Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 MỤC VỤ CỞI MỞ         -1985-
 ÐỔI MỚI SUY NGHĨ VỀ LOAN BÁO TIN MỪNG -1986-
 LO ÂU VÀ HY VỌNG         -1988-
 ÐỔI MỚI TÂM HỒN         -1989-
 TRUYỀN GIÁO          -1990-
 MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG   -1991-
 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-
 

Những trào lưu thiêng liêng mới

 

Hiện nay, ngoài những địa chỉ mới của đức tin như đã trình bày, Giáo Hội còn hy vọng vào những phong trào thiêng liêng mới. Những phong trào này chủ yếu là của giáo dân khởi xướng, do giáo quyền địa phương và Toà Thánh tỏ ra dè dặt. Nhưng nay các ngài đã có thái độ hoan nghênh và khích lệ.

 Tài liệu

Những trào lưu thiêng liêng mà tôi muốn nói đây gồm sáng kiến mang tên khác nhau, xuất hiện từ vài chục năm nay. Tài liệu về những trào lưu này được phổ biến nhiều ít tuỳ nơi. Cách tốt nhất để tìm hiểu họ là gặp họ và sống với họ. Tuy nhiên một số sách báo cũng giúp người ta có được vài nét về hình ảnh họ. Dưới đây là một số tài liệu có uy tín:

- Movimenti ecclesiali contemporanei. Dimensioni stmensioriche, teologico- spiritusli ed apostoliche. Ed. A. Favale, Roma 1982.

- Movimenti nella Chiesa negli anni 1980 của Camisasca và M. Vitali. Atti del 10 Convegno inétrnazionale, Roma, 23-27 Settembre 1981, Milano.

- Associations de laics. Données sommaires, Ed. Pont. Consilium pro. Laicis, E. Civitate Vaticana, 1983.

- Nouveaux mouvements spiritues dans l'Eglise của Mgr. PJ. Cordas, Nouvelle revue théologique, N0 1, 1987.

- Foi renouvelée-humanité réalisée, bản dịch luận án Emeurter Glaube verwieklichtes Menschsein của W. Schaffer, Zurich - Einsieden - Koln, 1983.

Ðối với giai đoạn hiện nay của lịch sử Giáo Hội, những trào lưu này vốn được coi như tương đối mới mẻ. Riêng đối với Giáo Hội Việt Nam, những trào lưu ấy càng không thể gọi được là cũ. Nếu không vì lý do học hỏi, thì không có lý do thông tin. Chúng ta nên biết đến họ. Ít nhất chúng ta cũng sẽ không phải ngỡ ngàng khi nghe đến những tên như: Focolare, Comunione e Liberazione, Marriage Encounter, Chemin du Néo-Catéchuménat, Communauté Emmanuel, Pain de vie, Schoenstatt, Cursillos de Crisziandad, Lion de Juda...

 Hiện tượng

Những trào lưu này có mặt trong lịch sử Giáo Hội địa phương như một hiện tượng với tính công khai. Con mắt người xã hội học có thể quan sát được.

+ Trước hết, nơi họ có hiện tượng về một sức sống mãnh liệt.

Khác với những nếp sống đạo và tu đức có vẻ ù lỳ, tẻ nhạt, bị động, co rúm, cằn cỗi tìm an thân trong thái độ xa tránh, lo tự vệ, đối phó với những gì là mới, sống hao mòn trong cái nhìn phía sau đầy tiếc nuối, với cái nhìn phía trước đầy bi quan, các trào lưu này đi giữa cuộc sống phức tạp hôm nay với tinh thần thanh thản, chủ động, lạc quan và cởi mở. Xin kể một điển hình. Phong trào Chemin du Néo-Catéhuménat có những thành viên là những cặp vợ chồng. Ban ngày họ đi làm kiếm sống, lo việc gia đình, tham gia việc xã hội. Ban tối họ tới một số gia đình, nhất là các gia đình bê trễ không mấy khi lui tới nhà thờ, để dạy giáo lý cho người lớn trẻ em, giúp cho các gia đình này được biết sống đạo. Sau khi đã thiết lập được một nhóm gia đình biết tích cực giúp nhau sống đạo, cặp vợ chồng đó lại rời đến một địa phương khác, lại tìm mướn nhà, tìm trường cho con học, tìm việc làm, để rồi lại tìm dịp lui tới những gia đình xa lìa đức tin tại địa phương đó. Ta có thể thấy ngay được vô số khó khăn cản trở việc tông đồ của các cặp vợ chồng này. Nhưng họ vẫn xoay xở, vẫn âm thầm chịu đựng, vẫn thao thức đi về phía trước. Ðức tin, đức ái của họ phải mãnh liệt lắm mới giúp họ đủ can đảm lao mình vào cuộc sống như vậy.

