MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Các đề tài chính
của Công đồng Vatican II
Dịp Tĩnh tâm tháng này, tôi xin trình bày mấy nét chính của nội dung Công đồng Vatican II. Tôi chọn đề tài trên vì 3 lý do:
Lý do thứ nhất là vì tháng vừa qua, khi nghe rao ý chỉ cầu nguyện tháng 3 in trong lịch Công giáo là: “Cầu cho mỗi người Kitô hữu cũng như các giáo hội địa phương biết luôn luôn theo tinh thần Cộng đồng Vatican II”, thì nhiều giáo dân và cả người ngoại giáo đã hỏi: Tinh thần Cộng đồng Vatican II là gì? Thực là bất ngờ nhận thấy không thiếu người, kể cả Linh mục, tu sĩ, đã không trả lời được.
Lý do thứ hai là vì tháng vừa qua, một Ðức Tổng Giám Mục nổi tiếng cực kỳ bảo thủ, không chịu tuân thủ Công đồng Vatican II đã từ trần. Ðó là Ðức Cha Marcel Lefèvre. Nhìn Ngài rồi lại nhìn vào chính mình ta, chúng ta nên tự xét mình, ta có thực sự tuân thủ Công đồng Vatican II không?
Lý do thứ ba là vì tháng vừa qua, tôi nghe có một Linh mục ngoại quốc, sau khi đã tiếp xúc với một số Giám mục, Linh mục, tu sĩ và tham dự nhiều cuộc lễ tại Việt Nam đã có cảm tưởng là: Sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam rất sinh động, nhưng tiếc là chưa có bề sâu của Công đồng Vatican II.
Ba lý do trên đây thiết tưởng đủ mạnh để thúc giục tôi nói, để thôi thúc anh chị em lắng nghe, và để mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ.
Tôi sẽ vắn gọn.
Công đồng Vatican II đưa ra bốn đề tài chính:
Ðề tài thứ nhất là:
Hội Thánh thao thức với sứ mạng truyền giáo
Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh. Thế nhưng, sau gần 20 thế kỷ, ngay khi lúc Công đồng đang họp, thì nhiều nơi trên thế giới không hề biết gì đến Tin mừng Cứu độ. Thí dụ: Trong 5 châu thì Châu Á đông dân nhất, sắp chiếm gần nửa dân số nhân loại. Nhưng hiện nay số người Công giáo chưa tới 4%. Rồi trên 5 châu hiện nay, có nhiều loại người mà người ta gọi là những thế giới chuyên môn, thí dụ, thế giới khoa học, thế giới văn học, thế giới nghệ thuật, thế giới chính trị, thế giới kinh tế; Các thế giới này hoạt động hầu như không hề biết đến Tin mừng cứu độ.
Trong tình hình như trên, Hội Thánh không chỉ lo quy tụ những người đã rửa tội, mà cũng phải lo đi rao giảng Tin Mừng cho những ai chưa biết Tin Mừng như lời Ðức Kitô đã truyền. Khi nhận thức được tiếng gọi đó, thì bí tích Truyền chức nên được nhấn mạnh đến ý nghĩa là dụng cụ và dấu chỉ của sự sai đi rao giảng Tin Mừng cho những người chưa biết Tin Mừng. Do đó, linh mục phải coi việc rao giảng Lời Chúa là thừa tác vụ ưu tiên hàng đầu.
Tình hình hiện nay kêu gọi mọi người trong Hội Thánh phải thao thức đến việc truyền giáo. Tất cả mọi thành phần Dân Chúa đều có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn Hội Thánh đã thành hình, đồng thời cũng có trách nhiệm xây dựng những cộng đoàn Hội Thánh đang sinh ra.
Ðừng cho rằng: Hoàn cảnh hiện nay không thuận lợi, nên không thể nghĩ đến việc truyền giáo. Xin thưa: Hoàn cảnh hiện nay tuy khó khăn, nhưng cũng có nhiều mặt thuận lợi cho những ai có tinh thần truyền giáo, khôn khéo và năng động. Hoàn cảnh thời các tông đồ còn khó gấp bội. Hoàn cảnh Việt Nam thời cha Alexandre de Rhodes cũng khó khăn gấp bội. Thế mà các Ngài đã hoạt động truyền giáo không ngơi nghỉ. Và kết quả không phải là nhỏ. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay là: Ta có thực sự quan tâm đến việc truyền giáo không?
