Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 MỤC VỤ CỞI MỞ         -1985-
 ÐỔI MỚI SUY NGHĨ VỀ LOAN BÁO TIN MỪNG -1986-
 LO ÂU VÀ HY VỌNG         -1988-
 ÐỔI MỚI TÂM HỒN         -1989-
 TRUYỀN GIÁO          -1990-
 MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG   -1991-
 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-
 

Những trách nhiệm mới

 

Sự kiện các đấng tử đạo Việt Nam được tôn phong hiển thánh đã được đại đa số đồng bào Việt Nam biết đến. Kẻ biết thế này, người biết thế khác. Sự thực lịch sử các thế kỷ cấm đạo là những sự thực rất phức tạp. Sự thực lịch sử những tháng trước đây hồi phong thánh cũng là những sự thực rất phức tạp. Tôi được may mắn có nhiều tiếp xúc về những vấn đề trên với phía đời, với phía đạo, bên Việt Nam, bên Toà Thánh, bên các nước ngoài. Tôi thấy những sự thực về lòng người còn phức tạp hơn những sự thực về lịch sử các thánh. Ðó là điều mà mục vụ cần để ý trong thời hậu-phong-thánh.

Hiện nay, các đấng tử đạo Việt Nam đã được phong thánh. Sự kính các ngài đã bước lên một bậc. Bậc mới này đặt ra cho ta trách nhiệm mới. Trách nhiệm mới đó là làm chứng cho Chúa một cách hữu hiệu hơn trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam.

Các thánh tử đạo là những người đã can đảm làm chứng về sự trung thành với Chúa. Các ngài trung thành không những ở sự không từ bỏ Chúa, mà cách riêng ở sự cố gắng nên giống Chúa Kitô cho tới cùng. Và đây là điều tôi muốn nói.

 Nên giống Chúa Kitô yêu thương, hoà giải

Cuộc đời Chúa Giêsu là những chuỗi dài dạy mến Chúa yêu người. Sự chết của Chúa Giêsu là đỉnh cao của giới luật mới mà Ngài đã truyền lại. Cái chết của Ngài là của lễ hoà giải. Ngài “tử đạo” để hoà giải nhân loại với Thiên Chúa, và nhân loại với nhau. Từ đó hoà giải là nhiệm vụ thiết yếu của những ai muốn nên giống Chúa Kitô. Ðức Thánh Cha Phaolô VI nói: “Tiêu chuẩn để nhận biết tính cách đích thực của người Kitô hữu là sự hoà giải của họ trong Hội Thánh và trong thế gian” (8/12/1974).

Người tín hữu dùng sự hoà giải của mình để chứng minh mình thuộc về “Hội Thánh là dấu chỉ và là dụng cụ của sự kết hợp mật thiết với Chúa và của sự hợp nhất tất cả nhân loại” (Lumen Gentium).

Hoà giải đòi tinh thần cởi mở. Cởi mở đối với quan niệm duy nhất của Hội Thánh: Duy nhất trong sự dị biệt, khác biệt hướng về hợp nhất, liên hệ với nhau trong khiêm nhường, bình an và bác ái. Cởi mở với các giá trị của các tôn giáo khác, của các chủ thuyết, của các xã hội. Cởi mở đối với quan niệm về vinh quang Thiên Chúa, một vinh quang do tha thứ, xót thương và hoà giải.