+ Ngoài ra, nơi họ có hiện tượng về một sức kỳ diệu biến đổi con người.

Những trào lưu này đến với những người có đạo, mến đạo, ngoan đạo, sùng đạo, nhưng đồng thời cũng chủ ý nhắm tới những đối tượng dửng dưng với đạo, xa tránh nhà thờ và ác cảm với Giáo Hội. Một ví dụ về phong trào: Marriage Encounter tại Colombie. Phong trào này lo tổ chức những sinh hoạt tôn giáo cuối tuần cho các bậc vợ chồng. Ðứng đầu phong trào thường là cặp vợ chồng, cũng có khi là một linh mục. Vào giữa thập niên 70, số cặp vợ chồng tham dự tĩnh tâm cuối tuần vào khoảng 20.000. Trong số này, có tới quá nửa chưa hề đến nhà thờ bao giờ. Cặp vợ chồng nào một khi quen mộ mến những sinh hoạt tôn giáo cuối tuần của phong trào rồi lại gợi ý cho những cặp vợ chồng khác cũng đến tham gia. Và cứ thế, phong trào truyền sức cải thiện từ hôn nhân này đến hôn nhân khác. Ðến nay, con số cặp vợ chồng xin gia nhập phong trào đã tăng lên nhiều, và họ đã được nên tốt hơn một cách rõ ràng.

Một ví dụ khác về phong trào Emmanuel. Phong trào này mới chỉ xuất hiện từ năm 1973, gồm các người có hôn nhân, các người độc thân, nhất là các chủng sinh. Tại Paris, những người trẻ của phong trào này đã chọn sinh hoạt Tin Mừng ngoài đường phố với những bạn trẻ của mình. Trong Năm Thánh, họ đã kéo được hơn 2000 thanh niên đến toà giải tội. Hiện nay gần nửa số thành viên Emmanuel là những người trước khi gia nhập phong trào đã có một đời sống khô khan, có khi đã thực sự là những người không tin. Họ đã được đổi mới một cách kỳ diệu, để rồi họ lại cảm thấy cần phải chia sẻ sự đổi mới ấy với những người khác.

Những hiện tượng trên đây khiến cho nhiều người vốn thất vọng với Giáo Hội đã phải suy nghĩ và tìm hiểu thêm.

Từ hiện tượng bề ngoài, người ta bước vào chính cuộc sống của các phong trào này.

 Ðặc điểm

Tất nhiên, mỗi phong trào đều có những nét riêng biệt. Nhưng tất cả cũng có một số đặc điểm chung.

+ Ðặc điểm thứ nhất là cuộc sống tu đức của họ muốn giới thiệu một Chúa Giêsu trẻ trung, tự do và hiện thực.

Chúa Giêsu của Phúc Âm chính là Ðức Kitô trẻ trung của sự sống Thiên Chúa. Ngài yêu cuộc sống, quan tâm đến các khía cạnh của hạnh phúc, hăng hái đấu tranh cho tình thương và lẽ phải, và có những sáng tạo táo bạo vì phần rỗi các linh hồn.

Chúa Giêsu của Phúc Âm chính là Ðức Kitô tự do của luật đức ái. Ngài không bị gò bó bởi áp lực những định kiến hẹp hòi, những luật lệ vô bổ, những suy nghĩ lỗi thời của giới Pharisêu.

Chúa Giêsu của Phúc Âm chính là Ðức Kitô hiện thực của lịch sử cứu độ. Ngài đến với con người, ở với con người, đồng hành với con người, mặc thân phận con người, thuộc mọi nơi và trong mọi thời.

+ Ðặc điểm thứ hai là đức tin của họ cố gắng được phiên dịch ra đức ái, qua thái độ cầu nguyện mãnh liệt đối với Chúa, và thái độ yêu thương chan hoà đối với mọi người, nhất là đối với những kẻ nghèo nàn đau khổ.

Họ làm chứng đức tin là một cuộc gặp gỡ thân thương của con người với Thiên Chúa tình yêu và với mọi người là con cái Chúa. Cũng trong chiều hướng đó, họ bắt chước Chúa Kitô sẵn sàng đấu tranh cho một đức thương người vì đức tin, hơn là bắt chước Pharisêu, thích đấu tranh cho một đức tin thiếu đức thương người.