Ðề tài thứ hai là:
Hội Thánh tập trung vào Ðức Kitô là trung-tâm-điểm
Sách Tông đồ công vụ và các Thánh thư cho thấy sự thực quan trọng đó. Thế nhưng, dần dà, trung-tâm-điểm là Ðức Kitô bị lu mờ. Có nơi đức tin được tập trung vào sự thuộc lòng các kinh, các chân lý đức tin và luân lý. Có nơi đức tin được tập trung vào sự vâng phục các kỷ luật chung của Hội thánh và riêng của cộng đoàn.. Có nơi đức tin được tập trung vào việc tôn sùng vị thánh này, Ðấng thánh nọ.
Ðang khi đó, đức tin đích thực phải là tin vào Ðức Kitô chịu nạn và phục sinh. Ðức Kitô không phải chỉ là gương mẫu, là Thầy dạy mà còn là chính sự sống của người tin. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống!”. Tin Ðức Kitô là tham dự vào sự sống của Ngài, là hiệp thông mật thiết với Ngài, như hình ảnh cành cây với thân cây: “Ta là cây nho, chúng con là nhành!”. Tin Ðức Kitô là có Ðức Kitô trong mình như thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Ðức Kitô sống trong tôi”.
Ðể tập trung vào Ðức Kitô, chúng ta cần tăng cường cầu nguyện suy gẫm đời sống Ðức Kitô, và học hỏi mạc khải của Ðức Kitô.
Tôi nghĩ rằng: Tín hữu nào, và cộng đoàn đức tin nào không đi vào chiều sâu của trung-tâm-điểm đó, sẽ khó tránh được suy thoái, mặc dù được sống trong những hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế thuận lợi. Dù sao câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay là: Ta có thực sự tập trung tu đức và mục vụ của ta vào Ðức Kitô không?
Ðề tài thứ ba là:
Hội Thánh gồm toàn thể Dân Thiên Chúa
Trước Công đồng Vatican II người ta có thói quen nhìn Hội Thánh chỉ là Ðức Giáo Hoàng, các Ðức Giám mục và các Linh mục. Thấy cái nhìn như vậy là không đúng. Công đồng Vatican II đã xác định Hội Thánh là toàn thể Dân Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa là mọi người đã được rửa tội và tin vào Ðức Kitô. Tất cả mọi người ấy đều có giá trị như nhau, đó là giá trị làm con Chúa. Tất cả mọi người ấy đều có tự do như nhau, đó là sự tự do mà Chúa Thánh Thần ban cho. Tất cả mọi người ấy đều có một ơn gọi như nhau, đó là ơn gọi nên thánh. Tất cả mọi người ấy đều có sứ mệnh như nhau, đó là sứ mệnh xây dựng Hội thánh.
Tuy nhiên, trong dân Chúa phải có những thừa tác vụ, đó là các Ðức Giám mục, các Linh mục, các thầy Sáu. Các vị ấy là những người phục vụ, những người được sai đi, những người nhận lãnh trách nhiệm quan trọng.. Các Ngài là những dụng cụ, những dấu chỉ. Các vị ấy cũng như toàn Dân Chúa, đều phải luôn luôn trở về với Chúa. Các Ngài cũng như toàn Dân Chúa đều phải trung thành, gắn bó với Phúc Âm, với bí tích Thánh Thể, và với Chúa Thánh Thần.
Trong quan niệm mới này về Hội Thánh, Công đồng đề cao vai trò giáo dân, và muốn cho vai trò giáo dân được phát huy mạnh mẽ. Cũng do quan niệm mới này về Hội Thánh, Công đồng Vatican II khuyến khích tinh thần đại kết giữa các Hội Thánh cùng tin vào Ðức Kitô và cổ võ tinh thần đối thoại với các tôn giáo khác và những người không tin.
