Đức Cha Gioan Baotixita
Bùi Tuần, gp Long Xuyên

Chuyển sang


:::Trang GPLongXuyên


:::Trang GHHV


THAO THỨC
MỤC VỤ CỞI MỞ
TĨNH TÂM LINH MỤC TU SĨ
1985-1999

 MỤC VỤ CỞI MỞ         -1985-
 ÐỔI MỚI SUY NGHĨ VỀ LOAN BÁO TIN MỪNG -1986-
 LO ÂU VÀ HY VỌNG         -1988-
 ÐỔI MỚI TÂM HỒN         -1989-
 TRUYỀN GIÁO          -1990-
 MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG   -1991-
 Tuần tĩnh tâm Linh mục
Giáo phận Long Xuyên, ngày 13/01/1992
-1992-
 

MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG

Ðón nhận Chúa

 

Những ngày trước lễ Sinh nhật Chúa Cứu thế, đó đây trong Hội Thánh thường hát lời cầu của tiên tri Isaia: “Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai. Hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng công chính. Ðất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng cứu chuộc” (Is 45,8).

Lời cầu trên đây nhắc lại lịch sử Dân Chúa từng ngàn năm vẫn mong chờ Ðấng Cứu Thế.

Nay, Ðấng Cứu Thế đã đến rồi. Tính từ Sinh nhật Ngài tới nay đã được 1991 năm. Vấn đề đặt ra từ đó đến hôm nay là vấn đề ĐÓN NHẬN NGÀI.

Sở dĩ phải đặt ra vấn đề đó, là vì Ngài đã đến, nhưng biết bao người vẫn không đón nhận Ngài. Thánh Gioan Tông đồ viết: “Ngôi Lời đã đến nhà mình, mà các gia nhân không tiếp nhận” (Ga1,11). “Ngài vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Ngài tác tạo, nhưng thế gian đã không nhận biết Ngài” (Ga 1,10).

Không nhận biết Ngài, không đón nhận Ngài, đó là một dấu ấn mà chính dân Chúa là Israel đã đóng trên đời Ngài.

Thực vậy, ngay khi Ngài giáng sinh, chẳng ai đã tiếp nhận Ngài vào nhà. Ngài phải giáng sinh trong hang đá, nơi dành cho loài chiên bò (x. Lc 2,6).

Chính các vị có thế lực trong tôn giáo là các Thượng tế, các Luật sĩ, các Trưởng lão, không những đã không đón nhận Ngài, mà còn nhất trí tố cáo Ngài, loại trừ Ngài (x. Mc 6,1-6).

Thân nhân Ngài có lúc cũng nghi ngờ Ngài (x. Mc 3,21).

Khi Ngài lâm nạn, các môn đệ thân tín nhất của Ngài cũng bỏ Ngài, trốn chạy (x. Mc 14,50).

Ðến lượt dân chúng, bị xách động, cũng hò hét yêu cầu phải giết Ngài (x. Mt 27,20).

Sau cùng, quyền đời quyền đạo đã kết án tử hình Ngài (x. Lc 23,1-23)

Thực lạ! Ðang lúc đó, và trước đó ròng rã mấy ngàn năm, Israel vẫn mong chờ Ðấng Cứu Thế đến. Khi Ngài đến, không những Ngài không được đón nhận, mà còn bị giết một cách tàn nhẫn.

Sự việc xảy ra thật là bi thảm. Lý do thiết tưởng chính là những khủng hoảng của đức tin bấy giờ.

 Khủng hoảng thứ nhất ở chỗ đức tin lúc ấy quá quan-trọng-hoá nền đạo đức tập truyền, chứ không mấy dựa trên Lời Chúa

Sự kiện ấy đã được Chúa Giêsu nêu lên. Phúc Âm kể: “Khi ấy có mấy người Pharisêu và Luật sĩ ở Giêrusalem đến thưa với Chúa Giêsu rằng: Tại sao các môn đệ của ông lỗi tập truyền của tổ tiên? Họ không rửa tay trước khi ăn. Chúa đáp: Tại sao các ông lỗi giới răn Thiên Chúa, viện cớ là để giữ tập truyền?” (Mt 15,1-3). Sau đó, Chúa Giêsu dẫn chứng những tập truyền trái luật Chúa. Rồi Ngài kết luận: “Các ông đã xoá bỏ Lời Chúa vì tập truyền của các ông” (Mt 15,6).

