MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Tái truyền giáo
Nhiều lần đứng bên mộ thánh Phêrô, tôi đã nhớ lại lời Ðức Kitô nói với ngài: “Này con là đá. Trên viên đá này Ta sẽ xây dựng Hội Thánh của Ta”. Suy gẫm Lời Chúa trên đây, tôi thấy bản chất viên đá Phêrô là truyền giáo. Việc truyền giáo được thánh Phêrô hiểu là việc loan báo Tin Mừng cứu độ, đưa các linh hồn về hạnh phúc Nước Trời. Chúa cắt nghĩa việc đó bằng hình ảnh kẻ ra khơi, kéo lưới để bắt cá.
Thời Hội Thánh sơ khai, các Ðức Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh mục đã hân hoan sống ơn gọi truyền giáo với những thao thức linh động như người đi chài cá.
Nhưng từ khi đế quốc Constantin được Công-giáo-hoá, đồng thời Công giáo cũng bị đế quốc Constantin-hoá phần nào, thì việc truyền giáo có nhiều chuyển biến. Tại nhiều nơi, việc truyền giáo được tập trung vào những việc nội bộ, giống như việc giữ cá và nuôi cá trong ao, hơn là việc đi chài cá ngoài khơi. Tại nhiều nơi, những đấu tranh của Hội Thánh được tập trung vào mục đích bảo vệ quyền lợi Hội Thánh hơn là cứu rỗi các linh hồn và chia sẻ Tin Mừng cho những người ngoài Hội Thánh.
Thực tế cho thấy, hiện nay, tại nhiều nơi, Hội Thánh đang có những điều kiện rất thuận lợi cho những hoạt động nội bộ, và cho việc phát triển các quyền lợi của Hội Thánh đối với xã hội.
Nhân dịp chuyến đi Ad Limina, tôi muốn nhìn vào một vài nơi đó, để học hỏi thêm. Vì thế, trường học thứ hai của tôi trong chuyến đi này là một vài nơi Hội Thánh địa phương có những hoàn cảnh thuận lợi.
Trước hết là Rôma. Phải nói ngay là không đâu có hoàn cảnh thuận lợi cho đức tin bằng Rôma. Với tổng số người công giáo là 2.690.000 trong toàn dân số 2.800.000, thủ đô Rôma là một thành phố kể như toàn tòng công giáo. Giáo phận này có trên 6.000 linh mục, gần 30.000 tu sĩ nam nữ, 620 nhà thờ, trên 800 tổ chức giáo dân và hơn 400 cơ quan từ thiện. Tất cả 293 giáo xứ của Rôma đều được sắp xếp chu đáo. Rôma có nhiều mồ mả các thánh, nhiều di tích thánh. Phố phường bày bán la liệt sách báo đạo, ảnh tượng đạo. Nhiều tên đường, tên phố, tên ngân hàng, tên quán ăn là tên các thánh, tên các Ðức Giáo Hoàng, tên các Ðức Hồng Y, Ðức Giám Mục giáo phận Rôma chính là Ðức Giáo Hoàng. Ngài cũng là vua nước Vatican, đồng thời cũng là vị lãnh đạo toàn thể Giáo Hội Công giáo trên khắp thế giới.
Với biết bao thuận lợi cả về mặt đạo, cả về mặt đời như vậy, Rôma cho phép tôi nghĩ rằng: Mọi người công giáo Rôma đều sống đạo tốt. Thế nhưng tháng Ba năm rồi, 1990, Ðức Hồng Y Ugo Poletti, đại diện Ðức Giáo Hoàng cai quản giáo phận Rôma, trong một Hội nghị các Cha Sở giáo phận Rôma, đã báo động một tình hình rất đáng kinh ngạc, ngài nói: “Chỉ còn 15% đến 20% người công giáo Rôma thực hành đều đặn đời sống đức tin, như là đi lễ Chúa nhật” (30 jours dans l'Eglise et dans le monde, n03, mars, 1990, trg 11).