Hoà giải nào cũng đòi tinh thần khiêm tốn. Có khi ta tưởng ta là người công chính, còn người khác không công chính bằng ta, nên hoà giải chỉ có nghĩa là họ phải từ bỏ quan niệm của họ để theo quan niệm của ta. Tưởng như thế có thể là sai lầm do kiêu căng và càng đi sâu vào chủ quan tai hại. Hồi xưa, các thầy cả đạo cũ và giới biệt phái tưởng mình là gương mẫu đức tin. Nhưng Chúa Giêsu lại đề cao một viên sĩ quan ngoại đạo như mô hình đức tin mạnh mẽ. Các thầy cả đạo cũ và giới biệt phái cũng tưởng mình là gương mẫu đức thương người. Nhưng Chúa Giêsu lại đề cao đức ái của một người Samaritanô chăm sóc kẻ bị cướp đánh nằm bên vệ đường. Chúa bảo đó là gương đức ái. Người ấy lại là người ngoại giáo. Các thầy cả đạo cũ và giới biệt phái cũng tưởng mình là gương mẫu sự biết ơn. Nhưng Chúa Giêsu lại cho thấy: Mười người phong cùi được Chúa chữa khỏi, chỉ có một người biết cảm ơn Chúa, và người duy nhất đó lại là người ngoại đạo. Thế là đã có những người mà dư luận có đạo cho là không công chính lại được Chúa ưu ái hoà giải. Ðang khi đó có những người có đạo tự xếp mình vào loại công chính lại bị Chúa loại ra ngoài.

Hoà giải nào cũng đòi tinh thần bác ái. Bản chất của yêu thương là rất quan trọng. Nhưng cách yêu thương cũng rất quan trọng. Vì thế Ðức Thánh Cha Phaolô VI khuyên ta: “Hãy học nghệ thuật yêu thương” (17/10/1973). Nghệ thuật yêu thương rất cần trong hoà giải. Theo ý hướng đó, Toà Thánh đã và đang có những hoà giải tế nhị với Do Thái giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành và Anh giáo. Giáo Hội tôn vinh thánh giá Chúa như dấu chỉ của sự hoà giải, chứ không giơ cao thánh giá Chúa lên để có ý nêu tên và kết án những người đã đóng đinh Chúa. Thật là kinh tởm nếu để ca tụng bác ái lại dùng những cách không bác ái và trái với bác ái.

Hoà giải nào cũng đòi tinh thần từ bỏ. Trong lời giảng Mùa Chay 1974 (O.R.3/3/1974) Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trích dẫn những lời sau đây của thánh Basiliô: “Tấm bánh dư thừa ở nhà anh chị em là của những người đói. Cái áo dư thừa trong tủ nhà anh chị em là của kẻ trần truồng. Ðôi dép dư thừa để ở góc nhà anh chị em là của kẻ đi chân không. Những tiền bạc dư thừa anh chị em chôn giấu là của kẻ nghèo. Bao nhiêu bất công anh chị em lỗi phạm có thể trở thành bấy nhiêu việc lành được phân phát ra, nếu biết sửa lại”.

Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã dùng những hình ảnh trên đây để răn dạy. Nhiều cái là quyền lợi của mình, nhưng bên cạnh nếu có những khó khăn của người khác, thì tinh thần hoà giải đòi ta phải từ bỏ phần nào quyền lợi của ta, để có sự thông cảm và bình an. Nếu không, thì không những thiếu hoà giải mà cũng thiếu công bình nữa.

Ðể nêu cao tinh thần hoà giải của đạo Chúa, Chúa dạy rõ: “Khi dâng lễ mà nhớ mình còn điều gì bất hoà với ai, thì hãy đi làm hoà với họ trước đã, rồi mới dâng lễ sau. Bởi vì Chúa ưa thích lòng nhân hậu hơn là lễ lạy”. Trong phụng vụ lễ Misa, trước khi rước lễ có việc trao tặng bình an cho nhau. Cũng là để nhắc cho nhau phải hoà giải với người khác trước đã, rồi mới lên bàn thờ đón Chúa Giêsu vào lòng mình.

Về hoà giải, chúng ta nên đọc lại các văn kiện Toà Thánh về Năm Thánh 1975 mang tên “Năm Thánh Hoà Giải”. Những văn kiện này cho thấy Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã có một cái nhìn tiên tri về thế giới và về Hội Thánh. Trước viễn tượng phức tạp, Ngài đã tha thiết kêu gọi hoà giải. Hoà giải với lương tâm mình, hoà giải với Chúa, hoà giải trong nội bộ Hội Thánh, hoà giải với các tôn giáo khác, hoà giải với xã hội, hoà giải giữa các cá nhân, hoà giải giữa các cộng đồng, hoà giải giữa các nước, các vùng. Những điều Ngài nói với Giáo Hội toàn cầu năm 1975 rất hợp cho Giáo Hội Việt Nam của giai đoạn mới từ 1975 trở đi.