+ Ðặc điểm thứ ba là họ làm chứng cho đức tin bằng chính những kinh nghiệm bản thân sống động của họ về Chúa và về cuộc sống.

Nhiều người có thói quen làm chứng cho đức tin chỉ duy bằng cách nêu thế giá vị này sách nọ. Các phong trào này không làm thế. Họ làm chứng về một đức tin mà chính họ đã cảm nghiệm sâu sắc trong liên hệ với Chúa, với tha nhân, với cuộc sống. Làm chứng như thế là chia sẻ kinh nghiệm sống, là kể lại những gì mình đã chứng kiến, là nói lên những gì đã xảy ra cho chính bản thân mình. Trong một thời đại mà sự hiểu biết về Chúa và về con người được thực hiện qua quá nhiều trung gian sách báo, và quá nặng những chân lý trừu tượng, thì những kinh nghiệm trực tiếp về Chúa và về cuộc sống trở thành cần thiết và quí giá. Cũng chính vì thế mà cách làm chứng bằng những kinh nghiệm như thế đó được coi là một cách làm chứng thích hợp có tính cách phản ứng lại khuynh hướng duy lý lạnh lùng trong việc trình bày đạo, truyền bá đạo, và bênh vực đạo. Ðọc cuốn C'est la guerre, hay Tutti giam uno của Ghiara Lubich, ta thấy phong trào Focolare đã được thành hình dần dần từ những kinh nghiệm hy vọng do sự lựa chọn giới luật yêu thương của Phúc Âm làm lý tưởng ưu tiên.

 Ðộng lực

Chính những kinh nghiệm bản thân về Chúa và về cuộc sống đã là một động lực mạnh thúc đẩy phong trào hoạt động.

Thêm vào đó, tinh thần đổi mới mà Công đồng Vatican II nêu lên cũng là một động lực có tính cách quyết định. Mặc dù một số phong trào đã có trước Công đồng Vatican II. Biến cố Công đồng Vatican II đã là yếu tố khích lệ lớn lao, giúp cho phong trào phát triển. Nhờ Công đồng, nhiều người đã ý thức hơn về tình trạng nguy hiểm của những đời sống thiêng liêng đóng khung quá chặt vào những cơ chế và thói quen lỗi thời. Phải trung thành với truyền thống, nhưng một cách lành mạnh, bằng cách cảnh giác với những cái cũ cằn cỗi và nhạy bén với những cái mới có sức phát triển Tin Mừng.

Ngoài ra, nhờ quan niệm “Hội Thánh là Dân Thiên Chúa” do Công đồng nêu lên, mọi người trong Hội Thánh, không phân biệt giáo phẩm, giáo sĩ, giáo dân, đều thấy mình có trách nhiệm và quyền lợi đưa ra những sáng kiến hợp tình hợp lý, giúp cho Hội Thánh dễ được mọi người trong đạo ngoài đời nhận ra như là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hợp với Chúa và đoàn kết với mọi người theo như lý tưởng mà chính Công đồng đã tự chọn.

Công đồng Vatican II cũng đã nhấn mạnh đến hình ảnh Hội Thánh là hiệp thông. Hiệp thông là một chiều kích xã hội, một hướng đi có khả năng gặp gỡ những dòng lịch sử trên thế giới đang chuyển biến đến giai đoạn cởi mở, hoà hợp. Khi các phong trào thiêng liêng mới mẻ trong Hội Thánh nêu cao đức ái cộng đoàn, với những chia sẻ tình người tình bạn, với những thông cảm về những phức tạp của thân phận từng người, họ đã muốn giới thiệu khuôn mặt của Hội Thánh không phải là một thế lực, mà là người thầy và là người mẹ luôn cố gắng hiệp thông, hết sức thông cảm và ưu tiên tìm sự hoà hợp hiệp nhất, đúng như ý Chúa muốn: Dù sắp sửa dâng lễ mà thấy còn có sự bất thuận giữa mình với người nào, thì hãy hoãn lại việc dâng lễ, để dàn xếp đã, rồi hãy dâng lễ sau. Bởi vì Chúa muốn lòng nhân hậu và tình yêu hơn là hy lễ.

 Phía sau

Khi đã thấy được đặc điểm và động lực của những trào lưu này, người ta sẽ không tách rời họ ra khỏi chuỗi dài những biến cố thiêng liêng nối tiếp nhau trong lịch sử đạo.