Ngoài Rôma ra, thì trong số những nơi có đầy đủ điều kiện thuận lợi cho đức tin, thiết tưởng phải nhìn sang Tây Ðức. Giáo Hội Tây Ðức không thiếu tự do, không thiếu tiền, không thiếu cơ sở, không thiếu người giỏi, không thiếu bất cứ sự gì xét thấy là cần. Ðược trang bị bằng những phương tiện tốt nhất, Giáo Hội Tây Ðức hẳn là nơi phát triển đức tin một cách mau lẹ và vững mạnh. Thế nhưng, cũng trên tạp chí “30 jours dans l'Eglise et dans le monde” số kể trên, có một bài báo làm tôi sửng sốt. Bài báo mở đầu thế này: “Tại Ðức, không phải chỉ có bức tường Berlin sụp đổ, mà những ảo tưởng về một Giáo Hội Công giáo Ðức cũng đang đổ vỡ ra từng mảnh” (trang 30). Rồi tác giả Tommaso Ricci nói đến bản điều tra dài 70 trang của viện “Allensbach” do Hội Ðồng Giám Mục Tây Ðức nhờ làm. Theo bản điều tra mới này thì thời gian gần đây, mỗi năm có khoảng 100.000 người công giáo Ðức từ bỏ Hội Thánh Công giáo, số người đi lễ Chúa nhật chỉ còn khoảng 10%. Các phương tiện truyền thông càng ngày càng công khai chế giễu Công giáo. Họ coi đạo công giáo như con tàu đã bị vỡ ra từng mảnh, và các mảnh vỡ đó chỉ còn chỗ trong các thứ bảo tàng đồ cổ. Bản điều tra cũng cho biết thêm về một chuyển biến tâm lý nữa đối với công giáo, đó là nhiều người không những không tin đạo, mà còn xa tránh đạo. Trước đây, mặc dầu họ không tin, nhưng họ vẫn thích dùng các đồ đạo có tính chất văn hoá để trang trí. Cũng như các cô gái đeo đôi bông tai hình thánh giá, để làm đẹp theo mốt, chứ chẳng phải vì tin Chúa. Nhưng nay, cả đến loại người dùng đạo như một thứ dầu thơm trang sức cũng không còn bao nhiêu.
Rồi, đề cập đến những nơi có những hoàn cảnh thuận lợi cho đức tin, tôi không thể không nhìn đến Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ sống trong bầu khí tự do thoải mải, văn minh khoa học, đầy đủ phương tiện. Một bầu khí như vậy chắc sẽ hỗ trợ nhiều cho Hội Thánh. Thế nhưng, cũng trên tạp chí “30 jours dans l'Eglise et dans le monde” n04, Avril, 1990, tôi đọc thấy hai tin lạ lùng này: Tin thứ nhất là tin Ðức Hồng Y Josef Bernadin, Tổng Giám Mục Chicago, tuyên bố: Từ 30/6/1990, ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 truyền tiểu học công giáo trong địa phận ngài (trang 38). Tin thứ hai, là tin Ðức Hồng Y Szoke, Tổng Giám Mục giáo phận Detroit, ngài tuyên bố quyết định trong năm 1990 sẽ đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận ngài (trang 42). Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền.
Rồi, nói đến những nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho đức tin, tất nhiên phải nhìn sang Pháp. Giáo Hội Pháp có nhiều vị thừa sai nổi tiếng, có nhiều nhà thần học trứ danh, có những đóng góp to lớn cho việc truyền bá đức tin trong thế giới thứ ba, có những nơi hành hương thu hút khách thập phương. Với những vốn liếng đó, Giáo Hội Pháp có vẻ không cho phép xảy ra một sự suy thoái nào về đời sống đức tin. Thế nhưng, thực tế Giáo Hội Pháp hôm nay không thiếu bóng tối. Ngoài phong trào tục hoá và dửng dưng đang làm tăng số người xa rời Hội Thánh, thì mối đe doạ lớn hiện nay tại Giáo Hội Pháp là khủng hoảng về việc học giáo lý của trẻ em. Tạp chí “30 jours dans l'Eglise et dans le monde” n04, Avril, 1990, cho biết trẻ em Pháp hiện nay khó tìm được thời giờ để học giáo lý. Trước đây luật Jules Ferry 1882 và sau đó được Thủ Tướng Michel Debré hỗ trợ năm 1959 đã bảo đảm cho trẻ em được một ngày tự do trong tuần, để xả hơi và có thể học giáo lý. Ngày đó là thứ năm, rồi đổi sang thứ tư. Nay nhiều phong trào đòi chuyển ngày nghỉ đó sang thứ bảy. Mà ngày thứ bảy tại Âu châu đã trở thành ngày nghỉ cuối tuần, để gia đình đi chơi, giải trí. Trong một ngày có bầu khí như vậy, thì cả người lớn, lẫn trẻ em đều cảm thấy việc đi học giáo lý là lạc lõng, không hợp tình hợp lý. Nhất là trong xã hội kỹ nghệ, người ta lại quen tính từng giờ, từng khắc, từng phút, vì mỗi mẩu thời gian đều mang khả năng kinh tế và hưởng thụ. Trong xã hội như thế, con người bắt buộc phải vội vã. Nếu cha mẹ đã vốn dửng dưng với đạo, con cái cũng chẳng nhiệt tình gì với đạo. Luật lệ xã hội càng mở về hướng tự do hưởng thụ, thì việc dạy và học giáo lý sẽ rất khó khăn. Ngoài ra, tại Pháp, khủng hoảng linh mục cũng không phải là không đáng ngại. Tuổi trung bình linh mục Pháp hiện này là 70. Số linh mục giảm đi mỗi năm:
Năm: Số linh mục:
1948 42.500
1960 41.700
1965 40.994
1975 36.014
1978 32.600
1985 28.099
(Trích Jean Rigal, Préparer l'avenir de l'Eglise, trang 140).
