MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Bồi dưỡng đức ái để khỏi biến chất
trong tình hình cởi mở
Tháng vừa qua, tôi đi Hà Nội, dự hội nghị thường niên Hội đồng Giám mục Việt Nam. Sau đó, tôi đi thăm nhiều nơi trong và ngoài giáo phận Long xuyên. Tôi cũng đã có nhiều tiếp xúc với các loại người khác nhau.
Nhờ dịp này, tôi đã được nghe nhiều cảm tưởng về vấn đề tự do trong hành đạo. Nói chung thì có 2 loại cảm tưởng. Một loại cảm tưởng cho rằng, tại nhiều nơi, việc hành đạo chưa được tự do. Một loại cảm tưởng khác cho rằng không thiếu nơi, có nhiều tự do, nhưng một số người trong đó có cả Linh mục, tu sĩ, đã không biết sử dụng sự tự do một cách đúng đắn, trái lại, họ còn lạm dụng sự tự do cho mục đích hưởng thụ, hơn là cho mục đích phục vụ. Sự tự do đó đã được sử dụng theo hướng tục hoá, hơn là theo hướng Phúc Âm hoá. Do đó, đời sống nội tâm xuống dốc, đức tin suy giảm.
Khi nghe 2 loại cảm tưởng trên đây, tôi thấy sự tự do là một thử thách lớn lao. Tình hình thiếu tự do là một thử thách để xem đức tin và đức ái, đức cậy có vững mạnh không. Tình hình có nhiều tự do cũng là một thử thách, để xem đức tin, đức ái, đức cậy có bị biến chất không.
Dựa trên thực tế hiện nay tại các nước có rất nhiều tự do về mọi mặt, đồng thời cũng dựa trên thực tế hiện nay tại các nơi, tại Việt Nam có nhiều cởi mở, tôi có cảm tưởng là, trong tương lai, những nguy cơ có khả năng làm suy thoái nền đạo đức con người, và đức tin sẽ nằm trong chủ-nghĩa-tự-do. Tôi hiểu chủ nghĩa tự do ở đây là chủ trương coi tự do như một giá trị cao nhất, đứng trên mọi giá trị khác, một thứ tôn sùng tự do, mà kết quả là bỏ luật Chúa, bỏ luật đạo, bỏ luật Hội Thánh, bỏ luật đời tu, bỏ cầu nguyện, bỏ Lời Chúa, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con, bỏ luân thường đạo lý.
Tôi nghĩ rằng, Việt Nam sẽ càng ngày càng mở ra, các trào lưu tự do sẽ càng ngày càng tràn vào. Chắc sẽ không có một chủ nghĩa tự do như một hệ thống tư tưởng, nhưng sẽ có chủ nghĩa tự do như một thứ não trạng, một lối sống. Ðiều tôi lo ngại cho một tương lai như vậy là, nếu không được chuẩn bị kỹ, thì vô số người, kể cả các đấng, các bậc trong Hội Thánh, sẽ thoả hiệp với “chủ nghĩa tự do thực hành” đó một cách dễ dàng. Một tình hình như vậy sẽ tệ hại cho đạo Chúa còn hơn là một tình hình thiếu tự do.
Ðể các trào lưu tự do không trở thành sức mạnh lôi cuốn được ta và cộng đoàn của ta về đàng xấu, trái lại, để chính ta và cộng đoàn của ta có sức mạnh thiêng liêng lái các tự do về đàng lành, thiết tưởng việc bồi dưỡng đời sống nội tâm phải được ta coi là rất quan trọng.
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: Trong đời sống nội tâm, đức ái là căn bản. Thánh Phaolô nói: “Dù tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, nếu tôi không có đức ái, thì tôi chỉ là người khua chuông gõ trống. Dù tôi nói tiên tri, dù tôi thấu suốt mọi mầu nhiệm và mọi khoa học, hay dù tôi có đức tin mạnh mẽ khiến được núi non di chuyển, nếu tôi không có đức ái, thì tôi chỉ là hư vô. Dù tôi phân phát mọi của cải tôi cho người nghèo khó, dù tôi hy sinh để chịu lửa thiêu đốt, nếu tôi không có đức ái, thì những hy sinh ấy cũng thành vô ích” (1 Cr 13,1-3).
Khi nhận thức một cách xác tín đức ái là căn bản, chúng ta tự nhiên muốn đức ái nơi ta được bồi dưỡng tốt, để trở nên trong sáng, phong phú và vững mạnh. Một trong những dịp may để bồi dưỡng đức ái là những lời Kinh Thánh Chúa nhật tuần này, tức Chúa nhật thứ Sáu-năm B, sau Chúa nhật Phục sinh. Tôi xin trình bày một số gợi ý rút ra từ những bài Kinh Thánh đó.
