TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Ðổi mới
Vào Vương Cung thánh đường Lisieux, tôi bị thu hút ngay bởi cách trình bày Phúc Âm tại đó. Nhìn lên cung thánh, tôi đọc thấy lời Kinh Thánh bằng chữ vàng thật lớn: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nhìn xuống phía cuối nhà thờ, tôi đọc thấy lời thánh Têrêsa: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Nhìn các gian nhà thờ, tôi thấy ở mỗi gian có khắc một câu kinh Lạy Cha.
Thực là đơn sơ, nhưng đây là sự đơn sơ có chất lượng nói lên cái chính yếu của đạo. Thực là vắn gọn, nhưng đây là một sự vắn gọn vừa dễ nhớ, mà cũng vừa dễ thương, hợp với trình độ và tâm lý của đủ mọi hạng người.
Sự đơn sơ vắn gọn đó gợi ý cho tôi nghĩ đến Việt Nam. Tôi thấy con người Việt Nam hôm nay rất là mệt mỏi. Giảng đạo cho họ thì đừng tạo ra cho họ cái cảm tưởng đạo là cái gì phức tạp, nặng nề. Nhưng hãy nói vắn gọn, rõ ràng, giới thiệu ngay cái chính yếu của đạo, và hãy năng nhấn mạnh đến cái chính yếu đó dưới nhiều hình thức khác nhau. Ðừng xáo trộn, đừng đảo lộn.
Nhiều bằng chứng cho thấy đạo đang bị xáo trộn và bị tha hoá, cần được đổi mới. Muốn biết phải đổi mới thế nào, thì hãy nhìn gương Chúa Giêsu. Dưới đây là một số điểm quan trọng.
Luật chính của đạo Chúa
Thời đó, đạo Chúa bị biến chất trầm trọng. Giới lãnh đạo tôn giáo có phần trách nhiệm về sự suy thoái đó. Bởi vì họ có thói quen đề cao hết luật này đến luật khác, nhưng toàn là những luật phụ. Còn công bình bác ái là luật chính của đạo thì không được họ quan tâm. Ta thử đọc Phúc Âm thánh Matthêu đoạn 24 từ câu 12 đến câu 36, sẽ thấy hạng người được coi là giới đạo đức thời ấy, đã xuống cấp thế nào do cách giữ cái phụ mà bỏ cái chính. Tôi xin trích một ít câu: “Khốn cho các ngươi, hỡi luật sĩ và biệt phái... Các ngươi dài dòng kinh kệ, nhưng lại nuốt trửng gia tài các bà góa... Các ngươi nộp thuế một phần mười rau thơm, còn luật hệ trọng nhất là công bình bác ái thì lại bỏ... Các ngươi biết lừa con muỗi ra, nhưng lại nuốt cả một con lạc đà... Các ngươi lo lau sạch chén dĩa, nhưng trong lòng thì đầy dơ bẩn... Các ngươi giống những ngôi mộ quét vôi trắng, ngoài coi đẹp nhưng trong đầy xương người chết và mọi thứ hôi thối... Các ngươi bề ngoài có vẻ đạo đức, nhưng bên trong chứa chất đầy sự giả hình, tội lỗi. Khốn cho các ngươi hỡi luật sĩ và Pharisêu. Các ngươi đắp mồ các tiên tri, sửa sang phần mộ kẻ lành, lại còn nói: 'Nếu tôi sống cùng thời với các đấng ấy, chắc chắn tôi sẽ không nhúng tay vào việc đổ máu các đấng ấy...'. Nhưng hỡi loài rắn độc... Rồi đây Chúa sẽ sai các tiên tri, các hiền nhân và các người thông thái đến với các ngươi. Trong những người ấy, kẻ thì bị các ngươi giết, hoặc đóng đinh trên thập giá, kẻ thì bị các ngươi đánh đòn nơi hội đường, kẻ thì bị các ngươi săn đuổi hết thành này sang thành khác...”