Có những nghi kỵ trong thời chiến. Có những nghi kỵ trong thời bình. Có những nghi kỵ riêng của giới nghèo. Có những nghi kỵ riêng của giới giàu. Có những nghi kỵ về phía đời. Có những nghi kỵ về phía đạo. Trong đạo, cũng không thiếu những nghi kỵ phức tạp và tinh tế đối với nhau. Nói chung thì trong một cuộc sống chật chội khép kín, những cái gây nên nghi kỵ thường là những lý do hẹp hòi, được nuôi dưỡng trong một bầu khí tâm lý căng thẳng và đầu độc. Nghi kỵ đẻ ra nghi kỵ.

Vì thế, người làm việc tông đồ hoà giải cần phải cảnh giác trước hết với chính lòng minh, luôn giữ nó bình an, thanh thản với lý tưởng mưu tìm hoà giải theo gương Chúa Kitô. Ðồng thời họ cũng cố gắng tích cực và kiên trì tạo nên bầu khí hoà giải, bằng những lời nói mang sức sống công bình bác ái, bằng những thái độ và việc làm hướng về những lợi ích lớn hơn là những lợi ích nhỏ trước mắt. Mở rộng tầm nhìn, và mở rộng tấm lòng là một cách tốt nhất để bớt đi những cái hẹp hòi gây nên nghi kỵ. Trái tim khoan hoà, hiền lành, bao dung của Chúa Giêsu luôn thao thức phần rỗi các linh hồn, đó là trái tim của trái tim tông đồ hoà giải. Giáo Hội Việt Nam hôm nay đang cần nhiều người có trái tim như vậy.

Lúc tôi viết tới đoạn này cũng là lúc tôi gặp 3 trường hợp rắc rối: Một đôi vợ chồng có đạo, 2 chị em lớn tuổi có đạo, 2 người cùng trong một nhà tu. Tất cả những người này đều hằng ngày tới nhà thờ đọc kinh, xem lễ, rước lễ. Nhưng đã lâu rồi, họ chưa đi tới chỗ hoà giải thực sự giữa hai người với nhau.

Kinh nghiệm cho thấy hoà giải khó hơn sống nghi kỵ hận thù ghen ghét. Chẳng cần chút lương thiện nào cũng dư sức sống nghi kỵ. Còn muốn sống hoà giải thì cần nhiều cố gắng đạo đức lắm. Nhưng để an tâm một cách giả tạo, không thiếu người vẫn tìm đủ cách để đạo-đức-hoá lập trường nghi kỵ, và tội-lỗi-hoá đường lối hoà giải. Một khi mang nhãn hiệu đạo đức Phúc Âm, các nghi kỵ ghen ghét hận thù nhân danh Phúc Âm sẽ dễ lan tràn. Kết quả là những người ngoài công giáo càng hiểu sai đạo, càng nghi ngờ Hội Thánh.

Nhận thức rõ những khó khăn trên đường hoà giải, chúng ta cần can đảm kiên trì. Thiết tưởng can đảm và kiên trì xây dựng hoà giải trong những hoàn cảnh khó khăn cũng là một hình thức tử đạo, một cách làm chứng lòng trung thành với Chúa Kitô trong một thời điểm rất cần hoà giải.

 Noi gương Chúa Kitô luôn trung tín

Một đức tính khác của Chúa Cứu thế ta cần noi gương cách riêng trong thời điểm này là sự trung tín.

Chúa Kitô đã trung tín triệt để với sứ mạng của mình. Sứ mạng của Ngài là đến với loài người, ở giữa loài người, để cứu chuộc loài người. “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mạng ấy trong ý chí tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha bằng cả cuộc đời nêu cao đức ái đến hy sinh mình trong cái chết nhục nhã đau thương.

