Những thái độ mới đối với Công giáo
Tại nhiều nước châu Âu, nhiều sách báo quen gọi thời nay là thời hậu-Thiên-Chúa-giáo (Temps postchrétien). Có nghĩa là theo cái nhìn của họ, Thiên Chúa giáo không những đã qua thời hưng thịnh, mà còn đang đi vào giai đoạn lụi tàn. Cách nói và cách hiểu đó là quá đáng, nhưng không phải là thiếu cơ sở. Bởi vì thực tế tại những nước đó cho thấy đa số quần chúng không còn gắn bó với Thiên Chúa giáo nói chung và với Công giáo nói riêng. Ðã có những thái độ mới. Những thái độ này tuy đã xuất hiện rải rác từ lâu, nhưng nay đã trở thành những hiện tượng quần chúng, càng ngày càng lan rộng. Do đó mà gọi là mới. Dưới đây là một số thái độ.
Thái độ tục hoá
Tục hoá là một danh từ chung chung để chỉ mọi thái độ đẩy lui, mà xã hội văn minh đã thực hiện đối với tôn giáo. Thái độ này rất phức tạp. Nó có thể hiểu về nhiều cách.
Thứ nhất: Tục hoá là một sự kiện pháp lý chính trị tách rời Giáo Hội ra khỏi Nhà nước. Nhà nước làm việc đó vì mục đích bảo vệ chủ quyền của mình. Theo nguyên tắc phân ly này, Nhà nước không chấp nhận sự can thiệp của Giáo Hội vào các việc của Nhà nước và chính mình cũng không can thiệp vào các việc nội bộ của Giáo Hội. Tuy nhiên, giữa Nhà nước và Giáo Hội vẫn có những nỗ lực xây dựng những liên hệ tốt theo một phương thức nào đó hợp tình hợp lý.
Thứ hai: Tục hoá là thái độ xã hội đẩy lui tôn giáo ra khỏi lãnh vực công cộng, chỉ còn cho phép tôn giáo được có mặt trong lãnh vực tư mà thôi. Thái độ này là một bước mới của chính sách phân ly giữa Nhà nước với Giáo Hội, đồng thời cũng một phần do phản ứng của xã hội trước những cuộc tranh chấp đẫm máu giữa một số tôn giáo xảy ra đó đây. Bởi vì theo ý kiến của Hobbes, nhiều tôn giáo do tranh giành ảnh hưởng đã gieo rắc chia rẽ và chủ trương bạo động, gây hại cho trật tự an ninh xã hội. Nên cách giải quyết hợp lý phải chọn cho trật tự an ninh công cộng của xã hội, là hãy đẩy tôn giáo ra ngoài lề xã hội.
Thứ ba: Tục hoá là sự các khoa học, nghệ thuật, kỹ thuật đẩy tôn giáo ra ngoài các lãnh vực chuyên môn của họ, để tự mình hoạt động và phát triển theo quy luật và đường lối độc lập của mình. Khuynh hướng này khởi sự từ vụ Galilée. Với thái độ này, không những một vài khuynh hướng thần học xưa bị tước đi cái tham vọng muốn đứng chỗ cao nhất để kiểm soát mọi kiến thức, mà cả đến tôn giáo cũng bị đẩy ra khỏi mọi sinh hoạt khoa học kỹ thuật.
Ba thái độ tục hoá trên đây không luôn ổn định. Ðã có lúc cực đoan, khi lợi dụng nguyên tắc phân lý để tìm cách bôi nhọ và xoá bỏ tôn giáo. Những chủ trương cực đoan độc đoán như thế được gọi là chủ thuyết duy-quốc-gia, chủ thuyết duy-thế-tục, chủ thuyết duy-khoa-học.
