TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Băn khoăn
Mệnh lệnh truyền giáo đã được Chúa Giêsu ban bố gần hai ngàn năm. Hai mươi thế kỷ là một con đường dài. Nhưng đến nay, mệnh lệnh ấy xem ra vẫn chưa thực hiện bao nhiêu. Giữa lý tưởng truyền giáo và thực tế là một khoảng cách bao la.
Những khoảng cách như thế chắc không phải là những thành công. Dù gọi bằng danh từ nào, những khoảng cách ấy vẫn là những sự kiện đáng ta suy nghĩ. Ở đây, tôi xin kể ra một số sự kiện lớn. Tất cả đều rút ra từ các tài liệu mới nhất do các đấng bậc có thẩm quyền viết ra.
Trong sách “Vers une Eglise différente” xuất bản tháng 3/1989, tác giả Louis Lochet đã viết 10 trang dài về những sự kiện mà Ngài gọi là “Les échecs de l'évangélisation”. Tóm lược như sau:
1/ Sự kiện một Do Thái Giáo vững mạnh
Chúa Giêsu xuất thân từ Israel, sống tại Israel, giảng đạo cho Israel, chết tại Israel. Ðức Mẹ, thánh Giuse và các tông đồ đều là người Israel. Thế mà cho đến hôm nay, Israel vẫn quyết liệt từ chối Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người. Hoạ lắm mới có người Israel theo đạo Công Giáo. Mặc dầu trải qua nhiều cuộc bách hại, Israel vẫn tồn tại với niềm tin mình là dân riêng Chúa chọn, dân của giao ước vĩnh cữu. Họ vẫn trông chờ Ðấng Messia. Dân Israel tản mác khắp nơi, tiếp xúc với đủ mọi thứ tôn giáo, nhưng vẫn hợp nhất trong tình gắn bó với đạo Maisen và dân tộc của mình. Qua gần 2000 năm, Hội Thánh Công Giáo chúng ta vẫn chưa thuyết phục được Israel nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðấng cứu thế, đó có phải là một thành công truyền giáo của ta không?
2/ Sự kiện một Hồi Giáo phát triển mạnh
Thời thánh Augustino, Bắc Phi hầu như toàn tòng Công Giáo với 350 Toà Giám Mục. Nay vùng đất ấy kể như hoàn toàn Hồi Giáo. Hiện nay, Hồi giáo là một tôn giáo phát triển mạnh, có mặt hầu như trong mọi nước trên khắp thế giới. Với con số tín đồ trên 800 triệu rải rác khắp năm châu. Hồi giáo đang dành cho mình danh hiệu “Tôn Giáo phổ quát”, “đạo chung” của nhân loại. Riêng tại Pháp, là một nước truyền thống Công Giáo, Hồi Giáo nay đứng vào thứ nhì sau Công Giáo. Mặc dầu có một số chia rẽ nội bộ, Hồi Giáo vốn giữ được một sức sống tôn giáo năng động và một niềm tin sâu xa không dễ bị lôi cuốn bởi nền văn minh vật chất. Ít người Hồi Giáo trở lại Công Giáo. Trái lại, nhiều người Công Giáo đã trở lại Hồi Giáo. Sau nhiều thế kỷ, Hội Thánh Công Giáo chúng ta vẫn phải dừng chân trước sự phát triển kiên cường của từng tập thể Hồi Giáo. Ðó có phải là một thành công truyền giáo của ta không?