Mỗi kẻ theo Chúa Kitô đều chia sẻ sứ mạng của Ngài. Sứ mạng ấy được cụ thể hoá trước hết trong việc bổn phận. Ðối với linh mục có trách nhiệm mục vụ trực tiếp, thì việc bổn phận được qui định rõ. Thí dụ: Bổn phận có mặt ở nhiệm sở, bổn phận cầu nguyện kinh nhật tụng, bổn phận phân phát các bí tích. Bổn phận giảng huấn, bổn phận nâng đỡ các người đau yếu bệnh tật neo đơn, bổn phận làm việc từ thiện, bổn phận chia sẻ Tin Mừng cho người ngoại đạo. Bổn phận đối với linh mục đoàn, bổn phận đối với các Giám Mục của mình vv...

Ðối với linh mục không có trách nhiệm mục vụ trực tiếp, thì việc bổn phận không phải là không quan trọng, nếu việc bổn phận, đó, thí dụ, chỉ là dùng lời nói thái độ việc làm giúp xây dựng và phát triển mối hiệp nhất và sự bình an trong xứ đạo mình ở và trong địa phận của mình.

Có cách làm việc bổn phận như một thói quen máy móc. Có cách làm việc bổn phận như loan báo Tin Mừng. Có việc làm nhiều chất lượng. Có việc làm ít chất lượng. Có việc làm sinh kết quả thấy rõ. Có việc làm sinh kết quả âm thầm. Ðiều muốn gợi ý ở đây là lương tâm trách nhiệm. Trách nhiệm thường xuyên trau dồi đạo đức, nhân bản, trí thức, để có được đời sống nội tâm phong phú, biết phán đoán, biết tổ chức, hầu việc chu toàn bổn phận mục vụ được đẹp ý Chúa.

Một điểm quan trọng cần biết trong trách nhiệm chu toàn bổn phận mục vụ là tinh thần Giáo Hội.

Khi nói đến tinh thần Giáo Hội, nhiều người thường chỉ nghĩ đến sự vâng phục quyền bính Giáo Hội. Cách hiểu đó chỉ đúng phần nào, mặc dầu phải hiểu sự vâng phục quyền bính Giáo Hội cần được đòi hỏi và được thực hiện một cách trưởng thành.

Hiểu cách đó là quan niệm một Giáo Hội đã sẵn có, ở ngoài ta và ở trên ta. Thực sự cũng có đúng. Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập từ nhóm 12 bằng mầu nhiệm khổ nạn Phục sinh của Chúa. Giáo Hội đã được công bố bằng sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ðó là Giáo Hội ở ngoài ta. Giáo Hội đó đi vào lịch sử, vẫn tiếp tục hoàn chỉnh chính mình. Mỗi ngày, mầu nhiệm cứu chuộc được kéo dài qua thánh lễ. Từng ngày, Giáo Hội xây dựng chiều kích sống động của mình trong các con người sống động của Hội Thánh. Từng ngày, Giáo Hội hiện diện trên thế giới nhờ ta, và trong ta. Theo nghĩa đó, Giáo Hội là ở trong ta, và nhờ ta để hoạt động hoàn chỉnh chính mình.

Có tinh thần Giáo Hội là chủ yếu hiểu biết Giáo Hội chính là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này được ghi chép trong cuộc sống chúng ta. Thực ra, mầu nhiệm này chỉ có được trong lịch sử của ta, nhờ cuộc sống của ta và trong cuộc sống của ta. Giáo Hội là chính chúng ta và đồng thời là mầu nhiệm sự hiện diện của Chúa ở trần gian này. Mầu nhiệm này thực lạ lùng, bởi vì nó là sự Chúa chỉ bằng lòng hiện diện qua những con người và qua trung gian tự do con người được thánh hoá. Mầu nhiệm này cũng là thực tại sự Chúa hiện diện, muốn ban phát ơn cứu rỗi qua các cử chỉ, các tổ chức, các việc làm của những con người. Có tinh thần Giáo Hội phải chăng chính là đón nhận mầu nhiệm đó, và làm cho mầu nhiệm đó được thể hiện trong đời sống hằng ngày, dự phần vào hành động Giáo Hội và của mầu nhiệm Thánh Thể, để dự phần vào hành động của Chúa Kitô, Chúa chúng ta” (André de Bovis, sj, Avoir le sens de l'Esprit, Christus 18, 1958).

