MỘT CHẶNG ÐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
Hãy tỏ ra là mình tốt
Dịp các Ðức Cha Việt Nam sang Toà Thánh, là dịp tốt nhất để có một số liệu tương đối chính xác về số người công giáo của từng giáo phận tại Việt Nam. Cộng tất cả, thì tổng số người công giáo Việt Nam hiện nay tại Việt Nam là vào khoảng 4 triệu người.
Với 4 triệu người trong tổng số 65 triệu dân, Giáo Hội Việt Nam là một thiểu số bé nhỏ. Lượng là thế, còn phẩm thì sao? Dĩ nhiên mình cho mình là tốt, với mức tương đối cao. Nhưng khối hơn 60 triệu đồng bào ngoài công giáo có đánh giá Giáo Hội Việt Nam ta như ta tự đánh giá ta không? Nếu theo sách báo ngoài Công giáo thì phải nói là không. Còn nếu theo dư luận thu lượm được từ các tiếp xúc, thì có khen, có chê, có thiện cảm, có ác cảm, và có rất nhiều dửng dưng bất cần.
Khi ở nước ngoài, tôi đã tìm đọc một số sách báo mang nội dung lịch sử có liên quan đến công giáo Việt Nam như “Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam” của Tiến sĩ Cao Huy Thuần, in tại Hoa Kỳ, “Phật giáo Việt Nam 1963” do Chùa Khánh Anh Paris xuất bản, “Việt Nam khói lửa, Quê Hương tôi” của Ðỗ Mậu, xuất bản tại Hoa Kỳ. Ðọc mấy tài liệu đó, tôi cảm thấy nhức nhối, có cảm tưởng là cái nhìn của nhiều vị lãnh đạo Phật giáo và nhiều người trí thức Phật giáo về công giáo Việt Nam là một phê bình có tính cách lịch sử, rất bất lợi cho việc truyền giáo của chúng ta.
Tình hình trên đây nên được biết rõ, biết đúng. Và khi suy nghĩ về truyền giáo, ta cần suy nghĩ trên tình hình cụ thể ấy. Tình hình có nhiều phức tạp. Nhưng không thể không truyền giáo. Bỏ việc truyền giáo là một thiếu sót lớn. Không có việc nào có thể thay thế được bổn phận thiêng liêng hàng đầu đó của Hội Thánh nói chung và của từng giáo sĩ nói riêng. Nhận định đó là tất nhiên, nhưng nên truyền giáo thế nào cho có kết quả?
Theo tôi, thì công thức nên chọn là các cộng đoàn đức tin hãy tỏ ra là mình tốt.
Tôi chọn công thức này do gợi ý của lễ Noel. Bởi vì thời gian tôi từ giã Rôma để về Việt Nam là trước Noel. Lúc đó, khắp nơi nhất là tại Rôma, đâu đâu cũng bày bán ảnh tượng sinh nhật với thánh giá nơi hang đá, với ngôi sao và với Ba Vua. Tôi nhìn Ba Vua là những người ngoại đạo tìm đến hang đá Bêlem, và tự nhiên tôi thấy đi theo Ba Vua là cả từng triệu triệu người ngoại đạo khác, trong mọi thời mọi nơi. Tôi coi cảnh Ba Vua đến hang đá là một trường học nữa cho tôi.
Xưa Ba Vua khao khát đi tìm Ðấng cứu thế. Trên đường đi, các ngài đã nhìn thấy một ngôi sao lạ. Cái lạ của nó là sự nó đồng hành với Ba Vua, di chuyển với Ba Vua, để rồi trở thành kẻ phục vụ cho Ba Vua. Sự lạ ấy là một tín hiệu. Tuy lặng lẽ, ngôi sao đã trở thành người bạn chí thiết của Ba Vua. Giữa Ba Vua và ngôi sao lạ, đã có một mối dây liên hệ mật thiết vô hình. Sau cùng, nhờ sự phục vụ của ngôi sao, Ba Vua đã tới được nơi Chúa Cứu thế sinh ra.