Một quan niệm như thế về Hội Thánh sẽ không phù hợp với quan niệm về Hội Thánh khép kín hình Kim-Tự-Tháp. Theo đó, Ðức Giáo Hoàng truyền xuống cho các Ðức Giám mục, các Ðức Giám mục truyền xuống cho các Linh mục, các Linh mục truyền xuống cho các giáo dân. Ðó là con đường mòn mà Công đồng Vatican II không còn thừa nhận.
Thế nhưng, trong cách đối xử và làm việc, không thiếu người vẫn bảo vệ con đường mòn đó. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay là: Chúng ta có xây dựng những mối dây liên đới đúng đắn trong phạm vi Hội Thánh chúng ta, hợp với định nghĩa Hội Thánh là Dân Thiên Chúa không?
Ðề tài thứ bốn là:
Hội Thánh nhận thức về mối tương-quan-mật-thiết giữa Hội Thánh và thế giới
Hội Thánh và thế giới cùng xuất phát từ một nguồn mạch, đó là Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc. Hội Thánh và thế giới cùng được hướng dẫn về cùng một mục đích, đó là sống hạnh phúc do có công lý, bình an, yêu thương đoàn tụ trong gia đình một Cha chung trên trời. Hội Thánh và thế giới cùng có những thành viên như nhau, đó là những con người, vừa là Dân Chúa, vừa là công dân một nước. Như vậy một cách huyền nhiệm, thế giới đã thuộc về Chúa, về Ðức Kitô và về Hội Thánh của Ngài. Do đó, mọi người trong thế giới và mọi giá trị của họ, bất cứ có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, bất cứ thuộc tôn giáo nào đều có quyền được Hội Thánh kính trọng. Hội Thánh cần có liên hệ tốt với họ. Cũng vậy, các vấn đề của thế giới như nền hoà bình, sức khoẻ, tình yêu, lao động, chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao... đều là những thực tại trần thế, làm nên một cánh đồng mênh mông của cuộc sống, mà Hội Thánh không có quyền làm ngơ.
Hội Thánh là một mảnh của nhân loại được đặc ân có Tin Mừng cứu độ, thì Hội thánh phải đem Tin Mừng ấy tưới cho cánh đồng muôn màu đó. Hội Thánh phải cởi mở, dấn thân vào các thực tại trần thế. Các vấn đề cuộc sống phải được Hội Thánh quan tâm. Hội Thánh phải có mặt và góp phần giải quyết các vấn đề đang là những trăn trở của con người hôm nay. Không phải chỉ ra khỏi nhà thờ, người Kitô hữu mới nghĩ đến việc dấn thân như vậy, mà ngay trong các lời kinh, các bài thánh ca, cả đến phụng vụ cũng không được quên những nhịp tim đập của dân tộc mình, của đồng bào địa phương mình, với những niềm vui nỗi buồn của họ.
Về điểm này, tôi thấy Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã rất cởi mở và sâu sắc. Trong dịp tiếp hàng Giáo sĩ Rôma ngày 14/2/1991 Ðức Thánh Cha nói: “Hội Thánh phải nhìn mình trong thế giới, và Hội Thánh phải nhìn thế giới qua sứ mệnh của mình”. Trong tinh thần ấy, anh chị em và tôi phải nhìn giáo xứ và giáo phận của ta trong các tương quan với đồng bào của ta và với Tổ Quốc Việt Nam của ta, cũng như ta phải nhìn Ðồng Bào và Tổ Quốc ta trong sứ mệnh dấn thân theo tinh thần Phúc Âm của ta. Ta sống đức tin là sống “với” và sống “trong” địa phương này, Ðất Nước này. Ðức Thánh Cha kêu gọi ta hãy để ý cái từ “với” và cái từ “trong”.
Trên đây là những đề tài chính của Công đồng Vatican II. Tôi tóm lược lại theo nội dung trong cuốn: “Préparer aujourd'hui l'Eglise” của Ðức Cha Gabriel Matagrin, Giám mục Grenoble.
Tôi vẫn dùng 4 đề tài trên đây như thước đo, để đánh giá một giáo sĩ, một giáo xứ, một giáo phận. Và tất nhiên, đó cũng là những hướng đi, mà tôi cố gắng theo đuổi.
Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 4/1991