3/ Sự kiện các tín ngưỡng truyền thống trùm phủ khắp Á Châu
Á Châu có nhiều truyền thống tôn giáo tự lâu đời: Khổng Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo, Ấn Giáo, Thiền Giáo, Hiếu Giáo, Tổ Tiên Giáo. Nói chung, Á Châu là vùng đất thấm nhuần tín ngưỡng lại đông dân nhất. Hiên nay, quá nửa nhân loại là người Châu Á. Theo ước tính, thì đến năm 2000, hai phần ba nhân loại sẽ là dân Châu Á, đặc biệt là vùng Thái Bình Dương. Ðang khi đó, tỷ lệ người Công Giáo tại Á Châu không tới 3%. Các tín ngưỡng lâu đời ở Á Châu, với những cơ chế nhẹ nhàng và với giáo lý đơn sơ, đã và đang thâm nhập vào con người, đời sống xã hội, văn hoá dân tộc, góp phần đáng kể vào lịch sử xây dựng và bảo vệ các nước Á Châu. Với các tín ngưỡng truyền thống đó, nhiều nước Á Châu như Nhật và 5 “tiểu long” đang vươn lên về kinh tế và khoa học kỹ thuật, đồng thời vẫn ổn định được nền đạo đức cố hữu của cá nhân, xã hội, gia đình. Với những thành quả như thế, đại đa số dân chúng Á Châu cảm thấy không cần thay đổi tín ngưỡng của mình.
Nhìn tình hình trên đây, Hội Thánh Công Giáo chúng ta sẽ nghĩ gì về công việc truyền giáo của mình? Qua nhiều thế kỷ với bao nhiêu dịp thuận lợi, nếu hôm nay, đại đa số dân Á Châu hoặc chưa hề biết đến Chúa, hoặc vẫn không thấy đạo Công Giáo là một sự tối cần thiết cho họ, thì đó có phải là một thành công của việc truyền giáo chúng ta không?
4/ Sự kiện Hội Thánh Công Giáo bùng nổ
Suốt dọc lịch sử gần 2000 năm, Hội Thánh Công Giáo đã không ngừng phát triển. Có nơi do người lớn trở lại. Có nơi do rửa tội cho con cái của cha mẹ có đạo. Nếu chỉ phát triển do con đường sinh sản, thì chưa phải là một phát triển do truyền giáo đích thực. Hơn thế nữa, nếu những người lớn có đạo lại tự ý bỏ Hội Thánh ra đi, thì sự kiện đó càng đau đớn cho người truyền giáo. Có những ra đi lẻ tẻ âm thầm. Có những ra đi ồ ạt, như những cơn bùng nổ lớn. Bao nhiêu ly giáo là bấy nhiêu vết thương. Kẻ ở người đi đều kết án nhân danh Thiên Chúa. Nếu cộng lại số người Kitô Giáo nhưng không ưa Công Giáo từ xưa đến nay, ta sẽ thấy từng trăm triệu Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo... Riêng số giáo phái do những người bỏ Công giáo thành lập hiện nay tại Nam Mỹ đã lên tới 200.
Trong tạp chí “Nouvelle Evangélisation 2000” số 6, 1989, Mgr Michael Shechan cho biết: “Mấy năm gần đây, một số lớn giáo dân gốc Tây Ban Nha đã bỏ chúng tôi để sang Hội Thánh Tin Lành. Trên tổng số 17 triệu gốc Tây Ban Nha, nay ít nhất có 5 triệu trở thành Tin Lành. Sự suy giảm như thế không phải chỉ xảy ra trong những người gốc Tây Ban Nha, mà chúng tôi cũng đã mất nhiều người gốc Anh, gốc Á Châu và gốc Phi Châu”.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, số người bỏ Hội Thánh Công giáo tuy ít, nhưng cũng đáng quan tâm. Tôi chưa hề thấy Mục sư Việt Nam nào trở lại Công giáo. Nhưng tôi đã thấy 3 Linh mục Việt Nam đã bỏ Công giáo để sang Tin Lành.
Nhiều người bỏ Công giáo để sang một tôn giáo khác, đó chắc không phải là một thành công của việc truyền giáo chúng ta. Hơn thế nữa, nhiều người bỏ Công giáo để trở thành vô thần, đó càng không phải là một thành công tốt đẹp cho Hội Thánh Chúa Kitô.