Thời nay, biết bao đồng bào ngoại đạo của chúng ta cũng giống như Ba Vua, ở chỗ họ khao khát đi tìm một Ðấng cứu độ. Họ mong muốn gặp được một ngôi sao lạ mang tín hiệu nào đó, để họ bám víu vào. Họ hy vọng gặp được một người tốt, một động lực tốt để họ bám vào. Theo tôi, thì cái tín hiệu có ý nghĩa nhất đối với họ là biết quan tâm tới họ, biết thương họ, biết đồng hành với cuộc sống họ, biết có mặt trong các quãng đường lịch sử họ đi, biết giải đáp thích đáng cho những ẩn khuất cuộc đời của họ. Thực sự, hầu hết mọi đồng bào đang đi tìm một ngôi sao như vậy. Nhiều người quyết rằng ngôi sao như được rõ ở bầu trời Phật giáo, hoặc ở bầu trời Tin Lành, hoặc ở một bầu trời nào đó. Nếu đại đa số đồng bào không nhìn thấy ngôi sao ấy ở bầu trời công giáo, thì câu hỏi khiêm tốn đặt ra cho ta Hội Thánh ta nói chung và cộng đoàn địa phương ta nói riêng có tỏ ra là mình tốt không?
Dư luận chung cho rằng: Công giáo Việt Nam rất tốt ở chỗ đông người đi lễ, nhiều tâm hồn thuộc kinh, và dễ quy tụ theo một nề nếp có sẵn, được bảo vệ chặt chẽ vững vàng. Ðang khi đó, công giáo Việt Nam lại rất bị chỉ trích về tinh thần công bình bác ái. Mà nếu tinh thần công bình bác ái được coi là một tín hiệu có sức lôi kéo người ta đến Ðức Kitô, thì ta phải nghĩ sao đến những cộng đoàn dễ an tâm và hãnh diện với thói quen đi lễ đọc kinh đông, nhưng lại đứng nhất nhì về những chuyện trái đức công bình bác ái? Không thiếu cộng đoàn đúng là như thế, và nếu thói quen suy nghĩ đó đã trở thành một não trạng, một cơ chế, thì còn gì là bản chất đạo Công giáo, và làm sao công giáo có thể được đồng bào ngoài Hội Thánh nhìn nhận là một ngôi sao dẫn đường về Thiên Chúa được?
Ở đây, tôi nhớ tới một ý của Simone Weil: Người thời nay đánh giá đức tin kẻ có đạo không ở thái độ và lời nói của người đó đối với Chúa, mà là ở thái độ và lời nói của người đó đối với người khác.
Ở đây, tôi cũng nhớ tới một đoạn trong bản tuyên ngôn của Hội nghị VII Hội đồng các Giáo Hội Á châu (CCA): “Tại Á châu đang nảy sinh một tình trạng mới của tinh thần, đó là sự thức tỉnh của quần chúng. Một lịch sử mới đang được viết ra trong thời đại chúng ta. Những điểm chính của lịch sử không còn là những cuộc chiến thắng và những khám phá của các quyền lực, nhưng là những hoạt động sâu rộng của tinh thần con người, cũng như sự liên đới giữa các người trong dân chúng với nhau!”.
Nếu để ý theo dõi tình hình tại Việt Nam, chúng ta cũng phải thấy một sự thức tỉnh của quần chúng đang trở thành một sức mạnh tinh thần mỗi ngày mỗi lớn mạnh. Quần chúng Việt Nam hôm nay đang đọc lịch sử hôm nay với cái nhìn mới. Những cá nhân cũng như những tập thể được họ coi là những ngôi sao của họ trong lịch sử hôm nay, không phải là những khuôn mặt anh hùng của một ý thức hệ, hay những vầng trán mang hào quang thánh của riêng một thời gian, nhưng là những người biết sống liên hệ mật thiết với quần chúng, cách riêng là với tầng lớp nghèo.
Cái nhìn mới đó của dân chúng Việt Nam hôm nay cũng phản ảnh phần nào cái nhìn của Ba Vua xưa, khi gặp Hài Nhi Giêsu trong hang đá Bêlem. Ba Vua đã nhận ra cái đẹp, cái tốt, cái cao cả nơi Hài Nhi Giêsu và đã nhìn nhận Hài Nhi đó chính là Ðấng Cứu thế, giáng sinh từ trời.