Các Lời Chúa phán trên đây cho thấy một nếp sống tôn giáo đã quá biến chất đến độ trở thánh ác độc, lại được giới đạo đức chủ trương. Ðể đổi mới lại tình trạng ấy, Chúa Giêsu quả quyết một cách vắn gọn luật nào là luật chính của đạo Chúa. Phúc Âm thánh Marcô đoạn 12, câu 28-31, kể lại sự xác định rõ ràng của Chúa: “Lúc đó, có một luật sĩ nghe Chúa Giêsu tranh luận với nhóm Saducêô, và thấy Chúa đối lý khôn khéo, ông đã hỏi Chúa: Ðiều răn nào là điều răn trọng nhất? Chúa đáp: Ðiều răn trọng nhất là: Hỡi dân Israel, hãy nghe Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất, phải kính mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình. Ðó là điều răn thứ nhất. Ðiều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất, là hãy thương yêu anh em như yêu chính mình. Chẳng còn điều răn nào trọng hơn hai điều răn đó”.
Với những lời trên, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy trả lại địa vị ưu tiên cho hai luật căn bản của đạo, đó là mến Chúa yêu người. Suốt đời Chúa đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Chúa làm chứng không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Chúa Giêsu biết: Mến Chúa là điều khó kiểm tra được, nên Người mới đưa ra một tiêu chuẩn cụ thể, để căn cứ vào đó mà biết được lòng mến Chúa. Tiêu chuẩn cụ thể đó là: Phục vụ tha nhân.
Về tiêu chuẩn này, Chúa nói rất rõ trong Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 25 khi đề cập đến ngày phán xét chung: “Khi Con Người hiện đến trong vinh quang, có các thiên thần theo hầu, và Người sẽ ngự trên toà vinh hiển. Mọi dân nước sẽ tập họp trước mặt Người, Người sẽ tách biệt kẻ lành người dữ, như người chăn chiên tách biệt chiên với dê. Rồi người sẽ để chiên bên phải, dê bên trái. Lúc đó, Vua phán cùng các kẻ ở bên phải rằng: 'Hỡi các kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã dành cho anh em từ lúc tạo thành trời đất. Vì Ta đói, anh em đã cho ăn. Ta khát, anh em đã cho uống. Ta không có chỗ trú ngụ, anh em đã cho trú ngụ. Ta trần trụi, anh em đã cho mặc. Ta đau bệnh, anh em đã thăm viếng. Ta bị giam cầm, anh em đã ủi an'. Bấy giờ các kẻ lành thưa rằng: Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, hay thấy Chúa khát mà cho uống đâu. Có khi nào chúng tôi thấy Chúa không có nơi trú ngụ mà cho trọ, hay thấy Chúa trần trụi mà cho mặc đâu. Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đau bệnh hay bị giam cầm mà đến thăm hỏi Chúa đâu. Vua phán cùng họ: Ta bảo thực, mỗi lần anh em làm những sự ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy”.
Còn những gì Chúa nói với những kẻ đứng bên trái thì chính là những sự họ đã không phục vụ kẻ khác, và không phục vụ kẻ khác là không mến Chúa, nên bị kết án, phải sa hoả ngục. Chúa khẳng định sự thương người, phục vụ tha nhân là dấu chỉ chắc chắn nhất về lòng mến Chúa. Cũng trong chiều hướng đó, Chúa cho biết ta xét đoán và kết án người khác cách nào, thì Chúa cũng sẽ xét đoán và kết án ta cũng cách đó, ta có tha thứ cho kẻ khác, thì Chúa mới tha thứ cho ta.
Tóm lại, bằng sự nhấn mạnh đến giới luật yêu thương, Chúa Giêsu đã nhắm đến mục đích đổi mới cách suy nghĩ của tôn giáo. Cần phải nhìn vào con người hữu hình như đối tượng chính để trân trọng, yêu thương, để phục vụ, để chăm sóc, hầu chứng tỏ lòng tin mến Chúa vô hình. Ðổi mới là trở về với luật chính yếu của đạo, tức luật yêu thương.