Mâu thuẫn giữa nền đạo đức dựa trên tập truyền và nền đạo đức dựa trên Lời Chúa càng trở nên gay gắt. Nên có lần Chúa Giêsu buộc lòng phải gọi đúng tên những người bám vào tập truyền mà bỏ Lời Chúa là hạng đạo đức giả hình. Ðoạn 23 Phúc Âm thánh Mátthêu dành riêng cho loại đạo đức đó. Thay vì nói 8 lần “Phúc cho những ai...” như trong bài giảng Tám Mối Phúc, lần này Chúa nói 8 lần “Khốn cho các ngươi, hỡi các Pharisêu và Luật sĩ giả hình”. Nghe nhức nhối lắm.

Xem ra Chúa Giêsu ghê tởm nền đạo đức tập truyền như vậy, vì nó giam hãm con người vào một nhà tù luật lệ vô bổ, cấm cản con người đi vào một nền đạo đức dựa trên Lời Chúa có khả năng đưa con người vào bầu trời bao la của Tình Yêu Thiên Chúa.

Ngay trong Cựu ước, tình yêu bao la Thiên Chúa cũng đã được đề cao và nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Thánh vịnh 135 là một bài ca tuyệt vời ca tụng và loan báo Tình thương Thiên Chúa: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.

Tình thương Thiên Chúa là tình thương nhưng không. Chúa phán: “Không phải vì các ngươi đông đúc hơn các dân tộc khác mà Chúa gắn bó với các ngươi và chọn các ngươi. Vì thực sự dân số các ngươi ít hơn dân số mọi dân tộc khác. Nhưng Chúa thương yêu các ngươi, vì muốn giữ lời hứa với tổ phụ các ngươi” (Thứ luật 7,7).

Tình thương Thiên Chúa là một giao ước đòi hỏi. Chúa phán: “Các ngươi hãy yêu mến Chúa là chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức” (Thứ luật 6,5). “Các ngươi hãy trở về với Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ nghe tiếng Chúa. Vì Chúa là Ðấng hay thương xót” (Thứ luật 4, 30-31).

Cũng ngay trong Cựu ước, tình yêu Thiên Chúa đã được diễn tả như một tình yêu cứu độ. Ðọc các Thánh Vịnh, người ta dễ gặp thấy các biểu tượng của tình yêu cứu độ, như Ðôi mắt đoái nhìn, Bàn tay cứu giúp, Trái tim thứ tha đầy nhân ái.

Người có một đức tin biết xây dựng và thanh luyện nền đạo đức trên nền tảng Kinh Thánh như vậy, sẽ biết nhận ra Ðấng Cứu thế khi Ngài đến, và sẽ biết đón nhận Ngài.

Nhưng thời đó, số người có đức tin như Ðức Mẹ, thánh Giuse quả là quá ít. Phần đông chỉ bám vào nền đạo đức tập truyền cổ hủ và tha hoá, chỉ lo bảo vệ tập truyền đó thôi. Vì thế, khi Ðấng cứu thế đến, đúng với hình ảnh mà Kinh Thánh loan báo, nhưng không đúng hình ảnh mà tập truyền khẳng định, Isarel đã không đón nhận Ngài. Ðám đông đã vậy, mà các lãnh đạo tôn giáo cũng thế. Buồn thay! Một khủng hoảng đức tin rất trầm trọng.

 Khủng hoảng thứ hai ở chỗ đức tin lúc ấy chỉ quan-trọng-hoá sự chấp nhận các giáo điều và giữ các lễ nghi luật lệ bề ngoài, chứ không tập trung vào sự đón chờ và đón nhận chính Thiên Chúa bằng thái độ cầu nguyện và tỉnh thức

Thực vậy, khi liên hệ giữa con người với Chúa được nhìn như một giao ước, thì đức tin chính là một sự gặp gỡ Chúa, một gặp gỡ thân mật, sống động, như được diễn tả trong Diệu Ca: “Người yêu của tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về Ngài” (Diệu Ca 2,16).

Tình yêu cứu độ đến với con người như một quà tặng. Người ta chỉ nhận ra quà tặng ấy và chỉ có thể đón nhận được quà tặng ấy bằng thái độ cầu nguyện và tỉnh thức.