Tôi tự hỏi, tại sao Ba Vua, khi nhìn một em bé trong cảnh khốn cùng nằm trong máng cỏ, lại thấy được cái đẹp, cái tốt, cái cao cả nơi em bé đó, để rồi tự quỳ gối xuống thờ lạy và dâng lễ vật. Hài Nhi Giêsu đâu có gì chứng tỏ mình có uy tín hơn, có quyền lực mạnh, có của cải nhiều. Trái lại là đàng khác. Hài Nhi Giêsu đâu có làm gì để gọi được là đấu tranh cho nhân quyền, cho quyền lợi tôn giáo mình, cho quyền lợi của chính mình. Hài Nhi Giêsu đâu có nói lời nào, đâu có giảng gì, đâu có hứa gì. Thói thường, thì một em bé như thế chỉ đáng thương thôi, chứ không đáng tôn trọng. Thế mà Hài Nhi Giêsu đã được Ba Vua kính trọng tôn thờ.
Tôi nghĩ là Ba Vua nhờ ơn Chúa mới nhận ra được Hài Nhi Giêsu là Ðấng Cứu thế. Tuy nhiên, Chúa cũng đã dùng một số dấu chỉ bề ngoài có sức đánh động và soi sáng tâm hồn Ba Vua, để chuẩn bị cho ơn thánh mặc khải. Những dấu chỉ ấy ở nơi Hài Nhi Giêsu, và cũng ở nơi Ðức Mẹ và thánh Giuse. Ðó là sự khó nghèo tự nguyện, sự quên mình một cách can đảm anh hùng, sự tự hạ đến mức độ cuối cùng, sự chia sẻ thân phận con người cùng khổ, sự từ bỏ những gì mình được quyền có, sự cởi mở đón tiếp những người không cùng tín ngưỡng. Ơn mặc khải đã đi vào tâm hồn Ba Vua qua những dấu chỉ đó, để rồi những dấu chỉ ấy cũng đã được nội tâm hoá nơi Ba Vua, tạo nên trong tâm khảm Ba Vua một dung mạo Ðức Kitô dễ mến dễ thương, đáng kính đáng thờ, với những nét lạ lùng đầy hiền từ khiêm tốn, chan hoà tình thương cứu độ.
Theo tôi thấy, thì đồng bào Việt Nam hôm nay cũng đang đi tìm một Ðấng Cứu độ có dung mạo Ðức Kitô dễ mến dễ thương như vậy. Nhưng đâu là những dấu chỉ sống động cộng tác vào ơn mạc khải của Chúa. Hội Thánh phải là dấu chỉ, mỗi cộng đoàn đức tin phải là dấu chỉ. Từng tín hữu phải là dấu chỉ. Nhất là từng giáo sĩ, tu sĩ phải là dấu chỉ. Nhưng trên thực tế, dấu chỉ đó chưa được rõ nét. Tôi không dám có tham vọng được thấy ở Giáo Hội Việt Nam nhiều dấu chỉ rực sáng như Mẹ Têrêsa Calcutta. Nhưng tôi khát mong ít là các giáo sĩ, tu sĩ và các tông đồ giáo dân quyết tâm rèn luyện chính mình và đào tạo những kẻ thuộc về mình theo gương Mẹ Têrêsa. Ðó là ngôi sao Phúc Âm đích thực.
Trong bài diễn văn đọc trước Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam ngày 29/11/1990, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II quả quyết: “Không ai có thể nghi ngờ rằng: Người công giáo không thật sự sẵn sàng hiến thân phục vụ các người nghèo khổ, các người xấu số, các bệnh nhân, trong viễn tượng một xã hội có công lý, tình yêu thương, và nền thịnh vượng”. Lời khẳng định trên đây của Ðức Thánh Cha là một lời khen và là một lý tưởng.
Nhưng cách đây ít ngày, tôi đã nghe một số người cả lương lẫn giáo phát biểu là họ thật sự nghi ngờ về lòng bái ái công bình của người công giáo Việt Nam đối với những kẻ mình không ưa, kể cả không ưa chỉ vì lý do khác quan điểm, khác gốc gác, và vì những thành kiến hẹp hòi. Cách trả lời tốt nhất cho những nghi ngờ như thế là ta hãy tỏ ra mình thực sự công bình bác ái qua những việc làm và thái độ cụ thể.