Cái chính trong việc thờ phượng
Cũng trong mục đích đổi mới đó, Chúa Giêsu nhìn đến việc thờ phượng. Việc thờ phượng đạo cũ được thực hiện bằng sát tế súc vật và dâng hương nến, nhưng đó chỉ là cái phụ, còn cái chính là lòng công bình bác ái. Bỏ cái chính mà câu nệ cái phụ sẽ chẳng đẹp lòng Chúa. Chúa đã cảnh giác điều đó từ lâu trong Cựu Ước. Sách Isaia, đoạn 1 viết: “Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có ích gì cho Ta, Ta chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên, mỡ các súc vật béo, máu bò chiên dê. Khi các ngươi đến trước mặt Ta, ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những tế lễ vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày Sabbat, và các lễ trọng khác. Những cuộc hội họp của các ngươi đều là gian ác. Tâm hồn Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Và khi các ngươi giơ tay lên, thì Ta quay mặt đi. Các ngươi càng cầu nguyện, thì Ta càng không nhận lời. Vì tay các ngươi vấy đầy máu. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy dẹp khỏi mắt Ta những tư tưởng xấu xa. Ðừng làm điều xấu nữa. Hãy làm điều lành. Hãy tìm kiếm công lý. Hãy cứu giúp kẻ bị áp bức. Hãy xét xử công bình cho những kẻ mồ côi và bênh vực người góa bụa”.
Qua Lời Chúa trên đây, ta thấy cái chính trong việc thờ phượng là tấm lòng công bình bác ái, đối với Chúa và với anh em. Nhưng trên thực tế, việc thờ phượng nhiều nơi thời Chúa Giêsu đã bị tha hóa. Chúa Giêsu than phiền: Người ta chỉ thờ phượng Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ thì xa Chúa. Tuy nhiên, cho dù thờ phượng Chúa và gần gũi Chúa, nhưng lòng lại xa anh em, thì Chúa cũng không chấp nhận. Chúa phán: “Nếu khi nào con dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em có điều bất hoà với con, thì con hãy bỏ của lễ trước bàn thờ, hãy đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi hãy đến dâng lễ sau” (Mt 5,24).
Sau cùng, Ðấng cứu chuộc chúng ta đã nêu gương thờ phượng bằng sự hiến tế chính bản thân mình trên thánh giá. Vì yêu thương nhân loại, Người đã gánh tội cho họ, đã đền tội cho họ, đã tha tội cho họ, đã xoá tội cho họ. Người đã yêu thương đến cùng. Ðó là một việc thờ phượng trần trụi, không hương, không nến, không lời ca tiếng nhạc, không có bàn thờ, không có nhà thờ, không có lễ nghi. Nhưng tấm lòng yêu thương đến cùng của Chúa Kitô chính là cách thờ phượng tuyệt hảo mà Người đã báo trước: Sau này, sẽ đến thời người ta không còn thờ phượng Thiên Chúa trong đền Giêrusalem hay trên núi này, mà sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.
Cái chính trong việc đổi mới
Khi nhấn mạnh đến cái chính trong đạo, Chúa Giêsu đã đổi mới các tương quan. Trong tương quan giữa cái chính và cái phụ, cần phải chú trọng cái chính, mặc dầu không bỏ cái phụ. Trong tương quan giữa nội dung và hình thức, cần phải chú trọng nội dung, mặc dầu không coi thường hình thức. Trong mọi tương quan, đức ái luôn là cái chính. Từ đó mà đổi mới các tương quan cụ thể. Thí dụ: Tương quan với người ngoại giáo, trước đây là xa lánh khinh khi, nay đổi mới thành gần gũi, trân trọng. Tương quan với người tội lỗi, trước đây là kết án và khai trừ, nay đổi mới thành liên đới và tìm về. Tương quan với người thù, trước đây là báo oán và tiêu diệt, nay đổi mới thành cầu nguyện và làm ơn. Tương quan giữa anh em với nhau, trước đây là vị kỷ, nay đổi mới thành vị tha. Tương quan với những người nghèo, trước đây là dửng dưng, nay đổi mới thành tích cực, chăm sóc.