Ngay thời rất xa xưa, tiên tri Isaia đã nhấn mạnh đến một thái độ như vậy, khi Ngài than phiền: “Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng tôi đều như những áo dơ bẩn. Vì không còn ai kêu cầu Thánh Danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa” (Is 64,5-6).

Tình hình một đức tin không tỉnh thức và cầu nguyện thời Chúa Giêsu đến, được biểu hiện ở chính đền thờ Giêrusalem và các hội đường.

Ta thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi kiếm tiền. Phúc Âm kể: “Chúa Giêsu vào đền thờ và đuổi các người buôn bán ra. Chúa lật đổ bàn các người đổi tiền và ghế các người bán bồ câu. Rồi Ngài phán với họ rằng: Có lời chép: Nhà Ta là nhà cầu nguyện mà các ngươi biến thành hang trộm cướp” (Mt 21,12-13).

Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi tranh quyền. Phúc Âm kể: “Chúa Giêsu vào đền thờ, đang khi Chúa giảng thì các Thượng tế và các Trưởng lão đến hạch hỏi Chúa rằng: Ông lấy quyền ai mà làm như thề này? Ai cho ông quyền ấy” (Mt 21,23).

Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi phô trương các thứ đạo đức giả. Chúa phán: “Các Luật sĩ và Pharisêu... phô trương mình đọc kinh lâu giờ, nhưng lại xâu xé nhà bà goá” (Mt 23,14)... "Họ làm mọi việc cốt ý để người ta xem thấy” (Mt 23,4).

Ta cũng thấy hình ảnh một nơi thờ phượng bị lạm dụng làm nơi rình rập, bắt bẻ, kết án người lành. Phúc Âm kể: “Họ sai một số người giả bộ đạo đức đến hội đường cốt ý xem xét và bắt bẻ Chúa”. (Lc 20,20).

Ðức tin của giai cấp quyền lực tôn giáo chỉ còn tỉnh thức về các chuyện tiền bạc, quyền chức, bắt bẻ, kết án những ai có khả năng đụng tới quyền lợi các ngài. Không có dấu hiệu nào cho thấy họ thao thức chờ đón Chúa Cứu Thế bằng sự cầu nguyện và tỉnh thức nắm bắt các tín hiệu Chúa đến.

Tuy họ rất đông, nhưng vì họ lo cho mình hơn lo cho dân, nên Chúa Giêsu thương xót nhìn dân như đoàn chiên không có người chăn (x. Mt 9,30). Do đó, dân dễ đánh mất sự chính trực. Chúa Giêsu có lần đã nói về họ: “Ông Gioan đến không ăn uống, thì họ bảo ông bị quỉ ám. Con Người đến có ăn có uống, thì họ bảo đó là kẻ mê ăn, rượu chè, là bạn các kẻ thu thuế và các người tội lỗi” (Mt 11,16-19).

Khi một đức tin ngày đêm không mong chờ chính Chúa, mà thực sự chỉ nhân danh Chúa mà chờ mong những gì trái nghịch với Chúa hoặc không hợp thánh ý Chúa, thì khi Chúa đến, đức tin ấy sẽ không thể nhận ra Chúa. Vì Chúa đến nhưng lại ẩn hình dưới những hình dạng khó nghèo, nhịn nhục, hiền lành, khiêm tốn, phục vụ quên mình, là những đòi hỏi mà đức tin ấy không quen chấp nhận.

Hai khủng hoảng trên đây về đức tin là chuyện xưa, thuộc về Israel dân Chúa. Nhưng khi nhìn vào hai khủng hoảng ấy, tôi có cảm tưởng đây cũng là chuyện hôm nay, thuộc về Dân Chúa tại Việt Nam, trong đó có tôi. Tôi nghĩ là ta có khủng hoảng đấy.