Tiến trình tục hoá như vừa trình bày là tóm lược một đoạn của cuốn sách L'Eglise en procès của Paul Valadier xuất bản năm 1987. Tháng 5 năm nay, tại hội nghị mang tên “Eglises voisines” tổ chức tại Freiburg CHLB Ðức, tôi đã nghe một bài thuyết trình của một Ðức Ông giáo sư đại học Pháp về tình hình tôn giáo Pháp. Khi đề cập đến phong trào tục hoá, ngài cho biết là thái độ tục hoá nay đã đi thêm hai bước mới, đó là phân cách tôn giáo ra khỏi gia đình và sau cùng đã phân tách tôn giáo ra khỏi đời sống cá nhân. Tôn giáo chỉ còn là một hệ thống lý thuyết nằm trong sách báo.
Ðang khi đó, tinh thần tục hoá cũng không vắng mặt ngay trong chính những gì đáng lẽ phải thánh hoá trong Giáo Hội. Tục hoá nhà thờ, tục hoá nhà tu, tục hoá phụng vụ. Hoặc là bề ngoài vẫn còn hình thức thánh, nhưng tinh thần bên trong đã tục hoá. Hoặc là cả tinh thần bên trong lẫn hình thức bên ngoài đều tục hoá. Chỉ còn giữ lại cái tên là thần thánh mà thôi.
Thái độ tương đối hoá
Khuynh hướng này phát sinh từ thuyết duy-lịch-sử chủ trương cắt nghĩa toàn bộ tôn giáo bằng lịch sử. Theo thuyết này, thì cách sống đạo, các hình thức đạo đức, cả đến tín điều và luân lý đều do hoàn cảnh lịch sử tuỳ thời tuỳ nơi tạo ra. Hoàn cảnh lịch sử đổi thay thì mọi sự của tôn giáo cũng thay đổi. Tôn giáo chỉ là tổng hợp những niềm tin, những luật lệ, những quan niệm về vũ trụ quan có thể thay đổi, chứ tôn giáo không do một bản tính vững bền bất biến. Tôn giáo chỉ là một cái tên gói chung các hiện tượng đổi thay đó, chứ không chứa đựng một bản chất nào trường tồn, vĩnh cửu. Tôn giáo không có nội dung nào gọi được là tuyệt đối thiết yếu.
Thuyết duy-lịch-sử thoát thai từ thuyết duy-danh của Ockham, một thuyết chủ trương mọi sự vật đều không có bản tính vững bền. Theo Ockham, nếu Chúa muốn 2 với 2 không phải là 4 thì cũng vẫn được, bất chấp bản tính của nó là 4. Mọi sự đều do ý Chúa, chứ không tuỳ thuộc chút nào vào bản tính các sự vật cả. Cái mà người ta gọi là bản tính, thực ra chỉ là một cái tên trống rỗng. Mỗi sự vật mang một cái tên cho là vĩnh viễn, nhưng không mang một bản tính nào vĩnh viễn cả. Cái gì không vĩnh viễn, không tuyệt đối thì là tương đối.
Tất nhiên, theo các cách hiểu như trên thì mọi sự kể cả tôn giáo đều trở thành tương đối! Với các tác giả theo xu hướng đó như: Hobbes, Machiavel, Bousseau, Nietzsche, Max Weber, Leo-Straus, thuyết tương đối đã tiến từng bước đến chỗ chủ trương tương đối toàn diện.
Hiện này trên thực tế, rất nhiều người không biết gì về thuyết tương-đối-hoá kể trên, nhưng vẫn còn mọi sự trong tôn giáo đều chỉ là những giá trị tương đối. Sự kiện này được cắt nghĩa bởi ảnh hưởng của thuyết tương đối trong nhiều trào lưu văn hoá. Nó cũng là một thứ phản ứng cực đoan trước một khuynh hướng cực đoan khác muốn khăng khăng tuyệt đối hoá mọi sự trong tôn giáo, không phân biệt điều nào là chính, điều nào là phụ.
Khi cái chính cái phụ trong tôn giáo đều được coi đồng loạt là tương đối, hoặc đồng loạt là tuyệt đối, thì đức tin sẽ bị khủng hoảng từ nền tảng.