Cuốn “La Foi et l'Athéisme dans le monde” của văn phòng Toà Thánh về những người không tin, xuất bản tháng 3/1989, đã có những nhận xét khách quan về sự kiện vô thần hiện nay trong các nước có truyền thống Kitô giáo. Theo tài liệu này (trang 13) thì hiện nay trong các nước có truyền thống Kitô giáo, vô thần là một hiện tượng xã hội bình thản và tự tín. Nó không còn được trình bày như một chủ thuyết chống hữu thần nữa, mà như một hữu thuyết hậu hữu thần, nói lên tuổi trưởng thành của nhân loại. Chủ thuyết hậu hữu thần này coi việc không có Chúa là một điều tất nhiên, khỏi phải bàn tới. Ðối với họ, ngôn từ “Thiên Chúa” không có nghĩa lý gì cả. Trước đây, vô thần là hiện tượng lẻ loi, nhiều khi phải che giấu, nay vô thần là hiện tượng công khai quần chúng thuộc về mọi lứa tuổi và trong mọi môi trường xã hội. Kẻ bị coi là đứng ngoài lề xã hội không còn là kẻ vô thần, trái lại chính là kẻ hữu thần.
Theo tạp chí “Athéisme et Dialogue”, XXI-3, 1986, thì nơi đẻ ra vô thần, chính là các nước Công Giáo lâu năm ở Châu Âu (trang 232).
Trong cuốn “Un homme de foi et son Eglise” xuất bản tháng 01/1988, tác giả Marcel Légaut đã gọi những kẻ ra đi trên đây là “Một mất mát lớn lao” (trang 162), vì đã mất một số đáng kể những người có thiện chí, có giá trị và có nhiều khả năng phục vụ Hội Thánh Công Giáo. Họ ra đi với sự thất vọng và bất mãn đối với Hội Thánh. Sự bất mãn và thất vọng ấy sẽ là gánh nặng vừa cho kẻ ra đi, vừa cho kẻ ở lại. Gánh nặng ấy đang được tỏ rõ trong vụ Ðức Cha Marce Lefèvre. Ðức Cha M. Lefèvre là cựu Tổng Giám mục Dakar, cựu Khâm sứ Toà Thánh của vùng tây Châu Phi, cựu Bề trên Cả dòng Chúa Thánh Linh. Mặc dầu bị Toà Thánh kết án rối đạo, Ðức Cha Lefèvre vẫn quả quyết là Ngài không hề bày ra cái gì mới cả, Ngài chỉ trung thành với truyền thống Công giáo. Những kẻ bày ra cái mới, trái với truyền thống Công Giáo, chính là Công đồng Vatican II, và mấy Ðức Giáo Hoàng từ Vatican II đến nay. Theo quan điểm của Ngài, thì mấy Ðức Giáo Hoàng này và Công đồng Vatican II đã bị nọc dộc của chủ nghĩa văn minh tự do chi phối, nên đã thoả hiệp với các chủ thuyết chống phá Thiên Chúa, làm hại Giáo Hội, đưa tinh thần đức tin xuống dốc.
Trên đây là những vụ ra đi có tiếng vang lớn. Toà Thánh kết án những kẻ ra đi về tội này tội nọ. Nhưng những kẻ ra đi lại tố cáo Toà Thánh về những điều không phải là dễ chống đỡ.
Nếu bây giờ, cũng nhìn vào những bùng nổ khác, có tính cách nội bộ Giáo Hội, ta thấy cũng đáng ngại. Có những bùng nổ trong Giáo Hội toàn cầu. Có những bùng nổ trong môt giáo hội địa phương. Có những bùng nổ trong một giáo phận. Có những bùng nổ trong một giáo xứ, trong một cộng đoàn. Năm 1989, 163 nhà thần học công bố một bản chỉ trích chính sách đường lối của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Vụ đó chỉ là một điển hình của nhiều vụ tương tự. Nhưng thiết tưởng những vụ bùng nổ ấy không quan trọng cho bằng những “vụ cháy rừng” trong Hội Thánh. Cháy rừng trong Hội Thánh là nhiều đức tin bị thiêu huỷ, lây lan như cháy rừng. Cháy rừng là cháy ngày cháy đêm, qua tháng này sang tháng khác, cháy âm ỷ hết lá đến cành, đến thân cây đến rễ, đến lớp lá rụng đã thành than dưới đất. Và đó là sự kiện có đạo nhưng không giữ đạo.