Với những tương quan đổi mới như vậy, các môn đệ Chúa trở thành những con người đổi mới. Nét mới nhất là sự cởi mở về phía mọi thứ người, không trừ một ai. Trong nét cởi mở, có sự khiêm tốn, hiền hoà và bác ái, quảng đại chan hoà, trân trọng mọi người, yêu thương mọi người, muốn sự lành cho mọi người. Nhờ nét cởi mở đó, các tông đồ đã được chuẩn bị tốt để ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc trên khắp địa cầu.
Cái chính của cách đổi mới
Khi đọc cuốn “Thomas More et la crise de la pensée européenne” của André Prévost, tôi thấy việc đổi mới trong tôn giáo nhiều khi không thể là vấn đề có thể bỏ qua được, nhưng cũng lại là vấn đề gây xung đột ghê gớm trong từng cá nhân, trong từng cộng đoàn, trong từng địa phương. Thommas More đã là một chứng nhân và cũng là một nạn nhân của sự đổi mới tại Anh thế kỷ XVI.
Lúc ấy, có cả một tập thể đông đảo giáo sĩ từ trên xuống dưới công khai sống đồi truỵ, lạm dụng sự thánh. Nhưng họ vẫn quả quyết một cách kiêu căng là chỉ có Hội Thánh của mình là thánh thiện, và sự thánh thiện là một dấu chỉ để nhận ra Hội Thánh thực của Chúa Kitô. Tình trạng xuống dốc ấy đã gây nên nhiều phản ứng. Ðã có những phong trào đổi mới Giáo Hội, đã có những cuộc tranh cãi dữ dội, những cuộc mạt sát qua lại bằng những lời lẽ không khoan nhượng, rồi đã có những đám đông từng triệu người bỏ Giáo Hội Rôma để nhập ly giáo.
Trước tình hình bi đát đó, Thomas More vẫn kiên trì ở lại Giáo Hội Rôma. Hơn nữa, Ngài còn ra sức bênh đỡ Giáo Hội của Ngài, mặc dầu với một lương tâm đầy đau đớn. Sau cùng, Ngài đã bị nhà vua Anh xử tử ngày 18/05/1535. Sau bốn thế kỷ, Ngài được phong thánh năm 1935.
Thánh Thomas More để lại tấm gương về cách đổi mới. Ðã hẳn, cần phải đổi mới một nếp sống suy đồi, và đổi mới chủ yếu là trở về với Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. Nhưng cách đổi mới cũng phải là cách của Chúa Kitô, của Phúc Âm. Thánh nhân không chấp nhận một cách đổi mới có ghen ghét, hận thù, khinh miệt và bôi xấu nhau. Ngài càng không chấp nhận một cách đổi mới Giáo Hội có sự bất trung, bất kính đối với Giáo Hội.
Thực vậy, cách Chúa Giêsu đổi mới tôn giáo vẫn là cách đề cao cái chính, đó là bác ái. Ðể đổi mới, Chúa Giêsu không hề khích động hận thù. Người thực hiện công cuộc đổi mới bằng cách rao giảng luật mới, là giới luật yêu thương, và chính mình sống bác ái để làm gương. Rồi Người đào tạo nhóm 12, và một số người thiện chí sống luật mới đó, để dần dần tinh thần mới lan ra một cách đầy bác ái. Nội dung của đổi mới là bác ái, cách đưa nội dung vào lòng người cũng là cách bác ái, luôn luôn nhắm cái chính là bác ái, cả trong nội dung đổi mới, cả trong cách đổi mới. Ðó là điều tôi thiết tha mong muốn. Nhưng thực hiện không dễ chút nào. Thường là phải có hy sinh, phải từ bỏ mình nhiều lắm. Nhưng đó là cái giá phải trả, để góp phần vào công cuộc đổi mới của Chúa Kitô. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà việc đổi mới sẽ được thành công. Thành công thế nào và bao giờ, điều đó ta không cần biết lắm. Ðiều luôn luôn ta cần biết đó là cái chính ta phải cố gắng đổi mới, phải trở về với Chúa Kitô và Phúc Âm của Người.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990