Những mẩu tin thời sự trên đây chỉ là một phần nhỏ của cả một phong trào tục hoá đang lan mạnh trong chính những nơi có hoàn cảnh thuận lợi nhất cho đức tin. Tôi không dám đi xa trong việc tìm hiểu nguyên nhân đám đông bỏ Chúa hay bỏ Hội Thánh. Nhưng tôi thấy nên nhắc lại những lời Ðức Giáo Hoàng đã ám chỉ về tình hình này. Ðức Thánh Cha Phaolô VI nói: “Người ta đang chứng kiến một cảnh khuynh đảo sâu rộng trong thế giới và trong Hội Thánh. Ðiều ta muốn nói là đức tin. Ở đây, ta nhớ tới một câu nói u sầu của Ðức Kitô: “Khi Con Người trở lại liệu Ngài sẽ còn tìm được đức tin trên trái đất này không?” (Le secret de Fatima et l'apostasie dans l'Eglise, 30 jours dans l'Eglise et dans le monde, n03, Mars, 1990, trang 7). Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã nói ở Fatima ngày 13/5/1982: “Các xã hội đang bị đe doạ bởi nạn bỏ đạo, nạn suy thoái đạo đức. Sự sụp đổ đạo đức sẽ kéo theo sự sụp đổ các xã hội” (id). Nay thì ai cũng đã thấy rõ nạn bỏ Hội Thánh và suy thoái đạo đức đang là những sự thực to lớn công khai sờ sờ trong chính Giáo Hội tại những địa phương được ưu đãi.
Những địa phương công giáo này cần được tái truyền giáo. Và tôi đã thấy việc tái truyền giáo đang được thực hiện tốt. Lực lượng chủ yếu là những nhóm nhỏ đầy sinh khí Phúc Âm. Họ thuộc đủ loại người, hầu hết là giáo dân. Họ sống mật thiết với Chúa, và rất nhiệt tình với Hội Thánh. Ðời sống và con người của họ có sức lôi kéo nhiều người trở về. Họ đang làm nên một phong trào, mà tôi tạm gọi là phong trào canh tân, đem lại luồng gió tái Phúc Âm hoá cho những giáo hội địa phương khô cằn ảm đạm.
Ở đây tôi xin giới thiệu sơ qua ba nét lớn của phong trào truyền giáo này.
Nét lớn thứ nhất là họ có những đức tính xã hội mang vẻ đẹp của lễ Truyền tin
Trong lễ Truyền tin có thiên thần loan báo Tin Mừng, và có Ðức Mẹ đón nhận Tin Mừng. Thiên thần loan báo Tin Mừng một cách ân cần và tế nhị. Còn Ðức Mẹ đón nhận Tin Mừng một cách ân cần và khiêm tốn. Cũng vậy, họ được ơn Chúa Thánh Thần, nên rất ân cần lắng nghe mọi tín hiệu Chúa gởi cho họ qua Lời Chúa, qua các tiếp xúc, qua các sự việc xảy ra. Chúa Thánh Thần cho họ đọc được ý nghĩa các tín hiệu ấy. Họ khiêm tốn đón nhận và ân cần trả lời. Do đó, có một sự đối thoại thân mật thường xuyên giữa Chúa và họ.
Và vì mến Chúa yêu người, họ tích cực chia sẻ Tin Mừng cho kẻ khác. Tin Mừng của họ là hạnh phúc được Chúa yêu thương cứu độ. Họ chia sẻ ân cần, nhưng tế nhị. Nói ít và nói với tất cả tấm lòng chân thành xác tín. Họ làm chứng bằng kinh nghiệm đời sống hơn là bằng lý thuyết. Họ kể lại hơn là giảng dạy. Họ là những kẻ làm chứng đích thực về Chúa. Bởi vì những gì họ nói về Chúa, đều là những sự họ đã từng cảm nghiệm, đã từng gặp thấy. Tin Mừng mà họ loan báo không phải là những gì họ đã học được trong sách cho bằng những gì họ đã từng kinh nghiệm, do gặp được Chúa và do tin vào Lời Chúa.