Nhân dịp dọn mình đón Chúa Giáng sinh, ngoài việc mời gọi thanh luyện Ðức tin như nói ở trên, tôi cũng xin đưa ra thêm vài gợi ý:

 Một là đức tin của ta phải rất khiêm nhường

Chúa đến với ta hơn là ta đến với Chúa. Chúa tìm ta hơn là ta tìm Chúa. Chúa đến với ta, Chúa tìm ta, chỉ vì Chúa thương ta, để cứu độ ta, chứ không vì ta có công phúc vì xứng đáng. Vì thế trong niềm cảm tạ Chúa đã thương ta, ta vẫn nghĩ tới bao người khác, với tâm tình cởi mở khiêm tốn. Hãy nhớ lời Chúa phán: “Quả thực, Ta bảo các ông, những người thu thuế và các đĩ điếm sẽ vào Nước Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trên đàng công chính, và các ông đã không tin Ngài. Còn các người thu thuế và các đĩ điếm đã tin Ngài” (Mt 21,31-32). Chúa cũng đã phán: “Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng nhiều người từ phương đông cho tới phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacob trong Nước Trời. Còn con cái trong nhà sẽ bị ném vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng” (Mt 8,10-11).

Những lời Chúa phán trên đây không cho phép đức tin ta tự phụ tự mãn. Ðừng lấy làm lạ nếu vô số những kẻ đời đạo cho là tội lỗi, sẽ có mặt trên thiên đàng. Riêng tôi, điều làm tôi bỡ ngỡ nhất, chính là sự tôi được Chúa yêu thương, được tin vào Chúa. Chẳng do tôi, nhưng hoàn toàn do Chúa mà thôi.

 Hai là đức tin của ta phải rất bác ái

Thánh Phaolô, khi đề cập đến đức tin đón chờ Chúa đến, Ngài hay nhắc đến khía cạnh yêu thương. Trong thư I gởi giáo đoàn Thessalonica Ngài viết: “Xin Chúa gia tăng và ban cho anh em lòng thương yêu nhau và thương yêu mọi người... không có gì đáng trách trước mặt Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (I Thess 3,11-12). Trong một lá thư khác, Ngài viết: “Ðiều tôi cầu nguyện bây giờ, là lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày Ðức Kitô đến” (Philip 1,4-6). Cũng trong lá thư ấy, Ngài nói thêm: “Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Philip 4,4-5).

Phải nói thiệt điều này: Ðức tin của nhiều tín hữu Việt Nam chưa phải là một sự gặp gỡ Thiên Chúa Tình yêu, chưa phải là một cuộc sống thân mật với Ðấng là Tình yêu đầy lòng thương xót, nên đức tin của họ chưa có nhiều tình thương Phúc Âm để chia sẻ ra. Ðàng khác, nhiều người cũng không chuẩn bị đón nhận đức tin và tích cực vun tưới đức tin bằng các việc bác ái, nên khi Chúa là Tình thương đến, đức tin của họ vốn thiếu vắng bác ái đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài.

 Ba là đức tin của ta phải rất đơn sơ

Chúa Giêsu đã có lần nói với Ðức Chúa Cha rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những người đơn sơ” (Lc 10,21). Ðiều mà nhiều người khôn ngoan thông thái không được biết, nhưng người đơn sơ bé mọn lại biết nhờ mạc khải, đó là Ðức Kitô chính là trung tâm điểm của đức tin. “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha. Cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con” (Lc 10,22). Chúa Kitô chính là Tình yêu Thiên Chúa cứu độ. “Do điều này mà chúng ta biết Tình yêu của Thiên Chúa là chính Người đã thí mạng sống mình vì chúng ta” (Ga 3,16).

Một người có đức tin quen tập trung vào Ðức Kitô là Tình yêu cứu độ,sẽ được chuẩn bị tốt, để dễ nhận ra và dễ đón tiếp Ðức Kitô, khi Ngài đến với bất cứ dưới hình thức nào mang tính cách Tình yêu cứu độ. Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức kẻ hiền lành khiêm nhượng (x. Mt 11,30). Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức kẻ làm các việc từ thiện bác ái (x. Lc 7,19-23). Có thể Ngài ẩn mình dưới hình thức những người sống Tám Mối Phúc (x. Mt 5,1-12).

Tôi nghĩ rằng, nếu thực hành mấy gợi ý trên đây với tinh thần sám hối cậy tin, chúng ta sẽ dọn đường cho Chúa đến (x. Lc 3,4-6). Chúa đang đến với ta, Chúa đang đi vào tâm hồn ta.

Lạy Con Một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Ðức Chúa Cha, Chúa xoá tội trần gian, xin thương xót chúng con, Chúa xoá tội trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn.

Tĩnh tâm Linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tháng 12/1991