Trong đạo cũ, mỗi tiên tri đều được Chúa trao một sứ mạng cần thiết cho một thời điểm và địa điểm nhất định. Nhưng mọi sứ mạng khác nhau đều qui hướng về một nội dung duy nhất sau cùng.

Trong đạo mới, mỗi thánh sử và mỗi vị thánh trong Phúc Âm đều khám phá được một nét riêng của Chúa Kitô mà họ gặp gỡ. Nhưng mọi nét riêng đó đều thuộc về một Chúa Giêsu duy nhất.

Các thế kỷ đầu, nhiều vị thánh đã chọn cách sống ẩn tu trong rừng và trong sa mạc, như là một cách làm chứng cho đức tin thích hợp với thời điểm lúc đó.

Ðến thời các đấng lập dòng như Bênêđictô, Phanxicô, Anphongsô khi hoàn cảnh đổi thay các Ngài đã thành lập các dòng tu với những hình thức mới do những xác tín của mình về nhu cầu của thời điểm.

Theo Walter Dicks trong cuốn La réponse des Moines, thì mỗi đấng lập dòng đều đã khám phá thấy những nguy cơ và những nhu cầu của một thời điểm, để rồi cùng với Chúa Kitô, các ngài đã đưa ra một cách giải quyết thích hợp với hoàn cảnh mới, có lợi cho phần rỗi các linh hồn (Bản dịch Cl. Champollion, Paris 1955).

Theo kiểu nói của H.U. Von Balthasar, thì những đấng sáng lập dòng và các phong trào thiêng liêng là những người có khả năng nhìn sâu vào trái tim Phúc Âm qua một cửa sổ mới. Nội dung Phúc Âm vẫn là một, nhưng được nhìn theo một khía cạnh mới thích hợp với hoàn cảnh đã đổi thay, giúp cho chính hoàn cảnh mới đó đón nhận được Tin Mừng (Skizzen zur theologie I, III, Einsielden 1967).

Cái nhìn về quá khứ trên đây giúp cho ta nhận ra ơn gọi của các phong trào thiêng liêng mới mẻ hiện nay trong Hội Thánh, để biết trân trọng họ, cũng như biết coi trọng sự đa dạng về tu đức và truyền giáo trong khối duy nhất của Giáo Hội.

 Phía trước

Nếu mỗi thời điểm thường có những nguy cơ và nhu cầu riêng thì huống hồ là thời này và trong tương lai gần của Hội Thánh. Bởi vì đang có nhiều thay đổi lớn lao. Hiện đang có thay đổi về tỷ số người công giáo. Trong 5 tỷ dân số hoàn cầu chỉ có 800 triệu là đăng ký công giáo. So với những thập niên trước, thì tỷ số này đã tụt xuống. Hiện cũng đang có thay đổi về các điểm tập trung số người công giáo. Trước đây điểm tập trung công giáo là Âu châu. Nay đạo tại các nước này đã sút giảm. Theo đà sinh sản hiện nay thì năm 2000, cứ 2 người công giáo trong Hội Thánh sẽ có một người là châu Mỹ Latinh. Hiện cũng đang có thay đổi về tinh thần đạo. Theo lời Ðức Hồng Y J. Hoffner, “thì tiến trình tha hoá trong Giáo Hội vẫn tiếp tục mạnh, và tại nhiều nơi, nó đang mang hình thức một cuộc khủng hoảng trầm trọng” (J. Hoffner, Pastoral der Kirchen fremden. Bonn, 1979). Hiện nay cũng đang có thay đổi về não trạng con người. Có những điều trước đây được coi là có giá trị minh chứng cho đức tin, thì nay lại bị coi là phản chứng.

Trước những đổi thay như thế, sự xuất hiện các trào lưu thiêng liêng mới mẻ trên đây có thể được coi như những luồng sinh khí mới, những hình thức mới mà Chúa Thánh Thần dùng để Chúa Kitô tiếp tục đối thoại với nhân loại trong chặng đường lịch sử hôm nay.

Hy vọng rằng các phong trào thiêng liêng này cũng là những gợi ý cho chính chúng ta, là những người được gọi, được chọn, được sai đi loan báo Tin Mừng cho thời điểm Việt Nam hiện tại rất khác với xưa.

Anh chị em hãy sống nhân từ như Chúa Cha của anh chị em là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì anh chị em sẽ khỏi bị xét đoán. Ðừng kết án, thì anh chị em sẽ không bị kết án. Hãy tha thứ, thì anh chị em sẽ được thứ tha. Hãy cho đi, thì sẽ cho lại anh chị em” (Lc 6,36-38).

Tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận Long Xuyên năm 1988