Trong sự hiểu biết như trên, tôi xin lưu ý mấy việc thường ngày, mong mỗi người chúng ta chu toàn với tinh thần Giáo Hội cao, hầu xây dựng tinh thần Giáo Hội trong cộng đồng của mình.

Bằng việc dâng thánh lễ, chúng ta sẽ sống mạnh mẽ và nêu cao tinh thần Giáo Hội, nếu chúng ta cử hành một cách sốt sắng với ý chí hiệp thông với Ðức Thánh Cha và các Ðức Giám Mục của mình, với thái độ nghiêm trang cung kính, với những đồ lễ đồ thờ sạch sẽ lịch sự.

Bằng việc giảng dạy, chúng ta sẽ sống mạnh mẽ và nêu cao tinh thần Giáo Hội, nếu chúng ta đưa ra những đề tài đạo đức sát thực tế với nội dung có chất lượng, với cách trình bày có khoa học.

Bằng cách sống và tiếp xúc, chúng ta sẽ sống mạnh mẽ và nêu cao tinh thần Giáo Hội, nếu chúng ta phản ánh được lương tâm ngay chính, tấm lòng độ lượng, ý chí phục vụ, tinh thần kỷ luật và sự hiểu biết những giáo huấn của Công đồng.

Cũng bằng cách sống và các việc làm, chúng ta sẽ sống mạnh mẽ và nêu cao tinh thần Giáo Hội, nếu chúng ta kiên trì và khôn khéo cởi gỡ những thành kiến nặng nề mà nhiều đồng bào Việt Nam ngoài công giáo đang có về đạo công giáo Việt Nam nói chung và về hàng Giám Mục, linh mục Việt Nam nói riêng, đặc biệt là trong quan điểm và thực tế đối với kẻ nghèo, đối với vấn đề đoàn kết dân tộc, và đối với việc xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc.

Một điểm khác không thể thiếu trong khi nói về trách nhiệm trung tín của linh mục Việt Nam hôm nay, đó là trung tín đối với Tổ Quốc.

Về điểm này, tôi thấy đoạn văn số 9 của Thư Chung Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam 1980 là tương đối rõ ràng đầy đủ. Chúng ta nên đọc lại:

Là Hội Thánh trong lòng Dân Tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng Quê Hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của Ðất Nước. Công đồng dạy rằng: “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới” (MV 40,2). Vậy, chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, Ðất Nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân, vừa là thành phần Dân Chúa.

Sự gắn bó và hoà mình này đưa tới những nhiệm vụ cụ thể mà chúng ta có thể tóm lại trong 2 điểm chính:

1. Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc.

2. Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống Dân Tộc” (số 9).

Long trung tín được xây dựng bằng những việc nhỏ thường ngày hơn là bằng những việc lớn hiếm hoi. Tất nhiên có nhiều vất vả, có nhiều gai góc, có nhiều mệt mỏi. Thắng vượt được những cái đó đôi khi cũng là một thứ tử đạo, nhưng đó là một cách làm chứng cho Chúa rất cần trong thời điểm này.

 Noi gương Chúa Kitô giúp con người sống hạnh phúc thật

Một điều nữa thiết tưởng cũng cần nhấn mạnh trong thời điểm này để làm chứng cho Chúa cho đạo, đó là sống Tám mối phúc thật.

Thời nay, một phần đông nhân loại đang cảm nghiệm thấm thía 3 cái trống rỗng vô hình ghê rợn:

- Một là cái trống rỗng về ý nghĩa cuộc đời. Sống để làm gì, chết rồi đi đâu. Ðối với họ, câu trả lời là: trống rỗng.

