TRUYỀN GIÁO
Phần 1
Các bài giảng
Phục vụ
Một lần, tôi được mời dự lễ Kim Khánh linh mục một cha quen. Tôi thấy trước thánh lễ, trong thánh lễ và sau thánh lễ, có cả thảy năm bài mừng chúc. Hầu như bài nào cũng như một cuốn phim chiếu lại quãng đời phục vụ của ngài. Ngài ở đâu, làm gì, cũng đều để lại những thành tích sáng chói. Nghe xong những bài ấy, tôi hết sức mừng cho cha Kim Khánh. Nhưng thú thật, tôi đã rất xấu hổ cho tôi. Bởi vì nhìn vào mình, tôi thấy mình xấu quá, ánh sáng thì tìm không ra, mà bóng tối thì chỗ nào cũng có. Trong tâm tư ấy, tôi nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá, cầu xin Người tha tội cho tôi. Bất chợt, tự nhiên tôi chú ý tới mấy cha đồng tế ngồi đàng xa. Có một số vị tuổi tác, đau ốm, có một số vị chưa được bổ nhiệm. Nhưng tôi biết tất cả các vị ấy đều vẫn không ngừng phục vụ, kẻ cách này, người cách khác. Từ những mẫu gương âm thầm phục vụ đó, tôi nghĩ tới những cách phục vụ đơn giản trong Phúc Âm để làm theo.
Phục vụ đơn sơ
Trước hết, tôi để ý đến ngôi sao sinh nhật. Ngôi sao sinh nhật đã đóng vai người phục vụ trong việc truyền giáo. Ngôi sao ấy đứng chung với muôn vàn ngôi sao khác, nhưng mang một tín hiệu riêng. Nó chỉ là một vệt sáng trên bầu trời bao la thinh lặng, nhưng nó âm thầm mở một hướng đi cho Ba Vua. Nhiệm vụ của nó chỉ đơn giản là dẫn đường. Nhóm người được nó dẫn đường chỉ gồm ba ông. Con số quá nhỏ. Ba ông lại là người ngoại đạo. Chuyến đi của họ chẳng huy hoàng gì. Thế nhưng ngôi sao đã làm một việc mà không ai thay thế được. Phục vụ của nó, tuy hạn chế, nhưng hữu ích biết bao.
Và khi nhìn vào những ngưòi xung quanh tôi, tôi cũng thấy có những ngôi sao như vậy. Thí dụ: Ðức Cha già của tôi. Vì tuổi tác, Ngài sống ẩn dật, nhưng vẫn phục vụ âm thầm. Ngay sự Ngài năng viếng Mình Thánh, và hay lần chuỗi cũng đã là một chỉ hướng cho con cái. Tuy con cái gần Ngài chỉ là một nhóm nhỏ, sự dẫn đường chỉ lối như vậy của Ngài, vẫn là một phục vụ quý báu của ngôi sao sinh nhật. Ðó là một phục vụ đơn giản, có thể bắt chước được.
Tìm gương phục vụ đơn giản khác trong Phúc Âm, tôi lại để ý đến con lừa. Con lừa, đóng một vai trò khá quan trọng trong việc phục vụ Chúa. Nó chở Ðức Mẹ sắp sinh đến Bêlem. Nó chở Hài Nhi Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse sang AiCập. Nó chở thánh gia về Nazareth. Nó chở Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Con lừa phục vụ đã phải cực lắm. Chịu nắng, chịu mưa, chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi. Con lừa vốn loại chẳng thông minh gì, nhưng chịu khó, dẻo dai và ít đòi hỏi. Nó rất tầm thường, nhưng phục vụ của nó đối với Chúa Giêsu trong Phúc Âm phải được kể là rất cao.