Ðiểm gợi ý thứ nhất: Chúa thương ta trước khi ta mến Chúa
Trong thư thứ nhất, thánh Gioan tông đồ đã viết: “Tình yêu Chúa là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền tội thay cho chúng ta” (1 Ga 4,10). Rồi trong bài Phúc Âm, thánh sử Gioan cũng đã ghi lại lời Chúa Giêsu phán: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi” (Ga 15,16).
Với những lời trên đây, Chúa dạy ta rằng: Vị chủ động trong tình yêu giữa Chúa và ta là chính Chúa. Chúa ban ơn đức ái, còn ta là kẻ lãnh nhận. Chính Chúa cứu ta khỏi tình trạng không yêu mến Chúa. Ðức ái khởi đi từ sự biết mình nghèo nàn, bất xứng.
Ðiểm gợi ý thứ hai: Hãy lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa bằng cách tập trung lòng tin mến, vâng phục vào Ðức Kitô, như trung tâm điểm.
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu phán: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu chúng con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). “Ở lại” là một thái độ gắn bó, thái độ trung thành. Sự trung tín với Ðức Kitô và Phúc Âm của Ngài là một đòi hỏi thường xuyên của nền tu đức, để ta trở thành Kitô hữu đích thực, người có Chúa Kitô trong mình.
Ðiểm gợi ý thứ ba: Ðể lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa, ta cần nhạy bén trước mọi hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đối với những người ngoại giáo
Bài trích sách Tông đồ công vụ lễ Chúa nhật này cho thấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên nhiều người ngoại giáo. Thấy vậy, thánh Phêrô đã không ngần ngại rửa tội cho họ (x. Cv 10).
Sự nhạy bén như thế trước các hướng dẫn của Chúa Thánh Thần sẽ không tách rời khỏi sự khiêm tốn và bác ái cởi mở, nhất là trong những trường hợp làm ta bỡ ngỡ, sửng sốt, như trường hợp ông Cornêliô và các người ngoại giáo được ơn Chúa Thánh Thần.
Ðiểm gợi ý thứ bốn là: Ðể lãnh nhận và sống ơn yêu mến Chúa ta cần yêu thương nhau.
Trong bài Phúc Âm Chúa nhật này, Chúa phán: “Ðây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Từ “Như” ở đây là quan trọng. Hãy yêu thương kẻ khác, như Chúa đã thương ta. Chúa đã thương ta bằng tình yêu cứu độ, ta cũng cần thương kẻ khác bằng tình thương có tính cách cứu độ.
Thiết tưởng bốn điều gợi ý trên đây, nếu được ta thực hiện tốt, sẽ giúp ta sống đức ái một cách trong sáng và bình an, dù trong tình hình có nhiều tự do, dù trong tình hình thiếu tự do.
Trái lại, nếu những điều kiện trên đây không được thực hiện tốt, tôi e rằng các cuộc lễ tôn giáo của ta sẽ dần dần bị biến chất, để trở thành cuộc mítting, đình đám, biểu diễn, phô trương. Rồi chính bản thân con người tu của ta cũng sẽ bị tục hoá, với những lo lắng chạy theo tiếng khen danh vọng, địa vị, quyền chức, tiền bạc và cuộc sống cộng đoàn cũng sẽ trở nên nặng nề, hời hợt do thiếu đức ái chân thật đối với Chúa và đối với tha nhân.
Ðức Mẹ Maria là người đã thực hiện bốn điều gợi ý trên:
-Ðức Mẹ đã tạ ơn Chúa vì Chúa đã đoái nhìn đến thân phận hèn mọn của Mẹ. Mẹ biết mình nghèo hèn.
-Ðức Mẹ đã tập trung vào Ðức Kitô, Mẹ nói ở Cana: “Anh chị em hãy làm những gì con tôi truyền dạy”.
-Ðức Mẹ đã cộng tác với Chúa Thánh Thần, khi Mẹ chịu thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần.
-Ðức Mẹ đã yêu mến tha nhân. Mẹ đi thăm bà Isave, Mẹ cầu bầu với Chúa ở Cana. Mẹ đồng công cứu chuộc loài người.
Ðức ái của Ðức Mẹ là gương mẫu cho ta. Xin Mẹ cho ta được thông hiệp vào đức ái của Mẹ.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 5/1991