5a/ Sự kiện có đạo, nhưng không giữ đạo do tinh thần dửng dưng
Có những người xưng mình là Công giáo, nhưng không có một chút tha thiết gì với đạo. Họ dửng dưng đến nỗi không còn lui tới nhà thờ, không còn học hỏi gì về đạo, không còn cầu nguyện, và hầu như bỏ luôn các bí tích. Dửng dưng với đạo nay đang trở thành một hiện tượng xã hội có khuynh hướng lan tràn. Nó là một thái độ lạnh nhạt đối với Thiên Chúa và đối với Hội Thánh Chúa. Thái độ dửng dưng này là một hiện tượng nổi nhất hiện nay tại Âu Châu, nổi hơn cả hiện tượng vô thần. Ðiển hình như nước Ý, là nước có truyền thống Công giáo lâu đời, có biết bao nhiêu đấng thánh, có biết bao nhiêu đền thánh, có biết bao nhiêu sách thánh, có biết bao nhiêu tự do, thế mà số giữ đạo thực sự hiện nay chỉ còn 15% tổng số dân có đạo. Số còn lại toàn thuộc loại dửng dưng (La Foi et l'Athéisme dans le monde, trang 33). Theo thăm dò mới nhất, thì tại Pháp, số người đi lễ Chúa Nhật nay chỉ còn 12% (Figaro,5 Janvier 1990).
Một thứ dửng dưng khác cũng đang được nhận thấy khá phổ thông, ngay cả trong giới ngoan đạo và giới tu trì, đó là dửng dưng với Chúa Giêsu trong người nghèo và với tiếng Chúa gọi đi theo Chúa, chia sẻ với Chúa. Biết bao người đạo đức hôm nay cũng đang có một thái độ dửng dưng của người tư tế xưa ngoảnh mặt đi trước cảnh một nạn nhân bị cướp đánh nằm bên vệ đường. Biết bao người đạo đức hôm nay đang có thái độ dửng dưng của người thanh niên giàu có xưa đã lùi bước khi Chúa gọi hãy từ bỏ của cải, vác thánh giá mình mà đi theo Chúa. Biết bao người đạo đức hôm nay đang có thái độ dửng dưng của các tông đồ mê ngủ xưa ở vườn Cây Dầu, để mặc Thầy chí thánh một mình cầu nguyện trong cơn hấp hối cô đơn. Biết bao người đạo đức hôm nay cũng giống các Pharisêu hồi xưa đã tỏ ra rất bén nhạy với những quyền lợi, uy tín danh vọng hẹp hòi, và rất năng động cho những quyền lợi ấy, nhưng lại rất dửng dưng lạnh nhạt với trách nhiệm làm cho các người chưa biết Chúa nhận ra Chúa và gặp được Chúa. Chính bản thân họ lại che giấu dung nhan Chúa là Ðấng hiền lành, khiêm tốn, giầu lòng thương xót. Dửng dưng khô lạt là một chứng bệnh thời đại nơi người đạo đức. Nó khó trị hơn tình trạng sa đọa tội lỗi.
Một chứng bệnh thời đại khác, mà Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay nhắc tới, đó là hiện tượng tục hoá.
5b/ Sự kiện có đạo nhưng không giữ đạo do tinh thần tục hoá
Tinh thần tục hoá là các khuynh hướng xấu của con người mắc tội tổ tông. Nếu được ma quỷ vẽ vời, thêm vào các cám dỗ tinh vi, tinh thần tục hoá có thể sẽ phát triển một cách ung dung nơi người có đạo, kể cả nơi người tu trì đạo đức không cảnh giác. Xưa Chúa cứu thế đã bị ma quỷ cám dỗ về tinh thần thế tục, cụ thể là ham danh vọng, của cải và lợi dụng quyền phép Chúa. Nhưng Người đã thắng.
Cơn cám dỗ ấy vẫn đang tiếp tục trong Hội Thánh, và nhiều người có đạo đã thua. Vì thế, có thể nói, tinh thần tục hoá là một thử thách lớn lao đầy nguy hiểm mà Hội Thánh đang trải qua. Ta hãy nhìn qua một số hình thức tục hoá hiện nay.