Rồi tôi nhìn vào cuộc sống hôm nay, tôi cũng thấy có những con lừa Phúc Âm như vậy. Chính tôi cũng muốn được là một con lừa của Chúa. Nhưng chưa chắc đã được. Ðiều chắc chắn là rất nhiều người xung quanh tôi đã rất chịu khó trong việc phục vụ. Thí dụ: Những người giúp việc của tôi, lương bổng chẳng bao nhiêu, nhưng làm việc quần quật tối ngày, chịu thương, chịu khó, âm thầm và nhẫn nại. Trong một họ đạo, trong một nhà xứ, trong một Toà Giám Mục, họ vẫn tầm thường, nhưng nếu thiếu họ, nhiều chương trình mục vụ sẽ bị bế tắt. Phục vụ của họ đáng gọi là phục vụ của con lừa Phúc Âm, với một ý nghĩa thiêng liêng, trân trọng. Ðó là một phục vụ đơn giản, có thể bắt chước được.
Rồi trong tìm thêm gương phục vụ đơn sơ trong Phúc Âm, tôi lại để ý đến chiếc khăn Chúa Giêsu đã dùng để lau chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly. Nó chịu ướt, để có những bàn chân được khô. Nó chịu dơ, để có những bàn chân được sạch.
Rồi tôi nhìn xung quanh tôi, tôi gặp thấy không thiếu người đang phục vụ như chiếc khăn lau chân ấy. Họ là linh mục, chủng sinh, giáo dân, lương dân. Cử chỉ nhân ái của họ là tấm khăn lau, để lau lòng người được bớt đi những mệt mỏi, những lo âu, phiền muộn, những mặc cảm và thất vọng. Tôi cũng thấy nhiều tâm hồn quảng đại. Cái tốt của họ như tấm khăn đẹp thơm che đi những cái xấu của người khác. Họ phục vụ âm thầm như chiếc khăn lau chân. Lau xong, lại lặng lẽ ở một xó, coi đó là chỗ bình thường. Tôi đang thấy nhiều tấm lòng vị tha, khiêm tốn. Họ làm những việc hèn hạ mà chẳng ai muốn tranh dành, chỉ vì phục vụ kẻ khác.
Trên đây chỉ là vài thí dụ nhỏ về cách phục vụ đơn sơ. Chủ ý nói lên điều này là: Mọi người chúng ta, không trừ một ai, phải cố gắng phục vụ, nếu không thể bằng những việc có tầm cỡ, thì cũng hãy bằng những việc bé nhỏ, đơn sơ, âm thầm. Lý do là vì càng phục vụ tốt, ta càng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Càng phục vụ tốt, ta càng đạt được lý tưởng linh mục của ta.
Lý do phục vụ
Thực vậy, con người là hình ảnh Thiên Chúa. Chúa nói rõ điều đó khi tạo dựng tổ tông loài người. Thiên Chúa là một Chúa Ba Ngôi. Giữa Ba Ngôi, có những liên hệ với nhau, mà sợi dây liên hệ căn bản nhất là tình yêu. Do đó, con ngưòi là hình ảnh của Thiên Chúa. Khi biết sống đúng những mối liên hệ của mình, đó là ta liên hệ với Chúa và liên hệ với anh em. Những liên hệ ấy là các hình thức khác nhau của tình yêu, mà quan trọng nhất và căn bản nhất chính là phục vụ.
Từ cái nhìn đó, con người không những được định nghĩa là Ens rationale, hiện hữu có lý trí, mà còn được địng nghĩa là Ens relationale, hiện hữu của những tương giao, être des relations.
Ðể hiểu hơn quan niệm đó, chúng ta hãy nhìn kỹ Chúa cứu thế. Người là hình ảnh hoàn chỉnh nhất của Thiên Chúa. Người đã tự giới thiệu mình là tình yêu phục vụ. Ngưòi nói: Tôi đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ. Phục vụ của Chúa cứu thế là lo hạnh phúc cho toàn diện con người, cả hồn lẫn xác. Nhưng nhất là ở sự Người gánh tội cho nhân loại, xoá tội cho nhân loại, tha tội cho nhân loại, và đền tội cho nhân loại.
Chính sự phục vụ vừa nói trên là trách nhiệm mục vụ đã trao cho giáo sĩ. Huấn từ đọc trong lễ phong chức Phó Tế và Linh Mục đã nhắc đi nhắc lại đến bổn phận phục vụ bằng chia sẻ Lời Chúa, ban bí tích và làm việc từ thiện bác ái.
