công giáo cũng như Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhìn nhận ta và đạo công giáo Việt Nam là nhân tố thực sự có lợi cho Dân Tộc.
Phương án minh chứng tốt nhất đã được Hội đồng Giám Mục Việt Nam vạch ra, đó là Sống Phúc Âm Giữa Lòng Dân Tộc.
Ðiều đó đã và đang được thực hiện. Nay cần đi thêm vào chiều sâu. Làm sao cho đường hướng mục vụ ấy trở thành một thao thức thực sự của đức tin hôm nay. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng lễ phong thánh tử đạo Việt Nam, khi nhắc đến bổn phận của người công giáo Việt Nam là phải yêu mến Quê Hương Việt Nam, thì đúng là Ngài đã nói lên niềm thao thức đó.
Nếu yêu mến quê hương là một bổn phận của đức tin cần nhấn mạnh trong thời điểm này, thì nên tìm ánh sáng thần học dọi vào các vấn đề của Dân Tộc hôm nay, để những suy nghĩ của ta được vận chuyển dưới ánh sáng đó và những lựa chọn của ta được an tâm phấn khởi, bởi vì những lựa chọn ấy phát xuất không những do lòng yêu nước tự nhiên, mà cũng do động lực đức tin nữa.
Về thần học, thì có thần học trước Công đồng, có thần học sau Công đồng. Có thần học của châu Mỹ Latinh, có thần học của Phi châu, có thần học của Á châu. Mới từ vài chục năm trở về đây, nhà xuất bản Herder tại CHLB Ðức đã xuất bản một chuỗi 10 cuốn sách thần học thuộc một loại mang tên là “Thần học của thế giới thứ ba”, do các tác giả Á châu và Phi châu viết. Số sách thần học do các tác giả châu Mỹ Latinh viết cũng khá nhiều. Tất cả đều là những suy nghĩ thần học về các vấn đề thời sự trên đất nước họ. Ðó là những thần học thực hành giúp đỡ rất nhiều cho mục vụ.
Trong mục vụ cần có thần học, và cũng cần có tâm lý học, và sự hiểu biết các sự kiện về tình hình xã hội cụ thể. Xã hội hôm nay đề cao tinh thần dân tộc. Tôn trọng và phát huy tinh thần dân tộc cũng đang là một xu thế mạnh của thời đại. Yếu tố đó có mặt không những trong phạm vi chính trị xã hội văn hoá, mà cũng trong phạm vi tôn giáo. Cần ý thức rõ điều đó, để biết có những lựa chọn thích hợp trong việc minh chứng ta và tôn giáo của ta là nhân tố có lợi thực sự cho Dân Tộc Việt Nam.
Không thiếu người công giáo Việt Nam đang sống đức tin theo chiều hướng đó. Họ đáng được gọi là những địa chỉ của đức tin, giúp ích cho Hội Thánh, mở rộng Nước Trời.
“Ôi Lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
“Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung” (Tv 50)
Tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận Long Xuyên năm 1988