Nét lớn thứ hai là họ có một sức nóng tâm hồn rút ra từ bốn lò lửa sau đây: Lời Chúa, bí tích Thánh Thể, luật bác ái Phúc Âm và cầu nguyện
Qua Lời Chúa, họ thường xuyên đi sâu vào niềm tin ở Ðức Kitô là trung tâm đời họ. Họ có bốn suy tư về Lời Chúa:
a) Suy tư hệ thống (réflexion systématique) là học hỏi các chân lý đạo được sắp xếp theo một trật tự thần học, trong đó cái nọ gắn bó với cái kia.
b) Suy tư lịch sử (réflexion historique) là học hỏi lịch sử cứu độ, trước và sau Ðức Kitô, xem Tin Mừng đã được loan báo và tiếp nhận thế nào, và đã chuyển biến ra sao qua các thời đại và các dân tộc.
c) Suy tư thực hiện (réflexion empirique) là đọc Lời Chúa trong cuộc sống chính mình và trên nhân loại hôm nay. Kiểm tra con người mình có sống hợp Lời Chúa hay không.
d) Suy tư tu đức (réflexion spirituelle) là suy gẫm Lời Chúa bằng đức tin, đức cậy, đức mến, để Lời Chúa biến thành lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn mình.
Qua Bí tích Thánh Thể, họ thường xuyên đi sâu vào mầu nhiệm Ðức Kitô là Ðấng cứu chuộc loài người. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà họ ngợi khen, cảm tạ Chúa Cha giàu lòng thương xót, đã sai Con Một Người xuống thế cứu chuộc nhân loại. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà họ hiến dâng chính mình và đời mình là của lễ cho Thiên Chúa hằng sống. Chỉ có Người là Ðấng thánh, chỉ có Người là Chúa, chỉ có Người là Ðấng tối cao. Chỉ có Người là Ðấng cứu độ mà họ phải hết lòng tin cậy.
Qua luật bác ái Phúc Âm, họ thường xuyên đi sâu vào niềm tin Ðức Kitô hiện diện ở giữa những người cùng nhau cầu nguyện, và phục vụ kẻ khác. Nhóm họ, nếu là ba người, thì họ tin là có bốn, bởi vì Ðức Kitô ở giữa họ. Niềm tin ấy sẽ là động lực thiêng liêng thúc đẩy họ dấn thân.
Họ cầu nguyện rất nhiều. Ðối với họ, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa đồng thời cũng mở tâm hồn mình về phía kẻ khác.
Nét lớn thứ ba là họ có một cái nhìn rộng lớn
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, họ thấy một Thiên Chúa lớn hơn. Lớn hơn Hội Thánh, lớn hơn mọi luật đạo, lớn hơn mọi nghi lễ, lớn hơn mọi hiểu biết thần học, lớn hơn mọi diễn tả. Họ cũng thấy một Hội Thánh lớn hơn. Hội Thánh không phải chỉ là các phẩm trật mà là toàn dân Chúa. Và Dân Chúa không phải chỉ là những kẻ công chính, mà cũng gồm cả những người tội lỗi. Hội Thánh cũng không phải chỉ là tổng số những người đã chịu phép rửa, mà cũng gồm những người ngay chính thông hiệp với Hội Thánh vô hình. Họ cũng cảm thấy một sự tự do lớn hơn. Họ chọn lựa điều này, từ bỏ điều khác, do sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, chứ không do một áp lực nào, dù áp lực đó là một dư luận tốt. Họ có những thao thức lớn hơn. Thao thức của họ là thao thức Chúa cứu thế đã chia sẻ cho, đó là làm cho nhiều người được cứu rỗi, được nên tốt hơn, được hạnh phúc hơn. Họ cũng thấy một Nước Trời rất lớn. Lớn hơn Hội Thánh, lớn hơn mọi nước trần gian.
Với ba nét trên đây, các chiến sĩ Phúc Âm trở thành những Kitô hữu đích thực. Họ là những người có Ðức Kitô. Và chỉ là thế thôi, họ sẽ như men, như muối, tái truyền giáo cho những môi trường đã xa rời Hội Thánh.
ù
Trong năm 1990, tôi đã tham dự tang lễ của một Ðức Hồng Y, hai Ðức Giám Mục và ba linh mục. Tôi thấy linh cữu các ngài được một số người khiêng vào nhà thờ. Có đội hình khiêng xác là 20 người, có nơi 30, có nơi tới 60 người. Thấy cảnh các đấng bậc được người ta khiêng vào nhà thờ, tôi thầm nghĩ trong lòng rằng: biết đâu, ngay khi tôi còn sống, có lúc tôi cũng không đủ sức trở về với Chúa. Tôi đến với Chúa được, cũng là do nhiều bàn tay dắt đi, khiêng đi. Từ ý nghĩ đó, tôi ước mong mỗi họ đạo nên có những nhóm người tốt, đầy sức mạnh Phúc Âm. Khi cần, những nhóm nhỏ ấy sẽ khiêng các người khô cứng về với Chúa. Và nếu chính ta khô cứng, thì họ sẽ là những ân nhân quí giá của ta.
Tuần tĩnh tâm Linh mục giáo phận Long Xuyên, năm 1991