Như vậy, ai càng biết phục vụ, sẽ càng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và giáo sĩ nào càng biết phục vụ, càng nên giống Chúa Kitô là mục tử đời đời. Nói một cách gọn hơn, ai càng biết phục vụ, càng sẽ là người hơn, càng phát huy được tính người hơn.
Ðòi hỏi của phục vụ
Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu của người khác, và đáp ứng đúng lúc. Làm cho ai, một việc mình cho là tốt, nhưng việc đó không đúng nhu cầu của họ, thì không phải là phục vụ. Thí dụ: Tôi đang có nhu cầu phải được nghỉ ngơi trong bầu khí yên tĩnh. Vậy nếu ai mở nhạc cho lớn, hoặc đến nói chuyện dài dòng lê thê, thì dù với thiện chí cao, việc họ làm cho tôi sẽ không thể là phục vụ, vì không đáp ứng đúng nhu cầu. Ngoài ra, phải đáp ứng đúng lúc. Thí dụ: Lúc tôi đang vác thánh giá, nếu có người vác đỡ cho tôi, thì đó là phục vụ đúng lúc. Việc mình làm cho kẻ khác, mặc dầu mình cho là tốt, nhưng không đúng lúc, có thể trở thành phản phục vụ.
Vì thế, để phục vụ trong mục vụ được hữu hiệu, thiết tưởng giáo sĩ chúng ta vừa phải có lòng đạo đức, vừa có tinh thần khoa học. Phục vụ với tâm hồn đạo đức, nhưng một cách khoa học. Phục vụ với tinh thần khoa học, nhưng một cách đạo đức. Thí dụ: Một bài giảng chỉ là một chuỗi dài lặp đi lặp lại những lời khuyên răn đạo đức, và một bài giảng được dàn dựng một cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người. Tuy cả hai bài giảng cũng nhằm phục vụ người nghe, nhưng người nghe sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với bài giảng thứ hai, bởi vì họ thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học. Tôi tin là con người thời nay, trong đó có chúng ta, không còn chấp nhận dễ dàng một thứ phục vụ chỉ đơn thuần mang màu đạo đức mà thiếu hẳn tính chất khoa học.
Tháng 12/1989 lợi dụng chuyến đi Thuỵ Sĩ, tôi đã ghé Pháp để thăm vài Ðức Cha quen. Tôi muốn những cuộc ghé thăm như vậy phải là những phút làm việc về một đề tài nào đó. Một trong những đề tài mà tôi đã chọn là trao đổi kinh nghiệm mục vụ. Khi trao đổi, Ðức Cha nào cũng nói với tôi đại khái là: mục vụ thời nay là một thứ phục vụ cần được nghiên cứu và đổi mới sao cho thích hợp, đúng nơi, đúng lúc, nghĩa là phải có đạo đức và đồng thời phải có khoa học mới trông phục vụ có kết quả tốt được. Ðể giúp tôi có một cái nhìn cụ thể hơn, Ðức Cha giáo phận St. Denis đã kể ra những ban nghiên cứu mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Pháp như sau:
1. Commission épiscopale de la Famille.
2. Commission épiscopale du monde ouvrier.
3. Commission épiscopale du monde rural.
4. Commission épiscopale des milieux indépendants.
5. Commission épiscopale d'enfance-jeunesse.
6. Commission épiscopale du monde scolaire et universitaire.
7. Commission épiscopale des migrations.
8. Commission épiscopale de l'opinion publique.
9. Commission épiscopale du clergé et des séminaires.
10. Commission épiscopale de l'état religieux.
11. Commission épiscopale de liturgie et pastorale sacramentelle.
12. Commission épiscopale de l'enseingnement religieux.
13. Commission sociale de l'épiscopat.
14. Groupe Épiscopal pour les communautés chrétiennes.
15. Commission épiscopale la pastorale des réalités du tourisme et des loisives.
16. Groupe des évêques pour le Renouveau charismatique.
17. Bureau d'études doctrinales.
Nhìn qua sơ đồ trên, tôi thấy mục vụ là một phục vụ đồng hành, nghĩa là các mục tử cùng đi với mọi thứ đối tượng trên con đường cuộc sống, mong có thể đáp ứng kịp thời các nhu cầu do cuộc sống đặt ra bất cứ ở đâu. Sự đồng hành như vậy không thể thực hiện tốt, nếu thiếu lòng đạo đức và tinh thần khoa học.