Ðang có khuynh hướng phát triển trong Hội Thánh các vẻ đẹp bề ngoài hơn là phát triển chiều sâu đức ái và đức tin. Ðang có khuynh hướng coi trọng kỷ luật Hội Thánh hơn là giới luật yêu thương là căn bản của đạo. Ðang có khuynh hướng tự đắc với một Giáo Hội phục vụ âm thầm. Ðang có khuynh hướng đề cao và chạy theo người giầu sang hơn là kính trọng và đi với người nghèo hèn. Ðang có khuynh hướng khuyến khích một Giáo Hội quần chúng đấu tranh cho tự do hưởng thụ hơn là một Giáo Hội với những cá nhân và cộng đoàn bé nhỏ lặng lẽ là men, là muối, xây dựng đoàn kết và công lý. Ðang có khuynh hướng khích lệ hận thù, ghen ghét như là việc đạo đức với mục đích bênh Hội Thánh và làm sáng danh Chúa hơn là khích lệ hoà giải tha thứ, bác ái, là những cách đích thực làm sáng danh Chúa hơn hết, và cũng chính là bộ mặt thực của Hội Thánh. Trong cuốn “L'Eglise en procès” (1989) cha Paul Valadier còn nêu lên hai việc có vẻ rất đạo đức, nhưng theo Ngài, lại cũng có một thứ tinh thần tục hoá.
Việc thứ nhất là thứ tôn sùng Ðức Giáo Hoàng một cách quá đáng, coi Ngài đứng trên Hội Thánh hơn là đứng trong Hội Thánh, một Hội Thánh là Dân Thiên Chúa.
Việc thứ hai là đề cao Toà Thánh một cách quá đáng, khinh thường các giáo hội địa phương, coi Toà Thánh như là nguồn mạch và nền tảng của các giáo hội địa phương, đang khi thực sự Hội Thánh khởi đi từ các giáo hội địa phương (trang 224-226).
Những thứ tục hoá trên đây có lẽ không dễ nhận ra cho bằng những thứ tục hoá thường xuyên hằng ngày nhan nhản khắp nơi. Như tục hoá bài giảng, tục hoá thánh lễ, tục hoá nhà thờ, tục hoá chức linh mục, tục hoá đời tu, từ cách nói năng đến lý tưởng và đời sống tu trì.
Với tinh thần dửng dưng và tục hoá rất mạnh trong chính Hội Thánh, Hội Thánh sẽ Phúc Âm hoá chính mình và nhân loại thế nào đây? Chẳng lẽ Hội Thánh lại coi tinh thần dửng dưng và tục hoá đang làm gió bão trong Hội Thánh như những thành công truyền giáo. Nếu vậy, thì vấn đề đặt ra có lẽ sẽ là vấn đề tự cứu chính mình trước khi cứu kẻ khác.
6/ Sự kiện Hội Thánh Chúa Giêsu hôm nay xem ra không chứng minh được là có bao nhiêu khả năng cải đổi chính mình và xã hội cho nên tốt hơn
Biến đổi chính mình và xã hội mình cho nên tốt hơn, đó là một thách đố mà lịch sử đang đặt ra cho Hội Thánh chúng ta hôm nay. Nếu người có đạo, các cộng đồng đức tin như các gia đình có đạo, các dòng tu, các họ đạo, các nước có đạo, nhất là các đấng bậc có đạo không minh chứng được là mình lương thiện, công bằng, bác ái, tha thứ quảng đại, hiền lành, khiêm tốn, thì lấy gì thuyết phục được người ngoài Công Giáo tin vào đạo chúng ta.
Trong bài diễn văn đầu năm 1990, đọc trước ngoại giao đoàn, Ðức Thánh Cha GIoan Phaolô II đã thẳng thắn nói đến những bóng tối đang bao phủ các nước Tây Âu Thiên Chúa giáo, đó là tính ích kỷ, tôn thờ khoái lạc, kỳ thị chủng tộc và duy vật thực hành (Osservatore Romano, No 4 (2092) 23 Janvier, 1990. trang 5, No 9).