Thái độ dửng dưng
Dửng dưng đối với tôn giáo nói chung, và đối với Công giáo nói riêng, đó là hiện tượng rất phổ thông hiện nay tại các nước văn minh. Trong 3 ngày dự Hội nghị của Uỷ ban Toà Thánh về đối thoại với những người không tin, tổ chức đầu tháng 3 năm nay tại Rôma, tôi nghe các diễn giả nói nhiều đến thái độ dửng dưng đối với tôn giáo.
Có những người rất dửng dưng đối với nhà thờ, kinh lễ và luật lệ Giáo Hội, nhưng lại có tình cảm với một vài chi tiết của Phúc Âm, hoặc vốn trân trọng đối với một ít nhân vật của tôn giáo, hoặc vốn quan tâm đến các đóng góp của tôn giáo vào các chương trình xã hội. Có nghĩa là dửng dưng là một thái độ phức tạp cần phải được tìm hiểu nguyên do.
Nguyên do có thể là vì thời nay não trạng con người bị chi phối thường xuyên bởi khuynh hướng thực dụng. Họ đáng giá tôn giáo cũng như các việc khác theo tiêu chuẩn lợi ích trước mắt nếu tôn giáo không đem lại cho họ lợi ích gì trước mắt, thì họ dửng dưng.
Nguyên do cũng có thể là vì thời này con người bị thúc đẩy rất mạnh bởi ba động lực này là: thích tìm khoái lạc, thích tìm thành công kinh tế, thích tìm uy tín trong xã hội. Một tâm hồn chất chứa đầy những động lực đó sẽ không có khả năng cảm nghiệm được mùi vị thiêng liêng của các chân lý tôn giáo. Vì thế mà họ dửng dưng.
Nguyên do cũng có thể là vì nhiều người tưởng tôn giáo nói chung và những người hoạt động tôn giáo nói riêng, đang sống xung quanh họ, đã có thái độ dửng dưng đối với các vấn đề thiết thực của cuộc sống và đối với chính họ. Nên thái độ dửng dưng của họ là phản ứng lại thái độ dửng dưng của tôn giáo.
Nguyên do cũng có thể là vì đối với nhiều người, những gì tốt lành họ muốn có, đều có thể tìm được ngoài tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng. Thí dụ, một đời sống ấm no, văn minh tiến bộ, có hoà bình, có tình nghĩa, có công bình bác ái, có trật tự an ninh. Nó được chứng minh tại nhiều nước không phải là Công giáo, và tại nhiều nước quần chúng rất dửng dưng đối với tôn giáo.
Nguyên do cũng có thể là vì đối với nhiều người, những tư tưởng đẹp, giàu sức lôi cuốn nhất đã được thực hiện một cách sống động đầy hấp dẫn ở những gương sáng rạng rỡ không công giáo hoặc vô tôn giáo. Thí dụ, nếu muốn tìm những mô hình người hùng, mô hình người thánh, mô hình người hiền triết, mô hình người tiến bộ, mô hình người có tinh thần cuộc đời, hy sinh vì tình thương, vì trách nhiệm, vì niềm tin của mình, thì đâu nhất thiết phải tìm trong Giáo Hội Công giáo hoặc trong các tôn giáo!
Theo tác giả Paul Valadier trong L'Eglise en procès, thì tại Âu châu, phong trào dửng dưng đối với tôn giáo cũng đã phần nào do phản ứng lại những tranh chấp tàn bạo giữa các tôn giáo hoặc trong nội bộ một tôn giáo. Nhiều người cho rằng những tranh chấp đó đều do cuồng tín, nặng tình cảm lệch lạc hơn là lý trí quân bình. Và vì vậy, để mình khỏi bị xếp vào loại người cuồng tín, nhiều người chọn thái độ dửng dưng, một thái độ vừa tỏ ra dè dặt, vừa tỏ ra đề cao lý trí. Nhiều triết gia đã đưa ra thái độ đó, để chống lại một thái độ mà họ gọi là thái độ mù quáng của khuynh hướng tôn giáo cực đoan.
Nguyên do dửng dưng cũng có thể là vì nhiều người đã gặp thấy một số sinh hoạt tôn giáo xem ra quá nhạt nhẽo, già nua, nặng về giáo điều, trích dẫn, sao chép, thiếu sức sống, thiếu vẻ đẹp cả tinh thần lẫn vật chất.