Riêng tại Việt Nam hôm nay, tôi nghĩ giáo sĩ nào cũng đang cố gắng đáp ứng các yêu cầu mục vụ đặt ra cho mình với những giải pháp có trong tầm tay, mặc dầu biết rõ giải pháp đó không phải là tốt nhất. Tuy nhiên, vì người giáo sĩ chúng ta đều chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo Hội Thánh Việt Nam, mà Hội Thánh Việt Nam phải là một Hội Thánh truyền giáo với ý nghĩa mạnh nhất của từ đó, nên tôi nghĩ rằng, trong mục vụ, chúng ta nên chọn những cách phục vụ nào vừa củng cố được tinh thần Phúc Âm của tín hữu, vừa có khả năng kéo được thiện cảm của đông đảo đồng bào ngoài Công Giáo. Các phục vụ của ta phải trở thành thứ dấu chỉ có ý nghĩa truyền giáo, nghĩa là những người không Công Giáo, khi thấy dấu chỉ đó, có thể đọc được ý nghĩa tốt về Hội Thánh. Dấu chỉ của người truyền giáo là dấu chỉ gởi tới đồng bào không Công Giáo, hơn là gởi cho người Công Giáo. Vì thế, cần xem xét xem địa chỉ ấy có nhận ra được ý nghĩa của dấu chỉ không? Họ có nhận ra được trong những dấu chỉ đó ý nghĩa lòng tin mến của ta đối với Chúa và lòng yêu thương kính trọng của ta, nói riêng, và của Hội Thánh ta, nói chung, đối với họ không.
Một hôm, tôi thấy trên bàn thờ tôi đang dâng lễ có một cây nến cháy đứng bên một chậu 3 bông hồng đẹp. Ðầu lễ, 3 bông hồng còn rất tươi. Cuối lễ, các bông hồng này rũ xuống thê thảm. Lý do là vì chúng bị cây nến đứng quá gần tạt hơi nóng sang. Thấy thế, tôi thầm nghĩ thay cho bông hồng: Bạn cũng như chúng tôi đều phục vụ cả. Thế thì tại sao bạn lại đốt chúng tôi. Phục vụ kiểu này có lợi cho bạn, nhưng chúng tôi thiệt hại lớn. Chúa thấy chúng tôi bị bạn huỷ hoại như thế này, chắc Chúa chẳng vui gì. Từ hình ảnh trên, tôi nghĩ tới Lời Chúa: “Ta thích lòng nhân hậu, chứ không phải hy lễ”.
Cụ thể hóa phục vụ
Chúa Giêsu đã sống vô cùng nhân hậu. Suốt đời Người là tấm gương nhân hậu. Giáo lý của Người đặt trọng tâm vào nhân hậu. Mô hình Người nêu lên để đào tạo tông đồ, là con người nhân hậu, tức Ðấng chăn chiên tốt lành, đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ.
Nơi Chúa Kitô, lòng nhân hậu không phải là một lòng tốt chung chung, nhưng là một tình thương được cụ thể hóa một cách khoa học bằng các đức tính, nhất là mấy đức tính sau đây:
Một là tinh thần trách nhiệm. Ðược Chúa Cha trao trách nhiệm cứu chuộc nhân loại, Người đã lo chu toàn trách nhiệm ấy với tất cả tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha và tình yêu hy sinh đối với nhân loại. Cử chỉ người chăn chiên lặn lội đi tìm con chiên lạc, dù đó chỉ là một con chiên lạc, trong tổng số 100 con, đủ cho thấy tinh thần trách nhiệm của Ðấng cứu thế đầy lòng nhân hậu.