- Hai là cái trống rỗng về cuộc sống cộng đồng. Ðã có nhiều nghi kỵ, xa cách, đổ vỡ, kỳ thị. Và cho dù có thương nhau tha thiết, nhưng sau đó còn gì? Ðối với họ, câu trả lời là: trống rỗng.

- Ba là cái trống rỗng về tôn giáo. Tôn giáo bị đẩy lui, tôn giáo dạy những sự xa vời, không giải quyết được gì cho những vấn đề thực tại. Tôn giáo đưa lại cái gì? Ðối với họ, câu trả lời là: trống rỗng.

Ðang khi đó, nhiều người đã sống mãnh liệt bài giảng trên núi của Chúa. Và họ đã cảm nghiệm được Tám Mối phúc thật. Họ thấy bên kia vực khổ là bờ hạnh phúc. Có một Ðấng thiêng liêng đời đời hằng sống ban hạnh phúc cho họ. Chính Ngài là hạnh phúc của họ. Có một cái gì là tuyệt đối trong đời họ. Từ kẻ nghèo nàn đến kẻ bị bắt bớ đều được đền bù bằng cái tuyệt đối của Chúa trong Tám Mối phúc. Chính vì tin như vậy và đã cảm nghiệm thấy như vậy, họ đã sống bình an, một thứ bình an nội tâm sâu sắc làm ngạc nhiên bao người. Sự kiện ấy đã là chứng từ sống động về Chúa.

Chẳng may một số người tin Chúa khi gặp khó, kể cả khi tôn giáo họ gặp khó, đã đánh mất sự bình an trong lòng mình, để rồi lại khuấy động sự bình an tâm hồn những kẻ khác. Châm biếm, móc méo, bực bội, nói xấu, tức tối hận thù. Nhiều phản ứng không khác gì những người bất mãn bệnh hoạn, ấu trĩ và phàm tục, lúc đó, thái độ tôn giáo nơi họ đã trở thành phản chứng, gây nên hậu quả còn tệ hại hơn là sự trống rỗng.

Chúng ta quá biết về mầu nhiệm cứu chuộc. Những đau đớn Chúa Giêsu chịu, do bị hành hạ trên thân xác và do bị nhục nhã trong tâm hồn đã trở thành giá cứu chuộc, nhờ sự Ngài chịu những đớn đau ấy với tâm hồn khiêm tốn, hiền từ, yêu thương tha thứ.

Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nên các tông đồ xưa, sau khi bị đánh đòn và bị cáo gian, bị xỉ vả, các ngài đã nhảy mừng sung sướng vì được nên giống Thầy mình. Các ngài không có một lời tức bực, khích động hận thù và khinh dể để đối với kẻ làm các ngài phải khổ. Có người cho thái độ như thế là hèn yếu. Nhưng thánh Phaolô quả quyết: “Chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh”. Sự thực đó không những đúng cho cá nhân, mà cũng đúng cho Hội Thánh.

Hiện nay, sức sống của Hội Thánh được thể hiện dồi dào, không ở những cái ồn ào phô trương mạnh mẽ có vẻ thắng thế, mà là ở những cái yếu, cái nhỏ, cái hèn. Ðó là những cộng đoàn đức ái không tên, những việc phục vụ bé nhỏ âm thầm, những dấn thân vất vả mà chẳng ai thèm tranh giành, những hy sinh đau đớn lặng lẽ và những lời cầu nguyện kín đáo không ghi ở mục lục nào.

Hơn nữa, từ Tám Mối phúc thật, những người xác tín Chúa là hạnh phúc của mình, đã khám phá thấy hạnh phúc là điều Chúa muốn cho con cái Chúa, và cho mỗi người. Họ cũng thấy rằng mọi sự tốt, mọi sự lành, mọi sự đều đẹp do Chúa, có giá trị làm sáng danh Chúa, có khả năng giúp cho con người sống lương thiện hơn, đạo đức hơn, hoà thuận với nhau hơn. Từ đó, hạnh phúc của Tám Mối phúc thật không được hiểu như một thế tĩnh, một thái độ chịu đựng, mà chính là một thế động, một sự phấn đấu chống lạc hậu, dốt nát, nghèo nàn, bệnh tật, bất công, trì trệ và mọi thứ tiêu cực làm suy thoái và cản trở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, một sự phấn đấu phát triển con người và xã hội về mọi mặt.