Nguyên do dửng dưng cũng có thể là vì nhiều người nghĩ rằng công giáo là một thái độ không những siêu thoát, mà còn phản bội đối với ông bà tổ tiên, đối với Quê Hương Dân Tộc.
Những phân tách trên đây cho thấy có nhiều hình thức dửng dưng, cũng như có nhiều lý do đưa tới dửng dưng.
Thái độ phê phán
Thời đại này là thời đại khoa học. Ðời sống được xây dựng bởi khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học.
Khoa học là phải chính xác, rõ ràng, mạch lạc, nên đòi mổ xẻ phân tích, kiểm nghiệm, phê phán. Tinh thần khoa học được áp dụng vào mọi sự, kể cả tôn giáo. Người ta phê phán tôn giáo không phải nhân danh đức tin, nhưng nhân danh khoa học.
Nhân danh khoa học lịch sử, người ta khảo sát lại các yếu tố lịch sử xung quanh các Phúc Âm, các chuyện thánh, các chuyện trong lịch sử Giáo Hội.
Nhân danh khoa học Y-Sinh-Hoá, người ta khảo sát các hiện tượng mà dư luận hoặc giáo quyền coi là phép lạ.
Nhân danh khoa học xã hội kinh tế chính trị, người ta phê phán các ý kiến của Ðức Giáo Hoàng về hoà bình, gia đình, dân số, hôn nhân, sinh sản.
Nhân danh khoa học mỹ thuật nghệ thuật, người ta phê phán các kiểu nhà thờ, các bài thánh ca, các lễ nghi phụng vụ, các cách tổ chức sinh hoạt tôn giáo.
Nhân danh khoa học lý luận, nhân văn, xã hội, người ta phê phán các bài giảng, các bài giáo lý, các đường hướng mục vụ, các cách làm việc và giải quyết của các tổ chức tôn giáo.
Nhân danh khoa học tâm lý và phân tâm học, người ta tìm khám phá những yếu tố ý thức, vô thức và tiềm thức trong một vị thánh, trong một thái độ tôn giáo.
Nhân danh khoa học về tính tình, về gia truyền, về môi trường người ta có ý kiến về những khuynh hướng của từng người trong phạm vi đạo đức.
Khoa học có tiếng nói riêng của nó. Tôn giáo không nên lo sợ tiếng nói khoa học, mặc dầu tiếng nói khoa học đôi khi có làm tôn giáo phải nhức nhối. Nếu biết cởi mở, tiếng nói khoa học sẽ giúp người tôn giáo được thêm trưởng thành, và các điều thuộc về tôn giáo được thêm trong sáng. Ðối với những người hoạt động tôn giáo có ơn Chúa Thánh Thần, thì thái độ phê phán cũng như thái độ dửng dưng, thái độ tương-đối-hoá, thái độ tục hoá, tuy có những mặt làm họ âu lo, nhưng cũng có nhiều mặt khác làm họ thêm tin tưởng, và hy vọng.
“Một làn sống tục hoá đang lan tràn trên thế giới. Nó hoành hành trong các nước tiêu thụ qua chủ trưởng chỉ cần khoái lạc, chỉ cần thực dụng, chỉ cần hiệu năng, bất cần luật lệ luân lý, và qua sự không biết gì đến tính cách cao trọng của sự sống. Tất cả những sự đó thường dẫn tới chủ trương tương đối-hoá các luật lệ luân lý và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo...
“Ngoài ra, một loại não trạng mới cũng đã xuất hiện, gọi là tân-khoa-học. Não trạng này muốn thu hẹp vai trò lý trí vào phạm vị khoa học mà thôi. Ngoài phạm vi này, hoạt động con người chỉ là chuyện của tình cảm. Do đó hoạt động đức tin cũng chỉ là một lựa chọn tuỳ tiện, không dựa trên lý trí”
(Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn tiếp phái đoàn Hội nghị về những người không tin, 5/3/1988).
Tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận Long Xuyên năm 1988