Hai là tinh thần liên đới. Chúa Kitô cho đi, nhưng cũng biết mình đã lãnh nhận và được nhiều người hợp tác. Người rao giảng và ban bố, nhưng cũng biết lắng nghe và chờ đợi như kẻ đối thoại kiên trì, Người rất bén nhạy trước đòi hỏi liên đới như người Samaritanô tốt lành trước cảnh người bị cướp trấn lột, chứ không dửng dưng như người giàu có, trước cảnh người ăn mà Lagiarô. Tinh thần liên đới của Chúa Kitô là những bước đi không mệt mỏi của lòng nhân hậu.
Ba là tinh thần tổ chức. Chúa Kitô tổ chức đời sống của mình, giáo lý của mình, tư tưởng của mình, đường hướng của mình. Mục đích là để làm nổi bật lên cái chính yếu, đó là bác ái mến Chúa hết lòng và yêu thương người khác như chính mình. Người cũng tổ chức nhân sự của Người, bằng cách chọn và đào luyện một nhóm người thành những người biết việc, thích việc và có khả năng làm việc, đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng thánh ý Chúa. Tinh thần tổ chức của Chúa Kitô là thiết lập một Hội Thánh chan hoà đức ái, báo hiệu cho Nước Trời đang tới.
Bốn là tinh thần từ bỏ. Chúa Kitô đã bỏ trời để xuống thế, đã bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Ðức Chúa Cha, đã bỏ giầu sang để sống khó nghèo, đã bỏ uy quyền, uy tín để sống nhịn nhục và tha thứ, đã bỏ mạng sống để đền tội cho nhân loại. Tinh thần từ bỏ của Chúa Kitô là dấu chỉ đẹp nhất và có sức thuyết phục nhất của lòng nhân hậu Thiên Chúa.
Tới đây, tôi nghĩ đến tượng ảnh trái tim Chúa. Tay Người không chỉ lên đầu, lên trí tuệ, mà chỉ vào trái tim, một trái tim bốc lửa và bị đâm. Và tôi hiểu, phục vụ phải như thế đó... Phải có một tấm lòng rực cháy tình thương, đồng thời phải chấp nhận thương tích.
Ðồng bào Việt Nam hôm nay trên Quê Hương Việt Nam hôm nay, rất cần những trái tim như thế. Việt Nam, 4000 năm không nghỉ, nên rất mệt mỏi. Việt Nam 4000 năm đau khổ, nên mang nặng lo âu. Việt Nam vẫn chiến tranh, đang khi có hoà bình, nên chưa ổn định. Trong tình hình ấy, lòng phục vụ Hội Thánh Việt Nam hôm nay, và Hội Thánh phục vụ trên Quê Hương Việt Nam hôm nay sẽ rất thành công, nếu có một trái tim phục vụ của Chúa Giêsu, hiền lành, khiêm nhường, đầy lửa nhân hậu, khoan dung, vui nhận đớn đau vì bác ái. Ðã đến thời không còn đặt nặng vấn đề “hữu thần, vô thần” mà sẽ đặt nặng vấn đề “hữu tâm, vô tâm”. Ðã đến thời không nên để ý “kẻ tin và kẻ không tin”, nhưng nên để ý hơn đến cách phân loại “người vị tha và người vị kỷ”, như sẽ được phân loại trong ngày phán xét chung. Ai giầu lòng nhân hậu và chứng minh được lòng nhân hậu của mình sẽ được người khác tin theo. Trái lại, kẻ chỉ biết đòi người khác phải nhân hậu với mình, chỉ biết đòi người khác phải tin vào lòng nhân hậu của mình, chứ chính mình không làm chứng được là mình nhân hậu, và người ta cũng chẳng thấy gì là nhân hậu nơi kẻ ấy, thì kẻ ấy sớm muộn sẽ bị loại trừ. Cái đơn giản trong phục vụ là thế. Cái phức tạp hoá phục vụ chính là tính ích kỷ, tính hẹp hòi, cái vô tâm.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, đầy tình nhân ái, xin thương xót chúng con, xin làm cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa.
Tuần tĩnh tâm Linh Mục giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, năm 1990