Trong thông điệp Sollicitudo rei socialis, Ðức Thánh Cha càng bi quan về các nước phát triển Âu Châu, đa số theo Thiên Chúa giáo.
- Một là vì đường lối phát triển ấy chỉ phục vụ cho một số tầng lớp nhất định trong xã hội.
- Hai là vì nó làm cho con người dễ trở thành nô lệ của cải.
- Ba là nó đẩy con người luôn đi tìm hưởng thụ (số 28).
Ngoài ra, đường lối phát triển đó đang gây ra cho chính nước phát triển những đặc điểm của tình trạng kém phát triển, đó là sự thiếu nhà ở, nạn thất nghiệp, cảnh có những người bị sống ngoài lề, hay như bị loại trừ khỏi xã hội (số 17,18).
Hơn nữa, đường lối phát triển đó cũng làm cho hố ngăn cách giữa các nước giầu và các nước nghèo càng sâu rộng hơn (số 14).
Trong cuốn “Vers une Eglise différente” cha Louis Lochet kể lại có trường hợp nhiều thanh niên Nhật Bản khi đọc các sách Công Giáo, đã tỏ ra mến đạo và muốn theo đạo, nhưng khi sang các nước Âu Châu Thiên Chúa giáo, thấy tận mắt cảnh sa đọa của dân các nước đó, họ đã tỏ ra thất vọng và thực sự lo ngại cho đất nước Nhật Bản của họ, nếu ngày nào đất nước họ chẳng may rơi vào đạo Công Giáo (trang 30).
Cha cũng viết: Ông Mao Trạch Ðông đã trở thành Mácxít, không do thấm nhuần lý tưởng Mácxít, cho bằng do phản ứng lại những bất công và tồi tệ ông thấy ở Âu Châu Thiên Chúa giáo.
Bây giờ, chúng hãy nhìn sang các nước khác đa số là dân Công Giáo, như Phi Luật Tân và các nước Nam-Trung-Mỹ. Ta sẽ không khỏi mắc cỡ khi thấy những nước đó đang được nổi nang vì nợ nần, vì những bất công xã hội, và vì những tồi tệ luân lý.
Tại Việt Nam, từ hai năm nay, Hội Thánh đã có những bước tiến về phát triển bề ngoài, nhưng tại nhiều nơi đã có những bước xuống trầm trọng về tinh thần Phúc Âm. Không thiếu những người có đạo nhưng không giữ đạo. Không thiếu những người có đạo nhưng đã bỏ đạo. Không thiếu những người có đạo nhưng chẳng tốt hơn ai. Ngay nơi nhiều người tu, tinh thần cầu nguyện, khắc kỷ, trách nhiệm công bình, bác ái, khiêm nhường cũng chẳng sáng hơn người khác. Ðang khi đó, nơi nhiều người ngoài Công giáo lại sáng lên những tấm gương đẹp về lương thiện, lương tâm trách nhiệm và tình người đầy khiêm tốn và quảng đại.
Những nét trên đây có thể làm ta buồn. Nhưng thà biết buồn, để nên khiêm tốn, còn hơn cố tình tự đắc một cách sai lầm. Khiêm nhường là một khởi đầu tốt. Chúa rất thương kẻ hạ mình. Hãy khiêm tốn như người thu thuế cầu nguyện cuối nhà thờ. Ðừng tự đắc như người Pharisêu, đứng trước bàn thờ kể lể thành công. Chúa ghê tởm những kẻ khoe khoang về những thành công tự phong cho mình. Vua Ðavit đã bị Chúa phạt nặng nề, chỉ vì đã ra lệnh làm sổ nhân danh với hậu ý khoe khoang. Trái lại, vì khiêm tốn ăn năn tội mình, và tội của dân, Maisen đã được Chúa xót thương phù giúp.
Có những thất bại là mẹ thành công, và có những thành công là cha thất bại, nên chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết rút ra từ các sự kiện nêu trên những suy nghĩ hợp thánh ý Chúa nhất, hầu ta sẽ có thể thực hiện sứ mạng truyền giáo của ta một cách hữu hiệu hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin thương đổi mới chúng con.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990