Một mẫu người như vậy rất được hoan nghênh ái mộ. Sự kiện kíp mổ hai cháu Việt-Ðức được khắp nơi khen ngợi quý mến, và sự kiện cái chết của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ được từng triệu đồng bào xót thương ngậm ngùi, đã nói lên tâm lý chung của quần chúng. Tâm lý chung đó chứng tỏ nỗi khát khao rạo rực ray rứt của con người Việt Nam lúc này, là muốn thấy được những người giàu lòng tốt, giàu khả năng góp phần hữu hiệu vào việc nâng cao con người và xã hội Việt Nam lên, để được lành mạnh hơn, sung túc hơn, văn minh hơn, tốt đẹp hơn, ổn định hơn, đạo đức hơn.

Cũng do tâm lý đó đang dâng lên như dòng nước lũ, mà chủ nghĩa anh hùng lúc này không còn đủ sức thuyết phục. Một cá nhân, một chủ thuyết, một tôn giáo, một quốc gia, nếu chỉ lo tự hào với con số anh hùng liệt sĩ của mình, đang khi không biết giải quyết hữu hiệu những vấn đề cấp bách trước mắt như nạn nghèo túng, nạn tham nhũng bất công, nạn lạc hậu, nạn ngu dốt, sẽ không đủ uy tín để tranh thủ được sự tín nhiệm và sự quý trọng của người thời nay.

Cũng do tâm lý đó của thời điểm này mà thánh Máctin đen lại được đông người công giáo Việt Nam lui tới tâm sự nhỏ to hơn là các thánh tử đạo đồng hương của mình. Lý do dễ hiểu. Bởi vì thánh Máctin đen hay giúp đỡ giải quyết các vấn đề đời sống.

Cũng do nhận thức về tình trạng tâm lý thời điểm này, mà Toà Thánh đã chọn cho hội nghị Uỷ ban đối thoại với những người không tin 1991 đề tài này: “Hạnh phúc và Ðức tin”, với những câu hỏi gợi ý đã gởi cho các thành viên như: “Ngày nay Giáo Hội phải giới thiệu Phúc Âm thế nào để con người thời nay có thể coi Phúc Âm là một Tin Mừng không những cho hạnh phúc đời sau, mà cũng là Tin Mừng cho hạnh phúc đời này?”.

Những sự kiện trên đây giúp cho người làm mục vụ suy nghĩ, để có những lựa chọn thích hợp khi vạch ra những con đường có khả năng làm chứng cho Chúa, cho đạo, cho Giáo Hội Việt Nam.

Các thánh tử đạo Việt Nam sẽ rất vui mừng, khi thấy con cháu các ngài biết chọn lựa đúng ngôn ngữ của thời điểm mình để phiên dịch đức tin và làm chứng lòng trung thành đối với Chúa, cũng như các ngài đã biết lựa chọn đúng ngôn ngữ của thời điểm các ngài.

Các ngài đã hy sinh cho sự trung thành với đức tin, để đức tin của con cháu các ngài được càng ngày càng trưởng thành trong sự trung tín.

Ðức tin của giáo dân ta, và của chính bản thân ta đã thực sự trưởng thành chưa? Thưa nói chung thì vẫn còn nhiều điều đáng lo âu nhưng cũng có nhiều hy vọng. Vấn đề này sẽ có dịp suy nghĩ sau.

Kính lạy các thánh tử đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con.

Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được không nếu không dính liền với cây nho. Các con cũng vậy nếu không ở trong Thầy. Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái. Vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15).

Tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận Long Xuyên năm 1988