Một trong những việc cụ thể, mà Ðức Thánh Cha đã nhấn mạnh trong bài diễn văn trên, là việc hoà giải. Ngài nói: "Ước gì các tín hữu luôn luôn hành động cho việc canh tân Giáo Hội và xứ sở họ, trong tinh thần hoàn giải giữa các người công giáo tại những nơi cần đến hoà giải, giữa người công giáo và những người đồng hương thuộc các tín ngưỡng khác nhau tại những nơi còn có những chống đối gay go. Ðừng để lại một sự cay đắng nào giữa anh chị em của một dân tộc. Tất cả mọi người hãy cởi mở tâm hồn tiến theo giáo huấn mới mẻ của Phúc Âm, và tiến đến hy vọng về một thế giới được hoà giải trong bình an!”.
Tôi cảm tạ Ðức Thánh Cha đã nói lên ý đó. Ðây là những lời nhắn nhủ ân cần có liên hệ mật thiết đến mục vụ tại Việt Nam lúc này. Tôi nghĩ rằng đã đến thời điểm, mà tinh thần hoà giải sẽ được coi là dấu chỉ của một tín hữu tốt. Ðã đến thời điểm, mà một giáo sĩ thiếu tinh thần hoà giải sẽ bị coi là phản chứng, phản lại Phúc Âm và phản lại Hội Thánh.
Sự hoà giải đích thực phải xuất phát từ lòng trung tín trưởng thành đối với Ðức Kitô và Phúc Âm Người, và từ lòng trung tín trưởng thành đối với Tổ Quốc Việt Nam, cũng như từ lòng trung tín trưởng thành đối với mọi sự thực.
Cần bén nhạy và cởi mở trước mọi sự thực đạo đời, trên Quê Hương ta và trên thế giới. Cần gắn bó với Ðất Nước Việt Nam hôm nay là địa chỉ Chúa sai ta đến để sống ơn gọi. Cần kết hợp mật thiết với Ðức Kitô là trung tâm đời sống đức tin.
Trở về với ba đòi hỏi trên, chính là yêu cầu căn bản của mọi giáo sĩ Việt Nam thực sự quyết tâm dấn thân vào sứ mệnh truyền giáo. Diễn văn Ðức Thánh Cha cho thấy đường hướng đó. Thiết tưởng đường hướng đó cũng là tiêu chuẩn nên căn cứ vào, để chọn nhân sự và đào luyện nhân sự.
Không phải vô tình mà trong suốt bài diễn văn, Ðức Thánh Cha đã hầu như chỉ nói đi nói lại đến việc đào luyện nhân sự. Ðúng là Giáo Hội Việt Nam hôm nay đang thiếu nhân sự. Về lượng và nhất là về phẩm. Ðúng là việc xây dựng nhân sự phải trở nên một tha thiết năng động của những người lãnh đạo tôn giáo tại mỗi địa phương. Ðúng là sự đầu tư cho việc đào tạo nhân sự phải chiếm địa vị ưu tiên số một trong mục vụ Việt Nam hôm nay. Nếu không, thì Giáo Hội Việt Nam sẽ không thể tỏ ra được là mình tốt, có khả năng góp phần vào việc đổi mới Ðất Nước, kéo được mối thiện cảm của các đồng bào ngoài công giáo, chuẩn bị cho ơn trở lại trên đường truyền giáo.
ù
Tới đây, một lần nữa, tôi đọc lại lời Ðức Thánh Cha nhắn nhủ các Ðức Giám Mục Việt Nam trong diễn văn ngày 24/11/1990: “Ước chi cuộc hành hương của Chư Huynh đến Rôma... trở nên một chặng đường thiêng liêng đem lại sức bổ dưỡng và một thúc đẩy mới cho hoạt động mục vụ của Chư Huynh”. Ước nguyện của Ðức Thánh Cha là rất sâu sắc. Tôi đã cố gắng thực hiện theo khả năng khiêm tốn của tôi và trong giới hạn thời gian tôi được phép có. Tất nhiên cuộc hành trình thiêng liêng của tôi là cho riêng tôi, với những cảm nghĩ riêng tư của tôi. Tôi chia sẻ những riêng tư đó cho anh em, chỉ vì tôi thương mến anh em. Tôi hy vọng sự chia sẻ này sẽ là một dấu chỉ hữu hình mang tín hiệu vô hình về một sức sống thiêng liêng của một Hội Thánh hiệp thông và hiệp nhất, đang cùng với các thánh Tử Ðạo Việt Nam, nhìn về phía trước, với niềm tin vững vàng đặt nơi Ðức Kitô khổ nạn và Phục sinh.
Tuần tĩnh tâm Linh mục giáo phận Long Xuyên, năm 1991